intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phát triển đô thị bền vững tại Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

13
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đô thị luôn được coi là nơi nắm giữ các quyền lực về chính trị, kinh tế quan trọng của xã hội và có sức chi phối mạnh mẽ, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của vùng và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các đô thị thường là các trung tâm, động lực cho sự phát triển kinh tế của đất nước, của vùng, đóng góp phần lớn giá trị GDP, giá trị công nghiệp - dịch vụ và giá trị tăng trưởng nền kinh tế. Để vai trò và sự đóng góp của đô thị ngày càng hiệu quả, xu hướng phát triển đô thị bền vững là tất yếu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phát triển đô thị bền vững tại Việt Nam

  1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG XANH HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: KẾT NỐI TẦM NHÌN QUỐC GIA VỚI HÀNH ĐỘNG CỦA ĐỊA PHƯƠNG VÀ DOANH NGHIỆP PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG TẠI VIỆT NAM TS, KTS. Đào Ngọc Nghiêm Phó Chủ tịch Hội Quy hoạch Phát triển đô thị Việt Nam Tóm tắt: Đô thị luôn được coi là nơi nắm giữ các quyền lực về chính trị, kinh tế quan trọng của xã hội và có sức chi phối mạnh mẽ, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của vùng và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các đô thị thường là các trung tâm, động lực cho sự phát triển kinh tế của đất nước, của vùng, đóng góp phần lớn giá trị GDP, giá trị công nghiệp - dịch vụ và giá trị tăng trưởng nền kinh tế. Để vai trò và sự đóng góp của đô thị ngày càng hiệu quả, xu hướng phát triển đô thị bền vững là tất yếu. Từ khóa: phát triển, đô thị, bền vững, Việt Nam 1. Giới thiệu Phát triển bền vững là vấn đề toàn cầu hóa được quan tâm từ nửa cuối thế kỷ XX. Liên hợp quốc và nhiều hội nghị thượng đỉnh quốc tế đã được tổ chức để trao đổi tìm hướng giải quyết. Tháng 6/1992 tại Rio de Janeiro (Brazie) Hội nghị “Phát triển bền vững” với sự tham gia của 178 quốc gia đã có sự đồng thuận và xây dựng kế hoạch hành động để toàn thế giới cùng thực hiện trong thế kỷ XXI và khuyến nghị các nước cần xây dựng chương trình phù hợp với điều kiện đặc điểm riêng của nước mình. Việt Nam đã tham gia và cam kết từng bước xây dựng, hoàn thiện chương trình phát triển bền vững. Trong lịch sử phát triển, từ hoàn toàn phụ thuộc vào môi trường tự nhiên, con người đã chủ động tổ chức không gian cư trú để chủ động hoạt động sản xuất và sinh sống của cộng đồng. Việc tập trung dân cư là những bước khởi đầu của đô thị hóa. Xã hội càng phát triển, biến đổi, thì đô thị hóa cũng có những biến đổi theo từng giai đoạn lịch sử và ngày càng có vai trò trở thành động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội. Để phát triển bền vững cần triển khai nhiều lĩnh vực, ngành: Quản lý đô thị, văn hóa - xã hội, kinh tế đô thị, môi trường, kết cấu hạ tầng. Do vậy, cần quan tâm đến quá trình đô thị hóa để đảm bảo hình thành hệ thống đô thị bền vững, đáp ứng nhu cầu của hiện tại, nhưng không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai. 2. Yêu cầu đặt ra trong phát triển đô thị bền vững ở Việt Nam Phát triển đô thị bền vững dựa trên nguyên tắc hợp nhất: kinh tế đô thị; xã hội đô thị; môi trường sinh thái đô thị; cơ sở hạ tầng đô thị; không gian đô thị, quản lý đô thị. Theo đó, phát triển đô thị bền vững cần đảm bảo các yêu cầu về: - Lấy con người làm trung tâm của sự phát triển. Phát huy yếu tố con người với vai trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của phát triển bền vững. Phát triển đô thị bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, các cấp chính Economy and Forecast Review 79
