intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phẫu thuật nội soi xuyên đuôi vách ngăn vào xoang bướm, tuyến yên

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

45
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu với mục tiêu nhằm đánh giá tính an toàn và hiệu quả tiện lợi của phẫu thuật nội soi xuyên đuôi vách ngăn vào xoang bướm để lấy bệnh lý trong xoang bướm, tuyến yên. Nghiên cứu thực hiện tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ tháng 08/2010 đến tháng 08/2011.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phẫu thuật nội soi xuyên đuôi vách ngăn vào xoang bướm, tuyến yên

Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br /> <br /> PHẪU THUẬT NỘI SOI XUYÊN ĐUÔI VÁCH NGĂN<br /> VÀO XOANG BƯỚM, TUYẾN YÊN<br /> Trần Đình Khả*, Trần Việt Hồng*, Trần Thị Bích Liên**<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu: Đánh giá tính an toàn và hiệu quả tiện lợi của phẫu thuật nội soi (PTNS) xuyên đuôi vách ngăn<br /> vào xoang bướm để lấy bệnh lý trong xoang bướm (XB), tuyến yên (TY).<br /> Phương pháp: Mô tả có can thiệp, thực hiện tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ tháng 08/2010 đến<br /> tháng 08/2011.<br /> Kết quả: Có 22 bệnh nhân (13 nữ, 9 nam), tuổi trung bình 44 - 45 (thay đổi từ 20 đến 78), 15 ca bệnh<br /> xoang bướm, 7 ca u tuyến yên. Thời gian phẫu thuật 45-60 phút (bệnh XB), 100-120 phút (u TY). Không cần<br /> nhét merocel cầm máu. Thời gian nằm viện hậu phẫu 3-5 ngày (XB), 8-10 ngày (TY). Không có biến chứng về<br /> mạch máu, mắt, thần kinh, não. Quá trình lành niêm mạc lỗ thông xoang từ tuần thứ 2 đến tuần thứ 6, không có<br /> ca nào chít hẹp hoàn toàn lỗ mổ thông XB.<br /> Kết luận: PTNS xuyên đuôi vách ngăn vào xoang bướm là một kỹ thuật dễ dàng, an toàn, và tiện lợi để lấy<br /> bệnh tích xoang bướm, tuyến yên.<br /> Từ khóa và viết tắt : Xoang bướm (XB), tuyến yên (TY), phẫu thuật nội soi (PTNS).<br /> <br /> ABSTRACT<br /> ENDOSCOPIC TRANS-CAUDAL SEPTAL SPHENOIDOTOMY APPROACH TO THE SPHENOID<br /> AND PITUITARY<br /> Tran Dinh Kha, Tran Viet Hong, Tran Thi Bich Lien<br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 156 - 162<br /> Objective: to determine the safety, effectiveness and convenience of the endoscopic trans-caudal septal<br /> sphenoidotomy approach to the sphenoid and pituitary.<br /> Design: A methodological survey, at Nhan Dan Gia Dinh Hospital from August 2010 to August 2011<br /> Results: 22 patients (13 females, 9 males), average age is 44 - 45 (varies from 20 to 78), 15 cases of sphenoid<br /> disease, 7 cases of pituitary tumor. Surgical time: 45-60 minutes for sphenoid disease, 100-120 min for pituitary<br /> tumor. No need to insert merocel for bleeding control. Length of postoperative hospital stay: 3-5 days for sphenoid<br /> disease, 8-10 days for pituitary tumor. No complication of blood vessel, eye, nerve, brain... The healing process of<br /> sinus ostium’s mucosa is from the 2nd week to the 6th. No case of completely obstructed ostium.