intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quan niệm của Phùng Khắc Khoan về Trung, Hiếu

Chia sẻ: Minh Minh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

40
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tư tưởng có tính chất hệ thống ở Phùng Khắc Khoan là tư tưởng Nho giáo, tập trung vào các vấn đề đạo đức, nhân sinh, trong đó nổi lên là ý chí phấn đấu để thực hiện sự nghiệp “kinh bang tế thế”. Ông đã lựa chọn đạo Nho và thực tế ông đã thành công bởi nhân tố chủ quan - sự nỗ lực hết mình tận tâm, tận hiến trong điều kiện của xã hội đương thời. Bài viết tập trung đề cập đến quan niệm Trung, Hiếu - nội dung cơ bản của Nho giáo - trong tư tưởng Phùng Khắc Khoan.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quan niệm của Phùng Khắc Khoan về Trung, Hiếu

  1. JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Social Science, 2013, Vol. 58, No. 2, pp. 11-20 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn QUAN NIỆM CỦA PHÙNG KHẮC KHOAN VỀ TRUNG, HIẾU Nguyễn Bá Cường Khoa Triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613) là danh nhân văn hóa dân tộc, nhà tư tưởng tiêu biểu thời trung đại. Ông tham gia hoạt động chính trị khá tích cực và thành công trên nhiều lĩnh vực. Tư tưởng có tính chất hệ thống ở Phùng Khắc Khoan là tư tưởng Nho giáo, tập trung vào các vấn đề đạo đức, nhân sinh, trong đó nổi lên là ý chí phấn đấu để thực hiện sự nghiệp “kinh bang tế thế”. Ông đã lựa chọn đạo Nho và thực tế ông đã thành công bởi nhân tố chủ quan - sự nỗ lực hết mình tận tâm, tận hiến trong điều kiện của xã hội đương thời. Bài viết tập trung đề cập đến quan niệm Trung, Hiếu - nội dung cơ bản của Nho giáo - trong tư tưởng Phùng Khắc Khoan. Từ khóa: Phùng Khắc Khoan, Trung, Hiếu, trung hiếu. 1. Mở đầu Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613) là danh nhân văn hóa dân tộc, nhà hoạt động chính trị, nhà văn hoá lớn, nhà tư tưởng tiêu biểu có cống hiến xuất sắc cho lịch sử dân tộc thế kỷ XVI - XVII. Sinh trưởng trong thời kỳ có những biến chuyển lớn về chính trị - xã hội, văn hóa - tư tưởng, song ông đã tích cực hoạt động chính trị và thành công trên nhiều lĩnh vực. Phùng Khắc Khoan đã chịu tác động của các điều kiện về chính trị - xã hội, văn hóa - tư tưởng dương thời và trong tư tưởng của ông có cả Nho, Phật, Đạo. Tuy nhiên, con đường của ông vẫn trọn vẹn là con đường của người trí thức Nho học thuần thành. Tư tưởng có tính chất hệ thống ở ông là Nho giáo, tập trung vào các vấn đề đạo đức, nhân sinh, trong đó nổi lên là ý chí phấn đấu để thực hiện sự nghiệp “kinh bang tế thế”. Phùng Khắc Khoan đã lựa chọn đạo Nho và thực tế ông đã thành công bởi nhân tố chủ quan - sự nỗ lực hết mình tận tâm, tận hiến trong điều kiện của xã hội đương thời. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi tập trung đề cập đến quan niệm “Trung”, “Hiếu” - nội dung cơ bản của Nho giáo - trong tư tưởng Phùng Khắc Khoan. Ngày nhận bài 11/12/2012. Ngày nhận đăng 15/03/2013. Liên lạc Nguyễn Bá Cường, e-mail: cuongnb@hnue.edu.vn 11
  2. Nguyễn Bá Cường 2. Nội dung nghiên cứu Tác phẩm của Phùng Khắc Khoan bao gồm có cả chữ Hán và chữ Nôm, trong đó có thơ, bi kí, diễn ca, kinh truyện và vãn ca. Nội dung nổi bật trong các tác phẩm đó là quan niệm sống tích cực, một niềm ưu ái chân thành với ý thức trách nhiệm một nhà nho chân chính yêu nước thương dân, luôn tin tưởng ở tương lai, tin ở sức mạnh bản thân có thể đổi loạn thành trị, cứu nguy thành an, xây dựng nền thái bình thịnh trị cho đất nước. Nguyễn Tài Thư đã nhận định khá xác đáng rằng: “ở Phùng Khắc Khoan thì đó là Nho thuần lý, Nho không pha tạp với các học thuyết khác” [3;375]. Thông qua việc phân tích hai phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo là “Trung” và “Hiếu”, chúng tôi mong muốn sẽ phần nào làm sáng tỏ tư tưởng “thuần Nho” của Phùng Khắc Khoan. “Trung”, “Hiếu” là những phẩm chất đạo đức đặc biệt quan trọng của mẫu người Nho giáo. Trong các tác phẩm của mình, Phùng Khắc Khoan đã có những quan niệm hết sức và coi trọng đề cao hai phạm trù đạo đức này. Ông khẳng định: “Tấm lòng trung hiếu làm đầu, hàng năm sẽ có sự hoan hỉ” (Trung hiếu sơ tâm hỉ đắc niên) [1;496]. Phùng Khắc Khoan đã nhận thấy tình trạng “những người có học thời nay phần nhiều xu thời để nên công danh mà bỏ quên trung hiếu” (Dư kiến đương thời chi sĩ, đa tùy thế tựu công danh nhi hốt ư trung hiếu) [1;322] nên ông đã làm hai bài thơ “Trung” và “Hiếu” để khuyên răn mọi người nên bền chí thực hiện thì mới mong trở thành Người (“thành nhân”). 