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG XANH HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: KẾT NỐI TẦM NHÌN QUỐC GIA VỚI HÀNH ĐỘNG CỦA ĐỊA PHƯƠNG VÀ DOANH NGHIỆP quyền, các cơ quan, doanh nghiệp. Vì vậy, phát triển đô thị bền vững sẽ tạo điều kiện cho mọi người trong xã hội có cơ hội bình đẳng để phát triển, được tiếp cận nguồn lực chung và được tham gia, đóng góp và hưởng lợi, tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hóa tốt đẹp cho thế hệ mai sau, đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn về nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, giúp cho người dân sống ở các khu đô thị được thoải mái, hạnh phúc. - Đảm bảo cân bằng giữa mục tiêu phát triển kinh tế và môi trường tự nhiên. Đô thị phát triển bền vững, cần phải đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại, mà không phương hại đến khả năng của chúng ta, cũng như đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ trong tương lai. - Đảm bảo phát triển đa văn hóa và đời sống đạo đức, tinh thần của các nhóm người khác biệt nhau. Hầu như tất cả các thành phố lớn đều mang màu sắc của đa văn hóa. Đây là điểm được coi là quan trọng nhất và cũng là đặc điểm lớn nhất của đô thị hiện đại, đặc biệt có ý nghĩa trong thời đại toàn cầu hóa. Bất cứ một thành phố nào cũng có sự đa dạng và khác biệt về tôn giáo, sắc tộc, quan điểm chính trị, phong tục tập quán, thói quen văn hóa. Nếu người cầm quyền không đảm bảo được quyền phát triển đa văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra xung đột. - Đảm bảo an ninh, hòa bình, trật tự và ổn định xã hội. Một thành phố giàu có, đầy ắp hàng hóa, đầy đủ tiện nghi nhưng con người sống trong nó luôn cảm thấy bất an, tính mạng bị đe dọa, rủi ro cao, cuộc sống bấp bênh thì đó không thể gọi là thành phố phát triển bền vững dưới bất kỳ khía cạnh nào. Thành phố bền vững phải có trật tự, kỷ cương xã hội, tinh thần thượng tôn pháp luật được đề cao. - Đảm bảo sự tham gia dân chủ của người dân trong tiến trình phát triển đô thị. Một thành phố muốn phát triển bền vững, thì phải được người dân ủng hộ và chung tay đóng góp ở các lĩnh vực và cấp độ khác nhau. Công cuộc phát triển đô thị phải có sự đóng góp và chia sẻ của tất cả mọi người. Để việc “đồng tham gia” thành công phải có cơ chế rõ ràng và các điều kiện đảm bảo cho cơ chế ấy vận hành về mặt pháp lý, diễn đàn, cơ sở vật chất. Những chương trình làm xanh thành phố, giảm ngập lụt, giảm tắc nghẽn giao thông, phòng chống tội phạm chỉ có hiệu quả khi mà người dân coi đó là công việc của mình chứ không phải của những nhà chính trị. - Phát triển không gian hợp lý. Quy hoạch đô thị thực chất là việc bố trí và phân bổ con người cùng với khối lượng vật chất đồ sộ trên một bề mặt không gian ba chiều. Việc phân bổ này có thể làm cho thành phố phát triển bình thường hay bất bình thường, làm cho hoạt động sản xuất, sinh hoạt trở nên thăng bằng hay mất ổn định. Việc quy hoạch và thiết kế đô thị sai lầm đã làm cho TP. Hồ Chí Minh ngập nước không chỉ vào mùa mưa mà cả vào mùa khô. Việc không tập trung phát triển giao thông cách đây hơn 15 năm đã để lại hậu quả nghiêm trọng là các công sở, trường học không muốn ra bên ngoài khiến cho mật độ trong khu vực trung tâm thành phố ngày càng cao, phát triển kiểu nhà ống dọc theo trục đường khiến tai nạn giao thông ngày càng trở nên khủng khiếp. - Đảm bảo phát triển cân đối đô thị - nông thôn. Suy cho cùng bài toán phát triển bền vững ở đô thị lại có nguồn gốc từ nông thôn. Sự phát triển mạnh mẽ 80 Kinh tế và Dự báo