<br /> Conclusions: The endoscopic trans-caudal septal sphenoidotomy is a easy, safe, and convenient technique to<br /> approach to the sphenoid, pituitary lesions.<br /> Keywords and abbreviations: Sphenoid sinus ( XB), pitutary (TY), Endoscopic surgery (PTNS).<br /> nằm sâu trong sọ, xung quanh có nhiều cơ<br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> quan quan trọng như thần kinh thị, động<br /> Bệnh lý xoang bướm (XB), tuyến yên (TY)<br /> mạch cảnh trong, TY, đáy sọ...Những năm<br /> khó chẩn đoán và khó phẫu thuật vì chúng<br /> * Khoa Tai Mũi Họng - Bệnh viện Nhân Dân Gia Định ** Đại Học Y Dược Tp Hồ Chí Minh<br /> Tác giả liên lạc: ThS BS. Trần Đình Khả, ĐT: 0903375370<br /> <br /> 156<br /> <br /> Email: khay1996@yahoo.com<br /> <br /> Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br /> gần nay, do có nhiều ưu điểm, phẫu thuật nội<br /> soi (PTNS) được nhiều tác giả ứng dụng để mở<br /> đường vào XB – TY. Chúng tôi lựa chọn phát<br /> triển ứng dụng kỹ thuật PTNS xuyên đuôi vách<br /> ngăn vào XB - TY để đánh giá tính an toàn, hiệu<br /> quả tiện lợi của phương pháp này trong điều trị<br /> bệnh lý XB - TY, đồng thời khảo sát sự thông<br /> thoáng của lỗ mở XB sau phẫu thuật.<br /> <br /> PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> Nghiên cứu mô tả có can thiệp, thực hiện tại<br /> bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ tháng 8/20011<br />  08/2012. Đối tượng là những bệnh nhân ≥ 18<br /> tuổi, bị viêm XB hoặc u TY.<br /> <br /> Phương pháp phẫu thuật<br /> Tách cuốn dưới, cuốn giữa ra ngoài. Tiếp<br /> cận, mở rộng lỗ thông XB theo hướng xuống<br /> dưới, vào trong. Rạch niêm mạc đuôi vách ngăn,<br /> bóc tách, đục bỏ một phần nhỏ xương đuôi vách<br /> ngăn, gặm bỏ phần mũi tàu XB, hướng về lỗ<br /> thông xoang. Rìa lỗ thông được bấm gọn bằng<br /> microdebrider. Lấy bệnh lý trong xoang. Nếu<br /> cần thiết, lấy bỏ vách ngăn xoang, hợp nhất 2<br /> xoang. Nếu vào hố yên, phẫu thuật viên Ngoại<br /> thần kinh sẽ đục trần xoang, tiếp cận hố yên.<br /> Sau mổ, bệnh nhân được điều trị nội khoa, chăm<br /> sóc, đánh giá định kỳ.<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> 1 ca (4,55%), kén khí cuốn giữa: 2 ca (9,09%), gai<br /> vách ngăn: 4 ca (18,18%).<br /> <br /> CT-Scan<br /> Sự thông bào<br /> XB kích thước lớn: 14 ca (41,18%), trung<br /> bình: 15 ca (44,12%), nhỏ: 5ca (14,71%).<br /> Hình ảnh lòng XB<br /> Sáng hoàn toàn: 4 ca (18,18%).