PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
TS. Phan Thị Mai Hương1 - TS. Khuất Thị Thu Hiền2
Tóm tắt: Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 thì việc phát triển kỹ năng mềm cho người người lao động nói chung, cho sinh viên nói riêng
đóng vai trò quan trọng và cấp bách hiện nay. Trong khuôn khổ bài viết này, các tác giả trình bày tầm quan
trọng của kỹ năng mềm, thực trạng đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên và đề xuất một số giải pháp phát
triển kỹ năng mềm cho sinh viên nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Từ khóa: Nguồn nhân lực, kỹ năng mềm, hội nhập quốc tế
Abstract: In order to improve the quality of human resources to meet the requirements of international
integration and the 4.0 industrial revolution, the development of soft skills for workers plays an important and
urgent role. In this article, the authors present the importance of soft skills, actual soft skills training for students
and propose some solutions to develop soft skills for students to improve the quality human resources.
Keywords: Human resources; soft skills; international integration.
1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA KỸ NĂNG MỀM
1.1. Quan niệm về kỹ năng mềm
Theo Wikipedia: “Kỹ năng mềm (hay còn gọi là Kỹ năng thực hành xã hội) là thuật ngữ liên
quan đến trí tuệ xúc cảm dùng để chỉ các kỹ năng quan trọng trong cuộc sống con người như: kỹ
năng sống, giao tiếp, lãnh đạo, làm việc theo nhóm, kỹ năng quản lý thời gian, thư giãn, vượt qua
khủng hoảng, sáng tạo và đổi mới...”3
Nhà nghiên cứu N.J. Pattrick cho rằng: “Kỹ năng mềm khả năng, cách thức chúng ta
tiếp cận phản ứng với môi trường xung quanh, không phụ thuộc trình độ chuyên môn kiến
thức. Kỹ năng mềm không phải là yếu tố bẩm sinh về tính cách hay những kiến thức của sự hiểu
biết thuyết mà đó khả năng thích nghi với môi trường con người để tạo ra sự tương tác hiệu
quả trên bình diện cá nhân và cả công việc”4.
1 Email: ptmaihuong@yahoo.com, Khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Lao động - Xã hội.
2 Email: hienktt2000@yahoo.com.vn, Khoa Luật, Trường Đại học Lao động - Xã hội.
3 https://vi.wikipedia.org/wiki/K%E1%BB%B9_n%C4%83ng_m%E1%BB%81m.
4 Nancy J. Pattrick. (2008). Social skills for teenagers and adults with esperger syndrome, Jessica Kingsley Publisher.
476 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Các tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc Đinh Thị Kim Thoa cho rằng “Kỹ năng mềm thuật ngữ
dùng để chỉ các kỹ năng thuộc về trí tuệ cảm xúc như: một số nét tính cách (quản lí thời gian, thư
giãn, vượt qua khủng hoảng, sáng tạo đổi mới), sự tế nhị, kỹ năng ứng xử, thói quen, sự lạc
quan, chân thành, kỹ năng làm việc theo nhóm... Đây những yếu tố ảnh hưởng đến sự xác lập
mối quan hệ với người khác1”.
Qua các định nghĩa trên, có thể thấy, kỹ năng mềm là các kỹ năng thuộc về trí tuệ cảm xúc,
khả năng thích nghi với môi trường và con người để tạo ra sự tương tác hiệu quả, góp phần hỗ trợ
cho kiến thức và kỹ năng chuyên môn (kỹ năng cứng).
Kỹ năng mềm không thể hiện dưới dạng hữu hình có thể đo đếm được hay chứng nhận thông
qua bằng cấp, chứng chỉ như kỹ năng cứng nó được thể hiện thông qua thái độ, cách thể hiện
cũng như khả năng tư duy, nhìn nhận vấn đề của con người.
1.2. Các loại kỹ năng mềm
Kỹ năng mềm bao gồm nhiều loại, dưới đây là một số kỹ năng mềm cơ bản:
Kỹ năng tự nhận thức: Đây kỹ năng nhận thức hơn về bản thân mình, biết mình ai,
mình có mặt mạnh - mặt yếu nào, sở trường - sở đoản gì. Từ đó, cá nhân chủ động, tự tin hơn, lựa
chọn và ra ra quyết định phù hợp.
Kỹ năng xác định mục tiêu phù hợp: Việc xác định mục tiêu phù hợp giúp cá nhân biết được
mong muốn cụ thể của bản thân cố gắng hoàn thành theo kế hoạch; biết mình cần làm gì, cần
nguồn hỗ trợ nào, thực hiện như thế nào.
Kỹ năng giao tiếp. Giao tiếp tốt chính chìa khóa dẫn đến thành công trong công việc
trong cuộc sống.