  3. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG XANH HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: KẾT NỐI TẦM NHÌN QUỐC GIA VỚI HÀNH ĐỘNG CỦA ĐỊA PHƯƠNG VÀ DOANH NGHIỆP ở nông thôn không chỉ hỗ trợ cho đô thị phát triển, như: cung cấp lương thực thực phẩm, tiêu thụ sản phẩm công nghiệp do đô thị tạo ra, mà còn làm giảm áp lực lên đô thị. Một khi nông thôn phát triển mạnh, thì người nhập cư về thành phố giảm, lực lượng lao động thanh niên sẽ ở lại nông thôn, sự cân bằng trong phát triển giữa hai khu vực là bài toán rất quan trọng cho sự phát triển bền vững. Chính phủ Việt nam đang cố gắng phát triển “điện, đường, trường, trạm, chợ” ở các vùng sâu, vùng xa, nhưng hiệu quả còn hạn chế do nhiều lý do khác nhau. 3. Quá trình đô thị hóa và thực trạng phát triển đô thị bền vững ở Việt Nam 3.1. Quá trình đô thị hóa Đã có nhiều nghiên cứu về đô thị hóa ở Việt Nam từ thời kỳ sơ khởi (nước Văn Lang), thời kỳ phong kiến, thời kỳ Pháp thuộc, từ sau Cách mạng Tháng 8 hay phân theo giai đoạn: Tiền công nghiệp, cách mạng công nghiệp, hậu công nghiệp. Nhìn tổng quan có thể nhận thấy: - Đô thị Việt Nam hình thành sớm so với nhiều nước trong khu vực và thế giới, song tốc độ đô thị hóa có nhiều biến động do khách quan và cả chủ quan. Đến nay, Việt Nam là nước có mức độ đô thị hóa thấp (đến tháng 6/2022 cả nước có 833 đô thị với tỷ lệ đô thị hóa là 41,5%, định hướng đến 2025 là 45%, đến 2030 đạt trên 50%), trong khi đó bình quân trên thế giới hiện nay là 60%, Nhật bản 94%, Hàn Quốc 81%, Trung quốc 63,8%. Bối cảnh này cho thấy, để thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa cần đột phá để đô thị phát triển nhanh và đảm bảo bền vững. - Trong quá trình phát triển, mô hình cấu trúc đô thị Việt Nam có biến động song luôn có dấu ấn đặc thù của Việt Nam của từng vùng miền, nhiều đô thị lịch sử đến nay được sự quan tâm của cả trong và ngoài nước, như: Cổ Loa, Hoàng thành Thăng Long, Huế, Hội An, Hoa Lư... Trong xu thế phát triển đô thị hiện nay: Xanh, thông minh, sáng tạo, bền vững, bên cạnh yêu cầu hội nhập rất cần chú trọng tới truyền thống, giàu bản sắc để trở thành động lực có sức cạnh tranh phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội. - Mạng lưới phát triển đô thị trong quá trình hình thành phát triển đã có một số biến động. Từ trạm dịch, đồn trú thời phong kiến đến mạng lưới đô thị hành chính, sản xuất nhỏ, tách biệt khỏi nông thôn thời Pháp thuộc. Từ sau Cách mạng Tháng 8, đô thị phát triển đa dạng theo chức năng: Tổng hợp, công nghiệp, cảng, nghỉ dưỡng, hành chính... tạo được động lực cho khu vực, song cũng có một số đô thị gây áp lực với kết cấu hạ tầng với nông thôn, nông nghiệp, với quy mô dân số đô thị, với môi trường, dẫn đến biến động nhiều. Để phát triển bền vững rất cần hình thành mạng lưới đô thị bền vững, chuỗi đô thị thông minh phát huy lợi thế vùng, miền, két nối với khu vực, thế giới và động lực để phát triển hài hòa kinh tế - văn hóa - xã hội với bảo vệ môi trường thích ứng với biến đổi khí hậu, đảm bảo an ninh - quốc phòng. 3.2. Thực trạng phát triển đô thị bền vững ở Việt Nam Từ nhận thức về phát triển bền vững, đô thị bền vững để xây dựng môi trường kinh tế - xã hội thích hợp nhằm tạo ra môi trường nhân tạo tối ưu cần có nhận thức đúng đắn và tôn trọng quy luật của môi trường tự nhiên. Việt Nam Economy and Forecast Review 81
