intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quan niệm của Lão Tử về mối quan hệ con người – tự nhiên và ý nghĩa của nó đối với việc giải quyết vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay

Chia sẻ: ViNobinu2711 ViNobinu2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

96
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Học thuyết triết học của Lão Tử có nội dung hết sức phong phú, bao gồm cả vấn đề bản thể luận, nhận thức luận, đặc biệt là vấn đề phép biện chứng và các vấn đề đạo đức nhân sinh. Trong các tư tưởng triết học của ông, không thể không nói đến quan niệm về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quan niệm của Lão Tử về mối quan hệ con người – tự nhiên và ý nghĩa của nó đối với việc giải quyết vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 10 (35) - Thaùng 12/2015<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Quan niệm của Lão Tử về mối quan hệ con người –<br /> tự nhiên và ý nghĩa của nó đối với việc giải quyết vấn đề<br /> môi trường tự nhiên hiện nay<br /> Lao-tzu’s ideas about the relationship between mankind and nature and its<br /> implication for solving current natural environment issues<br /> <br /> ThS. Nguyễn Huỳnh Bích Phương<br /> Trường Đại học Sư phạm TP.HCM<br /> <br /> M.A. Nguyen Huynh Bich Phuong<br /> Ho Chi Minh City University of Education<br /> <br /> <br /> <br /> Tóm tắt<br /> Học thuyết triết học của Lão Tử có nội dung hết sức phong phú, bao gồm cả vấn đề bản thể luận, nhận<br /> thức luận, đặc biệt là vấn đề phép biện chứng và các vấn đề đạo đức nhân sinh. Trong các tư tưởng triết<br /> học của ông, không thể không nói đến quan niệm về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên.Theo<br /> đó, Lão Tử đã nêu lên tư tưởng về sự thống nhất, hài hòa giữa con người và giới tự nhiên; về sự gìn giữ,<br /> bảo vệ giới tự nhiên. Những quan niệm ấy có ý nghĩa phương pháp luận sâu sắc trong việc ứng xử một<br /> cách nhân văn đối với giới tự nhiên và trong việc giải quyết vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay.<br /> Từ khóa: quan niệm, mối quan hệ, con người, tự nhiên, môi trường, thống nhất, hài hòa…<br /> Abstract<br /> Lao-tzu’s philosophy is very rich. It discusses ontological, conceptual issues, especially those that are<br /> didactic and human moral issues. In his philosophical ideology, it is necessary to discuss the<br /> relationship between human and the nature. Accordingly, Lao-tzu has raised ideas about the unity and<br /> harmony between human and nature, about the conservation of the nature. Those concepts have<br /> insightful guidelines for a humane treatment of nature and help solve our current natural environment<br /> issues.<br /> Keywords: ideas, relationship, man, nature, environment, unity, harmony…<br /> <br /> <br /> <br /> 1. Đặt vấn đề cầu. Một trong số đó là vấn đề ô nhiễm môi<br /> Ngày nay, thế giới của chúng ta đã có trường sinh thái và sự cạn kiệt tài nguyên<br /> những thành tựu vĩ đại về khoa học và thiên nhiên.