<br /> Mờ toàn bộ: 10 ca (45,45%), mờ một phần: 8<br /> ca (36,36%) (viêm XB, polyp).<br /> Đám vôi hóa: 4 ca (18,18%) (nấm XB).<br /> Có khuyết xương: 3 ca (13,64%) (1 ca u TY tái<br /> phát sau phẫu thuật và xạ trị, 1 ca XB xơ cứng, 1<br /> ca viêm XB / tiểu đường.<br /> <br /> Các mốc giải phẫu<br /> XB có 1 vách liên xoang chính: 13 ca<br /> (59,09%), 1 vách chính + 1vách phụ: 9 ca<br /> (40,91%). Vách liên xoang bám vào ống động<br /> mạch cảnh trong: 4 ca (18,18%).<br /> Lồi động mạch cảnh trong vào trong lòng<br /> XB: 8 ca (36,36%). Lồi ống thần kinh thị giác vào<br /> trong lòng XB: 9 ca (40,91%), Khuyết xương ống<br /> thần kinh thị giác: 3 ca (13,64%). Có 1 ca ống<br /> thần kinh thị giác nằm hẳn trong lòng tế bào<br /> sàng Onodi, đi ngang qua thành ngoài XB.<br /> <br /> KẾT QUẢ<br /> <br /> Đánh giá trong lúc mổ<br /> <br /> Từ tháng 8/2010  8/2011, tiến thành phẫu<br /> thuật cho 22 bệnh nhân (nam: 9, nữ: 13), từ 78<br /> - 20 tuổi, trung bình là 44 - 45 tuổi, 15 ca bệnh<br /> XB (3 ca viêm xoang đơn thuần, 8 ca viêm đa<br /> xoang, 4 ca nấm), 7 ca u TY. Triệu chứng nổi<br /> bật trong bệnh XB: nhức đầu, nghẹt mũi, khạc<br /> đàm, trong u TY là rối loạn nội tiết (Basedow,<br /> suy yên, vô kinh) hoặc đấu hiệu thần kinh<br /> (đau đầu, mờ mắt).<br /> <br /> Bệnh tích trong lòng XB ở những bệnh nhân bị<br /> viêm XB<br /> Phù nề niêm mạc: 9 ca (60,00%), nhầy mủ: 9<br /> ca (60,00%), mủ đặc lẫn những khối nâu xanh,<br /> đen: 4 ca (26,67%).<br /> <br /> Tình trạng lỗ thông xoang<br /> Bít tắt hoàn toàn:13 ca (59,09%), bít tắt một<br /> phần: 8 ca (36,36%), không thấy lỗ thông: 1 ca<br /> (4,55%).<br /> <br /> Bệnh phối hợp<br /> Polyp khe trên: 1 ca (4,55%), polyp khe giữa:<br /> <br /> Tai Mũi Họng<br /> <br /> Những phẫu thuật phối hợp<br /> Cắt gai vách ngăn: 4 ca (18.18%), cắt concha<br /> bullosa cuốn giữa: 2 ca (9,09%), cắt cuốn trên: 3<br /> ca (13,64%), mở xoang hàm: 7 ca 9 (31,82%), mở<br /> xoang sàng trước và sau: 7 ca (31,82%).<br /> Cầm máu<br /> Tất cả các bệnh nhân đều không cần cầm<br /> máu sau mổ thông XB. Mổ u tuyến yên cần cầm<br /> máu ở vị trí mở vào trần XB – màng cứng bằng<br /> đốt điện và gelfoam.<br /> <br /> 157<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br /> <br /> Thời gian phẫu thuật<br /> Bệnh lý TY: 100-120 phút; bệnh lý XB 2 bên<br /> hoặc viêm đa xoang: 80-90 phút, bệnh lý XB<br /> đơn thuần 1 bên: 45-60 phút.<br /> <br /> Sau mổ 1 tuần<br /> <br /> có thể dùng ống soi 4mm để đưa qua lỗ thông,<br /> quan sát vào trong lòng XB dễ dàng. Có 1 bệnh<br /> nhân có lỗ thông co nhỏ lại nhiều, làm quan sát<br /> lòng xoang bị hạn chế. Không có ca nào lỗ thông<br /> bị tắt hoàn toàn.<br /> <br /> Sau mổ 4 tuần<br /> <br /> Hình 2: Lỗ thông XB bên (P) và hình ảnh lòng XB<br /> sau mổ u TY 5 tháng.