Hội thảo khoa học Đổi mới phương pháp giảng dạy theo học chế tín chỉ tr. 103<br />
<br />
<br />
QUẢN LÝ CÁ NHÂN NGƯỜI HỌC TRONG HỆ THỐNG TÍN CHỈ<br />
TS. Huỳnh Văn Thông<br />
Khoa Báo chí và Truyền thông<br />
1. Vấn đề quản lý cá nhân người học trong hệ tín chỉ<br />
Trong quá trình chuyển đổi từ hệ niên chế sang hệ tín chỉ, các trường đại<br />
học Việt Nam hiện nay hầu như đều đang tập trung nguồn lực và năng lực của<br />
mình để hoàn tất khâu chuyển đổi “hệ đếm” kiến thức từ “đơn vị học trình” sang<br />
“tín chỉ”, tập trung lo những việc như xây dựng đề cương môn học, ghi mã<br />
(code), mô tả học phần, nêu các yêu cầu tiên quyết (prerequisite). Có vẻ như đó<br />
là một công việc có tính quyết định đối với việc chuyển đổi sang hệ tín chỉ, đến<br />
mức nhiều trường không nhận ra rằng, thật ra đó chỉ là một trong những việc cần<br />
làm, chứ không phải là duy nhất, và thậm chí đó chỉ mới là một việc mang tính<br />
kỹ thuật.<br />
Giả sử các trường thu xếp làm xong công việc kỹ thuật này, lúc đó chính<br />
họ sẽ nhận ra rằng, chương trình đào tạo của trường họ mặc dù đã được gắn nhãn<br />
“tín chỉ”, nhưng hình như chẳng có mấy khác biệt so với trước đó, ngoài một vài<br />
khía cạnh có vẻ “mới”. Chẳng hạn, phương pháp dạy học được đổi mới, tương<br />
quan giữa giờ học lý thuyết và giờ học thực hành thay đổi theo hướng tăng cường<br />
thực hành, yêu cầu SV tự học,… Nhưng thật ra, xét về bản chất, những chuyện<br />
như thế không trực tiếp liên quan đến việc chuyển đổi sang hệ tín chỉ. Chẳng qua,<br />
hệ thống giáo dục đại học Việt Nam nhiều năm liền hầu như không có chuyển<br />
động nào đáng kể về đổi mới phương pháp dạy học, nên đã nhân tiện cơ hội<br />
chuyển đổi sang hệ tín chỉ lần này để tạo ra một áp lực nhằm thúc đẩy hoạt động<br />
đổi mới phương pháp dạy học trong toàn hệ thống. Đâu phải chỉ trong hệ tín chỉ<br />
người ta mới chú ý đến chuyện bố trí tỷ lệ hợp lý giữa lý thuyết và thực hành?<br />
Đâu phải chỉ trong hệ tín chỉ người thầy mới phải yêu cầu SV tự học, mới phải tổ<br />
chức đánh giá môn học giữa kỳ?<br />
Trong khi mải mê chú ý đến những khía cạnh kỹ thuật hoặc chú ý nhầm<br />
đến những khía cạnh khác không liên quan đến bản chất của vấn đề tổ chức đào<br />
tạo theo hệ tín chỉ, nhiều trường không nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề<br />
quản lý cá nhân người học trong hệ tín chỉ - một trong những vấn đề mấu chốt<br />
của việc triển khai đào tạo theo hệ tín chỉ. Và điều này có nguy cơ làm méo mó<br />
giá trị đích thực của hệ tín chỉ đối với công tác tổ chức đào tạo, dễ khiến nhiều<br />
người cảm giác hệ tín chỉ thật ra chỉ là một “hệ đếm” thuần túy được ngành giáo<br />
dục đại học Việt Nam xem là mốt thời thượng và chạy theo phong trào để triển<br />
khai.<br />
Trên thực tế, dù là tự giác hay không tự giác, thì cách thức tổ chức đào tạo<br />
của một hệ thống giáo dục đều gắn với triết lý giáo dục cụ thể. Và cũng gần như<br />
chắc chắn, triết lý giáo dục nào cũng sẽ liên quan đến người học. Không phải<br />
ngẫu nhiên mà hệ tín chỉ lại chú trọng áp dụng công nghệ “lắp ghép module”<br />
trong việc cơ cấu lại chương trình đào tạo, phân biệt các yêu cầu về giáo dục đại<br />