Kỹ năng làm việc nhóm: Tục ngữ có câu: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên
hòn núi cao”. Điều đó có nghĩa là, khi làm việc theo nhóm thì hiệu quả công việc cao hơn nhiều
so với làm việc đơn lẻ.
Kỹ năng lắng nghe: Việc biết nghe người khác nói (chứ không phải chỉ nói cho người khác
nghe), biết giữ thái độ bình tĩnh và có ứng xử phù hợp trước những lời phản biện, phê bình rất
cần thiết, nó phản ánh thái độ cầu thị của cá nhân.
Kỹ năng giải quyết vấn đề: Trong cuộc sống, mỗi cá nhân phải đối mặt với nhiều vấn đề đòi
hỏi phải suy nghĩ và ra quyết định giải quyết phù hợp do vậy cần biết giải quyết vấn đề phát sinh
trong cuộc sống hàng ngày.
Kỹ năng làm chủ bản thân: Cuộc sống hiện đại có rất nhiều yếu tố gây căng thẳng, áp lực nên
nhân phải làm chủ được bản thân mình. Biết làm chủ bản thân, bình tĩnh để vượt qua sự căng
thẳng, “vượt chướng ngại vật” thì mới “về đích” thành công.
Kỹ năng quản lý thời gian: Quản lý thời gian khoa học để tránh lãng phí vì thời gian trôi
qua không lấy lại được. Để quản thời gian, nhân cần biết xác định mục tiêu, liệt các
việc cần làm, kế hoạch cho mỗi công việc, sắp xếp theo thứ tự ưu tiên việc làm trước
việc gì làm sau.
1 Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Đinh Thị Kim Thoa, (2010). Giáo dục giá trị và kỹ năng sống cho học sinh phổ thông.
477
PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP
Kỹ năng thuyết trình: Kỹ năng thuyết trình kỹ năng trình bày, diễn đạt vấn đề, làm cho
người khác hiểu được nội dung mình muốn diễn đạt. Thuyết trình tốt thì mới dễ thuyết phục
người khác.
1.3. Tầm quan trng của kỹ năng mềm
Đối với mỗi nhân, kỹ năng mềm vai trò đặc biệt quan trọng, “thực tế cho thấy người
thành đạt chỉ có 25% là do những kiến thức chuyên môn, 75% còn lại được quyết định bởi những
kỹ năng mềm họ được trang bị”1 (theo Wikipedia).
Các quốc gia tổ chức quốc tế đều coi kỹ năng mềm một yêu cầu không thể thiếu đối với người
lao động. Cuối thế kỷ XX, UNESCO đã đưa ra 4 trụ cột của học tập thế kỷ XXI là: “Học để biết; Học
để làm; Học để cùng chung sống; Học để làm người”. Trong 4 trụ cột này, có 3 trụ cột kỹ năng mềm.
Australian, Hội đồng Kinh doanh (The Business Council of Australia - BCA) Phòng
Thương mại và Công nghiệp (the Australian Chamber of Commerce and Industry - ACCI) với sự
bảo trợ của Bộ Giáo dục, Đào tạo Khoa học (the Department of Education, Science and Training
- DEST) Hội đồng giáo dục quốc gia (the Australian National Training Authority - ANTA) đã
xuất bản cuốn “Kỹ năng hành nghề cho tương lai” (năm 2002) trong đó khẳng định các kỹ năng
kiến thức mà người sử dụng lao động yêu cầu bắt buộc phải có. Kỹ năng hành nghề (employability
skills) các kỹ năng cần thiết không chỉ để được việc làm còn để tiến bộ trong tổ chức
thông qua việc phát huy tiềm năng nhân đóng góp vào định hướng chiến lược của tổ chức,
bao gồm 8 kỹ năng như sau: (1) Kỹ năng giao tiếp (Communication skills); (2) Kỹ năng làm việc
nhóm (Teamwork skills); (3) Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving skills); (4) Kỹ năng sáng
tạo và mạo hiểm (Initiative and enterprise skills); (5) Kỹ năng lập kế hoạch tổ chức công việc
(Planning and organising skills); (6) Kỹ năng quản bản thân (Self-management skills); (7) Kỹ
năng học tập (Learning skills); (8) Kỹ năng công nghệ (Technology skills).
Canada rất chú trọng đến việc phát triển kỹ năng cho người lao động. Bộ Phát triển Nguồn Nhân
lực và Kỹ năng Canada (Human Resources and Skills Development Canada - HRSDC) đã nghiên
cứu đưa ra danh sách các kỹ năng cần thiết đối với người lao động. Hiệp hội “Conference Board
of Canada” là một tổ chức phi lợi nhuận của Canada đã đưa ra danh sách các kỹ năng hành nghề
cho thế kỷ XXI (Employability Skills 2000+) bao gồm: (1) Kỹ năng giao tiếp (Communication);
(2) Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving); (3) Kỹ năng tư duy và hành vi tích cực (Positive
attitudes and behaviours); (4) Kỹ năng thích ứng (Adaptability); (5) Kỹ năng làm việc với con
người (Working with others); (6) Kỹ năng nghiên cứu khoa học, công nghệ toán (Science,
technology and mathematics skills).
