intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phát triển kinh tế: từ lý luận đến thực tiễn và sự lựa chọn của việt nam

Chia sẻ: Nguyen Le Thanh Hung | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:22

341
lượt xem
147
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trước hết chúng ta bắt đầu bằng cách nhìn nhận nền kinh tế bao gồm hai lĩnh vực cơ bản, đó là Lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội. Lĩnh vực hoạt động kinh tế là toàn bộ các hoạt động sản xuất vật chất, cùng với những hoạt động trao đổi và phân phối vật chất có liên quan trực tiếp đến sản xuất. Lĩnh vực này bao gồm: (i) hoạt động của các ngành trực tiếp gắn với sản xuất vật chất, (ii) tất cả các hoạt động có liên quan trực tiếp với phân phối các tư liệu vật chất,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phát triển kinh tế: từ lý luận đến thực tiễn và sự lựa chọn của việt nam

  1. PHÁT TRIỂN KINH TẾ: TỪ LÝ LUẬN ĐẾN THỰC TIỄN VÀ SỰ LỰA CHỌN CỦA VIỆT NAM PGS,TS Ngô Thắng Lợi Trường Bộ môn Kinh tế phát triển Đại học Kinh tế Quốc dân – Hà Nội 1. NỘI HÀM CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1.1 Các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế Trước hết chúng ta bắt đầu bằng cách nhìn nhận nền kinh tế bao gồm hai lĩnh vực cơ bản, đó là Lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội. Lĩnh vực hoạt động kinh tế là toàn bộ các hoạt động sản xuất vật chất, cùng với những hoạt động trao đổi và phân phối vật chất có liên quan trực tiếp đến sản xuất. Lĩnh vực này bao gồm: (i) hoạt động của các ngành trực tiếp gắn với sản xuất vật chất, (ii) tất cả các hoạt động có liên quan trực tiếp với phân phối các tư liệu vật chất, bao gồm tất cả các hoạt động thương mại, hoạt động tiền tệ, vận tải, bảo quản kho tàng v.v, (iii) các công tác tổ chức và quản lý hoạt động kinh tế. Lĩnh vực hoạt động xã hội là những hoạt động trao đổi, phân phối, tiêu phí vật chất và phi vật chất có liên quan gián tiếp với kinh tế cùng với các hoạt động khác không có liên quan với hoạt động kinh tế. Các hoạt động chủ yếu của lĩnh vực xã hội là: (i) bảo đảm của xã hội đối với đời sống vật chất cho con người như bảo đảm việc làm, thu nhập, mức sống thực tế, tiêu phí sinh hoạt cùng với tình trạng của các ngành phục vụ cuộc sống của con người; (ii) bảo đảm đời sống văn hoá, tinh thần của xã hội, bao gồm: Học tập, nghiên cứu, vui chơi, luyện tập thể dục, thẩm mỹ; (iii) quản lý các hoạt động xã hội, liên quan đến hai nội dung: một mặt là sự bảo đảm của xã hội đối với cá nhân như bảo hiểm xã hội, phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường, mặt khác là việc xã hội tham gia hoạt động quản lý như quản lý hành chính nhà nước, trị an xã hội, an ninh phòng vệ quốc gia, v.v.. 1.2 Nội hàm của phát triển kinh tế Theo logic trên, khi nói đến một xã hội phát triển, chúng ta thường hình dung ra một xã hội, ở đó mọi người được ăn ngon, mặc đẹp, có khả năng chủ động trong việc tiếp cận các loại tài sản vật chất, có những hoạt động vui chơi giải trí sang trọng, được sống trong một môi trường trong sạch và lành mạnh; mặt khác, chúng ta cũng nghĩ tới một xã hội không có sự phân biệt đối xử, với các mức độ công bằng cần thiết. Một yêu cầu tối thiểu của một quốc gia phát triển đó là 1
  2. chất lượng cuộc sống vật chất của quốc gia đó phải cao và được phân phối một cách đồng đều thay vì chỉ giới hạn một cách bất hợp lý cho một bộ phận tối thiểu giầu có trong xã hội. Cao hơn yêu cầu tối thiểu đó, một quốc gia phát triển còn đề cập đến các quyền và sự tự do của con người về mặt chính trị, sự phát triển về văn hoá và tri thức, sự bền vững của gia đình v.v. Như vậy, một mức sống vật chất cao (kết quả hoạt động của lĩnh vực kinh tế) và có thể được tiếp cận một cách công bằng (là kết quả của hoạt động xã hội) là điều kiện tiên quyết cho hầu hết các khía cạnh khác của sự phát triển kinh tế. Những phân tích trên đây cho chúng ta đi đến một khái niệm tổng quát nhất về phát triển nền kinh tế, đó là quá trình tăng tiến, toàn diện và về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội của một quốc gia. Khái niệm tưởng chừng như đơn giản nêu trên chứa đựng một nội hàm khá phức tạp, về lý thuyết cần phải hiểu theo những khía cạnh khác nhau: Theo góc độ nội dung, phát triển kinh tế phải là một quá trình diễn ra đồng thời giữa phát trỉển lĩnh vực kinh tế và phát triển lĩnh vực xã hội của của mỗi quốc gia. Sự phát triển về mặt kinh tế được thể hiện sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế, mức gia tăng thu nhập bình quân trên một đầu người (sự tăng trưởng kinh tế) và sự biến đổi cơ cấu ngành kinh tế theo xu hướng ngày càng hiện đại. Sự phát triển xã hội thể hiện khả năng mở rộng năng lực phát triển toàn diện cho con người và việc sử dụng năng lực đó để khai thác các cơ hội của cuộc sống. Theo logic biện chứng của quá trình phát triển, phát triển kinh tế được xem như là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất của nền kinh tế. Mặt lượng của sự phát triển bao hàm nghĩa sự gia tăng về quy mô thu nhập và tiềm lực của nền kinh tế còn sự thay đổi về chất bao gồm quá trình thay đổi cấu trúc bên trong của nền kinh tế (chuyển dịch cơ cấu kinh tế) và sự tiến bộ xã hội. Đến đây chúng ta có thể phác hoạ ra công thức phát triển kinh tế: Phát triển KT = Tăng trưởng KT + Chuyển dịch CCKT + Tiến bộ XH Mỗi bộ phận trong công thức trên chính là những mục tiêu của quá trình phát triển và có vai trò khác nhau trong quá trình thực hiện sự phát triển. Tăng trưởng kinh tế là tiêu thức thể hiện quá trình biến đổi về lượng của nền kinh tế, là điều kiện cần để nâng cao mức sống vật chất của một quốc gia và thực hiện những mục tiêu khác của phát triển. Tuy vậy một quốc gia có tăng trưởng kinh tế nhanh chưa chắc đã có sự tiến bộ xã hội. Điều đó có nghĩa là, tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần nhưng không đủ để có sự phát triển. Trình độ của cơ cấu ngành 2
