Quan điểm bảo vệ môi trường từ tư tưởng Hồ Chí Minh đến đường lối Đại hội XIII của Đảng
lượt xem 4
download
Bài viết Quan điểm bảo vệ môi trường từ tư tưởng Hồ Chí Minh đến đường lối Đại hội XIII của Đảng trình bày quan điểm bảo vệ môi trường trong tư tưởng Hồ Chí Minh; Quan điểm bảo vệ môi trường trong đường lối Đại hội XIII của Đảng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Quan điểm bảo vệ môi trường từ tư tưởng Hồ Chí Minh đến đường lối Đại hội XIII của Đảng
- QUAN ĐIỂM BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TỪ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐẾN ĐƯỜNG LỐI ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG Hoàng Thu Nga Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội Tóm tắt Bảo vệ môi trường đang là một trong những thách thức lớn của toàn cầu, tác động không nhỏ đến sự phát triển bền vững của các nước trên thế giới. Mặc dù sinh sống và hoạt động trong thời đại mà vấn đề ô nhiễm môi trường chưa phổ biến, nhưng với tầm nhìn chiến lược của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú ý đến và đưa ra những quan điểm về vấn đề bảo vệ môi trường từ rất sớm. Kế thừa và tiếp tục vận dụng tư tưởng của Người, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam qua từng giai đoạn, đặc biệt là qua kỳ Đại hội thứ XIII đã có những bước tiến dài trong nhận thức cũng như trong chỉ đạo thực hiện bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Từ khóa: Bảo vệ môi trường; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Đại hội XIII. Abstract Environmental protection viewpoints from Ho Chi Minh thought to the way of the 13th congress of the Party Environmental protection is one of the major global challenges, having a significant impact on the sustainable development of countries around the world. Although living and operating in an era when the problem of environmental pollution is not widespread, with his strategic vision, President Ho Chi Minh paid attention and gave his views on the issue of environmental protection. environment very early. Inheriting and continuing to apply his thought and guidelines of the Communist Party of Vietnam through each period, especially through the 13th Congress, there have been great strides in awareness as well as in directing the implementation of environmental protection in Vietnam. Keywords: Environmental protection; Ho Chi Minh thought; 13th Congress. 1. Đặt vấn đề Hiện nay, một vấn đề nóng bỏng, gây bức xúc trong dư luận xã hội là tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái do các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người gây ra. Vấn đề này ngày càng trầm trọng, đe doạ trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, sự tồn tại, phát triển của thế hệ hiện tại và tương lai. Hơn 150 năm trước, Ph. Ăngghen từng nhắc nhở chúng ta rằng, “không nên quá khoái chí về những thắng lợi của chúng ta đối với giới tự nhiên, bởi vì sự thật nhắc nhở chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài thế giới tự nhiên và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với tự nhiên bao hàm ở chỗ là chúng ta khác tất cả các sinh vật khác, biết nhận thức được những quy luật của giới tự nhiên và sử dụng những quy luật đó một cách đúng đắn”. Đây là lời khuyến cáo sâu sắc mà chúng ta cần nhận thức và quán triệt nghiêm túc trong hoạt động thực tiễn bảo vệ môi trường. 2. Quan điểm bảo vệ môi trường trong tư tưởng Hồ Chí Minh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người, mỗi lời nói, hành động của Người đều hướng tới lợi ích thiết thực của đồng bào, hướng tới sự hài hòa giữa con người, xã hội với thiên nhiên. Sinh thời, Người luôn xác định, bảo vệ môi trường chính là bảo vệ sức khỏe, bảo vệ cuộc sống bền vững của nhân dân, điều này được thể hiện 242 Hội thảo Quốc gia 2022