<br /> <br /> BÀN LUẬN<br /> Về tính an toàn của phẫu thuật<br /> <br /> Lỗ thông và lòng xoang sau mổ 9 tháng<br /> <br /> CT-Scan trước và sau mổ 9 tháng<br /> <br /> Hình 1: Hình ảnh lỗ thông và niêm mạc XB sau mổ ở<br /> bệnh nhân nấm XB (P).<br /> <br /> Thời gian nằm viện sau phẫu thuật<br /> Bệnh lý XB: 3-5 ngày, bệnh lý TY: 8-10 ngày.<br /> Có 1 ca tử vong vì bệnh nội khoa, không đáp<br /> ứng điều trị.<br /> Biến chứng<br /> Không có biến chứng về mạch máu, mắt,<br /> thần kinh, não, màng não, chít hẹp lỗ mỗ<br /> thông XB. Có 1 ca dính cuốn trên – vách ngăn.<br /> Lỗ thông và niêm mạc xoang bướm (Hình 1),<br /> (Hình 2)<br /> Quá trình lành niêm mạc lỗ thông xoang từ<br /> tuần thứ 2 đến tuần thứ 6. Sau 6 tuần, hầu hết lỗ<br /> mở XB có co nhỏ hơn so với lúc mổ nhưng đều<br /> <br /> 158<br /> <br /> CT-Scan<br /> Theo Mosher, phẫu thuật XB là một trong<br /> những phẫu thuật nguy hiểm và gây mù<br /> nhiều nhất(14). Những biến chứng có thể là tổn<br /> thương động mạch bướm khẩu cái, động<br /> mạch cảnh trong - xoang hang, giao thoa ống thần kinh thị giác, chảy dịch não tủy....<br /> Do đó, cần khảo sát kỹ CT-Scan trước mổ để<br /> nắm vững cấu trúc giải phẫu.<br /> Vách liên xoang<br /> Tình trạng vách ngăn XB bám vào ống động<br /> mạch cảnh trong hoặc ống thần kinh thị khá phổ<br /> biến, tỉ lệ đính vào động mạch cảnh trong theo<br /> Nguyễn Hữu Dũng(14) : 12%, chúng tôi: 18,18%,<br /> Sethi: 40%... Sethi thấy 7% vách liên xoang đính<br /> vào lồi thần kinh thị. Vì vậy, cần phải thận trọng<br /> khi lấy vách liên xoang.<br /> Sự bộc lộ các cấu trúc giải phẫu<br /> XB thông khí quá mức làm các cấu trúc quan<br /> trọng lồi vào lòng xoang, làm tăng nguy cơ khi<br /> phẫu thuật. Tỉ lệ lồi ống động mạch cảnh trong<br /> và ống thần kinh thị lần lượt theo Van Alyea:<br /> 65% - 40%, Lang: 85,7% - 19%, Nguyễn H. Dũng:<br /> 67% - 29%(14), chúng tôi: 36,36% - 40,91%. Tỉ lệ<br /> động mạch cảnh trong – thần kinh thị giác bộc<br /> lộ trong XB do không có vỏ xương bảo vệ theo<br /> Kenedy: 25% - ?%, Fujii: 8% - 4%, Sethi: 7% - 3%,<br /> <br /> Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br /> Nguyễn Hữu Dũng ?- 5%(14), Sillers(18): ?- 10%.<br /> Trong nghiên cứu này, có 3/22 ca (13,64%) có<br /> khuyết xương ống thần kinh thị. Những trường<br /> hợp này, khi phẫu thuật phải hết sức thận trọng,<br /> nhất là khi niêm mạc phù nề, bệnh tích nhiều,<br /> các mốc giải phẫu bị che lấp. Theo kinh nghiệm<br /> Nguyễn Hữu Dũng(14): trường hợp động mạch<br /> cảnh trong bị bộc lộ, niêm mạc thành ngoài XB<br /> hoặc khối bệnh tích sẽ đập theo nhịp mạch.<br /> <br /> Tính an toàn của phẫu thuật<br /> Stammberger(17) nhận xét: “việc định hướng<br /> vùng sàng sau và XB gặp nhiều khó khăn hơn”.