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG XANH HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: KẾT NỐI TẦM NHÌN QUỐC GIA VỚI HÀNH ĐỘNG CỦA ĐỊA PHƯƠNG VÀ DOANH NGHIỆP đã chủ động tham gia với Liên hợp quốc trao đổi với các nước về phát triển đô thị bền vững. Năm 2008, Chính phủ đã ban hành chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu. Năm 2011, Việt Nam ban hành Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đồng thời với các giải pháp phát triển bền vững. Năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Tiếp đó là các văn bản cụ thể hóa của Chính phủ, của các bộ, ngành và tổ chức nghiên cứu về các mô hình phát triển bền vững, đô thị bền vững, đô thị sinh thái, đô thị xanh, đô thị thông minh, đô thị sáng tạo. Gần đây, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ-TW, ngày 24/01/2022 về phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến 2030 tầm nhìn đến 2045. Đây là những định hướng đột phá để phát triển đô thị bền vững Việt Nam với các chỉ tiêu: Đến năm 2025 có khoảng 950÷1000 đô thị, tỷ lệ đô thị hóa 45%; đến 2030 có khoảng 1000÷1200 đô thị, tỷ lệ đô thị hóa trên 50%. Kinh tế khu vực đô thị đóng góp vào GDP cả nước vào 2025 là 75%, vào 2030 là 85%. Để cụ thể hóa định hướng và các chỉ tiêu, cùng với đẩy mạnh xây dựng đồng bộ hệ thống quy hoạch trên cơ sở giải pháp được xác định theo Nghị quyết 61/2022/QH15 của Quốc hội là xây dựng chương trình phát triển đô thị của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Ngày nay, phát triển đô thị ở Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực về số lượng, không chỉ gia tăng về số lượng đô thị, các khía cạnh khác của đô thị bền vững cũng có sự gia tăng, như: - Về đơn vị hành chính đô thị, hiện nay, Hiến pháp năm 2013 đã có hiệu lực nên việc nâng cấp quản lý hành chính và điều chỉnh ranh giới hành chính đô thị phải thông qua thường trực Quốc hội, 6 tháng đầu năm 2022 không có biến động về cấp quản lý hành chính, cả nước có 5 thành phố trực thuộc trung ương, 63 thành phố thuộc tỉnh, 47 thị xã thuộc tỉnh, 613 thị trấn (trong đó 27 thị trấn là đô thị loại IV). Tỉnh có nhiều thị trấn nhất là Thanh Hóa với 28 thị trấn; trong khi, Ninh Thuận chỉ có 3 thị trấn; TP. Đà Nẵng không có thị trấn nào. - Về dân số thành thị (gồm dân số nội thành, nội thị và thị trấn). Theo báo cáo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 của Tổng cục Thống kê, trong 10 năm qua, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh và rộng khắp tại nhiều địa phương đã tác động làm gia tăng dân số ở khu vực thành thị. Dân số khu vực thành thị ở Việt Nam năm 2019 là 33.059.735 người, chiếm 34,4%; ở khu vực nông thôn là 63.149.249 người, chiếm 65,6%. Từ năm 2009 đến nay, tỷ trọng dân số khu vực thành thị tăng 4,8 điểm phần trăm [6]. - Về đất đô thị. Năm 2020 cả nước có 2.028,07 nghìn ha đất đô thị (theo địa giới hành chính phường, thị trấn), chiếm 6,12% tổng diện tích tự nhiên được phân bố tại 6 vùng trên cả nước. Cụ thể, tại vùng Trung du và miền núi phía Bắc có 348,34 nghìn ha, chiếm 1,05% tổng diện tích tự nhiên; Vùng Đồng bằng sông Hồng có 329,53 nghìn ha, chiếm 0,99% tổng diện tích tự nhiên; Vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung có 505,66 nghìn ha, chiếm 1,53% tổng diện tích tự nhiên; Vùng Tây nguyên có 244,88 nghìn ha, chiếm 0,74% tổng diện tích tự 82 Kinh tế và Dự báo