<br /> công nghệ mà nhờ đó, loài người đạt được Tình trạng này đang đặt loài người<br /> sự tăng trưởng kinh tế không ngừng. Song trước sự “trả thù của giới tự nhiên”, – điều<br /> thế giới cũng đang phải đối mặt với những từ lâu đã được Ph. Ăngghen cảnh báo:<br /> vấn đề hết sức nghiêm trọng có tính toàn “chúng ta không nên quá tự hào về những<br /> <br /> 72<br /> thắng lợi của chúng ta đối với giới tự bao trùm và dẫn dắt các quá trình tư tưởng<br /> nhiên. Bởi vì cứ mỗi lần chúng ta đạt được của Trung Hoa. Tư tưởng triết học của ông<br /> một thắng lợi, là mỗi lần giới tự nhiên trả có sự ảnh hưởng sâu sắc đến truyền thống<br /> thù lại chúng ta. Thật thế, mỗi thắng lợi, văn hóa của các dân tộc phương Đông,<br /> trước hết là đem lại cho chúng ta những kết trong đó có dân tộc Việt Nam. Ông được<br /> quả mà chúng ta hằng mong muốn, nhưng coi là nhà tư tưởng “nửa huyền thoại” của<br /> đến lượt thứ hai, lượt thứ ba, thì nó lại gây thế giới, nhà biện chứng số một của nền<br /> ra những tác dụng hoàn toàn khác hẳn, triết học phương Đông.<br /> không lường trước được, những tác dụng 2. Quan niệm của Lão Tử về mối<br /> thường hay phá hủy tất cả những kết quả quan hệ con người – tự nhiên<br /> đầu tiên đó”[1, tr. 654]. Vấn đề mối quan hệ giữa con người và<br /> Chính vì vậy, con người phải tìm cách tự nhiên của Lão Tử thể hiện tập trung<br /> sống hòa nhập, hài hòa với tự nhiên, phải trong học thuyết “vô vi” của ông. Lão Tử<br /> điều khiển có ý thức mối quan hệ giữa con là người đề xướng học thuyết “vô vi”, qua<br /> người và tự nhiên. Bởi vì, “chúng ta hoàn đó ông đã trình bày những quan điểm hết<br /> toàn không thống trị được giới tự nhiên sức đặc sắc của mình về các vấn đề đạo<br /> như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc đức nhân sinh, chính trị – xã hội, đặc biệt<br /> khác, như một người sống bên ngoài tự trong đó toát lên một vấn đề triết học của<br /> nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với cả mọi thời đại, đó là mối quan hệ giữa con<br /> xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là người và tự nhiên. Trong việc giải quyết<br /> thuộc về giới tự nhiên, chúng ta nằm trong mối quan hệ này, quan niệm của Lão Tử<br /> lòng tự nhiên, và tất cả sự thống trị của thể hiện ở hai nội dung cơ bản: Một là, sự<br /> chúng ta đối với giới tự nhiên là ở chỗ thống nhất, hài hòa giữa con người và tự<br /> chúng ta, khác với tất cả các sinh vật khác, nhiên; hai là, sự giữ gìn, bảo vệ của con<br /> là chúng ta nhận thức được quy luật của người đối với giới tự nhiên.<br /> giới tự nhiên và có thể sử dụng được những a. Sự thống nhất, hài hòa giữa<br /> quy luật đó một cách chính xác”[1, tr. 655]. con người và tự nhiên<br /> Lời cảnh báo ấy của Ph.Ăngghen cách “Vô vi” là một học thuyết triết học của<br /> đây trên 100 năm, nhưng đến nay vẫn giữ người Trung Hoa cổ đại đã được Lão Tử<br /> nguyên giá trị. nâng lên thành học thuyết về nghệ thuật<br /> Để hiểu rõ hơn quan điểm của các nhà sống của con người trong sự hòa nhập với<br /> kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, tự nhiên.<br /> chúng ta cần phải trở về với lịch sử triết “Vô vi” theo nghĩa thông thường là<br /> học. Trong đó, việc nghiên cứu quan niệm “không làm gì”. Nhưng thực chất, theo Lão<br /> của Lão Tử về mối quan hệ con người – tự Tử cũng như theo cách hiểu của người<br /> nhiên có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và Trung Hoa, danh từ “vô vi” không có nghĩa<br /> thực tiễn trong việc xác lập quan điểm và là không làm gì, mà là hành động theo lẽ tự<br /> thái độ ứng xử của con người đối với tự nhiên, thuần phác, không có tính chất giả<br /> nhiên. tạo, gò ép, trái với bản tính tự nhiên của<br /> Triết học của Lão Tử như một kim tự mình, không làm trái với quy luật tự