- rõ nét thông qua đời sống sinh hoạt hàng ngày cũng như những bài viết, câu chuyện, phong trào, lời khuyên răn,… của Người đối với nhân dân, cán bộ. 2.1. Bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý và tái tạo tài nguyên thiên nhiên 2.1.1. Tài nguyên rừng Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, muốn bảo vệ môi trường thiên nhiên, trước hết phải bảo vệ rừng: “Rừng là vàng, nếu mình biết bảo vệ, xây dựng thì rừng rất quý”. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã chỉ rõ, rừng là nơi khởi nguồn của các dân tộc Việt, rừng là lá phổi xanh, rừng là tấm áo giáp chắn gió bão, chắn sóng, chắn cát xâm lấn; Rừng là nơi lưu giữ sự đa dạng sinh học và là nơi nghiên cứu khảo cổ để làm rõ lịch sử ra đời của dân tộc Việt Nam; Rừng cung cấp các loại sản phẩm nuôi sống con người và phục vụ cho sự phát triển đất nước; Rừng là thủ đô kháng chiến, rừng là chiến khu kháng chiến, rừng là “vũ khí” hữu hình “che bộ đội, vây quân thù”,… Chính vì hiểu rõ tầm quan trọng không thể thay thế của rừng đối với sự phát triển bền vững đất nước nên Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đó là loại vàng đặc biệt mà Mẹ thiên nhiên đã ban tặng cho dân tộc Việt Nam. Nhận thức được vị trí, vai trò quan trọng của rừng đối với môi trường sinh thái, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao công tác bảo vệ và tu bổ rừng. Không chỉ nhắc nhở mọi người không nên khai thác rừng bừa bãi mà Người còn luôn kêu gọi mọi người phải ra sức trồng cây gây rừng. Người nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Sự nghiệp trồng cây được Chủ tịch Hồ Chí Minh xem quan trọng như sự nghiệp trồng người. Bởi theo Người, trồng cây hay trồng người cũng là phục vụ lợi ích cho con người, vì con người. Ngày 28/11/1959, trên Báo Nhân dân số 2082, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài “Tết trồng cây” và đề nghị tổ chức một ngày Tết trồng cây để thiết thực kỷ niệm ngày thành lập Đảng. Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, toàn dân ta thực hiện “Tết trồng cây” đầu tiên trong dịp tết Nguyên đán Canh Tý (1960). Từ đó tới nay, cứ mỗi dịp tết đến xuân về là nhân dân ta lại tổ chức Tết trồng cây và trở thành một nếp sống mới, một phong tục, tập quán tốt đẹp trong nhân dân, một kế hoạch dài lâu cho Đảng và Nhà nước. 2.1.2. Tài nguyên khoáng sản Tài nguyên khoáng sản trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng, phát triển đất nước. Nhưng để kinh tế phát triển lâu dài, Người luôn nhắc nhở nhân dân khai thác sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên này. Trong buổi nói chuyện với các đại biểu công nhân và cán bộ ngành than, Người cũng đã đề cao giá trị của tài nguyên thiên nhiên: “Người ta thường gọi than là “vàng đen”. Nó rất cần thiết cho công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, vận tải, quốc phòng và đời sống của nhân dân. Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội càng cần rất nhiều than”. Nhưng Người luôn xác định cần tới mức nào, giá trị tới mức nào cũng phải khai thác có kế hoạch, làm theo kế hoạch. Mục đích của đất nước là sản xuất thật nhiều than nhưng cần phải thống nhất, phải đúng mục đích, phải tổ chức và quản lý thật tốt, không để khai thác tự phát, vừa không kiểm soát được, vừa ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên. 2.2. Vệ sinh môi trường đảm bảo sức khỏe nhân dân Hồ Chí Minh luôn quan tâm coi trọng vấn đề làm sao để có một môi trường sống trong sạch, vì môi trường sống có vai trò cực kỳ quan trọng đối với sức khỏe của mỗi con người. Vì vậy, phải có nếp sống vệ sinh, đường sá phải sạch sẽ. Ao tắm giặt, giếng nước uống phải phân biệt và chăm sóc cẩn thận. Những ao hồ không cần thì lấp đi cho đỡ muỗi. Phải có cầu xí chung, hoặc cầu xí riêng từng nhà,… Đồng thời, muốn đảm bảo sức khỏe cho người dân thì phải giữ gìn vệ sinh, ăn uống sạch sẽ, Hội thảo Quốc gia 2022 243
