intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phẫu thuật nội soi một đường rạch điều trị nang ống mật chủ ở trẻ em

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

69
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung bài viết với mục tiêu nhằm mô tả kỹ thuật và báo cáo kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi một đường rạch trong điều trị nang ống mật chủ ở trẻ em. Nghiên cứu dựa trên các bệnh nhân được thực hiện soi một đường rạch điều trị nang ống mật chủ tại bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 9/2012 đến tháng 5/2013.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phẫu thuật nội soi một đường rạch điều trị nang ống mật chủ ở trẻ em

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> PHẪU THUẬT NỘI SOI MỘT ĐƯỜNG RẠCH  <br /> ĐIỀU TRỊ NANG ỐNG MẬT CHỦ Ở TRẺ EM <br /> Trần Ngọc Sơn*, Nguyễn Thanh Liêm*, Vũ Xuân Hoàn* <br /> <br /> TÓM TẮT <br /> Mục tiêu: Mô tả kỹ thuật và báo cáo kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi một đường rạch (SILS) trong điều <br /> trị nang ống mật chủ ở trẻ em. <br /> Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu lại các bệnh nhân được thực hiện SILS điều trị nang ống mật chủ tại <br /> bệnh viện Nhi Trung Ương từ tháng 9/2012 đến tháng 5/2013. Chúng tôi sử dụng một đường rạch rốn hình <br /> chữ Z và đặt 3 trocar 3 – 5 mm ở các chỗ khác nhau trong phạm vi đường rạch da này. Quai hỗng tràng Roux‐<br /> en‐Y được tạo ra ở bên ngoài ổ bụng qua đường rạch rốn. Cắt nang ống mật chủ và nối ống gan chung với ruột <br /> được thực hiện với các dụng cụ nội soi thẳng thông thường. <br /> Kết quả: Có 34 bệnh nhân thuộc diện nghiên cứu, với tuổi trung vị là 12 tháng (dao động 1 tháng đến 7 <br /> tuổi). Các triệu chứng lâm sàng phổ biến nhất là đau bụng (50 %), vàng da (41,2%), nôn (26,5%). Kích thước <br /> trung vị của nang ống mật chủ là 4,8 cm (dao động 2,3 cm ‐ 12,5 cm). Nang ống mật chủ được cắt thành công ở <br /> tất cả các trường hợp. Có 8 bệnh nhân (23,5%) được thực hiện tạo hình ống gan chung khi ống này đường kính <br /> nhỏ hơn 5 mm. Nối ống gan chung ‐ hỗng tràng được thực hiện ở 32 bệnh nhân, nối ống gan chung tá tràng ‐ ở <br /> 2 bệnh nhân. Một bệnh nhân (2,9%) cần phải đặt thêm 3 trocar để thực hiện miệng nối với ống mật phụ bất <br /> thường. Thời gian mổ trung vị là 200 phút (dao động 150 ‐ 450 phút). Dẫn lưu ổ bụng được đặt ở 7 bệnh nhân <br /> đầu tiên còn 27 bệnh nhân tiếp theo (79,4%) không đặt dẫn lưu. Không có biến chứng trong mổ. Sau mổ không <br /> có bệnh nhân nào bị rò miệng nối, có 1 bệnh nhân (2,9%) bị nhiễm khuẩn rốn. Tất cả các bệnh nhân được ra viện <br /> với sức khỏe tốt với thời gian nằm viện sau mổ trung bình là 5,2 ngày (dao động 4 ‐ 7 ngày). Kết quả thẩm mỹ <br /> sau mổ là rất tốt. Với thời gian theo dõi 1 ‐ 9 tháng, có 1 bệnh nhân bị viêm tắc mật do hẹp miệng nối phải phẫu <br /> thuật làm lại miệng nối. Tất cả các bệnh nhân khác đều trong tình trạng sức khỏe tốt. <br /> Kết luận: Phẫu thuật nội soi một đường rạch qua rốn dùng dụng cụ thẳng thông thường điều trị nang ống <br /> mật chủ ở trẻ em là khả thi, an toàn và có kết quả thẩm mỹ rất tốt. Kỹ thuật này là một lựa chọn tốt trong điều trị <br /> phẫu thuật nang ống mật chủ ở trẻ em ở các trung tâm phẫu thuật nội soi có nhiều kinh nghiệm. <br /> Từ khóa: Phẫu thuật nội soi nang ống mật chủ ở trẻ em. <br /> <br /> ABSTRACT <br /> SINGLE INCISION LAPAROSCOPIC SURGERY FOR CHOLEDOCHAL CYST IN CHILDREN <br /> Tran Ngoc Son, Nguyen Thanh Liem, Vu Xuan Hoan <br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 80 ‐ 84 <br /> Objectives:  The  aim  of  this  study  is  to  describe  our  techniques  and  present  our  initial  results  of  single <br /> incision laparoscopic surgery (SILS) for childhood choledochal cyst (ChC). <br /> Methods: Medical records of all children undergoing SILS for ChC at National Hospital of Pediatrics from <br /> September,  2012  to  March,  2013  were  reviewed.  Our  SILS  operations  started  with  a  z‐shaped  umbilical  skin <br /> incision and placement of three 3‐5 mm ports at separate places in the same incision site. Roux‐en ‐Y loop was <br /> created extracorporally through the umbilical incision. Excision of ChC and hepatico intestinal anastomosis were <br /> * Bệnh viện Nhi Trung Ương <br /> Tác giả liên lạc: TS. BS. Trần Ngọc Sơn <br /> <br /> Chuyên Đề Ngoại Nhi <br /> <br /> ĐT: 0462738854 <br /> <br />  Email: drtranson@yahoo.com <br /> <br /> 81<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013<br /> <br /> performed using conventional straight laparoscopic instruments.  <br /> Results:  34  patients  were  identified  with  median  age  12  months  (range:  1  month  ‐  7  years).  The  most <br /> common clinical manifestations were abdominal pain (50%), jaundice (41.2%), vomiting (26.5%). The median <br /> size  of  ChC  was  4.8  cm  (range:  2.3  cm  ‐12.5  cm).  The  ChC  was  successfully  excised  by  SILS  in  all  cases. <br /> Hepaticoplasty  was  performed  in  8  cases  (23.5%)  with  hepatic  duct  diameter  less  than  5  mm.  Hepatico‐<br /> jejunostomy  was  performed  in  32  patients  and  hepatico‐duodenostomy  in  2  patients.  Additional  3  ports  were <br /> needed  in  one  patient  for  performing  anastomosis  with  an  aberrant  duct.  The  median  operative  time  was  200 <br /> minutes (range 150 minutes to 450 minutes). Abdominal drain was used in the first 7 cases and all next 27 cases <br /> (79.4%) no drain was used. There was no intra‐operative complication and no anastomotic leakage. One patient <br /> (2.9%)  had  postoperative  umbilical  infection.  All  patients  were  discharged  in  good  health  with  a  mean <br /> postoperative  stay  of  5.2  days  (range  4‐7days).  The  postoperative  cosmesis  was  excellent.  