  3. kinh tế thể hiện bản chất của sự phát triển, là dấu hiệu để đánh giá các giai đoạn phát triển kinh tế. Để phân biệt các giai đoạn phát triển kinh tế hay so sánh trình độ phát triển kinh tế giữa các nước với nhau, người ta thường dựa vào dấu hiệu về dạng cơ cấu ngành kinh tế mà quốc gia đạt được. Mục tiêu cuối cùng của sự phát triển kinh tế trong các quốc gia không phải là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mà là sự tiến bộ xã hội cho con người, cụ thể là việc xoá bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, tăng tuổi thọ bình quân, tăng khả năng tiếp cận đến các dịch vụ y tế, nước sạch, nâng cao trình độ dân trí, giáo dục của quảng đại quần chúng nhân dân, v.v.. Hoàn thiện sự tiến bộ xã hội là mục tiêu cuối cùng của sự phát triển mà mỗi quốc gia đều. Phát triển với bản chất nêu trên phải là một quá trình lâu dài, diễn ra theo các nấc thang tuần tự và do các nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết định. Trong cuốn "Các giai đoạn phát triển kinh tế" (the stages of Economic Growth) (1961) của Walter W. Rostow, một nhà lịch sử kinh tế nổi tiếng, đã đưa ra một cách tổng hợp theo lịch sử về những bước (giai đoạn) tuần tự mà mỗi quốc gia phải trải qua trong quá trình phát triển. Theo ông, quá trình phát triển kinh tế trải qua lần lượt 5 giai đoạn: nền kinh tế truyền thống – giai đoạn chuẩn bị cất cánh – giai đoạn cất cánh – giai doạn trưởng thành – và cuối cùng là giai xã hội tiêu dùng. Mỗi giai đoạn được đặc trưng bởi cơ cấu ngành kinh tế, tỷ lệ tích luỹ, những đặc trưng của sự phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế, xã hội. Hiện nay cũng có nhiều ý kiến bình luận và phê phán về những khía cạnh không còn phù hợp của 5 giai đoạn trong lý thuyết của Rostow, tuy nhiên, chúng ta vẫn cần nhấn mạnh đến sự vận dụng lý thuyết này trên một số khía cạnh khá hợp lý như sau: (1) Trong các giai đoạn phát triển, giai đoạn cất cánh được Rostow coi là giai đoạn then chốt. Điều kiện để giai đoạn cất cánh xuất hiện là: Tỷ lệ đầu tư chiếm trong tổng thu nhập quốc dân thuần tuý là 20%; phải có ngành công nghiệp mũi nhọn tạo nên tác động dây chuyền đến sự phát triển các ngành kinh tế khác; phải có thể chế chính trị - xã hội phù hợp đảm bảo thúc đẩy sự phát triển khu vực kinh tế hiện đại, mở rộng kinh tế đối ngoại và huy động mạnh mẽ nguồn vốn trong nước. Các điều kiện của giai đoạn cất cánh có ý nghĩa quan trọng trong hoạch định chính sách của các nước đang phát triển như: tăng tỷ lệ đầu tư, hình thành các ngành công nghiệp mũi nhọn và cải cách hệ thống thể chế. (2) Các quốc gia đang phát triển phải tuần tự thực hiện các giai đoạn của sự phát triển, phải qua giai đoạn chuẩn bị cất cánh mới có thể chuyển sang giai đoạn cất cánh, bởi vì ở các nước đang phát triển, những điều kiện để chuyển ngay sang giai đoạn cất cánh là thực sự khó khăn, đó là: sự hạn chế về nguồn vốn tích luỹ nội bộ và khả năng tiếp nhận, chuyển giao nguồn vốn nước ngoài; năng 3
  4. lực bộ máy quản lý kinh tế còn yếu kém và sự tồn tại khá phổ biến tệ nạn tham những, quan liêu và trình độ chuyên môn cũng như văn hoá rất thấp. (3) Trong giai đoạn hội nhập quốc tế ngày càng đầy đủ hơn, các nước đang phát triển có thể rút ngắn thời gian thực hiện mỗi giai đoạn phát triển thông qua việc sử dụng sự liên kết kinh tế với các nước phát triển và sử dụng nguồn lực kinh tế sẵn có của các nước này trong quá trình trao đổi thương mại và hợp tác quốc tế. 2. LỰA CHỌN CÁC MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN TRÊN THỰC TẾ Trải qua thời gian, lý luận về phát triển kinh tế, đặc biệt là xem xét nội hàm của nó ngày càng được hoàn thiện và đi đến thống nhất như nói ở trên. Tuy vậy, trong quá trình tìm kiếm con đường phát triển, các nước đã sử dụng nhiều cách đi khác nhau, nội dung trọng tâm của quá trình lựa chọn và hình thành mô hình phát triển của mỗi nước là quan điểm giải quyết mối quan hệ giữa mặt kinh tế (tăng trưởng) và mặt xã hội (tiến bộ và công bằng xã hội) trong quá trình phát triển. Nhiều nước, quá trình lựa chọn con đường phát triển đã đồng nhất một cách ngây thơ giữa phát triển kinh tế với tăng trưởng kinh tế, và tìm mọi cách để giải quyết bài toán tăng trưởng kinh tế nhanh. Có những nước thì lại qua nhấn mạnh đến giải quyết công bằng xã hội và xem đó là tất cả những gì gọi là phát triển v.v...Các nghiên cứu thực nghiệm cũng đã đúc kết thành những mô hình cụ thể, mỗi mô hình có những đặc trưng riêng, và có những kết cục tất yếu của nó. 2.1 Mô hình nhấn mạnh công bằng xã hội trước và tăng trưởng kinh tế sau. Đây là mô hình được sử dụng trong lịch sử phát triển của các nước thuộc hệ thống Xã hội chủ nghĩa trước đây (gọi là thế giới thứ 2), như: Liên Xô cũ, các nước XHCN Đông Âu, Cu Ba, Trung Quốc, Việt Nam, v.v.... Ý tưởng chung của mô hình là coi các chính sách tạo sự công bằng xã hội là điều phải làm trước tiên khi thu nhập của nền kinh tế, tăng trưởng còn ở tình trạng rất thấp và xem như đó là điều kiện, là điểm mấu chốt để thực hiện tăng trưởng và phát triển kinh tế. Theo mô hình này, quá trình phát triển phải được bắt đầu bằng sự kiện “tước đoạt của những kẻ đã đi tước đoạt” thông qua chính sách cải cách ruộng đất và đánh tư sản. Nhà nước tiến hành quốc hữu hoá tài sản, nguồn lực được phân phối lại cho các đơn vị kinh tế dưới hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Phân phối theo lao động là hình thức phân phối cơ bản nhất, được thực hiện theo nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, ai có sức lao dộng không làm không hưởng” Thực tế phát triển của các nước Xã hội chủ nghĩa trước đây đã phản ánh khá rõ nét những hiệu ứng tích cực của mô hình. Thứ nhất, tình trạng bất bình 4