Nước Anh cũng quan chuyên trách về phát triển kỹ năng cho người lao động đó Bộ
Kinh tế, Đổi mới Kỹ năng. Bộ này chịu trách nhiệm về các vấn đề liên quan đến việc học tập
của người lớn, một phần của giáo dục nâng cao, kỹ năng, khoa học đổi mới. quan chứng
nhận chương trình và tiêu chuẩn (Qualification and Curriculum Authority) cũng đưa ra danh sách
gồm 06 kỹ năng quan trọng.
Cục phát triển lao động WDA (Workforce Development Agency) của Singapore đã thiết lập
hệ thống các kỹ năng hành nghề ESS (Singapore Employability Skills System) gồm 10 kỹ năng.
1 https://vi.wikipedia.org/wiki/K%E1%BB%B9_n%C4%83ng_m%E1%BB%81m
478 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Bộ Lao động Mỹ (The U.S. Department of Labor) cùng Hiệp hội Đào tạo Phát triển Mỹ
(The American Society of Training and Development) đã thực hiện một cuộc nghiên cứu về các
kỹ năng bản trong công việc. Kết luận được đưa ra là có 13 kỹ năng cơ bản cần thiết để thành
công trong công việc.
Việt Nam, thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi cần
nguồn nhân lực chất lượng cao với trình độ kỹ năng làm việc thành thạo, đặc biệt kỹ năng mềm.
Chỉ thị số 6036/CT-BGDĐT ngày 29/11/2011 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về nhiệm vụ trọng tâm
của giáo dục đại học đặt ra yêu cầu: “Về đào tạo cần tăng cường giảng dạy kỹ năng mềm, đặc biệt là
kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm ngoại ngữ cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng…”. Quyết
định số 1982/QĐ-TTg ngày 18/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Khung trình độ
quốc gia Việt Nam xác định nội dung bậc trình độ đại học - Bậc 6 là: “Xác nhận trình độ đào tạo của
người học kiến thức thực tế vững chắc, kiến thức lý thuyết toàn diện, chuyên sâu về một ngành
đào tạo, kiến thức cơ bản về khoa học xã hội, chính trị và pháp luật; có kỹ năng nhận thức liên quan
đến phản biện, phân tích, tổng hợp; kỹ năng thực hành nghề nghiệp, kỹ năng giao tiếp ứng xử cần
thiết để thực hiện các nhiệm vụ phức tạp; làm việc độc lập hoặc theo nhóm trong điều kiện làm việc
thay đổi, chịu trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm với nhóm trong việc hướng dẫn, truyền bá, phổ biến
kiến thức, thuộc ngành đào tạo, giám sát người khác thực hiện nhiệm vụ”.
Như vậy, kỹ năng mềm đã được nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế quan tâm, quy định, thực
hiện. Trong cuộc sống cũng như trong công việc, trình độ học vấn và bằng cấp (kỹ năng cứng) chỉ
là điều kiện cần, kỹ năng mềm là điều kiện đủ.
2. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN HIỆN NAY
thể đánh giá thực trạng đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên thông qua chương trình đào tạo
của cơ sở giáo dục đại học, việc giảng dạy của giảng viên và chất lượng của sinh viên.
2.1. Về chương trình đào tạo của cơ sở giáo dục đại hc
Kiến thức, kỹ năng thái độ 3 mục tiêu cụ thể luôn được đề cập trong mỗi chương trình
đào tạo. Việc thực hiện đầy đủ, cân đối cả 3 mục tiêu này sẽ giúp cho sinh viên được phát triển toàn
diện, tự tin vững chắc trong cuộc sống sau này. Thời gian qua, việc đào tạo kỹ năng mềm cho sinh
viên đã được một số cơ sở giáo dục đại học quan tâm thực hiện.
Đại học Quốc gia Nội, “đào tạo kỹ năng mềm yêu cầu bắt buộc đối với sinh viên thuộc
hệ đào tạo đặc biệt (chất lượng cao, tài năng, chương trình tiên tiến, trình độ quốc tế) bắt đầu thực
hiện từ năm học 2009 - 2010. Phương thức giảng dạy học tập theo hình thức online kết hợp
với hướng dẫn trực tiếp có ít nhất 3 buổi cho mỗi khoá. Chứng chỉ kỹ năng mềm là một trong các
điều kiện để công nhận tốt nghiệp cấp bằng cho sinh viên hệ đào tạo này1”. Tất cả các đối tượng
sinh viên hệ đào tạo đặc biệt này được hỗ trợ kinh phí đào tạo kỹ năng mềm trong số 5 kỹ năng tự
chọn. Nếu sinh viên có nguyện vọng học thêm từ kỹ năng thứ 6 trở lên thì sẽ được giảm 50% kinh
phí đào tạo. Các đối tượng học sinh, sinh viên khác của Đại học Quốc gia Hà Nội không thuộc đối
tượng trên có nhu cầu học kỹ năng mềm cũng sẽ được miễn giảm 50% kinh phí.