  5. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG XANH HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: KẾT NỐI TẦM NHÌN QUỐC GIA VỚI HÀNH ĐỘNG CỦA ĐỊA PHƯƠNG VÀ DOANH NGHIỆP nhiên; Vùng Đông Nam bộ có 274,69 nghìn ha, chiếm 0,83% tổng diện tích tự nhiên; Vùng đồng bằng sông Cửu Long có 324,97 nghìn ha, chiếm 0,98% tổng diện tích tự nhiên. Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, thời kỳ 2011-2020 diện tích đất đô thị tăng 385,65 nghìn ha, tập trung nhiều tại vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung 122,74 nghìn ha; vùng Trung du miền núi phía Bắc 102,69 nghìn ha; vùng Đông Nam bộ 71,33 nghìn ha; vùng Tây Nguyên tăng 49,39 nghìn ha... Theo tính toán, bình quân đất đô thị của cả nước là 530 m2/ người nhưng có sự chênh lệch lớn giữa các vùng. Ví dụ như Tây Nguyên là 1.137 m2/người, Trung du và miền núi phía Bắc là 1.136 m2/người, Đồng bằng sông Cửu Long là 720 m2/người, trong khi ở Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là 689 m2/người, Đồng bằng sông Hồng là 422 m2/người và Đông Nam Bộ chỉ 197 m2/người [5]. Mặc dù viêc phát triển đô thị ngày càng tăng, đời sống của người dân được cải thiện, mức độ đáp ứng nhu cầu về văn hóa, giao thông cũng được nâng lên một mức độ nhất định so với những năm trước đây. Tuy nhiên, hệ thống đô thị Việt Nam vẫn còn một số hạn chế khá cơ bản, như: - Số lượng đô thị phát triển nhanh, nhưng chất lượng đô thị còn thấp. Đặc biệt, hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội chưa đồng bộ; trình độ và năng lực quản lý và phát triển đô thị còn thấp so với yêu cầu; Tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng ở phần lớn đô thị Việt Nam đều chậm so với phát triển kinh tế - xã hội. Tình trạng phát triển đô thị hiện nay chưa đáp ứng với sự đổi thay về tư duy đô thị hóa, phát triển đô thị theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phát triển đô thị gắn với bảo vệ chủ quyền quốc gia tầm nhìn. - Phát triển đô thị và đô thị hóa trên phạm vi toàn quốc hiện chưa thể hiện rõ bản sắc địa phương và đặc điểm khí hậu vùng, miền, tạo sự cách biệt giữa đô thị và nông thôn. Bộ mặt kiến trúc cảnh quan đô thị còn lộn xộn, thiếu thẩm mỹ. Tài nguyên đất bị khai thác triệt để để xây dựng đô thị, diện tích cây xanh và mặt nước bị thu hẹp, nhu cầu sản xuất, dịch vụ ngày càng tăng làm suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước. - Đối với công tác quy hoạch, bất cập hiện nay là chưa xác định rõ mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị, quy hoạch các ngành. Chưa có nhiều đồ án, dự án cải tạo, chỉnh trang đô thị được thực hiện do loại hình dự án này khá phức tạp thiếu quy định luật pháp, các nhà đầu tư chưa thực sự quan tâm. - Về quản lý đô thị còn chưa theo kịp thực tiễn, chưa đáp ứng xu thế phát triển đô thị. Đầu tư phát triển đô thị, khu đô thị mới chưa có kế hoạch nhiều nơi làm sai, chậm muộn so với quy hoạch. Chính quyền chưa có giải pháp điều hòa các lợi ích nhà nước - chủ đầu tư và người dân. - Tình trạng lãng phí đất đai trong các đô thị chưa được khắc phục, hiệu quả đầu tư xây dựng còn thấp ảnh hưởng đến phát triển bền vững và diện mạo đô thị. Nguồn lực cho phát triển đô thị còn dải trải. Nhu cầu vốn đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật đô thị lớn, việc xã hội hóa, huy động các nguồn lực trong xã hội còn hạn chế. Economy and Forecast Review 83