At  follow  up  1  –  9 <br /> months,  one  patient  suffered  from  jaundice  and  cholangitis  due  to  anastomotic  stenosis  requiring  redo <br /> anastomosis. All other patients were in good health. <br /> Conclusions: SILS with conventional straight laparoscopic instruments is feasible, safe, with an excellent <br /> postoperative  cosmesis  and  can  be  a  viable  option  for  surgical  management  of  childhood  ChC  at  experienced <br /> centers.  <br /> Key words: Laparoscopic surgery for choledochal cyst in children. <br /> nhiên  ứng  dụng  SILS  trong  điều  trị  nang  ống <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ <br /> mật chủ là rất khó về mặt kỹ thuật nên cho đến <br /> Nang ống mật chủ là một trong những bệnh <br /> nay mới chỉ có một trung tâm duy nhất trên thế <br /> lý  ngoại  khoa  hay  gặp  ở  trẻ  em.  Điều  trị  nang <br /> giới  có  báo  cáo  thành  công  về  lĩnh  vực  này  từ <br /> ống  mật  chủ  kinh  điển  là  mổ  mở  cắt  toàn  bộ <br /> năm  2012(2).  Ở  Việt  Nam  cũng  chưa  có  nghiên <br /> nang và nối ống gan chung với ruột (có thể là tá <br /> cứu  nào  về  chủ  đề  này.  Do  đó  chúng  tôi  tiến <br /> tràng hoặc hỗng tràng). Năm 1995, Farrelo (Ý) là <br /> hành nghiên cứu này nhằm mô tả kỹ thuật mổ <br /> tác giả đầu tiên thực hiện phẫu thuật nội soi cắt <br /> và  báo  cáo  kết  quả  bước  đầu  trong  ứng  dụng <br /> nang  ống  mật  chủ  và  nối  ống  gan  chung  với <br /> SILS điều trị nang ống mật chủ ở trẻ em. <br /> hỗng  tràng(3).  Cho  đến  nay  phẫu  thuật  nội  soi <br /> Mục tiêu nghiên cứu <br /> thông thường với 4 trocar đặt ở các vị trí xa nhau <br /> Mô tả kỹ thuật và báo cáo kết quả bước đầu <br /> trên  thành  bụng  với  các  vết  rạch  da  riêng  biệt <br /> phẫu thuật nội soi một đường rạch (SILS) trong <br /> tương ứng đã được sử dụng thường qui điều trị <br /> điều trị nang ống mật chủ ở trẻ em. <br /> nang  ống  mật  chủ  ở  nhiều  trung  tâm  trên  thế <br /> giới trong đó có bệnh viện Nhi Trung Ương(6,5,4,1).  <br /> Với mục đích tiếp tục giảm sang chấn và có <br /> kết  quả  thẩm  mỹ  tốt  hơn  nữa,  bước  tiến  tiếp <br /> theo  của  phẫu  thuật  nội  soi  trong  những  năm <br /> gần đây là nội soi chỉ dùng một chỗ (một đường <br /> rạch da) duy nhất cho trocar thay cho nhiều chỗ <br /> như  nội  soi  thông  thường  và  như  vậy  sẽ  là  chỉ <br /> để lại một sẹo nhỏ hoặc thậm chí coi như không <br /> để lại sẹo khi vết mổ đi qua rốn(7). Phẫu thuật nội <br /> soi  một  đường  rạch  (SILS  –  single  incision <br /> laparoscopic  surgery)  đã  được  phát  triển  ứng <br /> dụng trong nhiều bệnh lý ngoại khoa ở trẻ em, <br /> đặc  biệt  là  cắt  ruột  thừa  và  cắt  túi  mật(7).  Tuy <br /> <br /> 82<br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU <br /> Hồi cứu lại tất cả  các  bệnh  nhân  được  thực <br /> hiện  SILS  điều  trị  nang  ống  mật  chủ  tại  bệnh <br /> viện Nhi Trung Ương từ tháng 9/2012 đến tháng <br /> 5/2013.  