  5. đẳng trong phân phối thu nhập được giải quyết nhanh chóng ngay từ giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Ở Liên xô cũ, năm 1967, tỷ lệ thu nhập của 20% dân số nghèo nhất đã đạt tới 10,4%; trong khi đó 20% dân số có mức thu nhập cao nhất chỉ chiếm có 19,9%. Các con số tương ứng của Mỹ vào thời điểm này là 5,5% và 38,6%; Canada là 6,2% và 37,8%; Pháp là 5,8% và 31,8%; Hệ số GINI vào thập niên 1970 ở Liên xô đã đạt được giá trị 0,23, Tiệp khắc là 0,21, Hungari và Ba lan là 0,24, trong khi đó vào thời điểm này, hệ số GINI của Mỹ và Canada là 0,34 và 0,35. (Nguồn: các hệ thống kinh tế so sánh, Paul R. Gregory, 1998). Thứ hai, Sau khi đã thiết lập được hệ thống sở hữu toàn dân về tài sản và chế độ phân phối theo lao động, một khí thế mới của tinh thần làm chủ tập thể, sự phân phối thu nhập công bằng và một kiểu quản lý mới đã tạo nên một sự khởi sắc nhất định trong nền kinh tế, hiệu quả kinh tế và tốc độ tăng trưởng cũng khá ổn định và có phần cao hơn các nước Tư bản chủ nghĩa. Giai đoạn 1950-1960, tốc độ tăng trưởng GDP/năm của Liên xô và Đông Âu đạt 4,7%; giai đoạn 1970-1975 đạt 4,3% trong khi đó các nước Tư bản chủ nghĩa, chỉ đạt tương ứng là 3,7% và 2,5%. Tuy vậy, những bất cập của mô hình này cũng đã được tổng kết qua thực tế:(i) Một nền kinh tế được bảo đảm bằng chế độ sở hữu nhà nước và sản xuất không vì mục tiêu lợi nhuận, về lâu dài đã làm kìm hãm động lực nâng cao hiệu quả và tăng trưởng kinh tế; (ii) Một chế độ phân phối thu nhập chỉ dựa trên cơ sở lao động, đã không khuyến khích việc huy động triệt để các yếu tố nguồn lực khác trong dân cư và các đơn vị kinh tế vào hoạt động kinh tế, tạo ra của cải; (iii) Kết hợp cả hai vấn đề trên, về lâu dài, hình thức phân phối công bằng trên cơ sở xã hội không có động lực phát triển đã trở thành một cơ chế phân phối lao động theo kiểu cào bằng đối với người lao động. Trong khi đó những người đại diện cho nhà nước quản lý khối lượng tài sản khá lớn tại các đơn vị kinh tế cũng không quan tâm đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của đơn vị mình. Hậu quả xấu tất yếu nảy sinh, đó là: tăng trưởng và hiệu quả kinh tế có xu hướng giảm đi, những tệ nạn quan liêu, cửa quyền xuất hiện ngày càng nhiều, và “tự nhiên” xuất hiện hình thức phân phối không chính thức nhưng lại chi phối khá lớn đến thu nhập, đó là “phân phối theo quyền lực”, làm cho sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập lại trở nên gia tăng hơn. Chúng ta có thể thấy điều đó qua bảng số liệu minh hoạ dưới đây. Bảng 1: Một số chỉ tiêu kinh tế của Liên xô và một số nước ĐôngÂu Nước Tốc độ tăng Tốc độ tăng Tốc độ tăng Tốc độ tăng GDP(%) NSLĐ(%) NS vốn(%) TFP (%) 1960 1985 1960 1985 1960 1985 1960 1985 Liên xô 5,8 3,6 4,6 2,3 3,6 -3,7 2,4 0,8 5
  6. Tiệp khắc 4,8 2,6 4,1 1,6 1,3 -2,1 3,4 0,5 Ba Lan 4,6 3,3 3,6 1,8 2,0 -1,4 3,2 0,8 Hungari 4,6 2,9 3,6 2,6 1,0 -2,1 2,9 1,2 LX và Đông Âu 5,5 3,0 4,8 2,5 1,0 -2,1 3,5 0,9 Nguồn: các hệ thống kinh tế so sánh, Paul R. Gregory, 1998 2.2. Mô hình tăng trưởng trước, công bằng xã hội sau ( kiểu chữ U ngược) Đây là mô hình được khởi nguồn áp dụng ở Mỹ, Canada, Nhật Bản và phương tây, các nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, tiếp theo đó là sự lựa chọn của phần lớn các nước khu vực Nam Mỹ như Braxin, Mehico, VeneZuela. Khu vực đông Nam Á có một số nước như Hồng Kông, hay cả Malaysia, Philipines cũng đi theo mô hình này. Sự lựa chọn này phù hợp với giả thuyết mà Simon Kuznets (đưa ra vào năm 1955- khi ông là Chủ tịch Hội đồng kinh tế Mỹ) về mối quan hệ giữa tăng trưởng (phản ánh qua chỉ số GDP/người) và bất bình đẳng trong phân phối thu nhập (phản ánh qua chỉ số GINI) theo dạng chũa U ngược. Các nghiên cứu thực nghiệm trong vòng 20 năm từ 1962 đến 1985 của chính Kuznets và Oshima ở khoảng 70 nước trên thế giới và một số công trình nghiên cứu khác nữa cũng vẫn khẳng định tính đúng đắn cho giả thuyết chữ U ngược (hình dưới). Hình 1: Mô hình chữ U ngược GINI Theo mô hình này, các nước thường không quan tâm đến phân phối lại thu - nhập trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển.Vì vậy, trong giai đoạn này, cùng với quá việc đạt được các thành tựu về tăng trưởng (thu nhập bình quân đầu 0,6 - người tăng lên) thì sự bất bình đẳng có xu hướng tăng lên, kết quả của tăng 0,5 - 0,4 - 6 0,3 -
  7. 0,2 GDP/người trưởng sẽ dồn vào một số nhóm người trước. Chỉ khi nền kinh tế đã đạt được một mức độ khởi sắc đáng kể, thu nhập bình quân đầu người cao, lúc đó sự bất bình đẳng mới có xu hướng giảm dần cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế do chính phủ bắt đầu quan tâm đến các chính sách phân phối lại thu nhập làm cho kết quả của tăng trưởng được “thẩm thấu” một cách rộng rãi hơn. Nếu như Kuznets và một số nhà nghiên cứu khác chỉ dựa trên các kết quả thực nghiệm để mô tả mô hình dạng chữ U ngược mà các nước lựa chọn thì A. Lewis, nhà kinh tế học người Mỹ gốc Zamaica, trong phân tích mô hình lao động dư thừa ( mô hình hai khu vực cổ điển) cũng trong khoảng thời gian nghiên cứu của Kuznets (1955) đã có sự giải thích hay minh hoạ cho cơ chế kết hợp tăng trưởng với công bằng xã hội trong phân phối thu nhập theo kiểu chữ U ngược, và đây cũng được xem như chính là phương thức phát triển mà các nước đi theo mô hình này lựa chọn. Trong giai đoạn đầu, khu vực nông nghiệp không được đầu tư vì đang nằm trong tình trạng dư thừa lao động, thu nhập của khu vực này gần như không đổi và người lao động ở đây hưởng mức tiền công đủ sống . Trong khi đó khu vực công nghiệp và dịch vụ là địa chỉ đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả nhất. Tăng trưởng kinh tế là kết quả của sự gia tăng tích luỹ của khu vực công nghiệp và dịch vụ. Sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập thể hiện trước hết chính là giữa hai khu vực nông nghiệp và công nghiệp, do quy mô thu nhập của khu vực công nghiệp ngày càng lớn trong khi khu vực nông nghiệp lại đang “trì trệ tuyệt đối”. Sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập còn xuất phát từ một thái cực khác, đó là giữa ông chủ (người sở hữu tài sản) và người lao động trong khu vực công nghiệp. Trong khi đầu tư vào khu vực công nghiệp ngày càng lớn làm cho lợi nhuận tăng lên và thu nhập của những nhà sở hữu vốn trong công nghiệp ngày cang lớn, thì thu nhập của người lao động ở khu vực này vẫn không thay đổi, do đây là những người lao động được chuyển từ khu vực nông nghiệp sang (đều đang hưởng mức tiền công tối thiểu ở khu vực nông nghiệp) và họ chỉ được trả cùng một mức tiền công như nhau khi chuyển sang làm việc cho khu vực công nghiệp. Như vậy các nước lựa chọn mô hình tăng trưởng trước, phân phối lại sau, thì sự bất bình đẳng không chỉ là hệ quả của tăng trưởng nhanh mà còn là nguyên nhân của sự tăng trưởng nhanh. Khuynh hướng làm tăng sự bất bình đẳng cuối cùng sẽ bị đẩy lùi khi khu vực nông nghiệp không còn dư thừa lao động, lúc đó: (i) mức tiền công trả cho người lao động chuyển từ khu vực nông nghiệp sang làm việc cho khu vực công nghiệp sẽ phải tăng lên (ngày càng cao) theo sự khan hiếm lao động; (ii) Phần lợi nhuận khu vực công nghiệp đạt được sau mỗi chu kỳ phải dành một phần để đầu tư lại cho nông nghiệp, nhằm khắc phục hiện tượng giảm quy mô sản lượng của khu vực nông nghiệp do thiếu hụt lao động. Như vậy trong giai đoạn sau của quá trình phát triển, bất bình đẳng ngày càng giảm đi và sự 7