nhiên,<br /> tháp lớn trong triết học Trung Quốc. Cùng không can thiệp vào guồng máy của tự<br /> với Nho gia và Pháp gia, nó như cái bóng nhiên, không thái quá và bất cập. Lão Tử<br /> <br /> 73<br /> viết: “Đạo thường không làm gì mà không “Cái gì khuyết ắt được tròn đầy, cái gì<br /> gì không làm. Vua chúa nếu giữ được đạo, cong sẽ được thẳng, cái gì cũ thì mới lại,<br /> muôn vật sẽ tự mình chuyển hóa… Không cái gì ít sẽ được, nhiều thì mất” (Đạo đức<br /> ham muốn để được yên lặng, thiên hạ sẽ tự kinh, Chương 22). Đó chính là cái “đạo của<br /> yên” (Đạo đức kinh, Chương 37). trời…chỗ cao thì ép xuống thấp, chỗ thấp<br /> Ông cho rằng: “…đạo đức là cái luật thì nâng lên cao, có dư thì bớt đi, không đủ<br /> tự nhiên, không cần tranh mà thắng, không thì bù vào. Đạo của trời bớt chỗ dư bù chỗ<br /> cần nói mà ứng nghiệm, không cần mời mà thiếu” (Đạo đức kinh, Chương 42). Nếu vi<br /> các vật vẫn theo về, lờ mờ mà hay mưu phạm luật quân bình, phá vỡ trạng thái vận<br /> tính” (Đạo đức kinh, Chương 42). Nếu động cân bằng của vũ trụ, thì vạn vật sẽ rối<br /> không thuận theo đạo tự nhiên, đem ý chí loạn, trì trệ và có nguy cơ bị phá hoại.<br /> và dục vọng của con người cưỡng ép vạn Cùng với luật quân bình, vạn vật còn<br /> vật tức là lấy cái nhân vi, giả tạo thay thế tuân theo luật phản phục. Theo luật phản<br /> cho cái tự nhiên, là trái với “đạo vô vi”, tất phục, cái gì phát triển đến tột đỉnh thì tất sẽ<br /> nhiên sẽ thất bại. Cho nên, Lão Tử thường trở thành cái đối lập với nó. Lão Tử nói:<br /> nói: “Lấy thiên hạ thường ở sự vô, nếu mà “Vật hễ thêm nó, thì nó bớt; bớt nó, thì nó<br /> hữu sự không đủ lấy thiên hạ” (Đạo đức thêm” (Đạo đức kinh, Chương 42), và:<br /> kinh, Chương 48). “trong thiên hạ cái rất mềm thì làm chủ cái<br /> Do vậy, theo Lão Tử, chính con người rất cứng”(Đạo đức kinh, Chương 43). Phản<br /> cũng đồng nhất, thống nhất với “đạo”, tức là phục, theo Lão Tử có thể được hiểu theo<br /> mang tính tự nhiên. Con người – Tự nhiên – hai nghĩa: Thứ nhất, phản phục có nghĩa là<br /> “Đạo” là một thể thống nhất. Hay chính xác sự vận động có tính chất tuần hoàn, đều<br /> hơn, “đạo” chính là cơ sở của sự thống nhất, đặn, nhịp nhàng và tự nhiên của vạn vật.<br /> hài hòa giữa con người và tự nhiên. Con Như hết ngày lại đêm, hết đêm lại ngày;<br /> người, tự nhiên vừa nằm trong “đạo”, vừa trăng tròn rồi lại khuyết, trăng khuyết rồi<br /> thuộc về “đạo”, vừa tuân theo “đạo”. Như lại tròn. Đó là quy luật bất di bất dịch của<br /> thế, quan niệm và nguyên lý hành động “vô tự nhiên.Thứ hai, phản phục còn có nghĩa<br /> vi” của Lão Tử – “đạo thường không làm, là sự vận động trở về với “đạo” tự nhiên<br /> nhưng không gì không làm” – tương ứng của vạn vật. Trở về với đạo tự nhiên vô vi<br /> với yêu cầu thừa nhận bản chất, quy luật của là trở về với gốc rễ, cội nguồn của mình.<br /> hiện thực khách quan, cũng như con người Lão Tử viết: “Đến chỗ cùng cực hư không<br /> cần phải tôn trọng sự vận động, phát triển là giữ vững được trong cái tĩnh. Vạn vật<br /> của bản thân hiện thực. Trên cơ sở đó, con cùng đều sinh ra, ta lại thấy nó trở về với<br /> người mới giữ được “đạo” và tuân theo gốc” (Đạo đức kinh, Chương 16).