2.1. Quan niệm của Phùng Khắc Khoan về “Trung” Xét trên phương diện đạo đức của Nho giáo, “Trung” là một phạm trù dùng để chỉ thái độ chân thành, trung thực, có trách nhiệm, hết lòng hết sức trong việc đối xử với mọi người. Xét trên phương diện chính trị, “Trung” là chuẩn mực đạo đức đòi hỏi bề tôi phải trung thành đối với nhà vua và triều đình. Cùng với sự ra đời và phát triển của Nho giáo và sự xác lập chế độ phong kiến, “Trung” đã trở thành Đạo - Đạo Trung - với nội dung gắn liền giữa đạo đức và chính trị. Ở mỗi giai đoạn phát triển của Nho giáo và ở mỗi quốc gia có ảnh hưởng của Nho giáo, hoặc ở các nhà Nho, sự luận giải và thực hiện “Trung” cũng khác nhau. Đối với Nho giáo thời Khổng Tử và Mạnh Tử, “Trung” còn được xác lập tính chất hai chiều, tức là giữa nhà vua (hoặc bề trên) và bề tôi đều có có trách nhiệm và nghĩa vụ tương ứng với nhau. Nhưng đến Nho giáo thời Hán (Hán Nho) rồi đến Nho giáo thời Tống (Tống Nho) trở đi, “Trung” dần dần mang tính áp đặt một chiều, tức là chỉ có yêu cầu bề tôi phải có trách nhiệm và nghĩa vụ phụng sự nhà vua (hoặc bề trên), bất kể nhận được sự đối xử (của nhà vua hoặc bề trên) như thế nào, thậm chí còn có quan điểm cực đoan: vua bắt bề tôi phải chết, bề tôi mà không chết là bề tôi bất trung (Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung). Ở nước ta, các nhà Nho có quan niệm và cách thức thực hành “Trung” khác nhau. Phùng Khắc Khoan một mặt vẫn có những quan niệm và cách hành xử theo quan điểm truyền thống của Nho giáo nhưng mặt khác, trong thực tế ông cũng đã vượt lên để tiếp nối tư tưởng nhân văn, hiện thực của các bậc danh Nho thời trước như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,. . . là “Trung” với vua, với triều đại biết vì nước, vì dân. Điều đó thể hiện ở 12
  3. Quan niệm của Phùng Khắc Khoan về Trung, Hiếu những nội dung sau đây: 2.1.1. “Trung” thể hiện ở lí tưởng xây dựng triều chính Đối với Phùng Khắc Khoan, lí tưởng sống bắt đầu được thực hiện sự tu thân và đó là điều không ngừng nghỉ. Với lí tưởng phấn đấu sục sôi để được thành đạt (làm quan) nhằm mục đích hành đạo, Phùng Khắc Khoan luôn mơ ước được vào chốn cung đình quyền quý, được vua tiếp đón thân mật, gần gũi [1;162]. Lí tưởng đó của ông cũng giống như nhiều đại biểu trí thức Nho học chân chính mọi thời. Tâm lí khoa hoạn dù có bao trùm lên đầu óc của họ thì cũng nói lên một điều: người trí thức có lí tưởng, có hoài bão, sẵn sàng dấn thân nhưng nếu không được trọng dụng để có được một địa vị nhất định thì làm sao có thể được vinh hiển cá nhân, làm sao có đầy đủ điều kiện để đem hết tài sức, tâm trí của mình mà cống hiến vì dân, vì nước một cách thiết thực được. Hoài bão đó của các trí thức Nho học, trong đó có Phùng Khắc Khoan là thanh cao bởi mục đích cuối cùng là “hoằng đạo”. Bởi vậy, với ông, “sự mơ tưởng thanh cao vẫn quanh quẩn nơi tử cấm” (Tử cấm lũ triền thanh mộng tại) [1;181]. Phùng Khắc Khoan mong muốn mình sẽ “là trụ cột chân chính của nước nhà” (Ngã thị quốc gia chân trụ thạch) [1;267]. Bởi thế, ông tự khẳng định rằng: nếu gặp cơ hội tốt để thi thố được thì thành công (của ông) chưa chắc đã kém với Trương Lương (tự là Tử Phòng, người giúp Hán Cao Tổ lập đế vương) (Nhược ngộ khả vi cơ hội xứ,/ Công thành vị tất thiểu Trương Lương) [1;212]. Năm 25 tuổi, Phùng Khắc Khoan đi thi đỗ Tam trường (1552) trên đất nhà Mạc. Ông vui mừng “đón buổi tốt lành” và nghĩ “đây đúng là lúc nhà Nho ta được đại dụng” (Chính thị ngô nho đại dụng thân) [1;185]. Tuy nhiên, lúc này nhà Mạc đã dần dần mất uy tín (trước đó 7 năm, Nguyễn