intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phát huy vai trò và nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên trong hệ thống giáo dục mở

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

19
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Phát huy vai trò và nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên trong hệ thống giáo dục mở" đề xuất một số điều kiện để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ở các trường đại học nhằm thích ứng với bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, trên cơ sở tổng quan về hệ thống giáo dục mở, phân tích vai trò của giảng viên trong hệ thống giáo dục mở. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phát huy vai trò và nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên trong hệ thống giáo dục mở

  1. PHÁT HUY VAI TRÒ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CỦA ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC MỞ TS. Phạm Thị Tuyết Minh1 Tóm tắt: Các trường đại học ở Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong hệ thống giáo dục mở. Để làm được điều này thì vấn đề phát huy vai trò và nâng cao năng lực của đội ngũ giảng viên là rất cần thiết. Trên cơ sở tổng quan về hệ thống giáo dục mở, phân tích vai trò của giảng viên trong hệ thống giáo dục mở, bài viết đề xuất một số điều kiện để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ở các trường đại học nhằm thích ứng với bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Từ khóa: Hệ thống giáo dục mở, vai trò, chất lượng giảng viên. 1. HỆ THỐNG GIÁO DỤC MỞ Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở đóng vai trò quan trọng, là nhân tố then chốt, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đó là một hệ thống giáo dục mở rộng cửa đối với mọi người, vượt qua những hạn chế về thời gian và địa điểm, có mục tiêu cuối cùng là xây dựng một nền giáo dục mới phát triển toàn diện để đảm bảo sự hoàn thiện của mỗi công dân. Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, các chính phủ đều coi hệ thống giáo dục mở là xu thế tất yếu của nền kinh tế tri thức. Khái niệm về giáo dục “mở” (open education) vẫn được hiểu một cách ít nhiều cảm tính và do đó có những quan niệm khác nhau. Một cách hiểu, theo quan điểm hệ thống mở, thì giáo dục “mở” là hệ thống được thiết kế sao cho tổ chức và hoạt động của nó có khả năng thích ứng với những đổi thay và yêu cầu mới của môi trường kinh tế - xã hội. Cách hiểu khác cho rằng hệ thống giáo dục truyền thống là hệ thống đóng, tập trung vào người dạy, với những quy định cứng nhắc về trường lớp, chương trình giáo dục, cách dạy, cách học, cách đánh giá. Do đó, hệ thống giáo dục “mở” là hệ thống tập trung vào người học, với những quy định thông thoáng về trường lớp mở, chương trình mở, nội dung mở, cách dạy mở, cách học mở... Hệ thống giáo dục mở là hệ thống giáo dục linh hoạt, liên thông giữa các yếu tố (nội dung, phương pháp, phương thức, thời gian, không gian, chủ thể giáo dục…) của hệ thống và liên thông 1 Học viện Ngân hàng.
  2. 692 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP với môi trường bên ngoài hệ thống, bảo đảm tính sáng tạo cho việc xây dựng, tổ chức các nội dung, hình thức giáo dục; tạo cơ hội tiếp cận giáo dục cho mọi người; tận dụng các nguồn lực cho giáo dục và bảo đảm tính hiệu quả, phát triển bền vững của hệ thống. Trong bất kỳ môi trường giáo dục nào, nguồn tư liệu phục vụ hoạt động học tập, nghiên cứu luôn đóng vai trò quan trọng. Riêng với giáo dục đại học, điều này càng có ý nghĩa hơn khi sự đòi hỏi về hàm lượng tri thức cần tiếp thu, lĩnh hội ngày càng cao. Phát triển nguồn học liệu phục vụ công tác đào tạo trong trường đại học là yêu cầu cấp thiết đặt ra với bất kỳ trường đại học nào. Học liệu đảm bảo cung cấp thông tin/tri thức cho giảng viên, sinh viên một cách đầy đủ, cập nhật, chính xác, phù hợp với nhu cầu của họ để phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học, giảng dạy và học tập. Vì vậy, học liệu phải không ngừng được bổ sung, phát triển cả về lượng và