<br /> “đạo tự nhiên”. Sự trở về với “đạo” của vạn vật ở trạng<br /> Theo Lão Tử, toàn thể vũ trụ bị chi thái nguyên sơ, tĩnh lặng, trống rỗng và tự<br /> phối bởi hai quy luật phổ biến và cơ bản nhiên được coi là tất yếu, nhờ đó vạn vật<br /> nhất là luật quân bình và luật phản phục. mới tồn tại, vận động, điều hòa và phát<br /> Luật quân bình luôn giữ cho vận động triển. Cho nên Lão Tử nói “đạo pháp tự<br /> được thăng bằng, theo một trật tự điều hòa nhiên” là vì vậy. Từ đó ông cho rằng, tất cả<br /> tự nhiên, không có cái gì thái quá, không những chủ trương cố tình can thiệp vào cái<br /> có cái gì thiên lệch hay bất cập. Ông nói: trật tự tự nhiên thì nhất định sẽ bị thất bại:<br /> <br /> 74<br /> “Nếu trời không trong sẽ vỡ. Đất không Tử đã hạ thấp tính năng động chủ quan của<br /> yên sẽ lở. Hang không đầy sẽ cạn. Vạn vật con người, con người không nên can thiệp<br /> không sống sẽ dứt” (Đạo đức kinh, vào giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên; mà<br /> Chương 39). trái lại, con người phải phục tùng giới tự<br /> “Vô vi” còn có nghĩa là không làm nhiên, chịu khuất phục trước tự nhiên.<br /> mất cái đức tự nhiên, thuần phác vốn có Thực chất của quan niệm này là ở chỗ:<br /> của vạn vật, không dục vọng, không ham “Người phỏng theo lẽ của đất, đất phỏng<br /> muốn những gì trái với bản tính tự nhiên theo lẽ của trời, trời phỏng theo lẽ của đạo,<br /> của mình và của vạn vật. Nếu để mất đức đạo phỏng theo lẽ của tự nhiên” (Đạo đức<br /> tự nhiên, ham muốn những gì trái với bản kinh, Chương 25). Sở dĩ như vậy, bởi vì,<br /> tính tự nhiên của mình, cố thỏa mãn những theo Lão Tử, đạo chính là quy luật, quy<br /> dục vọng đó, dẫn tới sự can thiệp vào luật đó không phải cái gì khác mà chính là<br /> guồng máy tự nhiên sẽ mang lại những tai lẽ tự nhiên. Bản thân lẽ tự nhiên là chuẩn<br /> họa: “Ngũ sắc làm cho mắt mờ, ngũ âm mực, con người chỉ cần noi theo nó là đủ,<br /> làm cho tai điếc, ngũ vị làm cho miệng chứ không cần phải làm gì khác ngoài tự<br /> chán, cưỡi ngựa săn bắn làm cho lòng phát nhiên. Do vậy, con người và loài người<br /> cuồng, vật khó khiến làm cho lòng tà vậy” không cần phải phát triển đi đâu xa cả, mà<br /> (Đạo đức kinh, Chương 12). chính là cần trở về với cái nguyên sơ của<br /> Đối với Lão Tử, vạn vật đều có bản nó, trở về với tự nhiên.<br /> tính tự nhiên của mình, chúng tồn tại, vận Song, cũng cần phải thấy rằng, thời<br /> động, biến hóa theo lẽ tự nhiên, không cần Lão Tử sống là thời người ta chỉ biết tàn<br /> biết đến ý nghĩa, mục đích của bản thân phá tự nhiên, biết chiến tranh liên miên<br /> chúng, như cá bản thân nó là bơi lội dưới đẫm máu để tranh giành ngôi báu, chỉ biết<br /> nước, chim là bay trên trời. Nghĩa là sống đặt ra những phép tắc phi nhân, vị kỷ. Do<br /> với cái vốn có tự nhiên, mộc mạc, thuần vậy , trong quan niệm của ông về sự hài<br /> phác của mình, không trái với quy luật của hòa, thống nhất với tự nhiên đã lóe lên một<br /> tự nhiên, không can thiệp vào quá trình vận tia sáng lấp lánh của tư tưởng thiết tha với<br /> hành của các vật khác, biết chấp nhận và sự bảo tồn và phát triển của giới tự nhiên.