Các  dữ  liệu  được  tập  hợp  và  phân  tích <br /> bao  gồm  đặc  điểm  bệnh  nhân,  biểu  hiện  lâm <br /> sàng,  đặc  điểm  nang  ống  mật  chủ,  diễn  biến <br /> trong và sau mổ, kết quả theo dõi sau ra viện. <br /> Về  kỹ  thuật  mổ,  chúng  tôi  sử  dụng  một <br /> đường rạch rốn hình chữ Z và đặt 2 trocar 5 mm <br /> và một trocar 3 mm ở các chỗ khác nhau trong <br /> phạm vi đường rạch da này. Trong mổ các mũi <br /> khâu treo vào thành bụng được sử dụng để kéo <br /> <br /> Chuyên Đề Ngoại Nhi  <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> gan,  túi  mật  và  nang  ống  mật  chủ  lên  trên  về <br /> phía  thành  bụng  trước,  giúp  cho  việc  bộc  lộ <br /> phẫu  tích  cắt  nang.  Đầu  tiên  phẫu  tích  bộc  lộ <br /> ống cổ túi mật, cặp clip và cắt ống này, Sau đó <br /> phẫu tích nang ống mật chủ từ trước ra sau, bộc <br /> lộ và clip phần cuối của nang ống mật chủ trước <br /> khi hợp lưu với ống tụy, cắt đầu dưới nang ống <br /> mật  chủ  và  phẫu  tích  từ  dưới  lên  trên  cho  đến <br /> ống  gan  chung.  Quai  hỗng  tràng  Roux‐en‐Y <br /> được  tạo  ở  bên  ngoài  ổ  bụng  qua  đường  rạch <br /> rốn rồi đưa lại  vào  ổ  bụng  đi  qua  mạc  treo  đại <br /> tràng  ngang  tương  tự  như  phẫu  thuật  nội  soi <br /> thông  thường.  Lúc  này  cắt  nang  ống  mật  chủ <br /> phía trên ống cổ túi mật. Tiến hành nối ống gan <br /> chung  với  quai  Roux‐en‐Y  theo  kiểu  tận‐bên, <br /> khâu  vắt  một  lớp  chỉ  PDS  5.0.  Khi  đường  kính <br /> ống  gan  chung  nhỏ  dưới  5mm,  chúng  tôi  tạo <br /> hình  ống  gan  chung  để  miệng  nối  rộng  hơn <br /> bằng  cách  cắt  dọc  thành  trước  của  ống  gan <br /> chung khoảng 5‐7 mm rồi mới nối với ruột. Sau <br /> nối  xong  mới  cắt  túi  mật,  rửa  ổ  bụng,  đưa  các <br /> bệnh phẩm ra ngoài qua rốn và khâu lại da rốn. <br /> Tất cả các thao tác nội soi trong ổ bụng đều được <br /> thực  hiện  với  các  dụng  cụ  nội  soi  thẳng  và <br /> camera 300 thông thường. Ngoại trừ mấy ca đầu <br /> tiên  có  đặt  dẫn  lưu  dưới  gan  phải,  các  ca  sau <br /> chúng tôi đều không dùng dẫn lưu. <br /> <br /> Bệnh nhân thứ 2 được tạo hình ống mật này với <br /> ống  gan  chung  thành  một  miệng  nối,  vẫn  sử <br /> dụng SILS mà không cần đặt thêm trocar. Có 2 <br /> bệnh nhân khác bị dị tật kèm theo là ruột quay <br /> dở dang được phẫu thuật chữa dị tật này bằng <br /> SILS trong cùng ca mổ. <br /> <br /> KẾT QUẢ <br /> <br /> BÀN LUẬN <br /> <br /> Có 34 bệnh nhân thuộc diện nghiên cứu, 27 <br /> trẻ nữ và 7 trẻ nam, với tuổi trung vị là 12 tháng <br /> (dao động 1 tháng đến 7 tuổi). Các triệu chứng <br /> lâm sàng phổ biến nhất là đau bụng (50%), vàng <br /> da (41,2%), nôn (26,5%). Kích thước trung vị của <br /> nang  ống  mật  chủ  là  4,8  cm  (dao  động  2,3  cm‐ <br /> 12,5  cm).  Nang  ống  mật  chủ  được  cắt  thành <br /> công  ở  tất  cả  các  trường  hợp.  Có  8  bệnh  nhân <br /> (23,5%) được thực hiện tạo hình ống gan chung <br /> khi  ống  này  đường  kính  nhỏ  hơn  5  mm.  Hai <br /> bệnh nhân có ống mật phụ bất thường của gan <br /> phải  đổ  vào  ống  cổ  túi  mật.  