- nhà cửa sạch sẽ, vườn cũng sạch sẽ, để giữ gìn sức khỏe thì phải ăn sạch, uống sạch, mặc sạch. Vì vậy, mọi người dân phải ra sức tiêu diệt những kẻ địch độc ác là ruồi, muỗi để tiêu diệt bệnh tật, bảo vệ sức khỏe của chính mình và việc cần nữa là phải kết hợp tiêu diệt ruồi muỗi với những công tác vệ sinh khác như diệt chuột, quét dọn nhà cửa, đường sá, lấp các vùng nước bẩn. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi vấn đề giữ gìn vệ sinh môi trường là một trong những công việc quan trọng nhất trong sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân. Người đã đưa “vệ sinh phòng bệnh” vào nội dung của phong trào thi đua yêu nước, Người khởi xướng phong trào “Vệ sinh yêu nước” và được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng tạo thành một phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp. Những phong trào vệ sinh phát triển mạnh mẽ khi đó như vệ sinh phòng bệnh, diệt muỗi, đào giếng khơi, xây dựng nhà vệ sinh,... 2.3. Biện pháp bảo vệ môi trường 2.3.1. Tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân về ý thức bảo vệ môi trường Hồ Chí Minh rất chú ý tới vấn đề nâng cao nhận thức về môi trường cho tất cả mọi người. Người cho rằng: “Phải tuyên truyền một cách thiết thực và rộng khắp trong nhân dân, làm cho đồng bào hiểu rõ tầm quan trọng và sự cần thiết phải bảo vệ môi trường”. Để làm cho mọi người dân hiểu hết được tác hại của việc xâm hại đến môi trường và ý nghĩa của việc bảo vệ môi trường sống thì biện pháp quan trọng đó là tăng cường giáo dục, thuyết phục, làm cho già, trẻ, gái, trai ai cũng hiểu và tích cực tham gia bảo vệ môi trường tự nhiên một cách hiệu quả. Phải coi công tác bảo vệ môi trường là việc của toàn dân, huy động sức dân, chỉ có lòng tin và sức mạnh của nhân dân thì sự nghiệp đó mới thành công. 2.3.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và các tổ chức đoàn thể trong công tác bảo vệ môi trường Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, các tổ chức đoàn thể trong bảo vệ môi trường. Người nhấn mạnh Đảng với vai trò lãnh đạo phải đưa ra đường lối bảo vệ môi trường đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế tại từng địa phương trong cả nước. Toàn thể Đảng viên phải gương mẫu để nhân dân học tập và làm theo. Mỗi cán bộ, Đảng viên cần làm tốt công tác bảo vệ môi trường gắn với việc tham gia hoạt động dọn dẹp vệ sinh môi trường khu vực công cộng, chăm sóc cây xanh và giữ gìn vệ sinh môi trường tại nơi làm việc, nơi cư trú. Nhà nước với vai trò quản lý, bằng chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn của mình phải đưa ra các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế - xã hội quốc gia. Mặt trận và các đoàn thể quần chúng là lực lượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường phải phát huy dân chủ cơ sở, lắng nghe ý kiến của nhân dân. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác bảo vệ môi trường, tuyên truyền, giải thích cho nhân dân thấy được tầm quan trọng của bảo vệ môi trường. 2.3.3. Tổ chức các phong trào thi đua bảo vệ môi trường Để nâng cao ý thức cho người dân trong vấn đề bảo vệ môi trường, Hồ Chí Minh chủ trương phát động các phong trào thi đua, bởi Người cho rằng: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Người đã khởi xướng các phong trào như “Tết trồng cây”, “Vệ sinh yêu nước”,… và được nhân dân cả nước nhiệt tình hưởng ứng. Hồ Chí Minh cho rằng, đây là những cuộc thi đua dài hạn nhưng nhẹ nhàng mà tất cả mọi người từ các cụ phụ lão đến các em nhi đồng đều có thể hăng hái tham gia, trong đó thanh niên là lực lượng làm chủ của phong trào. 244 Hội thảo Quốc gia 2022
- Các phong trào bảo vệ môi trường không nên chỉ dừng lại ở mặt hình thức mà cần mang tính thiết thực và có hiệu quả. Thông qua các phong trào thi đua, mọi người dân, từ già đến trẻ, gái đến trai, mọi cấp, mọi ngành đều hiểu và tích cực tham gia; Bởi lẽ, bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội chứ không phải là công việc riêng của một cá nhân, một tổ chức nào. 2.3.4. Nêu gương người tốt, việc tốt và phê bình những cá nhân, tổ chức vi phạm trong bảo vệ môi trường Để làm cho mọi người dân hiểu hết được tác hại của việc xâm hại đến môi trường và ý nghĩa của việc bảo vệ môi trường sống thì một trong những biện pháp quan trọng đó là thường xuyên biểu dương, khen thưởng những cá nhân, tập thể có thành tích tốt trong công tác bảo vệ môi trường, đồng thời phê bình những hành vi xâm hại đến môi trường. Trong bài Tết trồng cây, Hồ Chí Minh đã nêu lên những tấm gương điển hình trong phong trào trồng cây gây rừng để qua đó khuyến khích mọi tổ chức và cá nhân học tập và làm theo: “Những cá nhân có thành tích xuất sắc như: Anh hùng trồng cây Nguyễn Văn Tần; Cụ Nguyễn Văn Quắc - ba năm liền chiến sĩ thi đua về trồng cây ở Ninh Bình; Cụ Nông Quảng Liêm tự tay mình trồng được 3.500 cây trên đồi trọc,...”. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng thẳng thắn phê bình, góp ý những nơi thực hiện chưa tốt trong công tác bảo vệ môi trường, phải có kế hoạch thực hiện từng bước chắc chắn thì mới đem lại hiệu quả cao. 3. Quan điểm bảo vệ môi trường trong đường lối Đại hội XIII của Đảng Kế thừa quan điểm bảo vệ môi trường của Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường, tăng cường quản lý tài nguyên, chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Kể từ khi đổi mới, một hệ thống các quan điểm về bảo vệ môi trường của Đảng ta đã thể hiện sự nhất quán, xuyên suốt. Các nhiệm kỳ Đại hội thường xuyên tổng kết, bổ sung, hoàn thiện các quan điểm cho phù hợp với từng bối cảnh phát triển đất nước và ban hành nhiều văn bản về bảo vệ môi trường. Qua các giai đoạn phát triển, các nhiệm kỳ Đại hội, bằng các Nghị quyết, Chỉ thị, Đảng ta đã có những quan điểm chỉ đạo đúng đắn, sát sao, phù hợp. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng càng thể hiện rõ sự coi trọng đối với công tác bảo vệ môi trường, đặt ra mục tiêu cụ thể về môi trường đến năm 2030: “1 - Tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42 %; 2 - Tỷ lệ xử lý và tái sử dụng nước thải ra môi trường lưu vực các sông đạt trên 70 %; 3 - Giảm 9 % lượng phát thải khí nhà kính; 4 - 100 % các cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt quy chuẩn về môi trường; 5 - Tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt 3 - 5 % diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia”. “Đến năm 2030, cơ bản đạt các mục tiêu phát triển bền vững về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100 %; Tỷ lệ chất thải nguy hại được tiêu hủy, xử lý đạt 98 %, trong đó riêng tỷ lệ chất thải y tế được xử lý đạt 100 %; Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đã đi vào hoạt động có nhà máy xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 100 %; Tỷ lệ tái sử dụng, tái chế chất thải rắn sinh hoạt đạt trên 65 %”. Đây là những mục tiêu rất quan trọng để thực hiện phát triển bền vững, thúc đẩy bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân. Để đạt được những mục tiêu đó, bên cạnh việc tiếp tục kế thừa các quan điểm được ghi nhận trong các văn kiện Đại hội trước, Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các quan điểm về bảo vệ môi trường. 3.1. Lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe của nhân dân là mục tiêu hàng đầu Bảo vệ môi trường, tăng cường quản lý tài nguyên, chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm hàng đầu trong những Hội thảo Quốc gia 2022 245
- năm qua. Nhiều chủ trương, chính sách bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu đã được ban hành, triển khai, nhằm thực hiện nhiệm vụ hàng đầu là bảo vệ môi trường sống, sức khỏe người dân,... Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã nhấn mạnh: Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; Là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân; Góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta”. Trong bối cảnh Việt Nam phải đối mặt với những tác động tiêu cực từ biến đổi khí hậu, suy kiệt về tài nguyên thiên nhiên, ngày 03/6/2013, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Cùng với việc chỉ đạo triển khai quyết liệt Nghị quyết số 24-NQ/ TW, Bộ Chính trị chỉ đạo sơ kết và ban hành Kết luận số 56-KL/TW ngày 23/8/2019 về việc Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, tiếp tục khẳng định “Lấy bảo vệ sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu”, “Không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế”. 