1 http://vnu.edu.vn/ttsk/?C1654/N7868/Lan-dau-tien-dua-ky-nang-mem-vao-chuong-trinh-dao-tao-bat-buoc.htm
479
PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP
Trường Đại học Ngân hàng Tp. Hồ Chí Minh thường xuyên tổ chức các lớp kỹ năng mềm (có
cấp chứng chỉ “Kỹ năng mềm”) cho tân sinh viên. Chương trình học gồm các chuyên đề: Phương
pháp học tập đại học hiệu quả, kỹ năng duy sáng tạo, kỹ năng giao tiếp hiệu quả, kỹ năng thuyết
trình, kỹ năng xây dựng thương hiệu cá nhân, kỹ năng làm việc nhóm. Mỗi kỹ năng học 01 buổi.
Trường Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh,
Trường Đại học FPT… cũng quan tâm đào tạo kỹ năm mềm cho sinh viên.
Bên cạnh đó, nhiều sở giáo dục đại học, kỹ năng mềm mới chỉ được tích hợp vào các
môn học, đan xen vào hoạt động ngoại khóa, chuyên đề, giao lưu… chỉ mang tính hình thức
nên không thu hút được sinh viên, các học phần về kỹ năng mềm chiếm số lượng không đáng kể
trong chương trình đào tạo.
Kỹ năng mềm được sở giáo dục đại học đưa vào chương trình đào tạo đã đủ chưa, hiệu quả
ra sao, đáp ứng được mục tiêu đào tạo của nhà trường, gắn với nhu cầu hội hay không thì
phải cần có thời gian kiểm chứng.
2.2. Về việc giảng dạy của giảng viên
Trong giáo dục, sinh viên vừa “khách hàng”, vừa “sản phẩm” của sở giáo dục đại học.
đây, chất lượng “sản phẩm” phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó năng lực của “người thi
công” tức giảng viên. Việc đào tạo kỹ năng mềm không chỉ thực hiện những học phần về kỹ năng
phải kết hợp với các học phần thuyết, học phần thực hành. Vì vậy, đối với mỗi học phần,
giảng viên phải vừa trang bị kiến thức, vừa đào tạo kỹ năng cho sinh viên như: kỹ năng làm việc
nhóm, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng quản thời gian...
Muốn vậy, cần một hệ thống cũng như tiêu chí cụ thể trong việc phát triển giảng viên và đánh giá
giảng viên. Ngoài tiêu chuẩn về mặt đạo đức và chính trị, giảng viên cần có năng lực chuyên môn,
năng lực giảng dạy và năng lực nghiên cứu.
Trên thực tế, nhiều giảng viên chỉ tập trung vào việc cung cấp kiến thức chưa quan tâm
rèn luyện kỹ năng mềm cho sinh viên. Bởi lẽ, đa số giảng viên không tốt nghiệp từ các trường sư
phạm, không được trang bị đầy đủ nghiệp vụ sư phạm. Mặt khác, nhiều trường chỉ chú trọng năng
lực chuyên môn, mà chưa chú trọng phát triển đồng bộ cả ba năng lực trên. Vì vậy, bản thân giảng
viên và nhà trường thường quan tâm tới bằng cấp, chứng chỉ mà Bộ yêu cầu, ít quan tâm đến năng
lực thực sự của giảng viên.
2.3. Về chất lượng của sinh viên
Chất lượng của sinh viên chính kết quả của chương trình đào tạo việc giảng dạy của
giảng viên, giống như chất lượng sản phẩm là kết quả của khuôn mẫu do nhà sản xuất thiết kế kết
hợp với việc thi công của người thợ.
Theo một nghiên cứu của Tổ chức Lao động Quốc tế được thực hiện năm 2013, năng suất lao
động của người Việt Nam chỉ bằng 1/15 Singapore, 1/5 Malaysia 2/5 so với Thái Lan. Và đặc
biệt trong số các kỹ năng lao động, thì nhóm kỹ năng mà người lao động Việt Nam thiếu hụt nhiều
nhất là kỹ năng mềm.
Gần đây, năng suất lao động của Việt Nam tuy sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều
qua các năm, tuy nhiên, mức năng suất của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với nhiều nước