<br /> thích ứng với mọi hoàn cảnh, môi trường. b. Sự giữ gìn, bảo vệ của con người<br /> Có thể nói rằng, Lão Tử cố gắng tìm ra đối với giới tự nhiên<br /> quy luật khách quan trong sự biến hóa của “Vô vi” cũng còn có ý nghĩa là bảo vệ,<br /> vạn vật, hướng mọi người hành động theo giữ gìn bản tính tự nhiên của mình và của<br /> quy luật tự nhiên. Nhưng ông cho rằng, con vạn vật.Lão Tử chủ trương ngăn chặn, bài<br /> người chỉ thích ứng với quy luật tự nhiên trừ những gì làm tổn hại đến bản tính tự<br /> một cách bị động, đứng trước tự nhiên con nhiên của vạn vật, mà trước hết là chống lại<br /> người không cần làm gì cả.Như vậy, ông sự xâm hại của con người và xã hội đối với<br /> đã dẫn người ta đến chỗ không cần phải giới tự nhiên. Ông nói: “Ta có ba của báu<br /> tích cực đấu tranh, cải tạo tự nhiên. hằng nắm giữ và bảo vệ: một là từ ái, hai là<br /> Như vậy, theo Lão Tử, tự nhiên là tiết kiệm và ba là không dám đứng trước<br /> khách thể, khác với chủ thể con người, con thiên hạ” (Đạo đức kinh, Chương 67).<br /> người chỉ có thể theo nó chứ không thể Vì từ ái cho nên không cưỡng ép vật,<br /> ngược lại được. Ở phương diện này, Lão vì tiết kiệm cho nên không thái quá, không<br /> <br /> 75<br /> trái với đạo tự nhiên và vì không dám đứng Cho nên, tốt nhất người ta hãy: “bỏ hẳn cái<br /> trước thiên hạ cho nên tự nhiên, thuần học đi thì không lo lắng gì cả, hiện ra cái<br /> phác, không trái với tạo hóa, không áp chế nõn nà, ôm lấy cái chất phác, ít lòng tư, bớt<br /> nhau, không ai lấy không ai bỏ, không ai lòng dục” (Đạo đức kinh, Chương 20).<br /> hơn không ai kém. Từ đó, Lão Tử phản đối Quan điểm về mối quan hệ giữa con<br /> mọi chủ trương “hữu vi”, bởi vì “hữu vi” người và tự nhiên còn được thể hiện khi<br /> chỉ khiến cho con người làm xáo trộn mọi Lão Tử chủ trương trị nước bằng đạo “vô<br /> trật tự của tự nhiên, con người bị ràng buộc vi”, tức là trả bản chất con người về cho<br /> bởi những danh vọng, ham muốn và mất đi giới tự nhiên, không được trái với tạo hóa,<br /> bản tính tự nhiên của chính mình. Lão Tử phải gạt bỏ hết những gì trái với tự nhiên,<br /> viết: “Thánh nhân thường khéo cứu người trái với bản chất tự nhiên của con người,<br /> nên không có người bỏ đi, thường khéo vượt quá bản tính, khả năng, nhu cầu tự<br /> cứu vật nên không có vật bỏ đi” (Đạo đức nhiên, cần thiết của con người. Con người<br /> kinh, Chương 44). Cho nên: “Thánh nhân cần phải trở về với trạng thái tự nhiên,<br /> bỏ nhiều, bỏ thừa, bỏ quá” (Đạo đức kinh, nguyên thủy, chất phác, không ham muốn,<br /> Chương 29). không dục vọng, không lễ giáo, không thể<br /> Từ quan điểm “vô vi”, Lão Tử đã rút chế, không pháp luật, không bị ràng buộc<br /> ra những đức tính trong nghệ thuật sống bởi truyền thống đạo đức, văn hóa, không<br /> của con người là: từ ái, cần kiệm, khiêm cần tri thức, trí xảo, văn hóa, kỹ thuật, mà<br /> nhường, khoan dung, tri túc và kiến vi. theo bản tính, khả năng sở thích tự nhiên,<br /> Nhờ đó, con người luôn giữ được sự đồng mọi người tự làm những việc mà mỗi<br /> nhất, hài hòa, chất phác với “đạo” tự nhiên, người cần phải làm một cách tự nhiên.<br /> con người hòa mình vào khoảng không, Lão Tử nói: “Thiên hạ nhiều kỵ húy thì<br /> nhưng lại biết dành cho người khác một dân càng nghèo, dân nhiều khí giới nhà nước<br /> chỗ mà không làm mất chỗ của mình. Đã là càng loạn, người nhiều tài khéo vật xảo càng<br /> con người thì cần phải biết giảm ánh sáng thêm, pháp luật càng tăng trộm cướp càng<br /> của mình để có thể đắm mình vào bóng tối nhiều” (Đạo đức kinh, Chương 57). Cho nên<br /> của kẻ khác. phải “dứt thánh, bỏ trí dân lợi gấp trăm; dứt<br /> Trong học thuyết “vô vi”, Lão Tử còn nhân bỏ nghĩa dân quay về lòng hiếu thảo và<br /> cho rằng, “vô vi” không chỉ là sống một tự ái; dứt kỹ xảo, bỏ lợi trộm cướp không<br /> cách tự nhiên, thuần phác, không ham còn” (Đạo đức kinh, Chương 