Trong  số  2  bệnh <br /> nhân  này,  một  bệnh  nhân  (2,9%  trên  tổng  số <br /> bệnh nhân) cần phải đặt thêm 3 trocar (chuyển <br /> về  phẫu  thuật  nội  soi  thông  thường)  để  thực <br /> hiện  miệng  nối  với  ống  mật  phụ  bất  thường. <br /> <br /> Phẫu thuật nội soi thông thường với 4 trocar <br /> là một bước tiến lớn trong điều trị nang ống mật <br /> chủ,  làm  giảm  sang  chấn  cuộc  mổ,  giảm  đau <br /> hơn,  giúp  bệnh  nhân  hồi  phục  nhanh  hơn  sau <br /> mổ  và  có  kết  quả  thẩm  mỹ  tốt  hơn  hẳn  so  với <br /> mổ  mở  kinh  điển  trước  kia.  Những  báo  cáo  so <br /> sánh kết quả lâu dài cho thấy phẫu thuật nội soi <br /> thông thường cho kết quả bằng hoặc thậm chí là <br /> tốt  hơn  so  với  mổ  mở  kinh  điển(4,1).  Tuy  vậy <br /> phẫu thuật nội soi thông thường 4 trocar vẫn để <br /> lại các sẹo nhỏ nhìn thấy được ở các vị trí khác <br /> nhau trên thành bụng bệnh nhân. <br /> <br /> Chuyên Đề Ngoại Nhi <br /> <br /> Nối  ống  gan  chung  hỗng  tràng  được  thực <br /> hiện ở 32 bệnh nhân, nối ống gan chung‐tá tràng <br /> ‐  ở  2  bệnh  nhân.  Thời  gian  mổ  trung  vị  là  200 <br /> phút (dao động 150 ‐ 450 phút). Trong khi  thời <br /> gian mổ trung bình của 10 bệnh nhân đầu tiên là <br /> 290  phút,  với  24  bệnh  nhân  tiếp  theo  thời  gian <br /> này  là  198  phút.  Dẫn  lưu  ổ  bụng  được  đặt  ở  7 <br /> bệnh nhân đầu tiên còn ở 27 bệnh nhân tiếp theo <br /> (79,4%) không đặt dẫn lưu.  Không  có  một  biến <br /> chứng  trong  và  sau  mổ  nào  và  tất  cả  các  bệnh <br /> nhân được ra viện với sức khỏe tốt với thời gian <br /> nằm  viện  sau  mổ  trung  bình  là  5,2  ngày  (dao <br /> động 4 ‐ 7 ngày). Kết quả thẩm mỹ sau mổ là rất <br /> tốt. Các bệnh nhân không đặt dẫn lưu sau khi ra <br /> viện  vài  tháng  đến  khám  lại  coi  như  không  có <br /> sẹo mổ. Với thời gian theo dõi 1 ‐ 8 tháng, một <br /> bệnh  nhân  bị  viêm  tắc  mật  do  hẹp  miệng  nối <br /> phải  phẫu  thuật  làm  lại  miệng  nối.  Các  bệnh <br /> nhân còn lại đều có sức khỏe ổn định, không có <br /> triệu chứng và  xét  nghiệm  chức  năng  gan  bình <br /> thường. <br /> <br /> SILS  qua  rốn  là  một  xu  hướng  mới  trong <br /> phát  triển  của  phẫu  thuật  nội  soi,  hướng  tới <br /> phẫu thuật cho bệnh nhân mà không để lại sẹo <br /> do sử dụng rốn, vốn là sẹo tự nhiên, làm đường <br /> <br /> 83<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013<br /> <br /> vào duy nhất cho các trocar. Tuy nhiên thực hiện <br /> SILS là khó khăn hơn so với phẫu thuật nội soi <br /> thông thường vì các vấn đề như thay đổi tư thế <br /> làm việc theo hướng bất lợi hơn cho phẫu thuật <br /> viên,  sự  va  chạm  giữa  các  dụng  cụ  phẫu  thuật <br /> với nhau hoặc va chạm giữa các dụng cụ phẫu <br /> thuật với camera, các thao tác phẫu thuật là khó <br /> hơn, dụng cụ thường xuyên chéo nhau và nhiều <br /> khi  phẫu  thuật  viên  phải  làm  việc  với  môi <br /> trường  hình  học  không  gian  mới,  mất  nguyên <br /> tắc tam giác