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG XANH HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: KẾT NỐI TẦM NHÌN QUỐC GIA VỚI HÀNH ĐỘNG CỦA ĐỊA PHƯƠNG VÀ DOANH NGHIỆP Nguyên nhân cơ bản gây nên những hạn chế trên là do: (i) Cơ chế chính sách đã có nhiều đổi mới để tiếp cận với xu thế thế giới và hướng phát triển bền vững, song vẫn còn bất cập cần hoàn thiện đồng bộ; (ii) Phát triển đô thị còn chưa cân đối giữa các vùng, giữa đô thị và nông thôn, giữa phát triển với bảo vệ môi trường và phát huy giá trị quỹ di sản đô thị; (iii) Phát triển số lượng đô thị chưa gắn kết chặt chẽ với phát triển kinh tế đô thị phát triển, kết cấu hạ tầng, chưa huy động xã hội hóa nguồn lực phát triển và sử dụng hiệu quả tài nguyên, nhất là đất đai; (iv) Dân số đô thị tăng, song chưa quản lý được cơ cấu, khả năng tiếp cận dịch vụ công và phúc lợi xã hội cũng như khoa học công nghệ mới còn bất cập; (v) Năng lực, trình độ quản lý, quản trị của đô thị chưa đáp ứng tốc độ phát triển, tinh chuyên nghiệp, hiệu quả chưa cao, mô hình quản lý đô thị còn đổi mới chậm. 4. Một số giải pháp phát triển đô thị bền vững ở Việt Nam Để phát triển đô thị bền vững tại Việt Nam trong giai đoạn tới, cần triển khai đồng bộ các giải pháp, gồm có: Một là, nhận thức đầy đủ về phát triển bền vững, đô thị bền vững Đây là vấn đề không mới nhưng rất cần quan tâm trong cả hệ thống quản lý để có kế hoạch tái đào tạo nâng cao năng lực, điều hành đồng bộ, tránh hiện tượng phát triển đô thị để nợ tiêu chí. Tuyên truyền về vai trò của đô thị bền vững trong kinh tế - văn hóa - xã hội, nâng cao chất lượng sống để cộng đồng, các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp thấy rõ vai trò, trách nhiệm: Đô thị là “của dân, do dân và vì dân”. Bài học kinh nghiệm của nước ngoài và kết quả thực tiễn từ xây dựng của Việt Nam ở một số đô thị cho thấy cần được nhân rộng hơn. Hai là, từng bước hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách để đảm bảo đồng bộ - Trong hệ thống luật, nghị định, nghị quyết đã ban hành có nhiều quy định liên quan đến phát triển đô thị bền vững cần được xem xét điều chỉnh, như: Luật Đất đai, Luật Cư trú, Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đầu tư... Một số văn bản liên quan đến chiến lược phát triển đô thị quốc gia... - Sớm hoàn thiện đồng bộ hệ thống quy hoạch nhất là Quy hoạch quốc gia, Quy hoạch vùng, Quy hoạch kỹ thuật chuyên ngành. Đây là điểm nghẽn đã được Quốc hội, Chính phủ quan tâm, đã đề ra các giải pháp khắc phục, song đưể thực hiện cần quyết tâm cao. Hiện nay, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 61/2022/QH15, ngày 16/6/2022 về tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về quy hoạch và một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ lập và nâng cao chất lượng quy hoạch thời kỳ 2021-2030; Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 64/NQ-CP, ngày 06/5/2022 về thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch kể từ khi luật quy hoạch có hiệu lực thi hành và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và đẩy nhanh tiến độ lập quy hoạch thời kỳ 2021-2030; về việc hoàn thiện thủ tục, hồ sơ trình một số dự án luật; do vậy cần đẩy mạnh thực hiện và có kiểm tra xử lý vi phạm. Thực tế vừa qua trong triển khai lập quy hoạch, chương trình phát 84 Kinh tế và Dự báo
  7. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG XANH HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: KẾT NỐI TẦM NHÌN QUỐC GIA VỚI HÀNH ĐỘNG CỦA ĐỊA PHƯƠNG VÀ DOANH NGHIỆP triển đô thị tỉnh cho thấy, còn thiếu căn cứ để liên kết đa ngành của quốc gia, vùng. Hiện nay mới chỉ hoàn thành ≈10% số lượng quy hoạch trong hệ thống nên đang là khó khăn để hướng tới phát triển hệ thống đô thị bền vững. - Xây dựng, chuẩn hóa hệ thống chỉ tiê, chỉ số về phát triển đô thị bền vững, cần quan tâm đến xây dựng đổi mới hệ tiêu chí, chỉ tiêu về phân loại đô thị (hiện nay nhiều nước đã xây dựng, song có sự khác nhau) về bộ tiêu chí