Bỉnh Khiêm - người thầy của Phùng Khắc Khoan, đã phải cáo quan về quê bởi triều chính đã rơi vào suy thoái) và nhà Lê (Trung hưng) đang dần phục hồi. Ông nhận thấy rõ sự biến đổi của các giá trị xã hội đương thời: người ta chỉ chú ý tới việc tranh hùng bằng gươm đao, chuộng lao lực, sự thanh cao lẫn lộn với sự thấp hèn... Ông tiếc nuối vì người ta không chú ý tới ý chí ưu thời mẫn thế, ưu chuộng văn chương, coi trọng trí tuệ, nhân cách, phẩm giá con người của nhà Nho... Ông đành hy vọng “đợi đến thái bình, thời vận tốt” thì “lúc ấy mới tin rằng đọc sách là cao quý”, tức là người trí thức được trọng dụng [1;257]. Phùng Khắc Khoan cũng ý thức được phải biết bình tĩnh, tập trung tu thân để đợi thời rồi ra giúp thiên hạ trị bình. Ông viết: “Chưa đến được lúc ra tay sắp đặt thiên hạ, ta hãy làm lành mạnh trong sạch chính cái thân ta” [1;338]. Như thế, lí tưởng tu thân để tề gia, trị quốc của Nho giáo đã được Phùng Khắc Khoan thẩm thấu và thực hiện một cách mẫu mực. 2.1.2. “Trung” là phải biết chọn vua/chúa để phụng sự và cống hiến Có chí, chờ thời để tham gia chính sự với ông vua và triều đại được coi là chính thống thì với Nho giáo đó cũng là “Trung”. Phùng Khắc Khoan đã chuẩn bị hành trang cho con đường dấn thân của mình, nhưng việc phải lựa chọn ai đại diện cho chính nghĩa để phụng sự lại là quá trình trăn trở, suy tư. Ông viết: “Giúp đời, ta vốn sẵn có chí của người hiền,/ Chọn chúa, xấu hổ nhiều vì chưa có cái sáng suốt của bậc trí giả” (Tế thời thô hữu hiền nhân chí,/ Trạch chủ do tàm trí giả minh) [1;216]. 13
  4. Nguyễn Bá Cường Phùng Khắc Khoan cho rằng, khi đã chọn được vua/chúa để phụng sự, thì bề tôi cần tỏ rõ chức trách là phải tận trung. Nhưng “Trung” ở ông cũng là “Trung” có điều kiện, không phải với bất cứ ông vua nào mà phải là những ông vua biết lo việc nước theo hình mẫu thời Tam đại như đế Nghiêu, đế Thuấn, Văn Vương, Vũ Vương. Trong bài “Trung”, ông viết: “Cái đáng quý ở kẻ làm tôi là phải biết kính giữ chức phận làm tôi,/ Thờ vua nên dốc lòng trung” (Sở quý hồ thần thức khắc thâm,/ Sự quân nghi đốc cá trung tâm). Ông đã nâng việc thực hiện đạo trung với người trần - vua thành một điều linh thiêng dưới sự chứng kiến của thần minh, đất trời: “Mười phần nghĩa lớn đối được với thần minh,/ Một tấc lòng thành, trời đất xét cho được” (Thập phần đại nghĩa thần minh đối,/ Nhất phó linh thành thiên địa lâm). Ông cũng mong muốn noi gương những bậc hiền thần nổi tiếng ngày xưa giúp các vua thời Tam đại (Trung Quốc) dựng nghiệp để có được sự nghiệp rực rỡ ngút trời, tỏa rạng đời xưa như Y Doãn, có được công lao như Chu Công rạng tỏ như ánh dương ngày nay. Ông khẳng định “chức phận bề tôi đương nhiên là phải như thế” bởi “Bậc đại trượng phu sao để cho giàu sang mê hoặc” [1;319]. Như trên đã nói, dù thi đỗ Tam trường nhưng ông không chọn nhà Mạc để thi thố tài năng mà một năm sau đó (1553) vào Thanh Hóa giúp vua Lê. Quyết định dứt khoát này của Phùng Khắc Khoan là theo Nho giáo truyền thống tôn thờ dòng chính thống (lúc đó là nhà Lê), thực hiện theo đúng quan điểm “trung thần bất sự nhị quân”. Nhà Mạc khi đó vẫn đang bị coi là “ngụy triều”. Về việc này, cho đến nay còn nhiều ý kiến khác nhau, song chúng tôi cho rằng, sự lựa chọn con đường tiến thân của mỗi trí thức Nho học dựa trên quan điểm cá nhân và điều kiện thời đại nhưng quan trọng là sự lựa chọn đó cùng với những nỗ lực cá nhân có đóng góp vào sự tiến triển của lịch sử đất nước hay không? Sự “chọn đường” của người trí thức Nho học trẻ tuổi Phùng Khắc Khoan tại thời điểm lịch sử đó đã trải qua một quá trình chiêm nghiệm, đắn đo, trăn trở. Ông đã chọn đúng đường và con đường ông đi đã giúp được nhiều cho triều đình và dân chúng. Ông đã vui với con đường mình chọn và chấp nhận cả sự tị hiềm, nghi kị, thậm chí bị giam hãm tù đày nhưng vẫn cảm thấy sự thanh thản và tự hào được nối nghiệp Nho gia. Thực tế đã chứng minh rằng, việc ông chọn nhà Lê để phụng sự và lí tưởng trụ cột triều đình của ông được thực hiện thành công. 2.1.3. “Trung” là phải sẵn sàng đem tài đức giúp