19). Kết quả<br /> muốn dục vọng mà không cần đến cả tri là: “Không chuộng hiền khiến dân không<br /> thức, văn hóa, kỹ thuật và cả sự tiến bộ xã tranh, không trọng vật nên dân không trộm<br /> hội. Ông nói: “Trí tuệ sinh thì có đại ngụy” cướp, không thấy vật đáng ham khiến lòng<br /> (Đạo đức kinh, Chương 18). Bởi theo ông, dân khỏi loạn. Cho nên lối trị dân của bậc<br /> hiểu biết càng nhiều thì trí xảo càng nhiều, thánh nhân là làm cho dân lòng trống, bụng<br /> trí xảo càng nhiều càng ham muốn, tranh no, ý chí yếu, xương cốt mạnh, thường khiến<br /> đoạt, chiếm đoạt, xâm phạm lẫn nhau, trái dân không biết, không muốn” (Đạo đức<br /> với đạo tự nhiên. Vì vậy: “ Theo học thì kinh, Chương 3).<br /> càng thêm phiền phức, mà theo đạo thì Hơn nữa, Lão Tử còn chủ trương đưa<br /> ngày càng bớt, bớt rồi thì lại bớt, bớt đến đức tính con người trở lại với thời kỳ trẻ<br /> mức vô vi” (Đạo đức kinh, Chương 48). thơ, hồn nhiên, chân chất, vô dục. Ông nói:<br /> <br /> 76<br /> “Không xa đức trở lại thời kỳ trẻ thơ”. Ông người cần phải sống hài hòa với tự nhiên,<br /> chủ trương “không làm cho dân sáng mà tuân theo các quy luật của tự nhiên, sống<br /> làm cho dân ngu” (Đạo đức kinh, Chương một cách thanh tao, không ham muốn,<br /> 65). Dân không sáng mà dân ngu ở đây, không vụ lợi; sống một cách thanh thản,<br /> theo Lão Tử, không hàm nghĩa là sự ngu không suy tính, không ganh đua, không thủ<br /> dốt, tối tăm, mà là đức tính chất phác, giản đoạn theo đúng với quy luật của tự nhiên<br /> dị, tự nhiên, vô tội. Người lý tưởng trở về và phù hợp với bản tính tự nhiên của mình.<br /> với đạo tự nhiên “vô vi”, theo Lão Tử, là Với cách hiểu ấy, con người có được một<br /> người mà “người đời sáng chói, riêng ta lù hệ thống giá trị tinh thần sâu sắc, góp phần<br /> mù; người đời rạch ròi, riêng ta hỗn độn… tạo nên sự ổn định xã hội.<br /> Người đời đều có chỗ dùng, riêng ta ngu Nhưng mặt khác, quan niệm ấy không<br /> dốt, thô lậu” (Đạo đức kinh, Chương 20). thấy được tầm quan trọng của tri thức, kỹ<br /> Cái lù mù, ngu dốt, hỗn độn, thô lậu của thuật của con người trong mối quan hệ<br /> Lão Tử chính là cái thấu suốt mọi lẽ của tự giữa con người và tự nhiên, nó thủ tiêu khả<br /> nhiên mà sống hòa vào tự nhiên, theo đúng năng nhận thức của con người về bản chất<br /> bản tính quy luật của nó, không tự mãn, và các quy luật của tự nhiên. Do vậy, nó<br /> không tự phụ, không xáo động, không phô phủ nhận vấn đề chinh phục giới tự nhiên,<br /> trương, không thái quá, không bất cập. Cái cải tạo giới tự nhiên vì cuộc sống của con<br /> ngu đó của ông là bậc “thượng trí”. người; nó làm cho con người ta an phận, trì<br /> Trong học thuyết “vô vi”, Lão Tử mơ trệ, không cầu tiến và thờ ơ lãnh đạm trước<br /> ước trở lại đời sống chất phác của thời đại cuộc đời. Chính vì thế, quan niệm ấy kìm<br /> công xã nguyên thủy, không thể chế, không hãm sự phát triển xã hội. Hơn nữa, trong<br /> pháp luật, không có chế độ tư hữu và trao xã hội có giai cấp mà lại phủ nhận mọi<br /> đổi hàng hóa, sống tự cấp tự túc. Đó là truyền thống đạo đức, luân lý, chính trị,<br /> cảnh mộc mạc, sống hòa vào tự nhiên, pháp luật, văn hóa,…, có nghĩa là, rút cuộc,<br /> thống nhất với tự nhiên, như đạo vô danh quan niệm ấy đã kéo thụt lùi lịch sử, nó<br /> của ông. Theo đó: “Nước nhỏ, dân ít. Dù muốn đưa xã hội trở về thời kỳ nguyên<br /> có khí cụ gấp trăm gấp chục sức người