  8. nghèo khó cũng sẽ bị đẩy lùi. Kết quả đạt được của mô hình này nhìn chung cũng đúng với ý muốn của những người thiết kế ra nó. Thành tựu nổi bật không thể phủ nhận được đối với các nước này là tốc độ tăng trưởng và mức thu nhập bình quân đầu người tăng lên khá nhanh. Tuy vậy, tại đây, bất bình đẳng, phân hoá xã hội và sự nghèo đói kéo dài, thậm chí rất khó cải thiện kể cả khi thu nhập đã đạt đến một mức rất cao. Trừ các nước Tư bản chủ nghĩa phát triển, hiện nay đã đạt mức công bằng cao trong phân phối thu nhập như Pháp, Anh, Nhật, Úc, Canada v.v.. đang có xu hướng hoàn thiện và đạt được những kết quả nhất định trong sự công bằng xã hội, còn phần lớn các nước theo mô hình này hiện nay vẫn có sự bất bình đẳng cao vào hạng nhất thế giới (xem bảng dưới). Chính những bất bình đẳng ấy trở nên là một rào cản cho thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong những giai đoạn gần đây. Bảng 2: Chỉ số bất bình đẳng của một số nước Nam mỹ và Đông Á Nước GDP/người GINI Thu GINI đất đai % thu nhập ($ - PPP) nhập của 20% dân số nghèo nhất Achentina 12 460 0,51 0,83 3,2 Braxin 8 020 0,62 0,85 2,6 Vênezuela 5 760 0,47 0,88 4,7 Philipines 4 890 0,46 0,86 4,5 Malaysia 9 630 0,51 0,72 4,4 Nam Phi 10 960 0,58 0,77 3,5 Mexico 9 590 0,51 0,78 4,3 Nguồn: WB, Báo cáo phát triển thế giới 2006,2007 2.3 Mô hình tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội giải quyết đồng thời (phát triển toàn diện) Đã có nhiều nước, trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế của mình lựa chọn một mô hình kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng và công bằng xã hội trong phân phối thu nhập và đã dành được sự thành công đáng kể. Trong số các nước đó phải kể đến là các nước phát triển ở khu vực Bắc Âu như Thuỵ Điển, Thuỵ Sỹ, Na uy, Phần Lan, đan mạch; Đức; và một số nước khu vực Đông Á, từ những quốc gia nghèo nhất thế giới vào thập niên 1950,1960 đã nhanh chóng trở 8
  9. thành NIC cũng bằng chính sự lựa chọn mô hình này – đó là Hàn Quốc và Đài Loan. Một nét đặc trưng của mô hình này là, trong quá trình phát triển, mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn đi đôi với mục tiêu công bằng xã hội. Quá trình tăng trưởng nhanh và công bằng xã hội lớn hơn là những mục tiêu tương hợp và không mâu thuẫn nhau. Kết quả tăng trưỏng nhanh góp phần cải thiện mức độ công bằng, hoặc là không làm gia tăng bất bình đẳng, trường hợp xấu nhất là sự bất bình đẳng có gia tăng nhưng ở một mức độ thấp cho phép. Nội dung chính của mô hình này được thể hiện rất rõ nét qua những chính sách can thiệp của chính phủ vào các lĩnh vực kinh tế và xã hội nhằm tạo ra sự phát triển đồng bộ của cả hai yếu tố này. Một là, chính sách khuyến khích tăng trưởng kinh tế nhanh, thông qua việc lựa chọn các mô hình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Mô hình mà Hàn Quốc và Đài Loan sử dụng khá thành công là mô hình công nghiệp hoá hướng ngoại nền kinh tế thông qua chính sách nhấn mạnh vai trò của khu vực tư nhân và sự hỗ trợ tích cực của nhà nước trong những lĩnh vực cần thiết. Hai là, chính sách đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế nhằm bảo đảm tăng trưởng nhanh nhưng không gây gia tăng bất bình đẳng. Kể cả Đức và các nước Bắc Âu, đến Hàn Quốc và Đài Loan đều bắt đầu quá trình thực hiện tăng trưởng nhanh bằng phát triển mạnh nông nghiệp, những ngành sản xuất sản phẩm nhiều lao động và các nguồn lực dự trữ ở khu vực nông thôn, quan tâm đặc biệt đến vấn đề mở rộng quy mô, đa dạng hoá sản xuất và tăng năng suất lao động trong nông nghiệp. Sau đó sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được thực hiện theo dấu hiệu lợi thế nguồn lực của đất nước và theo hướng phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ. Sự lựa chọn này vừa đảm bảo tăng trưởng nhanh, ổn dịnh vừa không có nguy cơ gây bất bình đẳng trong quá trình phát triển. Sự lựa chọn này phù hợp với quan điểm của nhà kinh tế học người Nhật Bản là H. Oshima tổng kết trong cuốn “Tăng trưởng kinh tế ở các nước chau Á gió mùa”. Theo mô hình này, nền kinh tế bắt đầu thời kỳ tăng trưởng nhanh bằng đầu tư cho nông nghiệp, kế theo đó là phát triển với nông nghiệp với công nghiệp và cuối cùng là đầu tư theo chiều sâu cho toàn bộ nền kinh tế khi hiện tượng thiếu lao động và giá cả lao động trở nên ngày càng đắt đỏ. Đây cũng là mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong đó không sản sinh ra nguyên nhân kinh tế gây sự bất bình đẳng và công bằng xã hội. Thứ ba, chính sách xã hội nhằm giải quyết ngay từ đầu vấn đề xoá đói giảm nghèo và công bằng xã hội. Điều này được thể hiện trong các chính sách về phân phối lại thu nhập, chính sách trợ cấp xã hội, các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng đường xá, giao thông cho các vùng khó khăn v.v.... Hệ thống giáo dục bảo đảm cho tất cả trẻ em có trình độ phổ cập giáo dục ngày càng được nâng cao, nạng lưới y tế chăm sóc sưc khoẻ được tổ chức chu đáo. Tất cả đều nhằm mục tiêu tạo điều kiện sống có giá trị ngang nhau ở tất 9
  10. cả các thành phần lãnh thổ trong cả nước. Các nước lựa chọn mô hình nhấn mạnh đồng thời phân phối lại với tăng trưởng kinh tế thường đạt được những thành tựu đáng nói kể cả hai lĩnh vực kinh tế và xã hội (xem bảng dưới). Bảng 3: Chỉ số bất bình đẳng của một số nước áp dụng m ô hình phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh t ế Tên nước GDP/người ($ - Hệ số GINI Thu nhập của PPP) 20%dân số nghèo nhất (%) Đan mạch 35 570 0,27 10,3 Phần lan 31 170 0,25 9,6 ThuỵDiển 37 080 0,25 9,1 Na uy 40 420 0,27 9,6 Đức 29 290 0,28 8,5 Hàn Quốc 21 850 0,29 9,7 Đài Loan 23 210 0,24 9,8 Nguồn: WB, Báo cáo phát triển thế giới 2006,2007 Nếu so sánh các số liệu từ hai bảng số trên chúng ta có thể thấy được khá rõ sự khác biệt trong kết quả về công bằng xã hội giữa hai mô hình lựa chọn khác nhau về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng xã hội. Trong số các nước trở thành NIC vào thập niên 1980 là Đài Loan, Hàn quốc, Braxin, Mexico, Achentina đều có sự tăng trưởng kinh tế nhanh vào thập niên 1960,1970 thì nước Hàn Quốc, Đài Loan không những đạt được các chỉ số công bằng xã hội cao hơn nhiều so với các nước còn lại, thậm chí ngang với các nước công nghiệp phát triển, mà mức thu nhập bình quân đầu người phản ánh sự tăng trưởng kinh tế cũng cao hơn hẳn các nước này. Điều đó trên một mức độ nhất định phản ánh ưu điểm của mô hình mà họ đã lựa chọn. 3. LỰA CHỌN MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM 10
  11. HIỆN NAY 3.1 Mô hình phát triển toàn diện – sự lựa chọn của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới kinh tế Mặc dù Việt Nam đã dành được những thành tựu nhất định trong nhiều lĩnh vực từ thập niên 90 của thế kỷ thứ 20, tuy vậy, bước vào thời kỳ chiến lược 2001-2010, chúng ta vẫn bị đánh giá là có nguy cơ tụt hậu về kinh tế, nếu so sánh với sự phát triển vượt trội của các nước trong khu vực, khoảng cách tuyệt đối về thu nhập bình quân trên đầu người của Việt nam ngày càng xa so với họ. Vì vậy, yêu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh đã trở thành bức xúc, hàng đầu để thực hiện mục tiêu phát triển. Thực hiện tăng trưởng nhanh mới có thể kéo nước ta ra khỏi danh sách các nước nghèo, kém phát triển, và chống tụt hậu xa hơn, thu hẹp dần khoảng cách phát triển so với các nước xung quanh. Hơn thế nữa, thế kỷ 21, tình hình về kinh tế quốc tế có nhiều thay đổi, mở cửa, hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng rộng rãi đã cho phép chúng ta có thể sử dụng được những lợi thế của các nước đi sau để khắc phục những rào cản thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh trong nhiều năm qua như sự thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu lao động tay nghề và thiếu thị trường tiêu thụ cũng như cung cấp sản phẩm. Mặt khác, con đường mà Việt nam lựa chọn trong thời kỳ đổi mới kinh tế là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khía cạnh “xã hội chủ nghĩa” đặt yêu cầu tiến bộ và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Quan tâm đến tiến bộ và công bằng xã hội chính là mặt văn hóa của của sự phát triển mà chúng ta theo đuổi phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa và nó chính là một phần của mô hình phát triển đất nước. Những luận cứ nói trên cho thấy mô hình phát triển kinh tế việt nam lựa chọn hiện nay là mô hình phát triển toàn diện. Nội dung chính của mô hình này là thực hiện việc kết hợp tăng trưởng kinh tế nhanh với công bằng xã hội ngay từ đầu và trong toàn tiến trình phát triển. Sự lựa chọn con đường phát triển toàn diện đã thể hiện khá rõ trước hết trong mục tiêuquan điểm phát triển đặt ra trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010: phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Phấn đấu đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giầu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người với tự nhiên. Tiếp theo, nhiều chiến lược và các văn kiện khác đã cụ thể hóa, hoàn thiện và bổ sung cho nội dung của mô hình phát triển toàn diện mà chúng ta lựa chọn. Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo (CPRGS) được Chính phủ phê duyệt tháng 5 năm 2002, đã nhấn mạnh việc xóa đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản để bảo đảm công bằng xã hội và tăng 11
  12. trưởng bền vững, và ngược lại chỉ có tăng trưởng cao, bền vững mới có sức mạnh vật chất để hỗ trợ người nghèo vươn lên. CPRGS đã đưa ra cụ thể mục tiêu, cơ chế, chính sách và giải pháp thực hiện sự kết hợp hai nội dung kinh tế và xã hội trong quá trình phát triển đất nước. Một văn kiện mang tính cụ thể hóa và hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 thể hiện sự lựa chọn mô hình phát triển toàn diện của Việt Nam là Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (chương trình nghị sự 21 Việt Nam – Agenda 21 – VN) do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 8/2004. Theo tài liệu này, phát triển kinh tế của Việt Nam là quá trình kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa cả ba mặt là kinh tế, xã hội và môi trường. Mục tiêu về kinh tế đạt được đó là sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh được sự suy thoái hoặc đình trệ tong tương lai, tránh để lại gánh năng nợ nần lớn cho thế hệ mai sau. Mục tiêu về xã hội là đạt được kết quả cao tong thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm chế độ dinh dưỡng và chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được nâng cao, mọi người đều có cơ hội được học hành và có việc làm, giảm tình trạng nghèo đói và hạn chế khoảng cách giầu nghèo giữa các tầng lớp, các nhóm dân cư trong xã hội, nâng cao mức công bằng về quyền lợi vàng nghĩa vụ giữa các thành viên và các thế hệ , duy trì và phát huy được tính đa dạng và bản sắc văn hóa dân tộc, không ngừng nâng cao trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần . Mục tiêu về môi trường là khai thác hợp lý và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, thực hiện viẹc tái sinh tài nguyên và chống ô nhiễm môi trường. 3.2 Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam theo mục tiêu phát triển toàn diện Sau một khoảng thời gian khá dài thực hiện mục tiêu và quan điểm phát triển kinh tế toàn diện xác định trong chiến lược 2001 – 2010, chúng ta đã đạt được những kết quả mà ai cũng đều phải thừa nhận: Thứ nhất, Việt Nam trở thành điểm sáng về tăng trưởng kinh tế nhanh Hình 2: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam, 2000 - 2007 12
  13. 9 8,44 8,5 8,17 8 7,79 7,08 7,34 7 6,79 6,89 6 5 % 4 3 2 1 0 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Năm Nguồn: tổng hợp từ niên giám thống kê và báo cáo KH 2008 của Bộ KH &ĐT Chúng ta có thể tự hào về tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước đã đạt được trong thời gian qua: thời gian tăng trưởng liên tục của Việt nam đã đạt đến con số 30 năm26 năm (1977-20067), vượt qua kỷ lục 23 năm của Hàn Quốc tính đến năm 1997; quy mô GDP năm 2006 dự kiến đạt được đã gấp gần 4 lần so với năm 1985, bình quân năm trong 20 năm đổi mới đạt gần 7%, riêng thời kỳ 1991- 2006 (15 năm) đạt 7,6%, cao hơn nhiều so với thời kỳ trước, đó là tốc độ tăng thuộc loại cao nhất so với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Năm 2007 - năm đầu tiên gia nhập WTO, tốc độ tăng trưởng đã đạt cao nhất kể từ năm 2000 đến nay. GDP năm 2007 đạt 71,3 tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người đạt 835 USD, tăng 14,5% so với năm 2006. Theo số liệu của Báo cáo phát triển con người (Liên Hiệp Quốc) năm 2007, Việt Nam hiện nay đứng thứ 122/177 quốc gia về thu nhập bình quân đầu người (năm 2005 xếp thứ 140), điều đó thể hiện sự thành công trong chiến lược tăng trưởng nhanh . Với kết quả đó, đời sống kinh tế của Việt nam đã thực sự được khởi sắc, từ chỗ sản xuất chưa đủ tiêu dùng ở mức độ thấp trong nước, nhập siêu, vay nợ còn lớn đến chỗ sản xuất không những đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng đã lên cao, mà còn có tích lũy nội địa khá cao. Những kết quả đạt được cộng hưởng với việc chính thức gia nhập WTO, Việt Nam đã và đang cải thiện mạnh mẽ vị thế của mình với tư cách là "điểm đến" của vốn và công nghệ đối với các nhà đầu tư, và "điểm bùng nổ" tăng trưởng. Thứ hai, những tiến bộ đáng kể trong chỉ tiêu phát triển con người Thực thi chiến lược phát triển toàn diện, cùng với việc đạt được chỉ tiêu tăng trưởng GDP cao, thì tất cả các chỉ tiêu về xã hội, môi trường có liên quan trực tiếp đến tăng trưởng và sử dụng kết quả của tăng trưởng đều hoàn thành và hoàn 13
  14. thành vượt mức., các chỉ tiêu xã hội có xu hướứong được cải thiện rõ rệt. Chỉ số HDI đo sự tiến bộ trung bình của một nước về phát triển con người bao gồm tuổi thọ, trình độ dân trí và thu nhập GDP tính theo đầu người của Việt Nam năm 2007 đã lên tới 0,733, tăng hơn so với năm 2006 (đạt 0,709) và thứ hạng HDI của Việt Nam được cải thiện 4 bậc (từ thứ 109/177 lên 105). Tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam đến cuối năm 2007 chỉ còn 14,7% . So với nhiều nước có thu nhập thấp khác, Việt nam hiện nay đang đi đầu về các chỉ số về tuổi thọ và tỷ lệ biết chữ ở người lớn. Xếp hạng tương ứng của Việt Nam ở hai chỉ tiêu này năm 2007 là 56 và 57. Nếu sử dụng chỉ số nghèo khổ con người (HPI) nhằm tập trung vào tỷ lệ người sống dưới ngưỡng về các phương diện phát triển toàn diện con người, sống một cuộc sống khỏe mạnh và lâu dài, đựoc tiếp cận giáo dục và mức sống hợp lý thì Việt Nam được xếp thứ 36 (theo số liệu của UNDP). Cũng theo báo cáo phát triển con người của Liên Hiệp Quốc năm 2007, Việt nam có nhiều tiến bộ trong cải thiện công bằng giới, thông qua chỉ số phát triển giới (GDI) và chỉ số đo vị thế giới (GEM). Năm 2007, chỉ số GDI của Việt Nam là 0,732 so với HDI là 0,733. Chênh lệch giữa chỉ số GDI càng thấp so với HDI chứng tỏ sự bình đẳng giới càng cao. Trong số 156 có chỉ số này thì chỉ có 8 nước có tỷ số cao hơn Việt Nam. Trong số 93 nước có chỉ số GEM thì Việt Nam đứng thứ 52 với giá trị là 0,561. Đây là những kết quả khá khả quan về phát triển xã hội mà chúng ta thực hiện được trong những năm qua. Tuy vậy mặt trái của vấn đề vẫn còn thể hiện rõ trên các phân tích sau đây: Một là, tăng trưởng chưa bao giờ đạt mức tiềm năng và những báo động về nguy cơ suy giảm tốc độ tăng trưởng trong tương lai do chất lượng tăng trưởng còn ở trình độ rất thấp. Theo đánh giá, mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua vẫn chủ yếu là theo chiều rộng, tính hợp lý trong sử dụng các yếu tố tăng trưởng thực chiều rộng cũng chưa cao. Để thực hiện tăng trưởng nhanh, chúng ta đã phải dốc sức vào đầu tư, nhất là đầu tư nhà nước và nỗ lực kiềm chế giá cả bằng các biện pháp kể cả hành chính, không chú ý đến hiệu quả đầu tư. Tăng trưởng đạt được tốc độ cao nhưng cách đi của chúng ta là dựa vào khai thác quá mức nguồn vốn tài nguyên hoặc gia công chế biến, mang tính chất chạy đua ngắn hạn với hiệu quả năng lực cạnh tranh tăng trưởng có biểu hiện giảm sút. Với những bất cập nói trên, nên mặc dù giai đoạn 2001-2007 nền kinh tế của chúng ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng theo xu hướng năm sau cao hơn năm trước. Tuy nhiên nếu so sánh liên tục chuỗi thời gian từ đầu thập niên 90 của thế kỷ trước đến nay cho thấy, tốc độ tăng trưởng của Việt nam vẫn giảm tương đối. Thời kỳ 2001-2007, chưa năm nào đạt được tốc độ tăng trưởng như của những năm 1995, 1996 (năm 1995 là 9,54% 14
  15. và năm 1996 đạt 9,34%), trong khi đó chúng ta đã phải để lại tích lũy nhiều hơn, dành vốn cho đầu tư nhiều hơn, đời sống kinh tế trong nước và thế giới sôi động hơn, điều đó cho thấy nếu tiếp tục con đường phát triển theo chiều rộng, chỉ chú ý đến ngắn hạn, trong điều kiện gia nhập WTO với nhiều thách thức chúng ta sẽ phải đổi lấy những hậu quả có hại cho mục tiêu tăng trưởng dài hạn, đó là sự suy yếu các cơ sở của sự ốn định vĩ mô vững chắc, không đáp ứng được những yêu cầu cải thiện nhanh chóng hiệu quả, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, nền kinh tế trong thời gian qua và kể cả những năm tiếp theo tiếp tục tăng trưởng dưới mức tiềm năng và không có triển vọng thóat khỏi tình trạng tụt hậu xa hơn. Thứ hạng của Việt Nam về thu nhập bình quân đầu người nói chung không có sự thay đổi so với các nước trong khu vực và trong các khối mà VN tham gia ( đứng khoảng thứ 122/176 toàn cầu; đứng thứ 21/21 nước khối APEC từ năm 1995 đến nay; đứng thứ 9/11 nước khối ASEAN), và vẫn nằm trong 50 nước có mức thu nhập thấp (dưới 875 $/người). Đó cũng là những luận chứng cho dự báo về sự giảm sút rất nhanh về tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt nam trong thời sau năm 2010, và nếu những dự báo này trở thành sự thật thì đó là sự cảnh báo về sự không hoàn thành các mục tiêu trong chiến lược công nghiệp hóa đất nước đến năm 2020. Hai là, Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch chậm chạp và thể hiện trình độ phát triển thấp của nền kinh tế Trình độ phát triển của nền kinh tế thể hiện ở cơ cấu ngành vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của chất lượng tăng trưởng thấp.Trong thời gian qua, cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam tuy có chuyển dịch theo hướng tích cực hơn, nhưng rất chậm chạp so với yêu cầu của một đất nước đang thực hiện giai đoạn hai của quá trình công nghiệp hóa. Sự chuyển dịch chậm chạp đã làm cho thực trạng cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta đang dừng lại ở một trình độ thấp so với nhiều nước trong khu vực và so với yêu cầu chuyển đổi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hình 3: So sánh cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam với các nước trong khu vực 15
  16. 100 90 32 38.1 80 40 42 38.8 53.5 50 70 62 65 60 50 40 53 41 40.5 44 49 30 32.5 41 20 35 35 10 15 16 20.9 20.7 14 9 9 0 3 0 CHN PHI IND MAL THA KOR SIN VN05 VN06 Nong nghiep Cong nghiep Dich vu Nguồn: Kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế – xã hội của VN2006-2010 và sổ tay KH 2007 (Bộ KH&ĐT) (1) Số liệu của các nước là của năm 2003 Ghi chú : CHN = Trung Quốc; PHI = Philipines; IND = Indonesia; MAL = Malaysia; THA = Thái Lan; KOR = Hàn Quốc; SIN = Singapore; VN05 = Việt Nam (2005); VN06 = Việt Nam ( 2006) Nếu xem cơ cấu ngành là dấu hiệu đánh giá trình độ phát triển kinh tế thì, các số liệu so sánh trên đã minh chứng về trình độ phát triển kinh tế thấp của nước ta, so với các nước trong khu vực. Nhiều nhà kinh tế đã cho rằng trình độ phát triển kinh tế của Việt nam hiện nay là tương đương với Thái Lan ở thập niên 80 của thế kỷ trước và đưa ra những dự đoán khá bi quan về quá trình đuổi kịp của Việt nam so với các nước trong khu vực. Ba là, tTác động của tăng trưởng đến xóa đói giảm nghèo có xu hướng giảm. Phải khẳng định rằng nhờ vào tăng trưởng kinh tế, trong những năm qua, mức sống dân cư ở nước ta có xu hướng nâng cao rõ rệt, tỷ lệ nghèo đói giảm đi, các chỉ tiêu phản ánh phát triển xã hội đều có dấu hiệu tốt . Tuy vậy, nếu so sánh kết quả tăng trưởng đạt được hàng năm với những thành tựu về giải quyết các vấn đề xã hội trong thời gian qua cho thấy những những khía cạnh chưa tương xứng sau đây: Một là, hiệu ứng của tăng trưởng tới giảm nghèo có xu hướng giảm Bảng 4: So sánh tăng trưởng và giảm nghèo 16
  17. 2001 2002 2003 2004 2005 1. Tăng trưởng: - Tốc độ tăng trưởng (%) 6,89 7,08 7,34 7,79 8,4 - Số điểm % tăng trưởng gia tăng so với 0,22 0,26 0,45 0,61 năm trước 2. Giảm nghèo 17,5 14,5 11 8,31 7 - Tỷ lệ nghèo đói (%) - Số điểm % giảm nghèo 3 3,5 2,96 1,31 giảm xuống so với năm trước. Nguồn: Tính toán từ số liệu của bản Kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế – xã hội 2006-2010(Bộ Kế hoạch và đầu tư). Ghi chú: tỷ lệ nghèo theo chuẩn cũ của Bộ lao động và thương binh xã hội , áp dụng trong giai đoạn 2001-2005. Số liệu trên cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP qua các năm thời kỳ 2001- 2005 có xu hướng tăng lên và ngày càng nhanh trong những năm sau, tốc độ gia tăng của tỷ lệ tăng trưởng giữa các năm vì thế cũng tăng đáng kể, năm 2005 so với 2004 tăn lên đến 0,16 điểm phần trăm trong khi năm 2002 so với 2001 chỉ co 0,04 điểm phần trăm, trong khi đó tốc độ giảm tỷ lệ nghèo đói lại có xu hướng chậm lại, năm 2005 so với 2004 giảm đi 1,31% tỷ lệ nghèo, chỉ bằng 40% mức giảm của năm 2002 so với 2001, hiệu ứng giảm nghèo do tăng trưởng có biểu hiện giảm đi rõ rệt. Kết quả cuối cùng là tỷ lệ nghèo đói của Việt nam hiện còn khá cao so với các nước trong khu vực chỉ thấp hơn Cam-pu-chia, Lào, Papua New Guinea, và điều đáng nói hơn là tỷ lệ nghèo đói khu vực nông thôn, miền núi, của đồng bào dân tộc ít người ở Việt nam hiện nay còn rất cao và hiện tượng tái nghèo có biểu hiện gia tăng rõ rệt. Ba là, các chỉ số phản ánh bất bình đẳng cũng có biểu hiện tăng lên khá rõ rệt Bảng 5: Một số chỉ số phản ánh bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ở Việt Nam Chỉ số 1995 1999 2002 2004 GINI 0,35 0,39 0,42 0,423 Hệ số giãn cách (lần) 7,0 7,6 8,1 8,4 17
  18. Tiêu chuẩn “40”(%) 21,1 18,7 18 17,4 Nguồn: tạp chính lý luận chính trị tháng 12/2004 Bảng trên đã cho thấy một thực trạng là các chỉ số đánh giá bất bình đẳng trong phân phối thu nhập của chúng ta theo thời gian có xu hướng vận động không tích cực. Hệ số GINI năm 1995 là 0,35 (thể hiện sự công bằng xã hội cao trong phân phối thu nhập) thì hiện nay đã vượt con số 0,4 – đây là ngưỡng mà Liên hiệp quốc gọi là những nước có mức độ bất bình đẳng vừa, hệ số giãn cách thu nhập cũng có chiều hướng gia tăng đáng kể, tiêu chuẩn “40” do WB đưa ra xã định tỷ lệ phần trăm thu nhập của 40% dân số nghèo nhất hiện nay chỉ chiếm 17,4% (chuẩn bị đến ngưỡng chỉ một nước có sự bất bình đẳng vừa – 17%) Sự bất bình đẳng về kinh tế tăng lên có tác động đến gia tăng nghèo đói ngày càng lớn. Một vấn đề mang tính xu hướng là: tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến giảm nghèo đói, trái lại bất bình đẳng kinh tế sẽ làm nghèo đói tăng lên. Hiện nay, đi đôi với tăng trưởng nhanh, tình trạng bất bình đẳng về kinh tế của chúng ta đang có xu hướng gia tăng. Nếu theo dõi động thái thay đổi của tăng trưởng, của tỷ lệ nghèo đói và hệ số GINI đánh giá sự biến động của bất bình đẳng kinh tế và dựa vào các số liệu đó để tính toán tác động của tăng trưởng và bất bình đẳng đến giảm nghèo qua các giai đoạn từ 1993 đến nay ở Việt Nam , chúng ta có bảng sau đây: Bảng 6: Tác động của tăng trưởng và bất bình đẳng tới giảm nghèo 1993-1998 1998-2005 1993-2005 4. Thay đổi về tỷ lệ - 0,222 - 0,075 - 0,298 nghèo chung 5. tác động của tăng - 0,244 - 0,117 - 0,347 trưởng đến giảm nghèo 6. tác động của bất bình 0,022 0,042 0,049 đẳng đến tăng nghèo đói Nguồn: Klump và Bonschab, 2006. Ghi chú: hệ số có dấu âm là tác động tốt (làm giảm nghèo) và có dấu dương là tác động xấu (làm tăng tỷ lệ nghèo). Có thể nhận thấy rằng, trong cả hai giai đoạn, tăng trưởng kinh tế đóng góp lớn vào giảm nghèo, và trái lại bất bình đẳng làm tăng nghèo đói nhưng với mức thấp hơn, do đó tỷ lệ giảm nghèo vẫn là kết quả cuối cùng. Tuy vậy, điều đáng 18