vua, giúp nước, hoàn thành bất cứ việc gì được nhà vua giao phó, giữ bền khí tiết Trong bài Quá thiết thụ lâm (Qua rừng lim), Phùng Khắc Khoan có ý khuyến khích những người có tài đức nên ra giúp triều đình làm rường cột chứ không nên như những cây gỗ lim có khí chất: thân cành như cột chống trời, ngạo nghễ với tuyết sương, lòng thật sắt đá mà ở lâu mãi trong rừng sâu [1;278]. Tin tưởng vào vận mệnh tốt đẹp trong tương lai của đất nước: “Đời gặp buổi cực loạn, thế nào rồi cũng trị yên” (Thế phùng loạn cực ưng hoàn trị) [1;291] nên ông cho rằng khi thời cơ đến sẽ tạo cho người ta cơ hội để được dùng tài năng giúp ích cho đời (Thời tiết đáo lai liêu thí thủ) [1;476]. Với tinh thần khiêm tốn và ý chí muốn vươn lên khẳng định bản thân, 30 tuổi, ông đã “tỏ đạo lập đức, xấu hổ vì kém bậc thánh đời trước,/ Hiển thân dương danh, mong được như bậc hiền tài xưa” 14
  5. Quan niệm của Phùng Khắc Khoan về Trung, Hiếu [1;370]. Với những nỗ lực của người bề tôi bền chí, Phùng Khắc Khoan đã thỏa nguyện được cống hiến và con đường khoa hoạn của ông cũng ngày càng được rạng tỏ. Ông viết “Thư đường bát cảnh” (Tám cảnh ở nhà học), trong đó tỏ rõ con đường của mình đang mỗi bước được khẳng định: giúp đời bình trị, thỏa ước vọng của dân. Đó là: “Thời thịnh trị, vua sáng tôi hiền mừng tao ngộ với nhau,/ Đường mây được lối, mỗi bước lên cao./ Tay vin cành nguyệt quế, vượt cả điều chúng nhân ngưỡng vọng,/ Chân dạo đường trời phẳng rộng, hơn hết bậc tài giỏi ngày nay” [1;366]. Theo Phùng Khắc Khoan, khi được nhà vua tin dùng, tức là cơ hội để thỏa chí “dương danh hiển thân” thì người bề tôi nhất định không quản gian lao vượt vách hiểm, khe sâu [1;271]. Đối với ông, ngay khi đang là cận thần bên vua Lê - chúa Trịnh, nhưng để có cơ hội cống hiến được tốt hơn, ông không quản ngại tuổi cao, năm 53 tuổi vẫn đi thi và đỗ Tiến sĩ. Được vua sủng vinh, ông xác định: “Mưu tính luận bàn việc nước đâu dám ngại ngùng, chỉ mong trời phù trì xã tắc để được cống hiến và có công danh rạng rỡ đất Việt trời Nam” [1;443]. Ông nêu lên những phẩm chất của người bề tôi, tựa như cây Cối (một loài gỗ quý được sánh ngang với Tùng, Bách): “Vươn lên tầng mây, cao trội bên bờ suối, đáng ngưỡng vọng; Nhờn với tuyết, lấn cả sương, tiết tháo tỏ ra vững vàng... được đời xem trọng,... phẩm giá chẳng thường; Vượt qua sông lớn, dùng nhà ngươi làm bơi chèo, thỏa mãn lòng trông cậy của nhà vua ta” [1;652]. “Trung” với hàm nghĩa giữ bền khí tiết, hoàn thành mọi việc được nhà vua tin tưởng giao phó đã được Phùng Khắc Khoan đề cập như trên đã bao hàm nội dung của khái niệm “trung nghĩa”. Ông quan niệm “phận làm tôi đâu dám từ nan công việc của nhà vua,... Chẳng sợ hiểm nghèo, bền giữ một khí tiết” [1;435]. Vì thế, ông sẵn sàng gánh vác mọi việc quan trọng, ngay cả khi tuổi cao sức yếu. Tấm lòng trung nghĩa ở ông được minh chứng bằng sự kiện “được thánh chúa tin dùng” giao sứ mệnh “cầm cờ tiết đi sứ”. Ở tuổi 70 mà Phùng Khắc Khoan cảm thấy mình “như con trai đang tráng kiện”. Ông tin rằng “sự nghiệp thành công được đều nhờ vào trung nghĩa” (Công thành sự nghiệp bằng trung nghĩa) [Mai Lĩnh Sứ Hoa thi tập;669]. Với tấm lòng trung nghĩa và bằng những nỗ lực cá nhân, Phùng Khắc Khoan đã thành công trong sự nghiệp chính trị của mình. 2.1.4. “Trung” là phải biết nâng cao thế nước, uy vua, biết an dân Phùng Khắc Khoan đã thực hiện theo đúng quan điểm trung của Khổng Tử, đó là bề tôi đi sứ bốn phương không làm nhục mệnh vua. Ông đã làm tròn bổn phận của bề tôi khi lĩnh mệnh vua đi sứ phương Bắc và kết quả là nâng cao được uy vua thế nước (Quân uy thế quốc toàn bằng tạ,/... Tái bắc hoan minh vương sự tế) [1;463]. Điều này cả Việt sử và Minh sử đều ghi nhận. Các đời sau vẫn coi ông là tấm gương của người bề tôi trung thần làm rạng danh thế nước uy vua. Phùng Khắc Khoan cũng đã nhiều lần khẳng định có được mọi thành công đều do nỗ lực học tập và thực hành đạo Nho. Theo ông, chỉ có đạo Nho mới giúp cho người ta có khả năng “kinh bang tế thế” (Đạo hành kinh tế ngô nho sự) [1;468]. Phùng Khắc Khoan đau lòng khi thấy “dân trong cảnh khổ lưu lạc li tán triền miên”, “non sông tan nát, mấy độ vật đổi sao dời”. Từ đó phê phán thái độ của những kẻ có trách 15
  6. Nguyễn Bá Cường nhiệm mà tỏ ra là “chẳng hay biết gì”, cứ để cho “tranh cướp mặc bọn họ”. Đồng thời ông nêu cao ý thức trách nhiệm mà người làm quan (bề tôi của vua) đối với người dân. Theo ông, những người “có sức gạt mây tối, rửa sáng mặt trời” thì phải biết “làm cho bốn phương được yên ổn” chứ không thể “cứ ngồi mà cười nói được” [1;307]. Ông còn khẳng định mục đích cao nhất của nhà Nho là “tôn chúa cứu dân”, lấy đó là sự nghiệp của mình (Tôn chủ tí dân Nho sự nghiệp) [1;204]. Bên cạnh đó, ông yêu cầu người làm quan phải theo đạo, theo thời thực hành, hết mực yêu dân, tích đức làm việc chăm chỉ, giữ thanh liêm, tránh xa cái ô uế của sự vụ lợi, tham lam. Chỉ có như vậy mới kì vọng mở ra được cuộc trị bình để lại thấy được “ngày Nghiêu tháng Thuấn thái bình thịnh trị” [1;410]. Tinh thần trách nhiệm đối với việc trị nước yên dân của người bề tôi được Phùng Khắc Khoan chú trọng không chỉ trong lời nói mà ngay cả trong mọi hoạt động của mình suốt cuộc đời thăng trầm của ông. Tuy nhiên, ông không chỉ nêu chữ trung một chiều của bề tôi đối với nhà vua mà còn đặt ra những yêu cầu nhất định để nhà vua thực hiện trong công cuộc trị bình và lấy đó làm mực thước cho bề tôi noi theo. Ông đưa ra nhận định có tính quy luật về việc thực hiện đạo đức chính trị đối với dân. Đó là: “Hướng theo giáo hóa, người dân vẫn không hai lòng. Xưa nay người sáng nghiệp công đức đầy đặn, càng nghiệm rõ trời giúp người có đức và dân quy về người có nhân” (Hướng hóa tâm do bất nhị dân./ Tự cổ tác tiền công đức hậu,/ Dũ trưng thiên hựu dữ dân thân) [1;303]. Ông cũng cho rằng, chỉ có đạo đức của nhà vua và lòng trung tín của bề tôi thì mới trở thành sức mạnh trong việc thu phục lòng dân. Bởi vậy, một khi mà “vui đem trung tín thần phục các man di” thì mới chứng tỏ rằng “yên được dân đều nhờ đức tốt của nhà vua” (Hảo tương trung tín phục chư man./ An dân toàn lại hoàng vương đức) [1;435]. Phùng Khắc Khoan đã khẳng định một chân lí rằng “Triều đình có đạo dân vô sự” (Triều đình hữu dạo dân vô sự) [Mai Lĩnh Sứ Hoa thi tập;674]. Vì thế, ông mong muốn người đứng đầu triều đình - nhà vua cần lấy đức kính làm điều căn bản thì mới điều hòa bền vững được cả trời, đất (điều kiện tự nhiên), thần (yếu tố tinh thần, tâm linh) và người (lòng dân) (Nguyện tương kính đức vi cơ bản,/ Thiên địa thần nhân vĩnh hữu y) [1;707]. Như vậy, “Trung” của Phùng Khắc Khoan cũng bắt nguồn từ Nho giáo Khổng - Mạnh, nhưng ông đã thực hiện được quan niệm “Trung” ngay trong xã hội hiện thực thông qua sự nghiệp chính trị của mình. “Trung” ở ông không chỉ là thực hiện bổn phận của bề tôi đối với nhà vua mà còn là trách nhiệm đối với dân, với nước. Ông không chỉ đòi hỏi đội ngũ quan lại, nho sĩ, quân sĩ phải trung thành với nhà vua, với triều đình mà tự mình nêu gương thông qua chính thực tiễn hoạt động chính trị sôi nổi, nhiệt thành của bản thân. Sự nhất quán theo tư tưởng Nho giáo ở Phùng Khắc Khoan còn được thể hiện trong quan niệm và thực hiện đạo hiếu của ông. 2.2. Quan niệm của Phùng Khắc Khoan về “Hiếu” “Hiếu” là một trong những phạm trù đạo đức cơ bản nhất của Nho giáo. “Hiếu” được coi là nền tảng của Tam cương, Ngũ thường, là sản phẩm của chế độ phong kiến tông pháp coi huyết thống là quan hệ xã hội chủ yếu. Nho giáo rất chú ý giáo dục tình yêu thương giữa cha mẹ và con cái, lấy đó làm quan hệ căn bản của kết cấu xã hội. Nếu như 16