truyền thống; khả năng tiếp cận với <br /> các tạng/cơ quan cũng bị hạn chế hơn. Do đó chỉ <br /> định  ứng  dụng  của  SILS  cũng  hạn  chế  hơn  so <br /> với phẫu thuật nội soi thông thường, chủ yếu là <br /> các  phẫu  thuật  tương  đối  đơn  giản  như  cắt  túi <br /> mật và cắt ruột thừa(7). <br /> Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cùng  với  nghiên <br /> cứu  của  Diao  M(2)  đã  cho  thấy  SILS  có  thể  áp <br /> dụng an toàn và hiệu quả trong các phẫu thuật <br /> phức tạp có độ khó cao như nang ống mật chủ ở <br /> trẻ  em.  Tỷ  lệ  chuyển  mổ  nội  soi  thông  thường <br /> trong  nghiên  cứu  này  là  2,9%.  Chỉ  có  1  bệnh <br /> nhân  (2,9%)  bị  biến  chứng  hẹp  miệng  nối  sau <br /> mổ. Cả 2 trường hợp này đều xảy ra ở trong thời <br /> gian  chúng  tôi  mới  bắt  đầu  triển  khai  SILS. <br /> Chúng tôi chia sẻ quan điểm với Li L rằng thực <br /> hiện  SILS  điều  trị  nang  ống  mật  chủ  đòi  hỏi <br /> phẫu  thuật  viên  phải  có  kinh  nghiệm  và  thuần <br /> thục  trong  phẫu  thuật  nội  soi  thông  thường(2). <br /> Trong SILS cắt nang ống mật chủ, chúng tôi đã <br /> sử  dụng  các  mũi  khâu  treo  nang  ống  mật  chủ <br /> vào thành bụng trước, giúp bộc lộ chỗ phẫu tích <br /> giữa nang ống mật chủ và tá tràng, tụy. Các mũi <br /> khâu treo này có vai trò thay thế cho trocar thứ 4 <br /> của  phẫu  thuật  nội  soi  thông  thường.  Kinh <br /> nghiệm  của  chúng  tôi  cho  thấy  khâu  nối  ống <br /> gan chung với ruột trong SILS là khó khăn nhất, <br /> do  kìm  kẹp  kim  nằm  gần  như  vuông  góc  với <br /> mép  khâu.  Thêm  nữa  tạo  nút  buộc  chỉ  trong <br /> SILS  cũng  khó  khăn  hơn  nhiều  so  với  phẫu <br /> thuật nội soi thông thường. Tuy vậy các thao tác <br /> này  sẽ  dần  quen  với  phẫu  thuật  viên.  Kết  quả <br /> của chúng tôi cho thấy với các phẫu thuật viên <br /> đã  có  kinh  nghiệm  trong  phẫu  thuật  nội  soi <br /> thông thường điều trị nang ống mật chủ, SILS có <br /> <br /> 84<br /> <br /> thể  thực  hiện  được  tương  đối  nhanh  (với  thời <br /> gian  mổ  tương  đương  với  phẫu  thuật  nội  soi <br /> thông  thường  4  trocar)  chỉ  sau  khoảng  10  ca. <br /> Không  những  thế,  phẫu  thuật  viên  vẫn  có  thể <br /> dùng SILS thực hiện tạo hình miệng nối ống gan <br /> chung  khi  có  các  bất  thường  đường  mật,  hoặc <br /> chữa dị tật ruột quay dở dang kèm theo như đã <br /> thấy trong loạt bệnh nhân của nghiên cứu này. <br /> SILS thường đòi hỏi phải có port đặc biệt và <br /> một  số  dụng  cụ  chuyên  dụng  bẻ  cong  hoặc  có <br /> khớp  uốn  cong  được  khá  đắt  tiền.  Nghiên  cứu <br /> của  chúng  tôi  đã  sử  dụng  hoàn  toàn  các  trocar <br /> và  dụng  cụ  nội  soi  thông  thường  nên  có  hiệu <br /> quả  kinh  tế,  không  gây  tốn  kém  thêm  so  với <br /> phẫu thuật nội soi thông thường. Tuy vậy chúng <br /> tôi cũng thấy rằng khi không dùng port chuyên <br /> dụng  sẽ  có  nguy  cơ  rò  khí  qua  chân  trocar  cao <br /> hơn, mất thời gian hơn khi đặt và cố định trocar, <br /> nhất là khi phải đưa ruột ra ngoài tạo quai Roux‐<br /> en‐Y, và có thể có nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ <br /> cao  hơn.  