  19. quan tâm ở đây là: tác động của tăng trưởng tới giảm nghèo có xu hướng giảm trong giai đoạn sau, đồng thời tác động làm tăng đói nghèo của bất bình đẳng lại tăng lên tương ứng, do đó giảm nghèo ở giai đoạn sau thấp hơn so với giai đoạn trước. Đây là một bằng chứng về sự gia tăng bất bình đẳng, hệ quả của mô hình tăng trưởng nhanh ở Việt Nam hiện nay đang gây bất lợi cho xóa đói giảm nghèo. 3.3 Một số điểm nhấn cần thiết nhằm thực hiện tốt hơn mô hình phát triển kinh tế toàn diện ở nước ta trong thời gian tới Từ năm 2006 trở đi, Việt Nam bước vào thời kỳ kế hoạch mới, đặc biệt lại trở thành thành viên chính thức của WTO (năm 2007), triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta được dự báo bằng những con số thực sự lạc quan và có căn cứ, đáng tin cậy, nhưng đó chỉ là một vế cuả bài toán phát triển mà Việt Nam lựa chọn. Một nền kinh tế tăng trưởng nhanh không phải luôn đồng nghĩa với một nền kinh tế mạnh, nhất là khi chúng ta đang sống trong một thế giới hội nhập và cạnh tranh khốc liệt. Việc tìm ra quan điểm đúng đắn trong việc lựa chọn mô hình và chính sách tăng trưởng kết hợp với giải quyết vấn đề công bằng xã hội, phù hợp cho giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế là điều quyết định cho phép xác định rõ triển vọng của nền kinh tế, tạo sức hấp dẫn và khả năng duy trì sự phát triển dài hạn. Chúng ta có thể hướng tới những sự thay đổi sau đây (1) Thay đổi tư duy về mô hình tăng trưởng, từ đó có sự thay đổi trong cách tiếp cận hệ chính sách và giải pháp giải quyết vấn đề. Trước hết và đóng vai trò quyết định là có một tư duy đúng về mô hình tăng trưởng kinh tế cần hướng tới. Cốt lõi của tư duy này là: giải quyết vấn đề tốc độ tăng trưởng phải trên nền tảng giải quyết vấn đề chất lượng tăng trưởng. Theo đó, trong dài hạn, cần chấm dứt quan điểm phải đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh với mọi giá theo mô hình tăng trưởng nhờ khai thác chiều rộng, tăng trưởng nhờ dốc sức vào tăng khối lượng vốn đầu tư và vào khai thác tài nguyên; chuyển dần sang mô hình sang mô hình tăng trưởng dựa vào hiệu quả và bền vững, tập trung nhiều hơn, quyết liệt hơn vào mục tiêu chất lượng dài hạn. Cụ thể là, cần chú trọng nâng cao hiệu quả đầu tư, hướng vào các điểm cực tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế trên cơ sở nguyên lý phân phối nguồn lực đóng vai trò quyết định, tuân theo quy luật tự do cạnh tranh lành mạnh. Từ những tư duy về mô hình tăng trưởng kinh tế hợp lý, thực hiện đẩy mạnh cải cách thể chế, chú trọng tạo lập những cơ sở nâng cao năng lực cạnh tranh củng cố các cơ sở tăng trưỏng dài hạn. Tuy nhiên cũng cần phải xác định rõ lộ trình cho việc thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng, trước mắt, một sự kết hợp theo kiểu "lưỡng nan" trong điều kiện chúng ta đồng thời phải thực hiện của 2 nhiệm vụ tăng trưởng nhanh và tăng 19
  20. trưởng hướng về chất lượng trở nên hợp lý hơn và trong quá trình đó hướng dần sự phát triển theo đúng quy luật của nó. (2) Nâng cao hiệu quả của các chỉ tiêu tăng trưởng. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển có nhiều lợi thế về tài nguyên và nguồn lao động, tuy vậy, những dấu hiệu của lợi thế ấy cũng đang có biểu hiện giảm sút dần; mặt khác khi đã gia nhập tổ chức thương mại quốc tế, sức ép của cạnh tranh quốc tế buộc chúng ta phải quan tâm đến hiệu quả của tăng trưởng, hiệu quả của các hoạt động kinh tế, nếu không sẽ luôn luôn gặp bất lợi, chịu thua thiệt trong các mối quan hệ thương mại, và cuối cùng sẽ bị thất bại trên các đấu trường quốc tế, thậm chí trên cả chính sân nhà. Cần phải nâng cao hiệu quả tăng trưởng, chuyển hướng hoạt động của nền kinh tế theo các khía cạnh chiều sâu của sự phát triển, cụ thể là: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trình độ khoa học công nghệ, tăng cường ảnh hưởng của nhân tố TFP, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động, hướng hoạt động của nền kinh tế theo các ngành, các lĩnh vực tạo nhiều giá trị gia tăng, giảm chi phí trung gian, chủ động sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm hàng hóa có dung lượng công nghệ cao trên cơ sở khai thác triệt để lợi thế của đất nước và thực hiện đồng bộ hóa quá trình khai thác và chế biến sản phẩm. (3) Phải có tầm nhìn dài hạn trong mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Trên thực tế, để tránh nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, các nước đang phát triển bị cuốn hút vào vòng xoáy của cơn lốc tăng trưởng nhanh với hy vọng cải thiện mức sống dân cư, làm cho bộ mặt nền kinh tế nhanh khởi sắc. Chúng ta thường quan tâm đến việc đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn năm trước để rồi gồng mình lên, bằng mọi giá thực hiện cho được mục tiêu này. Nhiều nước, đã tạo được sự thần kỳ tăng trưởng trong hàng chục năm liền nhưng sau đó rơi vào thảm họa trì trệ, suy thoái kéo dài, điều đó có nghĩa là trong ngắn hạn và kể cả trung hạn tốc độ tăng trưởng có thể đạt được rất cao nhưng vãn có thể thua trong cuộc đua tranh phát triển dài hạn. Cần phải có cái nhìn dài hạn trong tăng trưởng, quan điểm này đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách tăng trưởng hướng đến các chính sách để tạo ra, duy trì và củng cố các cơ sở tăng trưởng dài hạn như yếu tố vốn nhân lực, cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, một cấu trúc kinh tế hợp lý, cân đối, không dựa trên cơ sở vay mượn. Theo thông điệp này, có thể phải chấp nhận tạm thời trong một số năm trước mắt nền kinh tế không đạt được tốc độ tăng trưởng cao như kỳ vọng vì phải dốc sức vào việc tạo lập và củng cố cơ sở tăng trưởng dài hạn, nhưng suốt cả giai đoạn dài sau đó nó nhất định đạt được mục tiêu tăng trưởng cao và bền vững. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0