thủy. Như vậy, dưới góc độ này, quan niệm<br /> cũng không dùng đến. Ai nấy đều coi sự “vô vi”của Lão Tử mang tính chất ảo<br /> chết là hệ trọng nên không đi đâu xa. Có xe tưởng và bộc lộ rõ nét những hạn chế về<br /> thuyền mà không ai ngồi. Có gươm giáo mặt lịch sử. Mặc dù vậy, quan niệm của<br /> mà không bao giờ dùng. Bỏ văn tự, bắt Lão Tử về mối quan hệ con người – tự<br /> người ta trở lại dùng lối thắt dây ghi dấu nhiên có ý nghĩa phương pháp luận quan<br /> thời thượng cổ. Ai nấy đều chăm chú vào trọng trong việc ứng xử một cách nhân văn<br /> việc ăn no, mặc ấm, ở yên, vui với phong đối với giới tự nhiên và giải quyết vấn đề<br /> tục của mình. Ở nước này có thể nghe thấy môi trường tự nhiên hiện nay.<br /> tiếng gà gáy chó sủa của nước kia, nhân 3. Ý nghĩa của quan niệm của<br /> dân trong những nước ấy đến già chết mà Lão Tử về mối quan hệ con người –<br /> vẫn không qua lại lẫn nhau” (Đạo đức tự nhiên đối với việc giải quyết vấn đề<br /> kinh, Chương 80). môi trường tự nhiên hiện nay<br /> Với quan niệm này, một mặt, nó có giá Tư tưởng về sự thống nhất, hài hòa với<br /> trị to lớn và sâu sắc, khi nó khuyên con tự nhiên; về sự gìn giữ, bảo vệ giới tự<br /> <br /> 77<br /> nhiên mà Lão Tử nêu ra vẫn có ý nghĩa sâu nhập, hài hòa, thống nhất với tự nhiên, coi<br /> sắc đối với cuộc sống đương đại. Ngày việc quay trở về với tự nhiên sẽ mang lại<br /> nay, môi trường tự nhiên thường được gọi một hệ thống các giá trị tinh thần quý báu<br /> là môi trường sinh thái. Vấn đề môi trường cho đời sống con người.<br /> sinh thái là một trong những vấn đề toàn Ba là, cần phải khai thác một cách<br /> cầu cấp bách và khó giải quyết trong thời hợp lý giới tự nhiên phục vụ đời sống con<br /> đại ngày nay. Nghiên cứu quan niệm của người.<br /> Lão Tử về mối quan hệ con người – tự Việc bảo vệ môi trường tự nhiên<br /> nhiên, chúng ta có thể rút ra những bài học không có nghĩa là con người phải ngừng<br /> sau đây: tác động vào tự nhiên, hay tạm ngừng tăng<br /> Thứ nhất,con người không nên quá tự trưởng và phát triển để giữ cân bằng sinh<br /> hào về những thành quả của mình trong thái cho cả phức hợp hệ thống “tự nhiên –<br /> việc chinh phục giới tự nhiên. con người – xã hội”. Triết học chỉ ra rằng,<br /> Trong thời đại ngày nay con người điều kiện tự nhiên đóng vai trò hết sức<br /> dùng khoa học, kỹ thuật và công nghệ để quan trọng đối với sự phát triển xã hội,<br /> khai thác và biến đổi giới tự nhiên, đồng nhưng phải được khai thác một cách hợp<br /> thời cũng đã làm nảy sinh mâu thuẫn giữa lý, vận dụng chúng một cách chính xác.<br /> con người và tự nhiên, làm kiệt quệ tài Cụ thể là, con người cần phải thay đổi<br /> nguyên, thiên nhiên, đặt loài người trước phương thức hoạt động thực tiễn, không<br /> sự “trả thù của giới tự nhiên”. Nhưng cũng chỉ vì lợi ích vật chất mà còn vì lợi ích tinh<br /> chỉ bằng cách dùng khoa học, kỹ thuật và thần, không chỉ vì thế hệ hôm nay mà cả vì<br /> công nghệ, con người mới quay trở về với thế hệ ngày mai. Muốn vậy, con người cần<br /> cội nguồn của mình là giới tự nhiên. Vì phải nắm vững các quy luật của tự nhiên và<br /> vậy, con người phải sống hài hòa thực sự vận dụng các quy luật đó một cách phù hợp<br /> với tự nhiên trong một môi trường sống vào trong hoạt động thực tiễn của mình,<br /> mới – trí tuệ quyển, trên cơ sở hiểu biết sâu trước hết là vào quá trình sản xuất xã hội.