Một  bệnh  nhân  trong  nghiên  cứu  này <br /> đã  bị  nhiễm  trùng  rốn  ở  mức  độ  nhẹ.  Mặc  dù <br /> vậy,  kết  quả  thẩm  mỹ  ở  cả  bệnh  nhân  này  sau <br /> đó cũng vẫn tốt vì bản thân rốn vốn là một sẹo <br /> tự nhiên của cơ thể. <br /> <br /> KẾT LUẬN <br /> SILS  với  dụng  cụ  phẫu  thuật  nội  soi  thông <br /> thường  có  thể  thực  hiện  được  an  toàn  và  hiệu <br /> quả với kết quả thẩm mỹ tốt hơn phẫu thuật nội <br /> soi  thông  thường  trong  điều  trị  nang  ống  mật <br /> chủ ở các trung tâm có kinh nghiệm. SILS có thể <br /> sẽ trở thành lựa chọn mới qui chuẩn trong phẫu <br /> thuật nội soi điều trị nang ống mật chủ ở trẻ em. <br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO <br /> 1.<br /> <br /> 2.<br /> <br /> 3.<br /> <br /> Diao  M,  Li  L,  Cheng  W  (2011).  Laparoscopic  versus  Open <br /> Roux‐en‐Y  hepatojejunostomy  for  children  with  choledochal <br /> cysts: intermediate‐term follow‐up results. Surg Endosc, 25(5), <br /> pp 1567‐1573.  <br /> Diao  M,  Li  L,  Cheng  W  (2012).  Single‐incision  laparoscopic <br /> Roux‐en‐Y  hepaticojejunostomy  using  conventional <br /> instruments  for  children  with  choledochal  cysts.  Surg <br /> Endosc,26(6):pp.1784‐1790.  <br /> Farello  GA,  Cerofolini  A,  Rebonato  M,  Bergamaschi  G, <br /> Ferrari  C,  Chiappetta  A  (1995).  Congenital  choledochal  cyst: <br /> video‐guided  laparoscopic  treatment.  Surg  Laparosc <br /> Endosc,5(5): pp 354‐358. <br /> <br /> Chuyên Đề Ngoại Nhi  <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 <br /> 4.<br /> <br /> 5.<br /> <br /> 6.<br /> <br /> Liem  NT,  Pham  HD,  Vu  HM  (2011).  Is  the  laparoscopic <br /> operation  as  safe  as  open  operation  for  choledochal  cyst  in <br /> children? J Laparoendosc Adv Surg Tech A,21(4): pp 367‐370. <br /> Liem NT, Son TN, Hoan MV (2012). Early and intermediate <br /> outcomes  of  laparoscopic  surgery  for  choledochal  cyst  with <br /> 400 patients. J Laparoendosc Adv Surg Tech A.22(6): pp 599‐<br /> 603. <br /> Liem NT, Son TN (2010). Laparoscopic repair for choledochal <br /> cyst: lessons learned from 190 cases. J Pediatr Surg,45(3): pp <br /> 540‐544. <br />  <br /> <br /> Chuyên Đề Ngoại Nhi <br /> <br /> 7.<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Saldaña  LJ,  Targarona  EM  (2013).  Single‐Incision  Pediatric <br /> Endosurgery:A Systematic Review. J Laparoendosc Adv Surg <br /> Tech A, 6. 23(5): pp 467‐80. <br /> <br />  <br /> Ngày nhận bài  <br /> <br />  <br /> <br />  <br /> <br /> 01/07/2013. <br /> <br /> Ngày phản biện nhận xét bài báo <br /> <br /> 11/07/2013. <br /> <br /> Ngày bài báo được đăng: <br /> <br /> 15–09‐2013 <br /> <br />  <br /> <br /> 85<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2