<br /> Đã có nhiều đường phẫu thuật mở vào XB,<br /> nhưng chưa có kỹ thuật nào được là an toàn<br /> tuyệt đối. Theo Parsons(17), có 2 cạm bẫy khi<br /> phẫu thuật viên nổ lực mở thành trước XB: (1)<br /> phẫu thuật viên đang tiếp cận thành sau của XB;<br /> (2) thao tác đưa dụng cụ vào lỗ thông xoang có<br /> hướng đi từ trước ra sau, đây là động tác đẩy và<br /> có thể làm tổn thương những cấu trúc giải phẫu<br /> nằm trực tiếp ở hướng này.<br /> Các cấu trúc giải phẫu ở các thành XB thay<br /> đổi rất đa dạng. Động mạch cảnh trong, thần<br /> kinh thị và các cấu trúc khác được bảo vệ<br /> mỏng manh. PTNS xuyên đuôi vách ngăn vào<br /> XB – hố yên có ưu điểm là tiếp cận theo<br /> đường giữa, hạn chế tối đa sự tổn thương các<br /> cấu trúc quan trọng này.<br /> <br /> Về tính hiệu quả tiện lợi trong bệnh lý<br /> xoang bướm – tuyến yên<br /> Dễ dàng mở rộng lỗ thông xoang<br /> Bước quan trọng nhất là xác định lỗ thông<br /> xoang. Nếu lỗ thông chưa bị bít tắt hoàn toàn, có<br /> thể tiếp cận dễ dàng. 75% lỗ thông XB trong<br /> nghiên cứu của Nguyễn Hữu Dũng(14) bị bít tắc<br /> hoàn toàn gây khó khăn cho việc tìm lỗ thông<br /> xoang. Đầu tiên chúng tôi tìm lỗ thông tự nhiên<br /> của XB, mở rộng lỗ thông một phần; sau đó, đục<br /> lấy xương đuôi vách ngăn, tiếp tục mở rộng lỗ<br /> thông xoang đến mức đạt yêu cầu. Khi cần mở<br /> lỗ thông 2 bên, chúng tôi lựa chọn xén đuôi<br /> vách ngăn ở bên có ngách sàng bướm rộng, để<br /> dễ tiếp cận lỗ thông xoang tự nhiên, sau khi lấy<br /> xương đuôi vách ngăn, việc tiếp cận lỗ thông<br /> <br /> Tai Mũi Họng<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> xoang đối bên trở nên dễ dàng hơn. Một số tác<br /> giả thực hiện một số can thiệp khác để dễ tiếp<br /> cận lỗ thông xoang như cắt cuốn mũi trên<br /> (Ralph Metson(11), Parsons(17)), cắt cuốn giữa<br /> (Stankiewicz(19), Ta-Jen Lee(9), Sillers(18)…). Theo<br /> Sethi, Wigan(14), 77% trường hợp không cần phải<br /> cắt bỏ cuốn giữa, chỉ cần bẻ ra ngoài. PTNS chỉ<br /> mở rộng lỗ thông xoang tự nhiên can thiệp nhẹ<br /> nhàng hơn, nhưng nhiều trường hợp rất khó<br /> tiếp cận. Theo Ta-Jen Lee(9), khi XB xơ cứng (dựa<br /> vào CT-Scan), phẫu thuật viên rất khó mở rộng<br /> lỗ thông tự nhiên.<br /> <br /> Phẫu thuật dễ dàng, nhanh chóng, thẩm mỹ và<br /> an toàn, có tính ứng dụng rộng<br /> Trong các kỹ thuật vào XB–TY, theo<br /> Katzenmeyer(7): tiếp cận xuyên vách ngăn là một<br /> phương pháp dễ dàng, nhanh chóng, thẩm mỹ<br /> và an toàn.