  7. Quan niệm của Phùng Khắc Khoan về Trung, Hiếu “Nhân” được Nho gia coi là phẩm chất cao nhất chỉ có ở người quân tử, thì “Hiếu” là đức hạnh có ở tất cả mọi người, trở thành Đạo Hiếu với những giá trị chung của xã hội. Chủ trương thực hiện đạo hiếu trong lịch sử phát triển của Nho giáo đã chứng tỏ ý nghĩa tích cực của nó là: đề cao công lao của cha mẹ đối với con cái, coi trọng sự kính thuận của con cái đối với cha mẹ,... Ở Phùng Khắc Khoan, “Hiếu” vẫn được quan niệm và thực hiện theo Nho giáo Khổng - Mạnh. 2.2.1. “Hiếu” là phải lập được công danh để tôn vinh cha mẹ và báo đáp tổ tiên Phùng Khắc Khoan nhận thức được sự vận động biến đổi của trời đất (tự nhiên) và con người. Ông coi việc tranh giành được thua xưa nay chỉ như một cuộc cờ vì thế chỉ ai lập được công danh, có tiếng thơm lưu truyền vĩnh viễn, không để mẹ cha phải thẹn, thế mới xứng là nam nhi (Nhân sự thiên thời tương vãng phục,/ Tang điền thương hải kỷ suy di,... Kim cổ doanh thâu nhất cục kỳ./ Đản đắc công danh thùy vĩnh cửu,/ Sở sinh bất thiểm thị nam nhi) [1;200]. Trong bài “Hiếu”, Phùng Khắc Khoan viết: “Hiếu là những cái chuẩn tắc hằng thường của trời đất (thiên kinh địa nghĩa), xây dựng nên luân thường. Trăm đức hạnh đều do lòng hiếu mà ra. Trong tâm ta không lúc nào được quên thành kính, trước sau dốc lòng thờ phụng cha mẹ”. Ông mong muốn noi gương vua Ngu, vua Thuấn để được khen là “đại hiếu” vừa là bậc nhân vừa là bậc thánh; noi gương Chu Công để được khen là “đạt hiếu” vừa là phận con vừa là bầy tôi. Việc thực hiện đạo hiếu ông được xem như là điều chung nhất mà từ xưa đến nay người ta đều thực hiện để báo đáp cha mẹ [1;323]. Mở rộng phạm vi thực hành đạo hiếu đối với cha mẹ, Phùng Khắc Khoan cho rằng, “Hiếu” còn phải thể hiện ở sự tôn kính tổ tiên. Vì thế, ông thúc giục mỗi người cần phải quyết chí học hỏi không ngừng tiến lên để có được địa vị trong xã hội, sống thanh khiết để lại tiếng thơm. Khi hiển đạt rồi thì con cháu cần phải trở về hương khói cho tổ tiên [1;500]. 2.2.2. “Hiếu” với cha mẹ gắn liền “Trung” với vua, với nước - “Hiếu” với dân Xét theo quan điểm Nho gia, “nước gốc ở nhà”, trị quốc trước hết phải tề gia nên thực hiện đạo trung phải gắn liền với thực hiện đạo hiếu. Vì thế “Trung” và “Hiếu” là mục tiêu và đích đến của mỗi người theo đạo Nho. Truyền thống đó đã được giáo dục cho học trò từ nhỏ trong các gia đình Nho giáo. Ông viết: “Truyền gia vẫn còn có thửa ruộng Thi, Thư,/ Đi học vẫn thường mong làm người trung hiếu” (Truyền gia vị dẫn Thi Thư trạch,/ Vi học thường kỳ trung hiếu nhân) [1;208]. Ông khẳng định “Hiếu”, “Trung” là đạo lí ở đời. Nếu không được giáo dục, dù ở mức độ nào thì con người không thể trở nên tốt đẹp. Điều đó đối với những người học Nho, theo Nho và hành đạo Nho đều đã được làm sáng tỏ. Ông viết: “Làm con thì phải hiếu với cha mẹ, làm bề tôi thì phải trung với vua, đạo lí đó trong lòng ai cũng rõ. Làm được như vậy tựa như trồng cây đức trước sân rồi hoa kết trái” (Tử hiếu thần trung phân nội thường,/ Chủng đức đình tiền hoa tựu thực) [1;504]. Cũng với những quan niệm như vậy, trong bài Nhật nguyệt thư hoài, Phùng Khắc Khoan tự hào về cảnh “giàu có nhiều sách, 17
  8. Nguyễn Bá Cường được giáo dục gia pháp nghiêm nên tâm an ở nghĩa lý, sung sướng đón nhận sự giáo hóa dạy dỗ của đức vua, sự sinh thành và yêu thương của cha”. Bởi thế ông cho rằng khó báo đáp công ơn của vua và cha nên cách tốt nhất là chỉ mong đắc thời hành đạo để thỏa chí đáp đền công ơn dưỡng dục và tạo dựng” (Phụ ân quân đức hà do báo,/ Đạo đắc thời hành tắc hữu dư) [1;170]. Ở đây rõ ràng tâm trạng và niềm mong mỏi của Phùng Khắc Khoan cũng giống như Nguyễn Trãi trước đây, rằng: “Quân thân chưa báo lòng canh cánh,/ Tình phụ cơm trời áo cha” (Quốc âm thi tập, “Ngôn chí”, VII) [4;653]. Phùng Khắc Khoan còn nêu rõ nội dung cơ bản của “Trung” là yêu nước, “Hiếu” là thương yêu cha mẹ. Tấm lòng trung với nước phải thể hiện ở muôn vàn những việc làm cụ thể đóng góp cho quốc gia. Tấm lòng hiếu với cha mẹ phải được duy trì liên tục, luôn lo lắng khôn nguôi. Ông viết: “Tấm lòng lo việc nước, có hàng vạn dáng vẻ,/ Lòng thương yêu cha mẹ quẩn quanh trong mộng lúc canh hai canh ba” (Ưu quốc tâm hoài thiên vạn trạng,/ Ái thân mộng nhiều nhị tam canh) [1;251]. Phùng Khắc Khoan đó xác định “Trung”, “Hiếu” là giá trị cao nhất của con người. Người mà không “Trung” thì không thể xác lập được vị trí xã hội bởi thiếu quan hệ xã hội và trách nhiệm xã hội; người mà không “Hiếu” thì không thể xác lập được đạo đức nhân luân. Quan điểm này không vượt ra khỏi giáo lí