chất. Phải không ngừng quản trị học liệu theo phương pháp hiện đại, nhất là ứng dụng những thành tựu của công nghệ thông tin và truyền thông để giảng viên và sinh viên tiếp cận nguồn học liệu nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học. Có thể khẳng định rằng học liệu ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy, học tập và nghiên cứu trong trường đại học cũng như có mối quan hệ chặt chẽ với giảng viên, sinh viên. Giảng viên không chỉ là người đóng vai trò giảng dạy, truyền đạt kiến thức mà họ còn thường xuyên bổ sung, cập nhật những tri thức mới thông qua hoạt động tự học, tự nghiên cứu. Để hoạt động giảng dạy tốt hơn, họ thường xuyên phải nghiên cứu, tích lũy kiến thức chuyên môn. Có thể thấy cả ba hoạt động trong trường đại học là nghiên cứu, giảng dạy, học tập đều là nhiệm vụ thường xuyên của giảng viên. 2. Phát huy vai trò giảng viên trong định hướng cho sinh viên tính tự chủ gắn với trách nhiệm xã hội trong giáo dục mở Trong hệ thống giáo dục, nếu coi giáo dục phổ thông là nền tảng thì giáo dục đại học là yếu tố quyết định nguồn nhân lực. Đứng trước sự phát triển của nền kinh tế tri thức, mối quan hệ giữa chất lượng nguồn lực và thị trường lao động ngày càng trở lên mạnh mẽ. Hiện nay, ngay cả các nước phát triển với nền giáo dục tiên tiến cũng đang có những biến đổi to lớn trước sức ép của xu hướng toàn cầu hóa. Phong trào sinh viên du học đại học và xuất khẩu giáo dục đại học đang trở thành một trào lưu khá phổ biến. Sinh viên được coi là một dạng “khách hàng” đặc biệt và giáo dục đại học được coi là một “thị trường giáo dục đại học”. Điều này đã tác động mạnh đến nền giáo dục của các nước đang phát triển, chưa có sức cạnh tranh mà tiềm lực dồi dào như Việt Nam. Các trường đại học buộc phải gắn kết chặt chẽ với nhu cầu và những biến đổi của thị trường lao động để từ đó đào tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng đủ yêu cầu cho xã hội. Đây là mục tiêu, đồng thời là trách nhiệm của các trường đại học đối với xã hôi. Song đối với các trường đại học, chất lượng của nguồn lực luôn là khát vọng chinh
  3. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 693 phục trong quá trình cạnh tranh lẫn nhau. Hầu hết các hoạt động của nhà trường như đề ra quy chế hoạt động, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học và hoạt động của các tổ chức đoàn thể đều nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Mục tiêu chính của các trường đại học là đào tạo ra nguồn lực có chất lượng và đáp ứng được yêu cầu phù hợp cả về số lượng và chất lượng của xã hội, đào tạo ra những con người tự chủ với phẩm chất, năng lực chuyên môn và được trang bị các kĩ năng ứng xử với môi trường sống xung quanh. Thế kỷ chúng ta đang sống là thế kỷ bùng nổ thông tin, cơ hội thành công chỉ dành cho những ai nắm bắt và xử lý được thông tin chính xác. Chính vì điều này đã làm thay đổi hẳn một trong những chức năng của hoạt động đào tạo. Giảng viên không chỉ là người cung cấp tri thức mà còn phải là người hướng dẫn sinh viên đến với tri thức, khoa học bằng đường đi ngắn nhất, tốt nhất và luôn luôn phải có sự sáng tạo. Tư duy sáng tạo được coi là một trong những yếu tố quyết định đi đến khẳng định tự chủ. Theo nhà triết học và giáo dục Hoa Kỳ - John Dewey: “Học sinh đến trường không phải là để tiếp thu những tri thức đã được ghi vào trong một chương trình rồi mà có lẽ không bao giờ dùng đến, nhưng chính là để giải quyết vấn đề, giải quyết các “bài toán” của nó, những thực tế mà nó gặp hằng ngày. Về phía người thầy, ông ta hành động như một người bạn có kinh nghiệm, khuyên nhủ, hướng dẫn cho trẻ biết những gì mà thầy biết về vấn đề được đặt ra”. Như vậy, nền giáo dục tiên tiến đã hình thành một cơ sở để thiết lập phương pháp dạy học mới mà ta gọi đó là phương pháp nêu vấn đề và giải quyết vấn đề thay cho phương pháp truyền đạt và tiếp thu một cách thụ động các bài giảng có sẵn trong giáo trình. Nhưng trên thực tế, không phải bất cứ những vấn đề thầy đặt ra lại phù hợp với những tình huống xảy ra trong chuyên môn mà sinh