<br /> Với kỹ thuật mở XB qua sàng sau<br /> Al-Nashar(1) cho rằng nhược điểm lớn nhất<br /> là phẫu thuật theo đường chéo, nguy cơ tổn<br /> thương các cơ quan ở thành ngoài XB. Theo<br /> Mosher, Metson(11), 10% trường hợp có nhẫm lẫn<br /> tế bào Onodi với XB. Kevin và Stankiewicz (19), (14)<br /> cho rằng việc xác định tế bào sàng Onodi sẽ khó<br /> khăn khi niêm mạc phù nề, thoái hóa..<br /> So với các phương pháp tiếp cận không xuyên đuôi<br /> vách ngăn<br /> PTNS xuyên đuôi vách ngăn có ưu điểm là<br /> định hướng theo đường giữa, giúp phẫu thuật<br /> viên định hướng dễ dàng, hạn chế rủi ro do<br /> nhầm lẫn hoặc làm chấn thương thành ngoài<br /> XB... Nên áp dụng kỹ thuật này trong trường<br /> hợp viêm XB hai bên, u TY. Trường hợp bệnh<br /> XB đơn thuần một bên, nó cũng có rất nhiều ưu<br /> điểm trong trường hợp: cần mở rộng lỗ thông<br /> xoang để lấy sạch bệnh tích như (nấm; niêm mạc<br /> xoang phù nề nhiều..), hốc mũi chật hẹp (quá<br /> phát cuốn mũi, mào – gai vách ngăn, ngách<br /> sàng bướm hẹp…), hoặc có khó khăn về giải<br /> phẫu XB (XB quá nhỏ, vách liên xoang vẹo lệch<br /> hẳn 1 bên, khuyết xương thành xoang, không<br /> xác định được lỗ thông tự nhiên, XB xơ cứng),<br /> <br /> 159<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br /> <br /> những bệnh nhân có nguy cơ tái phát cao cần<br /> hạn chế sẹo hẹp sau mổ.<br /> <br /> Ưu điểm PTNS trong bệnh lý tuyến yên<br /> Trước đây, kính hiển vi (KHV) phẫu thuật<br /> vốn là phương pháp chuẩn kinh điển với đường<br /> vào ở rãnh lợi môi trên, tránh tai biến về sọ não<br /> nhưng có nhiều di chứng, theo Ciric(4), thường<br /> gặp nhất là thủng vách ngăn (>40). Và Theo<br /> Gandhi(4), nhược điểm của kính hiển vi là tầm<br /> nhìn bị giới hạn theo hướng thẳng và hẹp, vì<br /> vậy nhiều phẫu thuật viên dùng nội soi để bổ<br /> sung cho kính hiển vi để cải thiện tầm nhìn.<br /> Ngày nay, nhiều phẫu thuật viên đã hoàn thiện<br /> phẫu thuật lấy u TY qua nội soi mà không cần<br /> sử dụng kính hiển vi. Bên cạnh yếu tố thẩm mỹ,<br /> với ứng dụng từ PTNS XB, việc tiếp cận TY trở<br /> nên dễ dàng hơn. Theo Vrionis(20), nội soi cho<br /> phép quan sát đến những ngóc ngách khó khăn<br /> kể cả những góc mù dưới kính hiểu vi.<br /> Gendeh(5), Gandhi(4) nhận xét: PTNS có lợi thế<br /> đặc biệt trong trường hợp cần lấy những u TY<br /> tái phát hoặc còn sót lại.<br /> So với những đường mổ nội soi đã có, PTNS<br /> xuyên XB là phẫu thuật có nhiều ưu điểm, giúp<br /> rút ngắn thời gian phẫu thuật. Theo<br /> Couldwell(2): PTNS xuyên XB vào hố yên là một<br /> bước tiến lớn, xâm lấn tối thiểu, giảm thiểu tỉ lệ<br /> tái phát . Có tác giả như Kennedy thích sử dụng<br /> đường xuyên xoang sàng mở vào XB rồi đến TY.