<br /> sắc các quy luật của tự nhiên và điều khiển Bốn là, phát triển con người nhằm đáp<br /> một cách có ý thức mối quan hệ mật thiết ứng yêu cầu phát triển bền vững.<br /> giữa con người và tự nhiên. Mặc dù nhân tố tự nhiên đóng vai trò<br /> Hai là, con người phải thực hiện quan trọng đối với sự phát triển xã hội,<br /> nguyên tắc đồng tiến hóa giữa con người nhưng chúng chỉ là những nhân tố thụ<br /> và tự nhiên động, còn con người mới là tác nhân tích<br /> Phương thức sống hài hòa với tự cực. Do vậy, phải có cơ chế, chính sách,<br /> nhiên, thích nghi với sự vận động của tự biện pháp phát triển con người một cách<br /> nhiên để giữ trạng thái cân bằng của cả phù hợp mới là nhân tố quyết định sự phát<br /> phức hợp hệ thống “con người – xã hội – triển năng động và bền vững. Không phải<br /> tự nhiên” nhằm đảm bảo tính cân bằng, ngẫu nhiên, Hội nghị lần thứ chín Ban chấp<br /> tính tự tổ chức, tự điều khiển, tự bảo vệ của hành Trung ương Đảng khóa XI đã khẳng<br /> sinh quyển, bảo đảm tính thống nhất giữa định, cần phải xây dựng và phát triển nền<br /> con người, xã hội và tự nhiên, đảm bảo sự văn hóa và con người Việt Nam đáp ứng<br /> tồn tại và phát triển bền vững hiện nay. yêu cầu phát triển bền vững đất nước.<br /> Bởi vậy, con người cần phải sống hòa Trong đó, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng<br /> <br /> 78<br /> và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi được một sự phát triển nhanh và bền vững.<br /> người, mọi người vì mỗi người”; hình Vấn đề môi trường tự nhiên, vấn đề<br /> thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, quan hệ giữa con người và tự nhiên hiện<br /> sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp nay không đơn giản chỉ là vấn đề thuần túy<br /> luật, bảo vệ môi trường;…” [2, tr. 50]. khoa học hay kinh tế – kỹ thuật, nó còn là<br /> 4. Kết luận vấn đề tư tưởng chính trị. Do vậy, các khoa<br /> Mối quan hệ giữa con người và tự học xã hội, đặc biệt là triết học có vai trò<br /> nhiên từ lâu đã là đối tượng nghiên cứu của phương pháp luận quan trọng trong việc<br /> nhiều triết gia, nhiều trường phái. Đặc biệt, làm rõ trách nhiệm của con người trong<br /> quan niệm mà Lão Tử đã đặt ra cách đây việc bảo vệ môi trường tự nhiên không chỉ<br /> trên hai ngàn năm khi giải quyết mối quan liên quan đến thế hệ hôm nay mà cả các thế<br /> hệ giữa con người và tự nhiên không chỉ có hệ mai sau.<br /> ý nghĩa đối với thời đại lúc bấy giờ, mà<br /> ngay cả trong cuộc sống đương đại hiện TÀI LIỆU TRÍCH DẪN<br /> nay. Quan niệm của ông đã để lại những 1. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập,<br /> giá trị gợi mở, có ý nghĩa phương pháp t. 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.<br /> luận quan trọng trong việc giải quyết vấn 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện<br /> đề môi trường sinh thái hiện nay. Chỉ trên Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung<br /> ương Đảng khóa XI, Văn phòng Trung ương<br /> cơ sở thống nhất, hòa nhập, hài hòa giữa Đảng, Hà Nội.<br /> con người và tự nhiên, điều khiển có ý thức 3. Lão Tử (2008), Đạo đức kinh, Nxb Thanh<br /> mối quan hệ ấy thì xã hội hiện đại mới có Niên, TP. Hồ Chí Minh.<br /> <br /> <br /> Ngày nhận bài: 18/11/2015 Biên tập xong: 15/12/2015 Duyệt đăng: 20/12/2015<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 79<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2