viên sẽ gặp phải, và điều này có lẽ chính bản thân người thầy cũng đã gặp phải. Vì thế, buộc sinh viên phải tư duy để phát hiện ra những vấn đề, cho dù chỉ mang tính giả thiết. Qua đó, sinh viên được rèn luyện tư duy độc lập, tập nghiên cứu, sáng tạo, phát hiện và giải quyết vấn đề hoặc là học thuộc bài và làm bài đầy đủ. Trong quá trình giảng dạy, giảng viên cũng có thể gợi mở mối liên hệ giữa các môn học đang nghiên cứu với các môn học khác để sinh viên có được cảm nhận mối liên hệ logic trong chương trình đào tạo. Các giảng viên phải đưa được vấn đề thực tiễn vào trong bài học của mình để nâng cao chất lượng giảng dạy. Ngoài những cách thu thập thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng, giảng viên có thể tìm hiểu thông tin qua các kênh như hiệp hội nghề nghiệp, các đồng nghiệp và chính từ sự phản hồi của các sinh viên đã ra trường và đi làm. Trên cơ sở đó nội dung học không chỉ bao hàm những kiến thức về chính trị tư tưởng và khối kiến thức chuyên ngành mà còn bao hàm cả kiến thức về kỹ năng sống.
  4. 694 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Trong các môi trường đại học, sinh viên được coi như một đối tượng trưởng thành cả về trí và lực. Đứng trước các vấn đề trong hoạt động dạy và học sinh viên được quyền phát huy tinh thần tự chủ của mình. Thông qua quá trình rèn luyện tự chủ sinh viên mới có thể khẳng định khả năng độc lập, khát vọng tìm kiếm và năng lực sáng tạo mới có điều kiện nảy nở. Nền giáo dục của chúng ta chịu ảnh hưởng nhiều của quán tính dạy học theo kiểu hàn lâm. Vai trò của người thầy dù ở cấp bậc nào cũng luôn luôn đứng ở vị trí tối cao. Thầy luôn là một khuôn mẫu mà trò không thể được phép phản biện cho dù đôi khi các giá trị mang tính thời đại đã làm cho những chân lý thế hệ có ít nhiều thay đổi. Vì thế, bên cạnh việc trang bị và định hướng cho sinh viên tính tự chủ trong việc tiếp thu những kiến thức khoa học về ngành, nghề theo học thì việc cung cấp những hiểu biết để giải quyết các vấn đề xã hội theo khả năng của mình cũng rất cần thiết. Trong đó, người thầy cũng phải cần điều chỉnh thái độ mang tính “dân chủ là tôn trọng người học” với sinh viên trong quá trình trao đổi, đối thoại. Một thực tế cho thấy, việc lấy ý kiến của sinh viên không những giúp cho giảng viên nhận thức được những mặt còn tồn tại trong phương pháp giảng dạy mà còn giúp cho giảng viên củng cố, hoàn thiện mình trong sự đối chiếu với nhận thức của sinh viên. Đây cũng chính là mục đích hướng tới trong quá trình đào tạo và tự đào tạo mà bản thân người giảng viên và sinh viên đều phải nhận thức được nhu cầu phát triển của xã hội. Như vậy, trong đào tạo bậc đại học giảng viên và sinh viên là hai đối tượng trực tiếp tham gia vào kiến thiết nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp phát triển xã hội. Để đáp ứng được yêu cầu xã hội đòi hỏi cả hai đối tượng phải nhận thức được sự tương tác trong quá trình hình thành những giá trị tự chủ mà ở đây vai trò của giảng viên mang tính quyết định. 3. Những điều kiện cần thiết để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên phát huy tính tự chủ và chịu trách nhiệm xã hội trong đào tạo đại học Đội ngũ giảng viên đóng vai trò là người thực thi công tác đào tạo. Do đó, muốn đổi mới hoạt động đào tạo thì việc chuẩn hóa đội ngũ giảng viên cần phải đi trước một bước. Với định hướng ứng dụng, tinh gọn kiến thức hàn lâm, đồng thời chú trọng đến đào tạo kỹ năng đang được các trường đại học địa phương lựa chọn thì phương pháp tổ chức dạy học cũng có sự thay đổi theo. Điều này đòi hỏi đội ngũ giảng viên cần được chuẩn hóa về năng lực chuyên môn, kinh nghiệm từ thực tế sản xuất và năng lực thực hành, kỹ năng tổ chức lớp học phù hợp với yêu cầu mới. Việc chuẩn hóa trình độ đội ngũ giảng viên có thể được thực hiện thông qua việc phối hợp với các doanh nghiệp để giảng viên tiếp cận quy trình công việc thực tiễn hoặc thực hiện các nghiên cứu hợp tác và chuyển giao công nghệ giữa trường đại học với doanh nghiệp về các ngành nghề đang được trường đại học địa phương đào tạo.