Nho gia. Phùng Khắc Khoan đã coi việc thực hiện “Trung”, “Hiếu” không chỉ trong phạm vi xã hội, giữa con người với con người, mà còn nâng lên phạm vi không gian vũ trụ có yếu tố linh thiêng (thiên tri - trời biết). Ông viết: “Kẻ gian hùng ngàn lần tội đáng chết, không miếng đất chôn,/ Người suốt đời trung hiếu, đã có trời biết” (Vạn tử gian hùng vô địa táng,/ Nhất sinh trung hiếu hữu thiên tri) [1;311]. Về điểm này, có thể Phùng Khắc Khoan tiếp nhận tư tưởng Hán Nho của Đổng Trọng Thư (thiên nhân cảm ứng), hoặc cũng có thể tiếp nhận trực tiếp tư tưởng “trung nghĩa” của Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng kẻ gian hùng thì muôn thuở cũng không có đất chôn, còn người trung nghĩa luôn được người đời trân trọng, được “trời soi tỏ” (Vạn cổ gian hùng vô địa táng,/ Nhất sinh trung nghĩa hữu thiên lâm - Bạch Vân am thi tập) [2; 205]. Quan niệm “Trung” gắn liền với “Hiếu” được Phùng Khắc Khoan thống nhất xuyên suốt trong cuộc đời học tập và thực hành chính trị của mình. Ông đã thể hiện từ thủa bình sinh đến lúc tuổi già. Ông viết: “Bình sinh chí lớn để ở cả quân vương, phụ mẫu” (Sinh bình tráng chí tại quân thân) [1;427]. Ở tuổi 60, ông viết bài thơ mừng sinh con trai: “Thi, Thư âu kịp đến, biết ta may mắn,/ Trung hiếu danh sẽ thành, mong con gánh vác” (Thi, Thư trạch cập tri dư hạnh,/ Trung hiếu danh thành vọng dữ kham) [1;455]. Như thế, Phùng Khắc Khoan một lòng thực hiện “Trung”, “Hiếu” và ông cũng mong muốn các thế hệ con cháu sau này cũng noi gương ông, học Thi, Thư để thành đạt và thực hiện “Trung”, “Hiếu”, gánh vách công việc quốc gia. Điều đó cũng cho thấy mong muốn trọn đời ở ông chỉ là “Trung”, “Hiếu” mà thôi. Ông viết: “Nguyện rằng trung hiếu trọn vẹn được cả hai” (Sở nguyện kiêm toàn hiếu dữ trung) [1;123]. Mục đích, lí tưởng sống của nhà Nho được Phùng Khắc Khoan đã được nêu rõ trong “Đề ở thư đường Hoằng Đạo”. Ông coi việc thực hành nhân nghĩa trong đời sống là việc thường ngày, coi việc giúp nước yên dân là những đóng góp thiết thực trong việc kiến 18
  9. Quan niệm của Phùng Khắc Khoan về Trung, Hiếu quốc. Ông viết: “Ở nhân noi nghĩa là việc làm của nhà Nho ta,/ Giúp đời yên dân chí khí thật là hào hùng mạnh mẽ” (Cư nhân do nghĩa ngô nho sự,/ Tế thế khang dân chí khí hùng) [1;176]. Từ quan niệm trị nước yên dân như vậy, ông nêu cao đường lối chính trị nhân nghĩa, với trách nhiệm của bề tôi đối với nhà vua, của người dân đối với quốc gia xã tắc. Trước tình cảnh đất nước và nỗi thống khổ của nhân dân, ông mạnh dạn đề xuất đường lối trị nước: “Phương thuốc chữa bệnh cho nước khỏi loạn, cho dân khỏi khổ,/ Xin dâng nhà vua thứ linh đan nhân nghĩa” (Nhược ngôn y quốc y dân thủ,/ Nhân nghĩa vi đan thướng thánh hoàng) [1;414]. Luận điểm này thể hiện tư tưởng trung với vua và hiếu với dân của Phùng Khắc Khoan. Như vậy, Phùng Khắc Khoan đó rất coi trọng “Hiếu” và chủ trương giáo thực hiện đạo hiếu gắn liền với thực hiện đạo trung. Xét về phương diện chính trị của quan niệm Nho gia về “Trung”, “Hiếu” thì đúng như Phan Đại Doãn đã nhận định điều này được xác lập kể từ khi Nho giáo trở thành quốc giáo thời Lê sơ về sau: “Các nhà nước phong kiến “lấy hiếu để trị thiên hạ là sử dụng quan hệ tông tộc để ràng buộc làng xã với triều đình trong mối liên kết gia đình làm mặt bằng, làm chất keo xã hội rất thuận lợi cho nền thống trị của mình. Đồng thời họ lấy trung để cai trị thiên hạ tạo nên nội dung cho quan hệ công dân (cấp trên với cấp dưới, thần dân và hoàng đế) là trục đứng để xây dựng và củng cố chính quyền. Có thể nói “mặt bằng” và “trục đứng” đó là nội dung cơ bản của Nho giáo được duy trỡ từ thế kỷ XV về sau” [3;254-255]. Xét về phương diện nhân cách của người trí thức Nho học, Phùng Khắc Khoan đã quan niệm và thực tế hành động theo trách nhiệm cao nhất của người con đối với cha mẹ - “Hiếu” (học hành chăm chỉ để thi đỗ làm quan và nhờ đó làm hiển vinh cha mẹ và dòng tộc) cùng với trách nhiệm cao nhất của người bề tôi đối với vua, của người dân đối với nước - “Trung” (tận trung với vua, tận tâm, tận hiến đối với công việc xây dựng quốc gia, nâng cao vị thế đất nước trong quan hệ bang giao,...). 