3.2. Nâng cao vai trò chủ đạo của Nhà nước trong quản lý tài nguyên và môi trường (Kiểm soát ô nhiễm môi trường; Khai thác sử dụng hợp lý, tiết kiệm hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, ứng phó với biến đổi khí hậu) Nhà nước có nhiệm vụ quản lý khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; Hoàn chỉnh công tác điều tra cơ bản, đánh giá, xây dựng cơ sở dữ liệu về tài nguyên đất, nước, rừng, biển, khoáng sản và đa dạng sinh học. Xây dựng hệ thống và cơ chế giám sát tài nguyên, môi trường. Tăng cường kiểm soát các hoạt động khai thác tài nguyên, các ngành, doanh nghiệp dựa nhiều vào tài nguyên, các nguồn gây ô nhiễm, nguồn phát thải khí nhà kính. Chấn chỉnh công tác bảo vệ, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực quản lý tài nguyên, môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Đấu tranh, ngăn chặn và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật về tài nguyên và môi trường, đẩy lùi tình trạng ô nhiễm, xâm hại môi trường, suy thoái tài nguyên và suy giảm đa dạng sinh học. Thực hiện nguyên tắc đối tượng gây ô nhiễm môi trường phải trả chi phí để xử lý, khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi môi trường; Đối tượng được hưởng lợi từ tài nguyên, môi trường phải có nghĩa vụ đóng góp để đầu tư trở lại cho bảo vệ môi trường. Thúc đẩy xã hội hóa các hoạt động bảo vệ tài nguyên, môi trường. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường. 3.3. Kiên trì, thường xuyên, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chuyên ngành, cả hệ thống chính trị và của toàn dân trong công tác bảo vệ môi trường Trong lý thuyết và cả trong thực tiễn cho thấy, ở đâu, lúc nào có công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thì ở đó, hầu như mọi công việc đều được thực hiện tốt, ít có tiêu cực, yếu kém, mất đoàn kết nội bộ xảy ra, người dân tin tưởng vào các cấp lãnh đạo, vào cấp ủy đảng, các tổ chức chính quyền,... Môi trường là vấn đề rất dễ thấy, dễ biết, dễ nhận diện, khó có thể giấu giếm được. Do vậy, một trong những công tác then chốt của công tác bảo vệ môi trường là kiên trì, thường xuyên, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chuyên ngành, của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, nhất là của cấp ủy đảng, người đứng đầu. Bởi vì “Lãnh đạo thì phải kiểm tra, không kiểm tra coi như không lãnh đạo”. 246 Hội thảo Quốc gia 2022
- Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ Trung ương đến địa phương phải được kiện toàn, trọng tâm là các địa phương, bảo đảm tính thống nhất và hiệu quả công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trên phạm vi cả nước. Hoạt động thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường, đấu tranh phòng chống tội phạm về môi trường tại các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông và hoạt động khai thác, vận chuyển, chế biến khoáng sản cần được tổ chức thường xuyên; Thực hiện công khai thông tin các doanh nghiệp vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường theo quy định; Xử lý nghiêm, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Cần kiểm soát hoạt động nhập khẩu phế liệu, máy móc, phương tiện, thiết bị đã qua sử dụng; Xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, quản lý xuất nhập khẩu và lực lượng cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường trong kiểm tra, giám sát việc nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất; Chấm dứt tình trạng nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất hoặc vận chuyển chất thải qua biên giới không đúng quy định. Kiểm tra, rà soát các cơ sở, nguồn gây ô nhiễm, tác động xấu lên môi trường trên phạm vi cả nước, tiến hành phân loại theo mức độ gây ô nhiễm, tác động xấu và thực hiện chế độ kiểm tra, giám sát phù hợp. Ban hành chính sách khuyến khích các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14000; Các