cương (general education requirement) với giáo dục chuyên ngành (major<br />
education requirement). Cách làm đó cho phép đem lại nhiều lợi ích cho nhiều<br />
bên, đặc biệt là lợi ích cho người học.<br />
Hội thảo khoa học Đổi mới phương pháp giảng dạy theo học chế tín chỉ tr. 104<br />
<br />
Những lợi ích này phát sinh trên nguyên tắc người học được “tháo rời” ra<br />
khỏi cơ cấu lớp học truyền thống, được nhận diện trong hệ thống đào tạo như<br />
một cá nhân có sự độc lập tương đối trong việc lựa chọn kiến thức để tích lũy<br />
phù hợp với mong muốn và khả năng của họ. Trên tinh thần đó, vấn đề quản lý<br />
cá nhân người học sẽ phải là một trong những vấn đề mà các trường cần quan<br />
tâm đúng mức hơn trong lộ trình chuyển đổi sang hệ tín chỉ.<br />
2. Quản lý người học theo lớp và quản lý cá nhân người học<br />
Trong hệ niên chế, công tác quản lý người học theo lớp có xu hướng<br />
“đóng gói” các dữ kiện về người học vào trong một “kịch bản học tập” ít biến đổi<br />
và ít có sự khác biệt giữa các thành viên trong cùng một lớp. Kịch bản này cũng<br />
được gán giá trị thời gian cố định, buộc người học phải tuân thủ. Những trường<br />
hợp không tuân theo kịch bản chung này sẽ trở thành trường hợp “tai biến” và<br />
được xử lý đặc biệt, gây ra nhiều rắc rối cho người học. Ví dụ, chỉ cần người học<br />
gặp một khó khăn đột xuất về sức khỏe đến mức phải gián đoạn một thời gian<br />
học tập thì sau đó anh ta phải đối diện với hàng loạt những vấn đề rắc rối để xử<br />
lý “tai biến” này. Trong một tình hình như thế, người học chỉ có một cách là tuân<br />
thủ bất di bất dịch một lộ trình chung được vạch sẵn cho cả khóa học của anh ta.<br />
Điều này hạn chế tính chủ động của người học trong quá trình tiếp cận và hoàn<br />
thành chương trình đào tạo.<br />
Hệ tín chỉ tạo nhiều cơ hội hơn cho người học trong việc lựa chọn cơ cấu<br />
kiến thức, lựa chọn tiến độ học tập. Chẳng hạn, không còn khái niệm “lưu ban”,<br />
chỉ có khái niệm “chậm tiến độ”; và chậm tiến độ thì không dứt khoát là do học<br />
yếu, mà có thể là do người học chủ động lựa chọn tiến độ chậm cho phù hợp với<br />
hoàn cảnh cá nhân. Theo logic này, thái độ đối với người học chậm tiến độ cũng<br />
cần phải được điều chỉnh thỏa đáng. Số lượng các “biến” của bài toán quản lý<br />
người học trong hệ tín chỉ không tới mức vô số, nhưng không ít như trong hệ<br />
niên chế. Thực tế này sẽ gây quá tải lên hệ thống quản lý người học theo cách<br />
truyền thống vốn dựa nhiều vào sổ sách giấy tờ và những kỹ thuật thủ công của<br />
các trường đại học. Vì lý do đó, khi triển khai hệ thống tín chỉ, nhiều trường đều<br />
nhìn thấy yêu cầu phải tổ chức lại hệ thống thông tin và ứng dụng CNTT để hỗ<br />
trợ công tác quản lý đào tạo theo hệ tín chỉ, mà chực chất là hỗ trợ công tác quản<br />
lý cá nhân người học, từ quản lý quá trình học tập của cá nhân người học đến<br />
quản lý học phí, hồ sơ.<br />
Phân tích sơ bộ như trên để nhìn thấy những vấn đề lớn hơn về công tác<br />
quản lý cá nhân người học trong hệ tín chỉ. Bộ phận công tác SV ở các trường đại<br />