  5. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 695 Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học của giảng viên. Kinh phí nghiên cứu phải được lấy từ nhiều nguồn: Các công ty (qua nghiên cứu ứng dụng và triển khai), học phí và các nguồn tài trợ khác. Khi các nguồn kinh phí đủ để cho giảng viên ng- hiên cứu khoa học thì nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của giảng viên mới được thực hiện một cách nghiêm túc, các công trình nghiên cứu mới thực sự có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, chất lượng đội ngũ giảng viên và chất lượng đào tạo mới được nâng cao. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực giảng viên (dựa trên quy hoạch, xây dựng lộ trình triển khai, đánh giá hiệu quả): Phải chú ý đến các nhóm giảng viên để có chính sách và đầu tư phù hợp: cán bộ đầu ngành, chủ chốt của đơn vị; cán bộ kế cận; giảng viên trẻ, tạo nguồn. Đào tạo quan trọng nhất là thông qua công tác thực tiễn, hài hòa giữa nguyện vọng của cá nhân và định hướng của đơn vị. Coi trọng kết hợp nghiên cứu khoa học và đào tạo trong nâng cao năng lực giảng viên. Coi trọng hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Thực tế cho thấy, nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của giảng viên tập trung vào: - Bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kiến thức liên quan và các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực chuyên ngành. - Bồi dưỡng về ngoại ngữ. - Bồi dưỡng về tin học và ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học. - Thường xuyên rà soát, bổ sung, điều chỉnh chế độ, chính sách thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên. Chăm lo đời sống cho giảng viên, đặc biệt là việc xây dựng môi trường công tác tốt, thân thiện trong nhà trường; tạo điều kiện tăng thu nhập chính đáng cho giảng viên; tạo cơ hội cho giảng viên thăng tiến trong nghề nghiệp và công tác. Chủ động trong sử dụng công cụ tài chính để tăng nguồn đầu tư và đầu tư có trọng điểm, đầu tư hiệu quả cho công tác nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên. 4. KẾT LUẬN Hệ thống giáo dục mở đã và đang là xu thế tất yếu trong công tác giáo dục nói chung, giáo dục đại học nói riêng vì hệ thống giáo dục mở đã giúp thúc đẩy và phát triển hoạt động giáo dục trên phạm vi toàn thế giới. Để đổi mới hoạt động đào tạo ở các trường đại học nhằm thích ứng với bối cảnh toàn cầu hóa cần xác định rõ vai trò, vị trí, trách nhiệm của đội ngũ giảng viên trong giáo dục mở để từ đó chuẩn hóa đội ngũ giảng viên làm tiền đề cho việc thực thi công tác đào tạo thích ứng bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
  6. 696 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. ThS. Phạm Thị Phượng (2019), Đề xuất giải pháp phát triển hệ thống giáo dục mở tại Việt Nam, Hội thảo Hệ thống giáo dục mở trong bối cảnh tự chủ giáo dục và hội nhập quốc tế, NXB Thông tin và truyền thông. 2. ThS. Nguyễn Đức Công (2019), “Hệ thống giáo dục mở - Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn ở Việt Nam”, Hội thảo Hệ thống giáo dục mở trong bối cảnh tự chủ giáo dục và hội nhập quốc tế, NXB Thông tin và truyền thông.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2