quy định về hướng dẫn sử dụng hạn ngạch phát thải và hình thành thị trường chuyển nhượng hạn ngạch phát thải; Quy định về kiểm toán chất thải và đánh giá vòng đời sản phẩm. Thực hiện nghiêm Quyết định số 1788/QĐ-TTg về việc phê duyệt kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đến năm 2020, đề án tổng thể bảo vệ môi trường làng nghề đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Nghiên cứu, đưa công nghệ mới, công nghệ thân thiện môi trường vào làng nghề; Phát triển các mô hình sản xuất sử dụng khí sinh học từ chất thải chăn nuôi. 3.4. Thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thúc đẩy tái sử dụng, tái chế và sản xuất thu hồi năng lượng từ chất thải gắn với hình thành chuỗi sản xuất tiếp nối, liên tục Xây dựng kinh tế tuần hoàn được Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định là một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 nhằm đạt các mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu trên quy mô lớn trong 10 năm tới. Nền kinh tế tuần hoàn hoạt động dựa trên các nguyên tắc cơ bản, liên quan chặt chẽ đến việc sử dụng tái chế, quay vòng sản xuất, chế biến và sử dụng nguồn tài nguyên một cách tiết kiệm, hiệu quả, giảm thiểu và đi đến triệt tiêu các loại chất thải gây ô nhiễm môi trường. Phát triển kinh tế tuần hoàn có thể giải quyết được tình trạng khan hiếm tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và mang lại hiệu quả kinh tế, giúp đạt được nhiều mục tiêu, chỉ tiêu, yêu cầu thuộc các mục tiêu phát triển bền vững. Đây là một nguồn động lực rất lớn nhằm đẩy mạnh phát triển mô hình kinh tế này. Thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ, áp dụng công nghệ tiên tiến trong tái chế và tái sử dụng rác và tạo thêm cơ hội việc làm trong lĩnh vực mới. Với mục tiêu phát triển bền vững gắn chặt với bảo vệ môi trường, Việt Nam cần tiếp tục đầu tư mạnh vào cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, hoàn thiện thể chế chính sách, nâng cao nhận thức toàn xã hội về áp dụng kinh tế tuần hoàn trong cuộc sống, công nghệ số, công nghệ xử lý, tái chế chất thải và kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp, nông nghiệp sinh thái. 3.5. Nhiệm vụ bảo vệ môi trường Mục tiêu tại Đại hội XIII của Đảng đề ra là: “Đến năm 2030, cơ bản đạt các mục tiêu phát triển bền vững về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu”. Để đạt được mục tiêu đó, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra một số nhiệm vụ cơ bản sau: Hội thảo Quốc gia 2022 247
- Thứ nhất, nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn dân về bảo vệ môi trường, từ đó dẫn đến sự thay đổi nhận thức và hành vi của từng cá nhân, cộng đồng. “Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu”. Phát huy vai trò của các cơ quan thông tin đại chúng trong tuyên truyền về bảo vệ môi trường; Đa dạng hóa nội dung, hình thức tuyên truyền, làm cho nhân dân hiểu rõ hậu quả trước mắt cũng như lâu dài của ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đối với sự phát triển bền vững của đất nước, sức khỏe con người, đời sống xã hội. Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững. Các văn bản pháp luật bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay có khá nhiều nhưng chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, còn chồng chéo, mâu thuẫn, nhất là giữa các Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai, Luật Khoáng sản và Luật Đa dạng sinh học. Vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật một cách đồng bộ, thống nhất. Đồng thời, đẩy nhanh việc hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về tài nguyên khoáng sản, đất, nước, rừng, biển, đa dạng sinh học, ô nhiễm và suy thoái môi trường. Xây dựng lộ trình, cơ chế, chính sách, pháp luật để hình thành, vận hành mô hình kinh tế tuần hoàn. Tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ Trung ương đến cơ sở. Chú trọng phát triển tổ chức quản lý môi trường ở các tập đoàn kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất và đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng về bảo vệ môi trường. Thứ ba, tập trung khắc phục, cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường ở các đô thị, các cụm công nghiệp, làng nghề,... “Có kế hoạch khắc phục căn bản tình trạng hủy hoại, làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị. Cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của nhân dân”. Có biện pháp bảo vệ, nâng cao chất lượng môi trường không khí, hạn chế ô nhiễm tiếng ồn, nhất là ở các đô thị lớn. Tập trung xử lý nước thải ở thành thị và các khu công nghiệp, xử lý rác thải ở nông thôn. Thúc đẩy tái chế sử dụng, sản xuất, thu hồi năng lượng từ chất thải gắn với hình thành chuỗi sản xuất tiếp nối, liên tục. Kiểm soát tốt tác động môi trường của các dự án khai thác tài nguyên. Thực hiện nguyên tắc đối tượng gây ô nhiễm môi trường phải chi trả chi phí xử lý, khắc phục hậu quả, cải tạo, phục hồi môi trường; Đối tượng được hưởng lợi từ tài nguyên, môi trường có nghĩa vụ đóng góp để đầu tư trở lại cho bảo vệ môi trường. Tăng cường kiểm soát các hoạt động khai thác tài nguyên, các ngành, doanh nghiệp dựa nhiều vào tài nguyên, các nguồn phát thải nhà kính. Thứ tư, quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên; Phát triển, nâng cao chất lượng rừng; Tăng độ che phủ rừng gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Tăng cường bảo vệ, ngăn ngừa, kiểm soát, giảm ô nhiễm môi trường biển; Bảo vệ, phát triển bền vững các hệ sinh thái, đa dạng sinh học biển, đặc biệt là các rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển. “Quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng trồng rừng, nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng phòng hộ ven biển”. Trồng rừng và tích cực phục hồi rừng tự nhiên cũng là một cách hữu hiệu nhằm bảo tồn đa dạng sinh học, bởi 80 % đa dạng sinh học nằm trong rừng tự nhiên. Thứ năm, nâng cao năng lực nghiên cứu, giám sát biến đổi khí hậu, dự báo khí tượng, thủy văn và cảnh báo thiên tai; Năng lực chủ động phòng, tránh, giảm nhẹ, năng lực chống chịu và thích ứng với biến đổi khí hậu. 248 Hội thảo Quốc gia 2022
- Để thực hiện tốt nhiệm vụ này trước mắt cần xây dựng năng lực giám sát, cảnh báo khí hậu, thiên tai thông qua việc mở rộng, phát triển, hiện đại hóa hệ thống quan trắc và dự báo khí tượng thủy văn; Tăng cường phát triển hệ thống thông tin và dữ liệu về khí hậu và biến đổi khí hậu phục vụ hoạch định chính sách và triển khai thực hiện các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu; Tiếp tục cập nhật, hoàn thiện kịch bản biến đổi khí hậu công bố trước khi xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội để lồng ghép, điều chỉnh kế hoạch kịp thời. Bên cạnh đó, cần sử dụng tiết kiệm, hiệu quả năng lượng, phát triển và sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo trong công nghiệp, xây dựng và giao thông. Thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng các bon thấp, tái cấu trúc các ngành kinh tế theo hướng ưu tiên phát triển các ngành, lĩnh vực tiêu tốn ít năng lượng, từng bước hạn chế phát triển các ngành kinh tế tiêu tốn nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi trường, hiệu quả kinh tế thấp. Thứ sáu, thực hiện có hiệu quả các mục tiêu phát triển bền vững theo chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Chúng ta cần duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Để thực hiện thành công chương trình này, cần hoàn thiện hệ thống thể chế phát triển bền vững, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về phát triển bền vững quốc gia. Đồng thời, huy động sự tham gia của tất cả các bộ, ngành, cơ quan từ Trung ương đến địa phương, nhất là các cơ quan báo chí, các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng doanh nghiệp và toàn thể người dân tham gia thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Thứ bảy, tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm giải quyết hiệu quả những khó khăn vượt khỏi khả năng của một