học lâu nay thường được hình dung là bộ phận có những chức trách truyền thống<br />
sau đây: 1) quản lý hồ sơ SV; 2) giải quyết những vấn đề về chính sách xã hội<br />
đối với SV; 3) tham mưu việc khen thưởng và kỷ luật đối với SV; 4) tổ chức<br />
hoặc phối hợp tổ chức các hình thức hoạt động phong trào để giáo dục tư tưởng<br />
chính trị và đạo đức lối sống cho SV. Có thể ở vài trường còn có thêm một vài<br />
công việc khác ngoài danh sách trên thuộc về chức năng công tác của bộ phận<br />
công tác SV. Đến khi các trường đại học chuyển đổi sang hệ tín chỉ, bộ phận<br />
công tác SV cũng đối diện với một câu hỏi có tính chất “tự vấn” là cần phải thay<br />
đổi như thế nào trong bối cảnh đào tạo theo hệ tín chỉ.<br />
Trên logic, một câu hỏi như vậy có thể dẫn đến những phương án sau:<br />
Hội thảo khoa học Đổi mới phương pháp giảng dạy theo học chế tín chỉ tr. 105<br />
<br />
1) Các chức năng và cách làm cũ sẽ hoàn toàn “lỗi thời”, cần được thay<br />
thế bằng những chức năng và cách làm mới.<br />
2) Một số chức năng và một số cách làm cũ sẽ không còn phù hợp, cần<br />
được thay thế bằng những chức năng và cách làm mới.<br />
3) Không cần phải thay đổi gì, vì lúc nào cũng phải có chừng đó vấn đề<br />
liên quan đến việc quản lý người học.<br />
Dễ thấy, phương án thứ hai là phương án phù hợp với thực tế nhất, nhưng<br />
việc nhận diện cái gì không còn phù hợp và cái gì cần bổ sung sẽ là một chủ đề<br />
cần chia sẻ. Có xu hướng, phòng quản lý đào tạo là “linh hồn” của công tác<br />
chuyển đổi sang hệ tín chỉ, còn phòng công tác SV cũng chỉ tiếp tục là một “vai<br />
phụ” trong quá trình này, như lâu nay vẫn thế. Hầu như, động thái phổ biến là<br />
phòng công tác SV ngồi chờ xem những thay đổi về hệ tín chỉ do phòng quản lý<br />
đào tạo phát ra có liên quan gì đến công tác SV hay không để xác định các hành<br />
động tương ứng. Trong khi đó, lẽ ra, lộ trình chuyển đổi từ hệ niên chế sang hệ<br />
tín chỉ cần hình dung ngay từ đầu vấn đề quản lý người học trong hệ thống tín<br />
chỉ. Cứ đơn cử trường hợp của VUN cũng đủ để nhận ra thực tế này. Chủ đề hệ<br />
tín chỉ đã được nói đến trong nhiều kỳ hội thảo trước của VUN, nhưng vấn đề<br />
quản lý người học lần này mới được chính thức nêu ra.<br />
3. Quản lý cá nhân người học trong hệ tín chỉ - nhận diện những điều<br />
cần thay đổi<br />
Để hệ tín chỉ vận hành thông suốt, các nhu cầu của cá nhân người học cần<br />
được nghiên cứu nhận diện và giải quyết theo hướng tạo điều kiện thuận lợi tối<br />
đa cho người học. Vì số lượng các “biến” của bài toán quản lý cá nhân người học<br />
sẽ rất lớn nên việc tạo điều kiện cho cá nhân người học thật ra là tạo điều kiện<br />
cho chính bản thân hệ thống đào tạo của nhà trường để hệ thống đó tránh tắc<br />
nghẽn.<br />
Từ thực tế của một trường đại học đã triển khai hệ tín chỉ, chúng tôi nhận<br />
diện bốn thay đổi cần thiết phải được triển khai tại các bộ phận chuyên trách về<br />
công tác SV của trường đại học.<br />
3.1. Thay đổi cách thức tổ chức quản lý dữ liệu người học<br />
Dữ liệu người học trong hệ tín chỉ là kiểu dữ liệu tương tác, là yếu tố đầu<br />
vào của nhiều quá trình cụ thể trong chu trình tổ chức đào tạo, như quá trình phát<br />
sinh kế hoạch học tập cá nhân, quá trình phát sinh học phí, phát sinh thời khóa<br />
biểu, … Nếu tiếp tục duy trì kiểu dữ liệu “đóng”, tức là dữ liệu người học “độc<br />
quyền” của bộ phận công tác SV thì quá trình quản lý cá nhân người học sẽ tắc<br />
nghẽn do mọi truy vấn thông tin về người học từ những bộ phận khác nhau trong<br />
trường và từ chính người học đều phải trực quy về kết nối dữ liệu của phòng<br />
công tác SV và gây ra nghẽn cổ chai trong hệ thống. Cách duy nhất để giải quyết<br />
trường hợp này là phải tổ chức quản lý dữ liệu người học theo mô hình cơ sở dữ<br />
liệu tập trung và dùng chung, và đương nhiên là phải “điện tử hóa” khối dữ liệu<br />
này để có thể chia sẻ trên mạng máy tính của nhà trường. Hơn thế nữa, khối dữ<br />
liệu người học cần được tích hợp trong một hệ thống phần mềm quản lý nhà<br />
trường tương tự như giải pháp ERP (enterprise resource planing)của doanh<br />
nghiệp. Chính vì lẽ này mà trong lộ trình chuyển đổi sang hệ tín chỉ, yêu cầu xây<br />
Hội thảo khoa học Đổi mới phương pháp giảng dạy theo học chế tín chỉ tr. 106<br />
<br />
dựng hoặc nâng cao năng lực của mạng máy tính, thiết kế lại hệ thống thông tin<br />
trở thành một nhu cầu cấp bách.<br />
3.2. Thay đổi cách thức cung cấp thông tin cho người học<br />
Việc tổ chức lại cách thức quản lý dữ liệu người học sẽ tạo điều kiện để có<br />
bước thay đổi tiếp theo trong cách thức cung cấp thông tin cho người học.<br />
Phương châm hướng đến là “mọi lúc, mọi nơi”. Vấn đề này cần được thảo luận<br />
triệt để về ý nghĩa thực tế. Vì thoạt nghe, có vẻ điều này liên quan đến dân chủ<br />
trường học, đến tinh thần “chăm sóc khách hàng” của doanh nghiệp đại học trong<br />
bối cảnh mới. Nhưng vấn đề ở trên mức ấy. Cá nhân người học cần phải có đầy<br />
đủ thông tin về dữ liệu học tập của cá nhân mình và những thông tin liên quan<br />
đến việc học (thời khóa biểu, thông tin về người dạy, về môn học, …) để có thể<br />
ra quyết định và điều chỉnh quyết định học tập của họ kịp thời, vì thế cần giả định<br />
rằng họ có quyền có nhu cầu truy vấn thông tin thường xuyên. Thử hình dung,<br />
một trục trặc về truy vấn thông tin củ người học có thể đẩy họ vào tình thế khó<br />
khăn trong việc xử lý các quyết định học tập và phải chấp nhận chậm tiến độ.<br />
Đơn cử, một khoản nợ học phí rất nhỏ của người học nếu không được truy vấn và<br />
xử lý kịp thời có thể khiến SV đó bị cấm thi cả một học kỳ (có một số trường<br />
nghiêm khắc vẫn làm như thế). Đây chính là lý do nhiều trường phấn đấu triển<br />
khai hệ thống thông tin điện tử theo mô hình webportal để có thể tăng cường các<br />
cơ hội truy vấn thông tin cho người học.<br />
Nhưng nếu phải giải quyết mọi nhu cầu ấy của người học một cách vô<br />
điều kiện, hệ thống thông tin và các dịch vụ quản lý của nhà trường sẽ quá tải.<br />
Giải pháp thích hợp có thể hình dung là chia thông tin cần cung cấp cho người<br />
học thành ba luồng có đặc tính khác nhau: luồng thông tin tham khảo chung –<br />
luồng thông tin học vụ chung – luồng thông tin học vụ của cá nhân. Luồng thứ<br />
nhất cung cấp trong các dịch vụ truy vấn miễn phí và có tính công cộng, chủ yếu<br />
thông qua website và tài liệu kiểu catalog. Luồng thông tin thứ hai cũng được<br />
cung cấp trong các dịch vụ truy vấn miễn phí nhưng có tính định kỳ, chủ yếu<br />
thông qua tài liệu kiểu cẩm nang SV của từng ngành học. Luồng thứ ba được<br />
cung cấp miễn phí có điều kiện, nghĩa là chỉ cung cấp miễn phí 1-2 lần/học kỳ.<br />
Ngoài những lần miễn phí đó, nếu SV có yêu cầu, họ phải trả chi phí. Giải pháp<br />
này giúp vừa đảm bảo việc cung cấp thông tin kịp thời cho người học trong học<br />
chế tín chỉ vốn đòi hỏi người học phải chủ động, đồng thời giúp hạn chế tình<br />
trạng quá tải của hệ thống.<br />
3.3. Tổ chức công tác tư vấn cho người học<br />
Thay vì bị ám ảnh bởi cụm từ “quản lý SV”, bộ phận chuyên trách về<br />
công tác SV nên chú trọng hơn đến cụm từ “tư vấn cho người học”. Nhiều trường<br />
đại học hiện nay vẫn tiếp tục duy trì mạng lưới giáo viên chủ nhiệm lớp – một<br />
cách làm cho thấy tư duy quản lý người học không theo kịp yêu cầu chuyển đổi<br />
sang hệ tín chỉ. Trong khi đó, công việc quan trọng hơn là bắt đầu xây dựng và<br />
phát triển mạng lưới các cố vấn học tập, tư vấn cho người học và hỗ trợ họ ra các<br />
quyết định học tập phù hợp. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong tổ<br />
chức đào tạo theo hệ tín chỉ. Tổ chức mô tả tác nghiệp cho vị trí công tác này<br />
trong trường đại học không khó, vì có thể học hỏi từ nhiều mô hình thực tế trên<br />
thế giới. Nhưng khó hơn và mất nhiều thời gian hơn sẽ là việc tổ chức tập huấn<br />
Hội thảo khoa học Đổi mới phương pháp giảng dạy theo học chế tín chỉ tr. 107<br />
<br />
và xây dựng năng lực cho đội ngũ cố vấn học tập. Những người này không chỉ có<br />
phẩm chất nhiệt tình mà còn phải có hiểu biết phù hợp. Nếu bắt tay làm từ bây<br />
giờ, có thể phải đến năm học sau các trường đại học may ra mới có thể nhìn thấy<br />
kết quả của việc này.<br />
4. Kết luận<br />
Đổi mới công tác quản lý người học trong quá trình chuyển đổi sang hệ tín<br />
chỉ là một yêu cầu khách quan không lệ thuộc vào mong muốn cá nhân của ai<br />
hoặc mong muốn cục bộ của bộ phận chuyên trách về công tác SV trong các<br />
trường đại học. Chuyển dịch của hệ thống đòi hỏi sự chuyển dịch của các thành<br />
tố trong hệ thống đó. Vấn đề chính là: 1) nhận thức được tầm quan trọng và vai<br />
trò của vấn đề quản lý cá nhân người học trong học chế tín chỉ; 2) nhận diện<br />
những thay đổi cần có trong chức năng của bộ phận chuyên trách về công tác SV<br />
trong các trường đại học; 3) xác định các giải pháp thích hợp cho vấn đề quản lý<br />
cá nhân người học trong quá trình chuyển đổi sang học chế tín chỉ.<br />
Phân tích và đề xuất của chúng tôi về vấn đề này đã cố gắng đối chiếu<br />
giữa những vấn đề có tính lý luận về hệ tín chỉ và thực tiễn triển khai của một số<br />
trường đại học Việt Nam trong thời gian qua, với hy vọng sẽ góp phần làm cho<br />
quá trình chuyển đổi sang hệ tín chỉ mà nhiều trường đại học Việt Nam đang theo<br />
đuổi sẽ nhanh chóng và ít “tai biến” hơn, vì thể theo quy luật, các kế hoạch đổi<br />
mới thường kèm theo các “tai biến”.<br />