đô thị bền vững, đô thị thông minh... Nhìn chung cho thấy để đô thị bền vững cần quan tâm xây dựng các tiêu chí về: Kinh tế đô thị, dân số và lao động, trình độ quản lý, dịch vụ đô thị, hình thái kinh tế và hình thái xã hội, sự tham gia của cộng đồng và bảo vệ môi trường. - Nghiên cứu, đổi mới đơn vị hành chính, chính quyền đô thị. Đang có thí điểmở một số đô thị cần sớm tổng kết để áp dụng rộng rãi. Đây là vấn đề dư luận có nhiều quan điểm khác nhau trong thời gian gần đây, cần sớm được nghiên cứu khoa học hơn gắn với đặc thù vùng, miền để có định hướng thực hiện... Trong Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đề cập 6 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cần sớm được Chính phủ, các bộ, ngành ban hành văn bản hướng dẫn, cụ thể hóa. Ba là, tổ chức nghiên cứu, nhận diện giá trị đô thị, đặc thù về môi trường cảnh quan từng vùng miền, từng đô thị để có giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị, di sản ĐT không chỉ là của riêng địa phương, quốc gia mà là của cả loài người. Đây là tồn tại trong xây dựng chương trình phát triển đô thị ở địa phương hiện nay cần sớm có định hướng chung và giải pháp huy động cộng đồng tham gia. Hệ thống đô thị Việt Nam hiện phân làm 6 loại, song đều có chức năng là trung tâm quốc gia, trung tâm vùng, khu vực để đảm bảo hình thành chuỗi, hệ thống đô thị bền vững, đồng bộ, hiện đại, có đặc thù, thì yếu tố văn hóa cần sớm được nhận diện để bảo tồn và phát huy. 5. Kết luận Phát triển đô thị bền vững ở Việt Nam hiện nay được xác định là động lực phát triển kinh tế của tỉnh, vùng quốc gia, các đô thị cần nỗ lực để khẳng định vai trò chức năng được giao. Để làm được điều này, các cấp chính quyền địa phương và trung ương phải thay đổi từ nhận thức, tránh trùng lặp, dàn trải, không áp đặt độc đoán nhưng nghiêm túc tuân thủ theo quy hoạch xây dựng đô thị và có kế hoạch cụ thể. Hơn bao giờ hết phát triển đô thị Việt Nam phải phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Khi đã có tỷ lệ đô thị hóa đạt từ 50% trở lên đồng nghĩa với việc Việt Nam đã vượt ngưỡng thu nhập trung bình và có điều kiện bứt phá trong phát triển nền kinh tế và chuyển sang giai đoạn mới, có thu nhập cao tương đồng với quốc tế và khu vực.■ TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Chấp hành Trung ương (2022). Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 16/6/2022 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 Economy and Forecast Review 85
  8. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG XANH HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: KẾT NỐI TẦM NHÌN QUỐC GIA VỚI HÀNH ĐỘNG CỦA ĐỊA PHƯƠNG VÀ DOANH NGHIỆP 2. Bộ Chính trị (2022). Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 24/01/2022 Quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 3. Quốc hội (2022). Nghị quyết số 61/2022/QH15, ngày 16/6/2022 về tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về quy hoạch và một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ lập và nâng cao chất lượng quy hoạch thời kỳ 2021-2030 4. Thủ tướng Chính phủ (2014). Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg, ngày 17/8/2014 về việc ban hành định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam) 5. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2021). Dự thảo Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và kế hoạch sử dụng đất 05 năm (2021-2025) 6. Tổng cục Thống kê (2020). Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 86 Kinh tế và Dự báo
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2