3. Kết luận Với tư cách là nhà tư tưởng đại biểu cho bộ mặt tư tưởng xã hội Đại Việt ở nửa cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII, Phùng Khắc Khoan đã có nhiều đóng góp nhất định trên các phương diện: chính trị, triết học, văn học, kinh tế, ngoại giao,... Thành công của ông chủ yếu dựa vào ý chí và nghị lực cá nhân, dựa trên quyết định “chọn đường” và với nền tảng tư tưởng Nho gia. Tư tưởng của ông là kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất của truyền thống gia đình, quê hương và dân tộc, từ cuộc đấu tranh của nhân dân để khắc phục tình trạng loạn lạc, cát cứ nhằm giữ vững hoà bình, tự chủ. Tư tưởng của ông đã đáp ứng được yêu cầu nhất định của thời đại, đồng thời cũng gắn bó với ý chí và nguyện vọng của nhân dân thời bấy giờ. Với những đóng góp hết sức quan trọng cho lịch sử dân tộc, Phùng Khắc Khoan được các triều đại ghi nhận xứng đáng bằng những sắc phong, mỹ tự. Tuy nhiên, xét một cách toàn diện thì tư tưởng của ông vẫn có những hạn chế nhất định: Thế giới quan triết học nhìn chung vẫn là duy tâm do chịu ảnh hưởng sâu đậm trong quan niệm về mệnh trời; Tư tưởng biện chứng tuy có ảnh hưởng của Dịch nhưng vẫn còn ở mức độ sơ khai; Nhân sinh quan vẫn mang nặng quan niệm công danh, khoa hoạn truyền thống. Đây là những hạn chế mang tính thời đại mà hầu hết các nhà nho đều gặp phải. 19
  10. Nguyễn Bá Cường Quan niệm “Trung”, “Hiếu” là nội dung cơ bản trong tư tưởng của ông mà trên đây mới chỉ là những phác họa bước đầu trong phạm vi khảo sát một số tác phẩm đã được dịch và công bố. Ở mỗi nội dung của “Trung” và “Hiếu”, Phùng Khắc Khoan thường vận dụng những mặt tích cực của Nho giáo, đồng thời mở rộng và đưa thêm nội dung cụ thể, thiết thực làm cho chúng gần gũi với quan niệm và đời sống của người Việt. “Trung”, “Hiếu” được vận dụng là “trung với vua”, “hiếu với cha mẹ” tiến dần đến tư tưởng “trung với nước”, “hiếu với dân”. Những quan niệm đó của ông chứa đựng những giá trị lí luận nhất định và có ý nghĩa thực tiễn đối với việc giáo dục con người Việt Nam hiện nay nếu chúng ta biết khai thác và vận dụng một cách biện chứng. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Hội nhà văn Việt Nam, 2012. Phùng Khắc Khoan - Hợp tuyển thơ văn (nhà văn Phùng Văn Khai tổ chức bản thảo). Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. [2] Đinh Gia Khánh chủ biên,1983. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nxb Văn học, Hà Nội. [3] Nguyễn Tài Thư chủ biên, 1993. Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. [4] Nguyễn Trãi, 2001. Toàn tập (tân biên), tập 3 (in lần thứ hai), Mai Quốc Liên chủ biên. Trung tâm nghiên cứu Quốc học và Nxb Văn học, Hà Nội. [5] Nguyễn Minh Tường, 1993. Phùng Khắc Khoan với vấn đề “chọn đường” của người trí thức Việt Nam thế kỷ XVI. Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Phùng Khắc Khoan - cuộc đời và thời đại. Sở Văn hóa Thông tin Thể thao Hà Tây - Ủy ban Nhân dân huyện Thạch Thất. [6] Trần Quốc Vượng, 1993. Trạng Bùng (1528 - 1613) và Đạo giáo dân gian Việt Nam trong bối cảnh lịch sử - xã hội Đại Việt thế kỷ XVI - XVII. Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Phùng Khắc Khoan - cuộc đời và thời đại. Sở Văn hóa Thông tin Thể thao Hà Tây - Ủy ban Nhân dân huyện Thạch Thất. ABSTRACT Phung Khac Khoan’s thoughts on Loyalty and Filial piety Phung Khac Khoan (1528-1613) is a national and cultural celebrity, and a typical medieval thinker. He was politically active and achieved great success in many fields. Phung Khac Khoan’s system of thought is Confucian and he focused on morals and life which is intent on implementing a career of “Governing the State and helping humanity”. Phung Khac Khoan was influenced by Confucianism and he demonstrated the utmost dedication and devotion in terms of contemporary society. This article concentrates on Phung Khac Khoan’s thoughts on Loyalty and Filial piety. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0