<br /> Một số phẫu thuật viên chỉ mở rộng lỗ thông tự<br /> nhiên như Nguyễn Hữu Dũng(15). PTNS xuyên<br /> đuôi vách ngăn vào XB với việc lấy hợp nhất 2<br /> xoang, tạo điều kiện cho phẫu thuật viên tiếp<br /> cận đường giữa vào hố yên dễ dàng, có thể thao<br /> tác ở cả 2 XB cùng một lúc. Chính vì vậy, tuy<br /> tiếp cận bằng phẫu thuật mở rộng lỗ thông tự<br /> nhiên XB nhưng một số trường hợp khó khăn,<br /> tác giả Nguyễn Hữu Dũng cũng phải lấy đi<br /> vách liên xoang(15). Khối u TY có một số đặc<br /> điểm rất thích hợp để lựa chọn cách tiếp cận<br /> này. Thứ nhất, hầu hết các khối u TY nằm ở vị<br /> trí đường giữa(5), nên PTNS vào XB xuyên đuôi<br /> vách ngăn là cách tiếp cập khối u trực tiếp. Thứ<br /> hai, khối u TY có thể rất lớn hoặc khả năng tái<br /> <br /> 160<br /> <br /> phát cao, vì vậy, kỹ thuật mổ với hạn chế chít<br /> hẹp lỗ thông sau mổ, là một cách chuẩn bị cho<br /> phẫu thuật lần sau.<br /> <br /> Giảm thiểu biến chứng và hậu phẫu nhẹ nhàng<br /> Theo Nguyễn Hữu Dũng(14), phẫu thuật XB<br /> đơn thuần chảy máu trong khi mổ và sau mổ rất<br /> ít, khoảng 40% trường hợp polyp cần nhét<br /> meche. Khi cần mở lớn lỗ thông, phẫu thuật<br /> viên thường phải mở xuống dưới vào trong và<br /> dễ làm tổn thương nhánh của động mạch bướm<br /> khẩu cái chạy ngang qua vùng ngách sàng<br /> bướm. Kỹ thuật mở rộng lỗ thông xuyên đuôi<br /> vách ngăn, với ưu điểm mở vào trong và không<br /> cần phải mở rộng nhiều xuống dưới, phẫu thuật<br /> viên có thể hạn chế làm tổn thương nhánh mạch<br /> máu này. Chúng tôi không cần nhét merocel<br /> cầm máu; sau mổ, bệnh nhân vẫn thở mũi dễ<br /> dàng.<br /> Biến chứng trong phẫu thuật u TY có thể<br /> bao gồm những biến chứng trong phẫu thuật<br /> mũi xoang và cả phẫu thuật lấy u TY. Với phẫu<br /> thuật viên TMH, khi lấy vách liên XB, phải hết<br /> sức thận trọng vì có nhiều trường hợp vách liên<br /> xoang bám vào lồi ống động mạch cảnh trong.<br /> So với các phương pháp khác, Netea-Maier(12)<br /> cho rằng PTNS xuyên XB vào hố yên đã giảm<br /> thiểu tối đa biến chứng và sự khó chịu cho bệnh<br /> nhân, giúp rút ngắn thời gian nằm viện.<br /> <br /> Về sự thông thoáng của lỗ mở xoang bướm<br /> sau phẫu thuật<br /> Vấn đề mở rộng lỗ thông xoang<br /> Theo Metson(11), Sang-Hoon Chun(3): nên tạo<br /> lỗ thông có đường kính 5-10mm. Wigan mở<br /> rộng 10mm; Guerrier, Righini mở lỗ thông đủ<br /> lớn sao cho có thể đưa được ống nội soi 4mm và<br /> một kìm blakesley vào trong lòng xoang(14). Tác<br /> giả Nguyễn Hữu Dũng mở rộng 6-10mm để<br /> phải quan sát được toàn bộ lòng XB và lấy được<br /> hết bệnh tích. Với kỹ thuật xén lấy một phần<br /> nhỏ xương đuôi vách ngăn, lỗ thông xoang mới<br /> tương đối rộng khoảng 10mm, có thể đưa ống<br /> soi 00 hoặc 300 vào quan sát khá trọn vẹn lòng<br /> xoang và đưa dụng cụ lấy bệnh tích.<br /> <br /> Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0