quốc gia. Mở rộng hợp tác quốc tế về môi trường trên tinh thần tôn trọng và thực hiện nghiêm túc các công ước quốc tế mà nước ta đã ký kết, tham gia; Đồng thời tiếp thu, vận dụng những kinh nghiệm quốc tế trong bảo vệ môi trường. Tranh thủ sự hỗ trợ về mặt tài chính, kỹ thuật từ các tổ chức quốc tế trong công tác bảo vệ môi trường, nhất là các dự án từ Quỹ Môi trường toàn cầu (GEP), nhằm thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường có hiệu quả, phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững của khu vực và toàn cầu. Bên cạnh đó, tích cực đấu tranh, ngăn chặn và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật về tài nguyên và môi trường đối với tội phạm môi trường cuốc tế nhằm góp phần đẩy lùi tình trạng gây ô nhiễm, xâm hại môi trường, suy thoái môi trường, suy thoái tài nguyên và suy giảm đa dạng sinh học của Việt Nam. 4. Kết luận Thành công của sự nghiệp đổi mới dưới sự định hướng của tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh đường lối xây dựng, phát triển đất nước ta hiện nay là đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của nước nhà. Chúng ta tin tưởng, khi toàn Đảng, toàn dân cùng chung tay, góp sức thì các chủ trương, đường lối về bảo vệ môi trường của Đảng sẽ nhanh chóng đi vào cuộc sống; Tình trạng ô nhiễm môi trường sẽ dần được khắc phục, môi trường sống ngày càng được cải thiện, đời sống của người dân sẽ tốt hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập. Tập 5, 7, 11, 12, 13, 14. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1, 2. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. [3]. Vũ Dũng (2011). Đạo đức môi trường ở nước ta - Lý luận và thực tiễn. Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội. [4]. Nguyễn Tuyết Hạnh (2015). Vấn đề phát triển bền vững trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng sáng tạo của Đảng. Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội. BBT nhận bài: 23/9/2022; Chấp nhận đăng: 31/10/2022 Hội thảo Quốc gia 2022 249
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình Du lịch và Môi trường - Lê Văn Thăng (Chủ biên)
110 p | 768 | 229
-
Phát triển con người Việt Nam hiện nay - Nhìn từ góc độ quan hệ giữa phát triển kinh tế và môi trường sống
6 p | 106 | 7
-
Phật giáo với bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam hiện nay
13 p | 11 | 5
-
Tài liệu tôn giáo với bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam
175 p | 12 | 5
-
Quan niệm của triết học Mác về mối quan hệ con người - tự nhiên với vấn đề phát triển bền vững ở Việt Nam
4 p | 53 | 5
-
Tác động tôn giáo tới nhận thức và hành vi bảo vệ môi trường của tín đồ các tôn giáo ở Tây Nguyên hiện nay
15 p | 102 | 5
-
Tầm vóc và ý nghĩa vượt trước thời đại trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường sống
3 p | 78 | 5
-
Giáo hội Công giáo tại Việt Nam với bảo vệ môi trường và sinh thái
21 p | 7 | 4
-
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ môi trường
6 p | 156 | 4
-
Quan điểm của C.Mác – Ph.Ăng-ghen về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên - sự vận dụng ở Việt Nam
8 p | 11 | 3
-
Thực trạng tổ chức hoạt động giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
8 p | 54 | 3
-
Giáo hội Phật giáo Việt Nam với việc bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu
13 p | 11 | 3
-
Quan điểm của Phật giáo về bảo vệ môi trường sinh thái và vận dụng ở Việt Nam hiện nay
8 p | 10 | 3
-
Vận dụng quan điểm của Phật giáo vào bảo vệ môi trường sinh thái góp phần đảm bảo an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay
13 p | 4 | 2
-
Giáo hội Phật giáo thành phố Hà Nội với vấn đề bảo vệ môi trường tự nhiên hiện nay
15 p | 7 | 2
-
Quan niệm về ăn chay trong Phật giáo với việc bảo vệ môi trường hiện nay
14 p | 8 | 1
-
Quan điểm của Phật giáo về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên và ý nghĩa của nó đối với việc bảo vệ môi trường tự nhiên ở Việt Nam hiện nay
9 p | 5 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn