TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:

RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI CỦA MỘT SỐ NƯỚC

CÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN

VÀ CÁC BIỆN PHÁP GIÚP VIỆT NAM VƯỢT RÀO CẢN

Giáo viên hướng dẫn: Thạc sỹ Bùi Thị Lý

Sinh viên thực hiện : Đào Thị Thu Hương

Lớp : Anh 10 – K38

Hà Nội, năm 2003

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 5

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI .............. 8

I. Rào cản kỹ thuật trong thương mại .....................................................8

1. Khái niệm và các hình thức của rào cản kỹ thuật trong thương mại........8

1.1. Rào cản kỹ thuật trong thương mại là gì? .............................................8

1.2.1. Tiêu chuẩn về chất lượng và quy cách sản phẩm.......................................... 10

1.2.2. Tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm và an toàn cho người sử dụng .................. 12

1.2.3. Tiêu chuẩn về môi trường............................................................................ 14

1.2. Các hình thức của rào cản kỹ thuật trong thuương mại quốc tế ............9

2. Quy định của WTO về rào cản kỹ thuật trong thương mại ....................17

2.1. Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại của WTO...................17

2.2. Hiệp định về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật của WTO ...20

II. Các hệ thống quản lý chất lượng thường được sử

dụng trên thế giới ...............................................................................22

1. Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 .................................................22

2. Hệ thống quản trị môi trường ISO 14000 ..............................................24

3. Hệ thống quản lý chất lượng đồng bộ (TQM)........................................27

4. Hệ thống HACCP .................................................................................28

III. Tác động của rào cản kỹ thuật đối với thương mại quốc tế .............30

CHƯƠNG II: THỰC TIỄN ÁP DỤNG RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG

MẠI Ở MỘT SỐ NƯỚC CÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN ............................ 35

I. Liên minh châu Âu – EU.....................................................................35

1. Khái quát chung về thị trường EU.........................................................35

2. Một số quy định kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu vào thị trường EU....36

II. Mỹ ........................................................................................................46

1. Khái quát chung về thị trường Mỹ.........................................................46

2. Một số quy định kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu vào thị trường Mỹ....47

III. Nhật Bản .............................................................................................54

1. Khái quát về thị trường Nhật Bản..........................................................54

2. Một số quy định kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu vào thị trường Nhật .56

IV. Rào cản kỹ thuật trong thương mại của một số nước công nghiệp

phát triển khác .....................................................................................62

1. Canada ..................................................................................................62

2. Australia................................................................................................64

3. Hàn Quốc..............................................................................................67

CHƯƠNG III : CÁC GIẢI PHÁP GIÚP VIỆT NAM VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT

TRONG THƯƠNG MẠI.............................................................................. 72

I. Thực trạng xuất khẩu của Việt Nam trước rào cản kỹ thuật từ

các nước công nghiệp phát triển..........................................................72

1. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam từ 1986 đến nay..............................72

2. Những thách thức đối với xuất khẩu của Việt Nam trước rào cản

kỹ thuật từ các nước công nghiệp phát triển ...........................................74

II. Các giải pháp giúp Việt Nam vượt rào cản kỹ thuật

trong thương mại .................................................................................79

1. Các giải pháp cấp Nhà nước..................................................................79

1.1. Ký kết các hiệp định song phương và đa phương về rào cản

kỹ thuật trong thương mại ......................................................................80

1.2. Tuyên tryền giới thiệu cho các doanh nghiệp về rào cản kỹ thuật

của các nước...........................................................................................82

1.3. Tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý về chất lượng và kỹ

thuật cho các doanh nghiệp.....................................................................84

1.4. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia cho sản phẩm và thành

lập các cơ quan kiểm tra chất lượng đối với hàng xuất khẩu ..................85

2. Các giải pháp ở cấp độ doanh nghiệp ........................................................88

2.1. Nâng cao nhận thức về rào cản kỹ thuật trong thương mại ....................88

2.2. Áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế............................................89

2.3. Gắn “nhãn sinh thái” cho hàng hoá ......................................................91

2.4. Đổi mới công nghệ và nâng cao trình độ quản lý kỹ thuật để

nâng cao chất lượng sản phẩm................................................................92

PHẦN MỞ ĐẦU

I. Lý do chọn đề tài:

Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trên đường đổi mới, chuyển đổi sang nền

kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà

nước và đã đạt được khá nhiều thành tựu đáng kể. Trong mấy năm gần đây nền

kinh tế luôn tăng trưởng với tốc độ 6-7%/năm. Đặc biệt, xuất khẩu của Việt Nam

đã có sự tăng trưởng mạnh và góp phần to lớn cho sự phát triển của đất nước.

Kim ngạch xuất khẩu hàng năm ngày càng tăng. Kim ngạch xuất khẩu năm 2001

đạt 15 tỷ USD, năm 2002 đạt 16,7 tỷ USD chiếm khoảng 50% GDP của cả nước.

Và trong những năm tới, xuất khẩu vẫn là một định hướng phát triển chiến lược

của chúng ta.

Nền kinh tế thế giới đang trong thời kỳ hội nhập với xu hướng toàn cầu hoá khu

vực hoá, hình thành các khối mậu dịch tự do và hiện nay trên thế giới cũng hình

thành các tập đoàn đa quốc gia có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế thế giới. Trong

kỷ nguyên này, thế giới sẽ là một thị trường thống nhất, mà chủ thể kinh tế là các

khối mậu dịch tự do, đơn vị kinh tế chủ yếu chi phối thị trường là các tập đoàn đa

quốc gia. Cạnh tranh kinh tế sẽ diễn ra gay gắt trên quy mô toàn cầu. Các quốc

gia sẽ không thể phát triển tốt và sẽ bị tụt hậu nếu đứng ngoài cuộc.

Theo xu hướng đó, Việt Nam cũng đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế

giớivà khu vực. Việt Nam đã là thành viên của ASEAN, APEC, AFTA và đang

trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO.

Hội nhập kinh tế mang lại rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam: các

rào cản thương mại được dỡ bỏ theo hiệp định được ký kết giữa các quốc gia

thành viên của các tổ chức, việc tiếp cận thị trường dễ dàng hơn, thông tin được

cung cấp đầy đủ hơn. Nhưng các doanh nghiệp cũng đứng trước nhiều thách thức:

các quốc gia thay vì sử dụng thuế, giấy phép xuất nhập khẩu, hạn ngạch… để bảo

vệ thị trường đã dựng nên một loại rào cản mới tinh vi , phức tạp và khó vượt qua

hơn nhiều. Đó là rào cản kỹ thuật. Rào cản kỹ thuật thật sự là thách thức lớn cho

các doanh nghiệp Việt Nam bởi trình độ kỹ thuật của nước ta còn thấp, các doanh

nghiệp còn chưa ý thức được tầm quan trọng của các rào cản đó. Do vậy, các

doanh nghiệp nước ta gặp rất nhiều khó khăn khi tiếp cận và xuất khẩu hàng sang

các thị trường có sử dụng rào cản kỹ thuật. Vậy rào cản kỹ thuật trong thương mại

là gì, có tác động thế nào tới thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu của Việt

Nam nói riêng, thực tiễn áp dụng các rào cản kỹ thuật của các nước trên thế giới

như thế nào, các doanh nghiệp Việt Nam cần làm gì để vượt qua các rào cản đó

để thâm nhập thị trường các nước? Đề tài “Rào cản kỹ thuật trong thương mại của

một số nước công nghiệp phát triển và các biện pháp để Việt Nam vượt rào cản”

được chọn lựa để làm rõ vấn đề rào cản kỹ thuật trong thương mại của một số

nước công nghiệp phát triển như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia… và

đưa ra một số giải pháp giúp các doanh nghiệp Việt Nam vượt qua các rào cản đó.

II. Mục đích nghiên cứu của khoá luận:

 Nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề lý luận chung về rào cản kỹ

thuật trong thương mại quốc tế.

 Phân tích thực tiễn áp dụng rào cản kỹ thuật trong thương mại của một số

nước công nghiệp phát triển.

 Kiến nghị một số giải pháp giúp các doanh nghiệp Việt Nam vượt rào cản.

III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

 Nghiên cứu những vấn đề khái quát về rào cản kỹ thuật trong thương mại

quốc tế.

 Nghiên cứu về tình hình sử dụng rào cản kỹ thuật trong thương mại của

một số nước công nghiệp phát triển.

 Đánh giá thực trạng của thương mại Việt Nam trước các rào cản kỹ thuật

và đưa ra các kiến nghị về các biện pháp giúp các doanh nghiệp Việt Nam

vượt rào cản.

IV. Phương pháp nghiên cứu của khoá luận:

Khoá luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, so sánh, phân tích, tổng

hợp, chứng minh kết hợp lý luận với những hiện tượng thực tế để làm sáng tỏ vấn

đề.

V. Những đóng góp của khoá luận:

 Khoá luận chứng minh rằng trong thương mại quốc tế hiện nay, rào cản kỹ

thuật có tác động rất to lớn tới thương mại giữa các nước và việc sử dụng

rào cản kỹ thuật ngày càng phổ biến.

 Khoá luận đưa ra những rào cản mà một số nước công nghiệp phát triển

hiện nay đang áp dụng để giúp các doanh nghiệp Việt Nam hiểu rõ hơn về

rào cản kỹ thuật từ đó rút ra bài học và kinh nghiệm khi xuất khẩu sang các

nước đó.

 Khoá luận đưa ra những kiến nghị về các giải pháp để các doanh nghiệp

Việt Nam có thể vượt qua được các rào cản kỹ thuật đó khi tham gia

thương mại quốc tế.

VI. Kết cấu của khoá luận:

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khoá luận gồm 3 chương:

 Chương I : Khái quát về rào cản kỹ thuật trong thương mại.

 Chương II : Thực tiễn áp dụng rào cản kỹ thuật trong thương mại của một

số nước công nghiệp phát triển.

 Chương III : Các giải pháp giúp Việt Nam vượt rào cản kỹ thuật trong

thương mại.

Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Thạc sĩ Bùi Thị Lý, giảng viên

môn Quan hệ kinh tế quốc tế, Khoa Kinh tế Ngoại thương đã tận tình hướng dẫn,

chỉ bảo và giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành khoá luận này

CHƯƠNG I

KHÁI QUÁT VỀ RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI

I. RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI

1. Khái niệm và các hình thức của rào cản kỹ thuật trong thương mại

1.1. Rào cản kỹ thuật trong thương mại là gì?

Thương mại quốc tế ngày càng phát triển, không chỉ giới hạn ở thương mại hàng

hoá mà còn mở rộng ra các lĩnh vực khác như dịch vụ, sở hữu trí tuệ…, đem lại

lợi ích cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Vì thế phấn đấu cho nền thương mại

tự do toàn cầu là mục tiêu của nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, do nhiều

nguyên nhân khác nhau mà cụ thể là do trình độ phát triển kinh tế – xã hội không

đồng đều mà các biện pháp bảo hộ thuế quan và phi thuế quan ra đời nhằm bảo hộ

nền sản xuất nội địa. Do đó, trong thương mại quốc tế hiện nay, để thâm nhập vào

một thị trường, các doanh nghiệp cần phải vượt qua hai loại rào cản, đó là:

 Hàng rào thuế quan ( Custom duties barriers )

 Hàng rào phi thuế quan (Non tariff-Trade barriers )

Tuy nhiên, hiện nay với xu hướng tự do hoá thương mại, hàng rào thuế quan giữa

các khối kinh tế, giữa các quốc gia ngày càng giảm đi và tiến tới xoá bỏ hoàn

toàn. Do đó, dù thuế quan là một công cụ bảo hộ thị trường quan trọng nhất và đã

từng có hiệu quả tốt trước đây nhưng hiện nay vai trò của nó đã bị suy giảm. Bên

cạnh hàng rào thuế quan, một số rào cản phi thuế khác như quota, quy định giá

tính thuế… cũng sẽ được bãi bỏ. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các nhà

xuất khẩu có thể dễ dàng tiếp cận vào các thị trường khác mà việc tiếp cận và

thâm nhập thị trường càng trở nên khó khăn hơn do việc các quốc gia tăng cường

sử dụng những quy định và các yêu cầu thị trường trong các khía cạnh về an toàn,

sức khoẻ, chất lượng và các vấn đề môi trường và xã hội. Các quy định này được

gọi chung là các rào cản kỹ thuật trong thương mại.

Rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế (Technical Barriers to International

Trade – TBT) là một hình thức bảo vệ mậu dịch thông qua việc các nước nhập

khẩu đưa ra các yêu cầu về tiêu chuẩn đối với hàng hoá nhập khẩu vào nước mình

hết sức khắt khe. Nếu hàng nhập khẩu không đạt một trong các tiêu chuẩn được

đưa ra đều không được nhập khẩu vào lãnh thổ nước nhập hàng.

Rào cản kỹ thuật chính là các chỉ tiêu về chất lượng và an toàn cho người tiêu

dùng của hàng hoá mà các nước đưa ra để hạn chế hàng hoá nhập khẩu vào nước

mình.

Khi chưa hội nhập với tổ chức thương mại khu vực hay quốc tế, các nước thường

áp dụng ba loại hàng rào : thuế quan, hạn ngạch và rào cản kỹ thuật để hạn chế

sức cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài với hàng hoá trong nước. Nhưng sau khi

hội nhập, tham gia vào các tổ chức thương mại tự do của khu vực và thế giới thì

các nước sẽ phải xoá bỏ hạn ngạch, thuế xuất nhập khẩu bằng không hoặc áp

dụng cùng một loại thuế suất đối với một loại hay một nhóm hàng. Do đó, hiện

nay, rào cản kỹ thuật là biện pháp rất quan trọng và được các nước sử dụng ngày

càng nhiều. Các quốc gia khi áp dụng rào cản kỹ thuật thường đưa ra những quy

định rất nghiêm ngặt và khó vượt qua về chất lượng và các tiêu chuẩn kỹ thuật

của hàng hoá vì vậy, rào cản kỹ thuật là một biện pháp hết sức tinh vi và hiệu quả.

Sự khác biệt giữa các hàng rào kỹ thuật với các loại rào cản trước đây là những

quy định và yêu cầu của thị trường được phát triển từ những mối quan tâm chung

của cả Chính phủ và người tiêu dùng về an toàn, sức khoẻ, chất lượng và môi

trường. Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trước đây nhìn chung là nhằm

bảo vệ các nhà sản xuất trong nước. Ngày nay, bảo vệ môi trường và bảo vệ

người tiêu dùng ngày càng được quan tâm và thay thế cho việc bảo vệ nhà sản

xuất và lao động.

1.2. Các hình thức của rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế

Rào cản kỹ thuật trong thương mại là một hình thức bảo hộ hết sức phức tạp và

tinh vi. Các yêu cầu của các thị trường đặt ra cho hàng hoá nhập khẩu liên quan

đến nhiều khía cạnh như tiêu chuẩn về quy cách, mẫu mã, bao bì, nhãn mác, về

chất lượng, về vệ sinh, về an toàn cho người tiêu dùng, an toàn cho người lao

động, về mức độ gây ô nhiễm môi sinh, môi trường… Tuy nhiên, chúng ta có thể

chia những rào cản đó thành 3 loại cơ bản sau :

 Tiêu chuẩn về chất lượng và quy cách của sản phẩm

 Tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm và an toàn cho người sử dụng

 Tiêu chuẩn về môi trường

1.2.1. Tiêu chuẩn về chất lượng và quy cách sản phẩm.

Chất lượng là yếu tố quan trọng hàng đầu để hàng hoá có thể thâm nhập vào thị

trường các nước. Người tiêu dùng các nước, đặc biệt là người tiêu dùng ở những

nước phát triển đều có yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm. Người tiêu dùng

thường ưa chuộng và đánh giá cao những hàng hoá được cấp giấy chứng nhận

chất lượng. Và các nước cũng đưa ra nhiều các quy định về chất lượng sản phẩm

đối với hàng nhập khẩu để bảo vệ lợi ích cho người tiêu dùng nước mình. Tuy

nhiên, chất lượng là một khái niệm rất rộng và phức tạp do đó có nhiều nước đã

lợi dụng việc đưa ra các tiêu chuẩn chất lượng để dựng lên những rào cản về chất

lượng đối với hàng nhập khẩu.

Hiện nay, hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 gần như là yêu cầu bắt buộc đối

với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu vì nhiều thị trường nhập khẩu bây

giờ đều yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu phải có giấy chứng nhận chất lượng

quốc tế. Người tiêu dùng có thể yên tâm hơn khi sử dụng sản phẩm của những

doanh nghiệp này. Nói cách khác, ISO 9000 có thể được coi như một ngôn ngữ

xác định chữ tín giữa người sản xuất và người tiêu dùng, giữa các doanh nghiệp

với nhau. Và thực tế cho thấy rằng ở mọi thị trường nhập khẩu hàng hoá của

những doanh nghiệp có giấy chứng nhận ISO 9000 thì dễ thâm nhập thị trường

hơn nhiều so với hàng hoá của các doanh nghiệp khác. Đối với một số chủng loại

sản phẩm thì chỉ những hàng hoá nào có đủ các giấy chứng nhận chất lượng nhất

định và đáp ứng các yêu cầu cụ thể của nước nhập khẩu thì mới được nhập vào

lãnh thổ nước đó. Ví dụ EU quy định rằng những sản phẩm nào chịu sự chi phối

của các chỉ thị có liên quan đến “cách tiếp cận mới với hệ thống hài hoà kỹ thuật”

phải có nhãn CE chứng tỏ những sản phẩm này tuân thủ các yêu cầu đã được quy

định trong tất cả các chỉ thị đó mới được phép bán trên thị trường EU.

Trong các tiêu chuẩn về chất lượng có tiêu chuẩn về hàm lượng và các thành phần

cấu tạo nên sản phẩm. Đối với các chất không có lợi cho sức khoẻ của con người

và cho môi trường sinh thái thì các nước quy định hàm lượng tối thiểu của các

chất đó. Ví dụ, đối với hàng thuỷ sản nhập khẩu vào EU thì phải đáp ứng các tiêu

chuẩn về hàm lượng nitơ dưới dạng amoniac và độ PH trong 1 gam sảm phẩm.

Về quy cách sản phẩm, các quốc gia cũng đưa ra các quy định rất chặt chẽ liên

quan đến kích thước, hình dáng thiết kế, độ dài, các chức năng của sản phẩm. Ví

dụ, đối với một số loại rau quả và hạt nhất định muốn xuất sang thị trường Mỹ

phải đáp ứng các quy định của Mỹ về phẩm cấp, kích thước, chất lượng và độ

chín.

Bao bì, nhãn mác của sản phẩm cũng được quy định chặt chẽ. Bao bì sản phẩm

ngoài các yêu cầu phải phù hợp với việc tái sinh, sử dụng lại và không gây ô

nhiễm môi trường, còn phải đáp ứng các quy định về mẫu mã và kích cỡ bao bì.

Việc bao gói và bảo quản phải có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền để có thể

đảm bảo chất lượng của hàng hoá. Trên bao bì phải ghi rõ các hướng dẫn vận

chuyển, lưu kho và các hướng dẫn chuyên môn khác bằng các ngôn ngữ cần thiết.

Luật pháp của các nước thường quy định hết sức nghiêm ngặt về việc ghi nhãn

đối với hàng hoá. Các nước yêu cầu trên nhãn hàng hoá phải ghi đủ những thông

tin cần thiết về sản phẩm và nhà sản xuất bằng các ngôn ngữ theo quy định của

từng nước để giúp khách hàng lựa chọn và đảm bảo an toàn cho khách hàng khi

sử dụng. Nhãn hàng phải đáp ứng đúng quy định thì sản phẩm mới được lưu

thông trên thị trường.

Mục đích của các quy định và tiêu chuẩn này là nhằm bảo vệ an toàn và sức khoẻ

cho con người, cho động thực vật và môi trường của nước nhập khẩu. Tuy nhiên

do sự chênh lệch về trình độ phát triển nên những quy định này của các nước phát

triển đã tạo ra một rào cản rất khó vượt đối với hàng hoá của các nước đang và

kém phát triển vì những nước này chưa có trình độ khoa học công nghệ cao nên

khó có thể đáp ứng được những yêu cầu này.

1.2.2. Tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm và an toàn cho người sử dụng

Vệ sinh thực phẩm và an toàn cho người sử dụng là những vấn đề được người

tiêu dùng và Chính phủ các nước đặc biệt quan tâm vì nó liên quan trực tiếp đến

sức khoẻ và an toàn của người tiêu dùng. Từ cuối những năm 1990 cho đến gần

đây, vì nguy cơ truyền nhiễm bọt não bò vẫn được gọi là bệnh bò điên người tiêu

dùng các nước đã tẩy chay những sản phẩm có nguy cơ lây bệnh. Còn các nước

thì cấm nhập khẩu các sản phẩm có nguồn gốc từ động vật từ các nước có bệnh

bò điên và tiêu huỷ các sản phẩm đã được nhập khẩu có nghi ngờ mang mầm

bệnh.

Tháng 2-2002, EU đã loại bỏ Trung Quốc ra khỏi danh sách các nước xuất khẩu

thuỷ sản sang EU do Trung Quốc không đáp ứng được các yêu cầu về kiểm soát

dư lượng kháng sinh chloramphenicol của EU và quyết định kiểm tra tất cả các lô

hàng tôm nhập khẩu từ Việt Nam, Myanmar và Thái Lan vì phát hiện thấy hàm

lượng chất nitrofuran và chloramphenicol quá cao trong các lô tôm nhập khâủ từ

5 nước châu Á gây thiệt hại rất lớn cho ngành xuất khẩu thuỷ sản của các nước

này.

Qua những sự kiện trên, chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề vệ

sinh và an toàn đối với hàng hoá xuất khẩu, đặc biệt là đối với hàng thực phẩm.

Và thực tế thì các quốc gia cũng quản lý vấn đề này rất nghiêm ngặt. Các biện

pháp quản lý về vệ sinh thực phẩm và an toàn cho người tiêu dùng bao gồm tất cả

các luật, nghị định, quy định, yêu cầu và thủ tục liên quan như các tiêu chuẩn đối

với sản phẩm cuối cùng; các phương pháp sản xuất và chế biến, các thủ tục xét

nghiệm, giám định, chứng nhận và chấp thuận; những xử lý cách ly bao gồm các

yêu cầu liên quan đến việc vận chuyển cây trồng vật nuôi, các chất trong quá trình

nuôi dưỡng chúng trong quá trình vận chuyển; những quy định về phương pháp

thống kê, thủ tục chọn mẫu và các phương pháp đánh giá rủi ro.

Các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật Bản, các nước thuộc liên minh

châu Âu EU, Canada… đều ban hành Luật Vệ sinh thực phẩm và Luật trách

nhiệm sản phẩm hay các luật và các quy định tương tự để bảo vệ cho quyền lợi

người tiêu dùng. Theo đó, thì các nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm về những

tổn thất xảy ra đối với người tiêu dùng nếu đưa ra một sản phẩm có sai sót. Nước

nào cũng thành lập cơ quan kiểm dịch hàng hoá để kiểm tra vệ sinh và các tiêu

chuẩn an toàn của các sản phẩm nhập khẩu vào nước mình.

Điển hình như EU là thị trường được coi là rất khó tính đối với thực phẩm nhập

khẩu đã ban hành 16 quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các loại thuỷ

sản nhập khẩu vào khối này. Đó là các quy định về tiêu chuẩn nuôi trồng, chế

biến, tồn trữ và vận chuyển; về hệ thống kiểm tra HACCP, về dư lượng tối đa các

chất độc hại trong sản phẩm. Sản phẩm nhập khẩu vào EU sẽ phải chịu sự kiểm

tra gắt gao gồm ba bước: kiểm tra chứng từ về vệ sinh y tế, kiểm tra sự đồng nhất

giữa chứng từ và sản phẩm, kiểm tra trên sản phẩm.

Trong các quy định về vệ sinh và an toàn cho người tiêu dùng thì giấy chứng

nhận tiêu chuẩn xác định tình trạng nguy hiểm HACCP là một quy định bắt buộc

của rất nhiều thị trường. Nếu các doanh nghiệp không áp dụng và có giấy chứng

nhận đạt tiêu chuẩn HACCP thì không được phép xuất khẩu hàng sang những thị

trường có yêu cầu về điều kiện này. Các doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần tuân

thủ nghiêm ngặt tiêu chuẩn thực hành sản xuất tốt GMP – Good Manufacturing

Practice ( GMP đòi hỏi người công nhân, nhà máy, các phương tiện chế biến, đồ

chứa, nguồn nước phải đảm bảo an toàn vệ sinh) và các quy định trong hiệp định

về các biện pháp vệ sinh và vệ sinh thực phẩm của WTO. Ngoài ra, tuỳ theo mặt

hàng và tuỳ theo yêu cầu của từng thị trường mà còn có nhiều các quy định khác

như quy định về nhãn mác sản phẩm, các chỉ tiêu vi sinh quy định loại, lượng

khuẩn có trong sản phẩm đối với thuỷ sản, các chỉ tiêu về tiếng ồn, mức phóng xạ

đối với các sản phẩm tiêu dùng…

Tóm lại, cũng như các loại rào cản kỹ thuật khác, rào cản về vệ sinh và an toàn

cho người tiêu dùng là một loại rào cản hết sức phức tạp , tinh vi, đa dạng và

được sử dụng ngày càng nhiều khiến cho các doanh nghiệp xuất khẩu rất khó nắm

bắt và khó vượt qua gây cản trở không ít cho thương mại quốc tế.

1.2.3. Tiêu chuẩn về môi trường

Phát triển thương mại gắn với bảo vệ môi trường đang là xu thế thương mại quốc

tế, đó là phát triển thương mại bền vững trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,

được gọi chung là “thương mại-môi trường”. Sau một thời gian dài chạy theo lợi

nhuận, phát triển ồ ạt, không quan tâm đến môi trường sinh thái, các quốc gia đã

nhận thấy tầm quan trọng của môi trường đối với sự phát triển bền vững và đã

thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ môi trường, trong đó có việc đưa ra

các tiêu chuẩn về môi trường đối với hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, do các quy

định của WTO cho phép các nước sử dụng các biện pháp bảo hộ vì mục đích môi

trường nên các quốc gia đã thực sự dựng nên những rào cản về môi trường đối

với hàng hoá của nước ngoài nhập khẩu vào nước mình. Hiện nay giấy chứng

nhận ISO 14000 đã trở thành một yêu cầu bắt buộc, một giấy thông hành của

doanh nghiệp khi muốn xuất hàng sang các nước khác, đặc biệt là khi xuất sang

thị trường những nước phát triển.

Hệ thống rào cản môi trường trong thương mại quốc tế hiện nay rất đa dạng và

được áp dụng rất khác nhau ở các nước tuỳ vào điều kiện cụ thể của mỗi nước.

Nhưng nhìn chung, các rào cản môi trường thường được áp dụng trong thương

mại quốc tế bao gồm :

 Các phương pháp chế biến và sản xuất theo quy định môi trường

Đây là các tiêu chuẩn quy định sản phẩm cần phải được sản xuất như thế nào. Các

tiêu chuẩn này áp dụng cho giai đoạn sản xuất, nghĩa là giai đoạn trước khi sản

phẩm được tung ra trên thị trường. Về mặt môi trường, việc xem xét quy trình sản

xuất là để giải quyết một trong những câu hỏi trọng tâm của quá trình quản lý môi

trường: sản phẩm được sản xuất như thế nào, sản phẩm được sử dụng như thế

nào, sản phẩm được vứt bỏ như thế nào, những quá trình này có làm tổn hại đến

môi trường không.

Những quy định và tiêu chuẩn về phương pháp chế biến được áp dụng để hạn chế

chất thải ô nhiễm và lãng phí tài nguyên không tái tạo. Đây là những tiêu chuẩn

đối với công nghệ, quá trình sản xuất sản phẩm nhằm đánh giá xem quá trình sản

xuất có gây ô nhiễm và huỷ hoại môi trường hay không.

 Các yêu cầu về đóng gói bao bì :

Vấn đề bao bì sau tiêu dùng liên quan đến việc xử lý chất thải rắn. Các chính sách

đóng gói bao gồm những quy định liên quan đến nguyên vật liệu đóng gói, những

quy định về tái sinh, những quy định về xử lý và thu gom sau quá trình sử dụng…

Những tiêu chuẩn và quy định liên quan đến những đặc tính tự nhiên của sản

phẩm và nguyên liệu đóng gói đòi hỏi việc đóng gói phải phù hợp với việc tái

sinh hay dùng lại. Những sản phẩm không phù hợp có thể bị thị trường từ chối cả

nguyên vật liệu đóng gói và sản phẩm chứa trong bao bì.

 Nhãn môi trường :

Sản phẩm được dán nhãn sinh thái nhằm mục đích thông báo cho người tiêu dùng

biết là sản phẩm đó được coi là tốt hơn về mặt môi trường. Các tiêu chuẩn về dán

nhãn sinh thái được xây dựng trên cơ sở phân tích chu kỳ sống của sản phẩm, một

quá trình còn được gọi là phân tích từ đầu đến cuối (từ lúc sinh đến lúc chết).

Theo phương pháp này, người ta sẽ đánh giá mức độ ảnh hưởng đối với môi

trường của sản phẩm ở các giai đoạn khác nhau trong toàn bộ chu kỳ sống của nó.

Các giai đoạn này bao gồm giai đoạn tiền sản xuất (chế biến nguyên liệu thô), sản

xuất, phân phối (bao gồm cả đóng gói), sử dụng hoặc tiêu thụ và loại bỏ sau khi

sử dụng.

 Phí, thuế và các khoản thu liên quan đến môi trường:

Các khoản này được gọi chung là phí môi trường thường được áp dụng nhằm ba

mục tiêu chính: thu lại các chi phí phải sử dụng cho môi trường, thay đổi cách

ứng xử của cá nhân và tập thể đối với các hoạt động có liên quan tới môi trường

và thu quỹ cho các hoạt động bảo vệ môi trường. Thường có các loại phí sau:

- Phí sản phẩm: được áp dụng cho các sản phẩm gây ô nhiễm như có chứa các

hoá chất độc hại (xăng pha chì) hoặc có một số thành phần cấu tạo của sản phẩm

gây khó khăn cho việc thải loại sau sử dụng.

- Phí đối với khí thải: được áp dụng với các chất gây ô nhiễm thoát vào không

khí, nước hoặc đất hoặc gây tiếng ồn. Các khoản phí này có thể được đánh vào

thời điểm tiêu thụ (trong trường hợp này tương đương với phí sản phẩm và có tác

động tương tự đến thương mại), hoặc có thể được thu dưới hình thức phí đối với

người sử dụng để trang trải chi phí xử lý rác thải công cộng.

- Phí hành chính: được áp dụng cùng với các quy định để trang trải các chi phí

dịch vụ của Chính phủ và có thể được thu dưới hình thức phí giấy phép, đăng ký,

phí kiểm định và kiểm soát. Cơ sở của việc đánh thuế hay thu phí vì mục đích

môi trường được dựa trên nguyên tắc người gây ô nhiễm và người sử dụng các

nguồn lực môi trường phải chịu phí.

Tất cả các rào cản môi trường này đều ảnh hưởng tới thương mại quốc tế, tới sức

cạnh tranh của các doanh nghiệp, các quốc gia.

Các quy định về môi trường được các nước sử dụng ngày càng nhiều và đã thật

sự trở thành một rào cản hữu hiệu để bảo hộ thị trường trong nước mà vẫn phù

hợp với các quy định của WTO.

Ngoài các hình thức trên, rào cản kỹ thuật trong thương mại còn tồn tại dưới

những hình thức khác như các biện pháp an ninh: các nước đưa ra các quy định

hạn chế nhập khẩu, thậm chí cấm nhập khẩu vì những lý do an ninh hay các tiêu

chuẩn an toàn cho người lao động: một số quốc gia không nhập khẩu hàng hoá từ

những doanh nghiệp không đáp ứng được các điều kiện an toàn cho người lao

động.

Các nước có thể dựa vào nhiều lý do khác nhau để đưa ra các tiêu chuẩn nhằm

mục đích bảo vệ thị trường, người tiêu dùng và môi trường trong nước cho nên

rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế tồn tại dưới nhiều hình thức rất đa dạng

và phức tạp.

2. Quy định của WTO về rào cản kỹ thuật trong thương mại

Do thương mại quốc tế ngày càng phát triển, rào cản thương mại không chỉ dừng

ở hình thức hàng rào thuế quan và các hàng rào phi thuế mang tính định lượng

như cấm nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu… mà đã phát triển ngày càng tinh vi,

phức tạp hơn tạo ra nhiều trở ngại cho quá trình tự do hoá thương mại quốc tế.

Trong đó quan trọng nhất là rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế. Vì vậy,

các quốc gia, các tổ chức đa quốc gia đã ban hành rất nhiều các quy định, cũng

như tham gia ký kết các hiệp định song phương, đa phương về rào cản kỹ thuật

trong thương mại. Trong số đó, thì hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại

của GATT/WTO là quan trọng và có phạm vi hiệu lực lớn nhất.

2.1. Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại của WTO

Với mục đích thúc đẩy thương mại quốc tế, từ khi mới thành lập, GATT đã tổ

chức các vòng đàm phán thương mại về các vấn đề giao dịch. Trong các vòng

đàm phán đầu, trọng điểm thảo luận tập trung vào thuế suất. Nhưng từ vòng đàm

phán Tokyo (1973-1979), do thực tế tình hình thương mại quốc tế đã xuất hiện

những hình thức mới của rào cản thương mại nên các nước đã tập trung nghiên

cứu về các cản trở không liên quan đến thuế suất, đó là các yêu cầu kỹ thuật mà

hàng hoá phải đáp ứng trước khi nhập khẩu vào các quốc gia khác.

Và năm 1979, 17 quốc gia đã ký hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại

được gọi là điều lệ chuẩn của GATT và thoả thuận về các biện pháp vệ sinh và vệ

sinh thực phẩm.

Hiệp định về rào cản kỹ thuật có hiệu lực từ 01/01/1980. Những quy định của

Hiệp định này nhằm đảm bảo tính ổn định sản phẩm về chất lượng, giảm bớt

kiểm tra. Ngoài ra, Hiệp định còn đảm bảo tính an toàn vệ sinh cho người, gia súc

và cây cối, bảo vệ môi trường sinh thái.

Tuy nhiên Hiệp định cũng cho phép sử dụng những rào cản kỹ thuật trong những

trường hợp cần thiết. Trong phần đầu của Hiệp định có nêu rõ: “không một quốc

gia nào bị ngăn cấm đưa ra những biện pháp cần thiết nhằm bảo vệ con người,

động vật, cuộc sống hoặc sức khoẻ của thực vật, của môi trường hoặc không bị

ngăn cấm đưa ra các biện pháp nhằm ngăn cản các hành động lừa bịp với mức độ

phù hợp”.

Hiệp định quy định các nước thành viên phải đối xử một cách bình đẳng giữa các

sản phẩm nhập khẩu và các sản phẩm nội địa hoặc sản phẩm cùng loại có xuất xứ

từ bất kỳ quốc gia nào khác. Điều 2.1 nêu rõ: “ Các thành viên phải đảm bảo rằng

theo các quy định kỹ thuật, các sản phẩm nhập khẩu từ một lãnh thổ của bất cứ

Thành viên nào đều phải được đối xử không ít thuận lợi hơn các đối xử được áp

dụng cho các sản phẩm nội địa tương tự và cho cho các sản phẩm tương tự xuất

xứ từ bất cứ nước nào khác”.

Các Thành viên phải đảm bảo rằng các quy định kỹ thuật không được soạn thảo

nhằm tạo ra những trở ngại không cần thiết đối với thương mại quốc tế. Các tiêu

chuẩn và quy định kỹ thuật phải có cơ sở hợp pháp và phù hợp với các tiêu chuẩn

quốc tế và các tiêu chuẩn có thể thay đổi cho phù hợp khi tình hình thực tế hay

mục tiêu khi ban hành chúng thay đổi.

Các nước thành viên phải đảm bảo rằng các cơ quan tiêu chuẩn (cấp nhà nước,

địa phương và phi chính phủ trong phạm vi lãnh thổ của mình cũng như các cơ

quan tiêu chuẩn khu vực mà họ là thành viên ) chấp nhận và tuân thủ quy phạm

về biên soạn, ban hành và áp dụng các tiêu chuẩn ( Phụ lục 3 của Hiệp định này).

Hiệp định cũng nêu rõ quy trình đánh giá sự phù hợp theo nguyên tắc thủ tục do

nước chủ nhà ban hành gồm các tổ chức chứng nhận của chính quyền địa phương,

phi chính phủ, các tổ chức cấp vùng và cấp quốc tế.

Quy trình đánh giá sự phù hợp cũng phải đảm bảo sự thuận lợi cho các sản phẩm

nhập khẩu không kém so với các sản phẩm nội địa tương tự về mặt thời gian tiến

hành hay chi phí đồng thời không gây ra sự bất tiện không cần thiết cho người

đăng ký hay đại lý của họ.

Theo điều 6.1 các Thành viên phải đảm bảo rằng các kết quả của hoạt động đánh

giá sự phù hợp ở những Thành viên khác sẽ được chấp nhận ngay kể cả khi các

quy trình đó khác với các quy trình của chính mình.

Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại của WTO có quy định về việc

cung cấp thông tin và trợ giúp giữa các Thành viên. Theo Hiệp định, mỗi Thành

viên phải có một đầu mối liên lạc để trả lời các yêu cầu hợp lý từ các Thành viên

khác và các bên quan tâm cũng như cung cấp các tài liệu có liên quan đến và các

Thành viên khi có yêu cầu phải tư vấn và trợ giúp kỹ thuật cho các Thành viên

khác, đặc biệt là các nước đang phát triển trong các lĩnh vực theo quy định của

Hiệp định.

Hiệp định còn quy định những ưu đãi đặc biệt và khác biệt đối với các nước thành

viên đang phát triển về nhu cầu phát triển, tài chính, thương mại cũng như trong

quá trình soạn thảo, áp dụng các quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn…Các nước thành

viên đang phát triển có thể được Uỷ ban về rào cản kỹ thuật đối với thương mại

dành cho những ngoại lệ trong việc thực hiện toàn bộ hay một phần nghĩa vụ của

Hiệp định.

Hiệp định cũng thành lập một Uỷ ban về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại

gồm đại diện của các Thành viên để điều phối việc áp dụng rào cản kỹ thuật trong

thương mại của các nước nhằm tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy việc phát triển

kinh tế của các nước thành viên.

Hiệp định đưa ra các phương pháp để các bên bàn bạc và giải quyết khi có tranh

chấp xảy ra dưới sự giám sát của cơ quan giải quyết tranh chấp.

Theo tạp chí Export quality số 44 tháng 3/1995 thì “ Hiệp định về rào cản kỹ

thuật trong thương mại quốc tế nhằm tạo ra những cơ cấu, những định chế trong

các doanh nghiệp, trong các quốc gia, trong các khu vực nhằm giảm thiểu hoặc

loại trừ dần rào cản kỹ thuật trong thương mại giữa các tổ chức”.

2.2. Hiệp định về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật của WTO

Bên cạnh Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại, WTO đưa ra Hiệp định

về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật (SPS – Sanitary and

Phytosanitary Measures) để điều chỉnh việc áp dụng các biện pháp vệ sinh và

kiểm dịch động vật có ảnh hưởng tới thương mại của các nước.

Hiệp định về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật của WTO cũng cho

phép các nước thành viên sử dụng các biện pháp cần thiết liên quan đến vấn đề vệ

sinh và kiểm dịch động vật để bảo vệ con người, động thực vật và môi trường của

mình trong những trường hợp cần thiết với điều kiện các biện pháp này không

được tạo nên một sự đối xử bất công bằng giữa các Thành viên cũng như không

được tạo ra các rào cản trá hình đối với thương mại quốc tế.

Hiệp định cũng hướng tới việc thống nhất các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch

động vật của các Thành viên. Do đó, Hiệp định quy định rõ các biện pháp vệ sinh

và kiểm dịch động vật phải được dựa trên các tiêu chuẩn, những hướng dẫn và

quy định quốc tế. Các Thành viên không được ban hành và duy trì sử dụng các

biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật nếu những biện pháp này tạo ra một sự

bảo vệ lớn hơn về mặt vệ sinh so với sự bảo vệ mà các biện pháp phù hợp với các

quy định quốc tế tạo ra trừ khi có những chứng cứ khoa học đầy đủ. Để tạo ra sự

phù hợp giữa các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch được các nước thành viên sử

dụng và các tiêu chuẩn, quy định quốc tế thì các Thành viên phải nỗ lực hết sức

trong điều kiện có thể để phối hợp với các tổ chức quốc tế có liên quan để xây

dựng cũng như thường xuyên xem xét lại các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan đến

các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật.

Để ngăn cản các Thành viên có thể dùng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động

vật để cản trở thương mại quốc tế, Hiệp định có quy định về việc đánh giá nguy

cơ và mức độ bảo hộ vệ sinh hợp lý. Theo đó, các Thành viên trong quá trình

đánh giá nguy cơ và mức độ bảo hộ vệ sinh hợp lý phải sử dụng các công cụ đánh

giá của các tổ chức quốc tế liên quan và phải tính đến các yếu tố như: các bằng

chứng khoa học; phương pháp sản xuất và chế biến ; kết quả giám định, phương

pháp kiểm tra và lấy mẫu ; các điều kiện môi trường và sinh thái; sự tồn tại của

các vùng dịch bệnh hay các vùng miễn dịch.... Ngoài ra, các Thành viên còn phải

tính đến các yếu tố khác như: các yếu tố kinh tế liên quan, tính khả thi về mặt kỹ

thuật và kinh tế. Đặc biệt, các nước cần chú ý đến việc giảm thiểu các tác động

tiêu cực đối với thương mại của các biện pháp bảo hộ đó.

Hiệp định cũng nêu rõ các Thành viên phải đảm bảo các biện pháp vệ sinh và

kiểm dịch động vật của mình phù hợp với đặc điểm vệ sinh và kiểm dịch động vật

của khu vực xuất xứ của sản phẩm.

Theo Hiệp định, các Thành viên phải đảm bảo tính minh bạch của các biện pháp

mà mình áp dụng. Các Thành viên phải công bố rộng rãi cho các Thành viên khác

về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật của mình cũng như những thay

đổi của các biện pháp đó.

Đồng thời, Hiệp định này cũng có quy định về sự hỗ trợ kỹ thuật giữa các nước

thành viên, đặc biệt là cho các Thành viên đang phát triển thông qua các hiệp

định song phương hoặc trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế phù hợp.

Tương tự Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại, Hiệp định về các biện

pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật cũng có sự ưu đãi và đối xử đặc biệt đối với

các nước thành viên đang phát triển.

Ngoài ra, Hiệp định này cũng có các điều khoản về việc thực thi Hiệp định, điều

khoản về tư vấn và giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các Thành viên và thành

lập một Uỷ ban về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật để điều hành việc

thực hiện các điều khoản của Hiệp định.

Có thể nói Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại và Hiệp định về các

biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật của WTO là công cụ quan trọng góp

phần vào việc hội nhập thị trường thế giới của các doanh nghiệp, các quốc gia dù

ở trình độ phát triển khác nhau.

II. CÁC HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG THƯỜNG ĐƯỢC SỬ DỤNG TRÊN THẾ

GIỚI.

Trong thời đại ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu nếu các

quốc gia không muốn bị tụt hậu, bị cô lập. Nhưng khi tham gia thương mại thế

giới thì các nước lại gặp rất nhiều rào cản. Do đó, mỗi doanh nghiệp cần phải có

những giải pháp để vừa hội nhập kinh tế thành công vừa bảo đảm được những

quyền lợi của doanh nghiệp mình.

Để vượt qua các rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế, các doanh nghiệp có

thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau trong đó có việc áp dụng các hệ thống

quản lý chất lượng quốc tế. Hiện nay trên thế giới có nhiều hệ thống quản lý chất

lượng do các tổ chức tiêu chuẩn và chất lượng khác nhau ban hành và cấp giấy

chứng nhận trong đó phổ biến là hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, hệ thống

quản trị môi trường ISO 14000, hệ thống quản lý chất lượng đồng bộ TQM và hệ

thống quản lý chất lượng theo HACCP.

1. Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000.

Thực chất đây là một bộ tiêu chuẩn do Tổ chức về Tiêu chuẩn hoá (International

Organisation for Standardization - ISO) ban hành. Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 được

ban hành lần đầu năm 1987 nhằm mục đích đưa ra một mô hình được chấp nhận

ở mức độ quốc tế về hệ thống đảm bảo chất lượng và có thể áp dụng rộng rãi

trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ.

ISO 9000 là sự kế thừa của các tiêu chuẩn đã tồn tại và dược sử dụng rộng rãi,

trước tiên là trong lĩnh vực quốc phòng như tiêu chuẩn quốc phòng của Mỹ (MIL-

Q-9058A), của khối NATO (AQQP1). Viện tiêu chuẩn Anh (BSI – British

Standard Institute) đã ban hành tiêu chuẩn BS 5750 về đảm bảo chất lượng sử

dụng trong dân sự. Để phục vụ cho nhu cầu giao lưu thương mại quốc tế, Tổ chức

Tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO đã thành lập ban kỹ thuật TC 176 để soạn thảo bộ

tiêu chuẩn về quản lý chất lượng. Những tiêu chuẩn đầu tiên của bộ tiêu chuẩn

được ban hành năm 1987 là ISO 8402 và được sửa đổi lần đầu tiên năm 1994

thành ISO 9000 và năm 2000 phiên bản ISO 9000-2000 ra đời. ISO 9000 đề cập

đến các lĩnh vực chủ yếu trong quản lý chất lượng như chính sách chất lượng,

thiết kế triển khai sản phẩm và quá trình cung ứng, kiểm soát quá trình, bao gói,

phân phối, dịch vụ sau khi bán, xem xét đánh giá nội bộ, kiểm soát tài liệu, đào

tạo… ISO 9000 tập hợp các kinh nghiệm quản lý chất lượng tốt nhất đã được

thực thi trong nhiều quốc gia và khi vực và được chấp nhận là tiêu chuẩn quốc gia

của nhiều nước.

Mục tiêu lớn nhất của bộ ISO 9000 là đảm bảo chất lượng đối với nguời tiêu

dùng.

Bộ ISO 9000 gồm 24 tiêu chuẩn, chia thành 5 nhóm là:

 ISO 9001: Hệ thống chất lượng – Mô hình đảm bảo chất lượng trong quá

trình thiết kế, sản xuất, lắp đặt và dịch vụ.

 ISO 9002: Hệ thống chất lượng – Mô hình đảm bảo chất lượng trong quá

trình sản xuất lắp đặt và dịch vụ.

 ISO 9003: Hệ thống chất lượng – Mô hình đảm bảo chất lượng trong quá

trình kiểm tra cuối cùng và thử nghiệm.

 ISO 9004.1: Quản lý chất lượng và các yếu tố trong hệ thống chất lượng.

Phần 1: Hưóng dẫn

 ISO 9004.2: Quản lý chất lượng và các yếu tố trong hệ thống chất lượng

Phần 2: Hướng dẫn dịch vụ

Bốn triết lý của bộ ISO 9000:

 Phương hướng tổng quát của bộ ISO 9000 là nhằm tạo ra những sản phẩm

và dịch vụ có chất lượng để thoả mãn nhu cầu của khách hàng bên trong và

bên ngoài doanh nghiệp.

 Các đặc trưng kỹ thuật đơn thuần không thể đảm bảo sự phù hợp của sản

phẩm đối với nhu cầu của khách hàng.Các tiêu chuẩn của hệ thống chất

lượng sẽ bổ sung thêm vào các đặc trưng kỹ thuật của sản phẩm nhằm thoả

mãn một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng.

 Bộ ISO 9000 nêu ra những hướng dẫn đối với hệ thống chất lượng cho việc

phát triển có hiệu quả chứ không áp đặt một hệ thống chất lượng chuẩn đối

với từng doanh nghiệp. Hệ thống chất lượng của mỗi doanh nghiệp bị chi

phối bởi tầm nhìn, văn hoá, cách quản trị, cách thực hiện, ngành công

nghiệp, loại sản phẩm hay dịch vụ. Mỗi loại hình doanh nghiệp sẽ có hệ

thống quản lý chất lượng đặc trưng phù hợp cho từng hoàn cảnh cụ thể.

 Hệ thống chất lượng của bộ ISO 9000 dựa trên mô hình quản trị theo quá

trình (MBP – Management By Process) lấy phòng ngừa làm phương châm

chủ yếu trong suốt vòng đời sản phẩm (thiết kế - sản xuất - tiêu dùng).

Bộ tiêu chuẩn ISO là một bộ tiêu chuẩn mang tính toàn cầu, được thừa nhận rộng

rãi trên thế giới do đó các doanh nghiệp sẽ có lợi ích rất lớn nếu được bên thứ ba

công nhận đạt tiêu chuẩn ISO 9000. Các doanh nghiệp ISO 9000 này sẽ được:

- Bên mua hàng hoá, dịch vụ hay bỏ thầu miễn giảm việc thử nghiệm lại sản

phẩm.

- Xuất khẩu và trúng thầu dễ dàng đối với các đối tác nước ngoài.

- Có hệ thống mua bán tin cậy trong việc bán hàng giữa các doanh nghiệp cũng

như giữa các quốc gia.

- Dễ được thị trường khó tính chấp nhận, đặc biệt là các sản phẩm liên quan đến

sức khoẻ, an ninh và môi trường.

2. Hệ thống quản trị môi trường ISO 14000.

ISO 14000 là tiêu chuẩn về hệ thống quản trị môi trường (Environment

Management System – EMS) do Tổ chức Tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO xây dựng

và ban hành. ISO 14000 bắt nguồn từ sự cam kết của ISO nhằm hỗ trợ mục tiêu

“phát triển bền vững” được thoả luận tại Hội nghị Liên hợp quốc về môi trường

và phát triển ở Rio de Janeiro, 1992. ISO thành lập Uỷ ban kỹ thuật ISO/TC207

về quản lý môi trường năm 1993. Thành phần của Uỷ ban Kỹ thuật TC 207 gồm

các phái đoàn thương mại và chuyên gia chính phủ từ 55 quốc gia tham gia và có

16 quốc gia tham gia với tư cách quan sát viên. Những tiêu chuẩn đầu tiên do TC

207 xây dựng được ấn hành năm 1996. Kết quả hoạt động của Uỷ ban này được

biết chung dưới tiêu đề “bộ tiêu chuẩn ISO 14000”. Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 là

tập hợp các tiêu chuẩn cùng họ, bao gồm các tiêu chuẩn và các hướng dẫn chủ

yếu liên quan đến vấn đề quản lý môi truờng. Bộ tiêu chuẩn này thích ứng với

yêu cầu giải quyết vấn đề môi trường toàn cầu, mục đích chính của nó là cải thiện

việc quản lý môi trường, bảo vệ môi trường, chú trọng đến các tác động, các ảnh

hưởng xấu của quá trìng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đến môi trường.

Áp dụng ISO 14000 đi liền với việc thiết lập vận hành một hệ thống quản lý môi

trường.

Các tiêu chuẩn ISO 14000 dưa ra những chuẩn cứ được quốc tế thừa nhận về

quản lý, đo lường và đánh giá môi trường. Các tiêu chuẩn này tuy không đề cập

đến những chỉ tiêu chất lượng môi trường nhưng những công cụ được đưa ra lại

là những công cụ hữu hiệu giúp các tổ chức và các doanh nghiệp thực hiện việc

đánh giá và kiểm soát tác động môi trường đối với các hoạt động, sản phẩm và

dịch vụ của mình. ISO 14000 được biên soạn để áp dụng cho tất cả các loại hình

và quy mô tổ chức/doanh nghiệp. Kể từ những tiêu chuẩn đầu tiên được xuất bản

năm 1996 đến nay, bộ tiêu chuẩn ISO đã có khoảng 20 tiêu chuẩn, báo cáo kỹ

thuật, hướng dẫn sử dụng.

Theo tiêu chuẩn ISO 14001 – Hệ thống quản lý môi trường. Quy định và hướng

dẫn sử dụng ( một trong các tiêu chuẩn của bộ ISO 14000), một hệ thống quản lý

môi trường gồm 5 thành phần cơ bản sau:

 Chính sách môi trường: phù hợp với bản chất, quy mô và tác động môi

trường của các hoạt động, sản phẩm và dịch vụ, thể hiện các định hướng và

cam kết về cải tiến liên tục, tuân thủ các quy định về môi trường và ngăn

ngừa ô nhiễm.

 Lập kế hoạch: xác định và phân tích các khía cạnh của tác động môi trường

do các hoạt động, sản phẩm và dịch vụ gây ra, thiết lập các mục tiêu và chỉ

tiêu môi trường nhất quán với chính sách môi trường, định rõ trách nhiệm

nhằm đạt được các mục tiêu và chỉ tiêu ở từng bộ phận chức năng, định rõ

phương tiện và biểu đồ thời gian để đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu.

 Áp dụng và hoạt động: xây dựng và đưa ra các quy trình (đào tạo, thông

tin, tài liệu, kiểm soát tài liệu, kiểm soát hoạt động…) vào thực hiện nhằm

đạt được các mục tiêu và chỉ tiêu môi trường đã đề ra.

 Kiểm tra và hành động chỉnh sửa: giám sát và đo các chỉ tiêu môi trường

nhằm đánh giá sự phù hợp so với các mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra, trong

trường hợp chưa đạt được sự phù hợp thì phải có các thủ tục xác định trách

nhiệm và quyền hạn xử lý cũng như tiến hành các hành động khắc phục,

thiết lập và duy trì một chương trình và trình tự đánh giá định kỳ hệ thống

quản lý môi trường.

 Xem xét lại của ban lãnh đạo: lãnh đạo cao nhất của tổ chức sau từng thời

gian đã được xác định xem xét lại hệ thống quản lý môi trường nhằm đảm

bảo tính thích hợp, đầy đủ và hiệu quả liên tục của hệ thống.

Giống như bộ tiêu chuẩn ISO 9000, bộ tiêu chuẩn ISO 14000 cũng đem lại lợi ích

không nhỏ đối với doanh nghiệp. Trong nền thương mại quốc tế hiện nay, một số

quốc gia thường lợi dụng điều khoản liên quan đến những biện pháp bảo vệ môi

trường, bảo vệ con người để bảo vệ sản phẩm của mình dựng lên những rào cản

môi trường đối với thương mại thì ISO 14000 có thể được coi là một sự đảm bảo

cho hàng hoá của các nước có thể vượt qua các rào cản đó để bước chân vào thị

trường các nước khác.

Tóm lại ISO 14000 góp phần làm tăng ý thức bảo vệ môi trường của người dân,

thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật về công tác bảo vệ môi trường, giúp

doanh nghiệp tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước thông

qua việc giảm giá thành, tạo lập hình ảnh tốt đẹp trong tâm trí người tiêu dùng,

thúc đẩy sự phát triển của “mậu dịch xanh”.

3. Hệ thống quản lý chất lượng đồng bộ (TQM).

Theo tiêu chuẩn ISO 8402:1994 (TCVN5814:1994): “Quản lý chất lượng đồng

bộ (Total Quality Management – TQM) là một phương pháp quản lý của một tổ

chức định hướng vào chất lượng, dựa trên sự tham gia của mọi thành viên và

nhằm đem lại sự thành công dài hạn thông qua sự thoả mãn khách hàng và lợi ích

của mọi thành viên của công ty, của xã hội”.

TQM đã được đưa ra và áp dụng đầu tiên vào thập kỷ 20 tại các nhà máy ở Mỹ.

Do nó có tác dụng thực tiễn trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, trong quản

lý chất lượng nên càng ngày TQM càng được nhiều nước trên thế giới coi trọng

và đã áp dụng rộng rãi cả ở khu vực sản xuất kinh doanh và khu vực quản lý hành

chính công. Ngày nay, các nhà quản lý hành chính hiện đại nhận ra rằng các

phương pháp tư duy và tiếp cận truyền thống trong quản lý ít có tác dụng đảm bảo

kết quả dịch vụ đáp ứng nhu cầu khách hàng. Việc chuyển sang phương pháp

quản lý theo TQM đã có tác dụng làm cho các tổ chức, đơn vị dịch vụ công tăng

cường hiệu quả hoạt độngvà tận dụng được các nguồn lực.Và TQM đã được coi

là chìa khoá của thành công.

Mục tiêu cuối cùng của TQM là làm cho tổ chức đạt được chất lượng tổng thể

trong toàn bộ các lĩnh vực hoạt động. Chất lượng ở đây không chỉ các sản phẩm,

dịch vụ có chất lượng mà còn bao gồm cả các yếu tố trong vận hành và hoạt động

của tổ chức. Có nghĩa là chất lượng hoạt động của một tổ chức được phản ánh

trên nhiều mặt từ hiệu quả của công tác quản lý, năng lực của cán bộ nhân viên

đến hiệu quả của các hệ thống vận hành...

Đặc điểm nổi bật của TQM so với các phương pháp quản lý chất lượng trước đây

là nó cung cấp một hệ thống toàn diện cho công tác quản lý và cải tiến mọi khía

cạnh có liên quan đến chất lượng và huy động sự tham gia của mọi bộ phận và

mọi cá nhân để đạt mục tiêu chất lượng đề ra.

Trong quá trình hoạt động, TQM thường xuyên kiểm soát các chi phí để đảm bảo

tận dụng tốt các nguồn lực, chất lượng sản phẩm cao, công việc được thực hiện

đúng quy trình và tạo ra được các giá trị bổ sung.

Để thực hiện tốt TQM và đảm bảo cho TQM trở thành nề nếp hoạt động của tổ

chức phải xây dựng được một môi trường công việc thuận lợi. Muốn vậy, phải

đảm bảo các nguyên tắc sau:

 Sự ủng hộ của lãnh đạo.

 Xây dựng kế hoạch chiến lược lâu dài về chất lượng.

 Hướng vào khách hàng.

 Tổ chức đào tạo và ghi nhận nỗ lực của cán bộ nhân viên.

 Thúc đẩy phương pháp làm việc theo nhóm.

 Xây dựng các biện pháp đánh giá do lường công việc.

 Chú trọng để đảm bảo chất lượng.

Nhìn chung, TQM là một phương pháp quản lý chất lượng có hiệu quả cao và đã

được thực tiễn chứng minh. Do đó, TQM ngày càng được áp dụng rộng rãi ở các

nước trên thế giới.

4. Hệ thống HACCP.

HACCP ( Hazard Analysis and Critical Control Point) là hệ thống phân tích mối

nguy và xác định điểm kiểm soát trọng yếu. HACCP là sự tiếp cận có tính khoa

học, hợp lý và có tính hệ thống cho sự nhận biết, xác định và kiểm soát mối nguy

trong chế tạo, gia công, sản xuất, chuẩn bị và sử dụng thực phẩm để đảm bảo rằng

thực phẩm là an toàn khi tiêu dùng (tức là nó không có mối nguy không thể chấp

nhận cho sức khoẻ). Hệ thống này nhận biết những mối nguy có thể xảy ra trong

quá trình sản xuất thực phẩm và đặt ra các biện pháp kiểm soát để tránh những

mối nguy xảy ra.

HACCP là khái niệm được hình thành vào những năm 1960 bởi công ty Pillsbury.

Cùng với Viện quản lý không gian và hàng không quốc gia (NASA) và phòng thí

nghiệm quân đội Mỹ ở Natick, họ đã phát triển hệ thống này để đảm bảo an toàn

thực phẩm cho các phi hành gia trong chương trình không gian. Việc phát triển kế

hoạch liên quan khắp thế giới về an toàn thực phẩm bởi những người có thẩm

quyền, sức khoẻ cộng đồng, công nghiệp thực phẩm và người tiêu dùng đã là sự

thúc đẩy chủ yếu trong việc áp dụng hệ thống HACCP trong những năm gần

đây.Việc này được chứng minh bởi sự tăng lên đáng kể phạm vi ra đời thực phẩm

không bệnh tật trên thế giới và sự gia tăng nhận thức về hiệu quả kinh tế và hiệu

quả sức khoẻ của thực phẩm không bệnh tật. Và việc áp dụng HACCP được yêu

cầu ngày càng nhiều bởi những người tiêu dùng tại các thị trường như Mỹ, châu

Âu, Australia, Canada...

Nhiều tổ chức quốc tế như Viện hàn lâm Khoa học Quốc gia Mỹ, Uỷ ban Tư vấn

Quốc gia về tiêu chuẩn vi trùng học cho thực phẩm và Uỷ ban CodexWHO/FAO

đã chứng nhận HACCP là hệ thống có hiệu quả kinh tế nhất cho đảm bảo an toàn

thực phẩm.

HACCP quan trọng trong sản xuất thực phẩm vì nó kiểm soát mối nguy tiềm tàng

trong sản xuất thực phẩm. Thông qua việc kiểm soát những rủi ro thực phẩm chủ

yếu như chất gây ô nhiễm thuộc vi trùng học, hoá học và vật lý những nhà sản

xuất có thể đảm bảo tốt hơn cho người tiêu dùng rằng sản phẩm của họ an toàn

cho tiêu dùng. Việc giảm bớt mối nguy thực phẩm, việc bảo vệ sức khoẻ cộng

đồng sẽ được củng cố.

HACCP có nhiều ưu điểm so với những cách tiếp cận truyền thống để kiểm soát

an toàn thực phẩm. Những chương trình kiểm soát an toàn thực phẩm truyền

thống nói chung dựa trên sự kiểm tra “chụp ảnh nhanh” và nghiên cứu thành

phẩm tức là cách tiếp cận “quan sát, phát hiện và tiếp xúc” tin tưởng vào phát

hiện mối nguy tiềm tàng hơn là ngăn chặn. Mà những cách tiếp cận này có giới

hạn của chúng như mất nhiều thời gian mới thu được kết quả, không dự báo được

những vấn đề an toàn thực phẩm tiềm tàng, chi phí cao do việc nghiên cứu thành

phẩm, khó khăn trong việc tập hợp và nghiên cứu đủ ví dụ tiêu biểu để thu được

thông tin có ý nghĩa. Còn với hệ thống HACCP, an toàn thực phẩm được hợp

nhất vào đề cương của phương pháp chứ không phải là vào hệ thống không hiệu

lực của phương pháp nghiên cứu thành phẩm. Bởi vậy, hệ thống HACCP cung

cấp một phương pháp mang lại lợi nhuận hơn và ngăn ngừa cho an toàn thực

phẩm. Kinh nghiệm của một số quốc gia cho thấy việc áp dụng hệ thống HACCP

dẫn đến việc phòng ngừa có hiệu quả hơn bệnh tật từ sản phẩm. Ví dụ, theo Cơ

quan quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ, ứng dụng của HACCP cho máy chế

biến cá được đánh giá ngăn chặn khoảng chừng 20 đến 60% bệnh do hải sản gây

ra.

HACCP có 7 nguyên tắc làm cơ sở. Đó là:

 Hướng dẫn phân tích những mối nguy.

 Xác định những điểm kiểm soát trọng yếu (CCPs – Control Critical

Points).

 Thiết lập những ranh giới tới hạn.

 Thiết lập một hệ thống kiểm tra việc điều khiển của CCPs.

 Thiết lập hoạt động hiệu chỉnh được thực hiện khi hệ thống kiểm tra chỉ ra

một CCP đặc biệt không nằm dưới sự kiểm soát.

 Thiết lập những thủ tục kiểm tra xác định hệ thống HACCP đang làm việc

hiệu quả.

 Thiết lập tài liệu dẫn chứng liên quan tới tất cả các thủ tục và các biên bản

thích hợp với những nguyên tắc này và áp dụng của chúng.

Áp dụng hệ thống HACCP rất có ích đối với các doanh nghiệp vì nó giúp doanh

nghiệp nâng cao được chất lượng, đảm bảo vấn đề vệ sinh cho sản phẩm, nâng

cao được hình ảnh của doanh nghiệp và tăng cơ hội xuất khẩu của doanh nghiệp

sang những thị trường khó tính, có yêu cầu cao về an toàn và vệ sinh thực phẩm.

III. TÁC ĐỘNG CỦA RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

Thương mại quốc tế ngày càng phát triển. Tiến trình tự do hoá thương mại đã

được tăng tốc bởi vòng đàm phán Uruguay, điều này có nghĩa là các hàng rào phi

thuế quan như quota sẽ được bãi bỏ và những hàng rào thuế quan cũng sẽ được

cắt giảm. Tuy nhiên, thương mại thế giới vẫn gặp rất nhiều cản trở, khó khăn do

các quốc gia lần lượt dựng lên những rào cản kỹ thuật để bảo vệ thị trường trong

nước, cản trở sự phát triển thương mại tự do. Và các rào cản này thực sự đã gây ra

thiệt hại lớn cho các nước khi gặp phải chúng do đó dẫn đến những cuộc trả đũa

giữa các nước bóp méo thương mại quốc tế.

Do hình thức đa dạng và linh hoạt nên các rào cản kỹ thuật có phạm vi ảnh hưởng

rất rộng rãi. Theo điều tra của Trung tâm thương mại quốc tế (INTRACEN –

International Trade Centre), chỉ riêng các rào cản liên quan đến môi trường cũng

đã ảnh hưởng trực tiếp đến 3746 sản phẩm trong số 4917 sản phẩm được nghiên

cứu. Trong khi đó, nghiên cứu năm 1999 của WTO về rào cản thương mại đã chỉ

ra rằng chỉ có 11% trong số 2.300 các thông báo về các rào cản kỹ thuật trong

thương mại là có liên quan đến môi trường. Như vậy có thể thấy hầu hết thương

mại thế giới gặp phải cản trở của các rào cản kỹ thuật. Một khi, các nước nhập

khẩu sử dụng rào cản kỹ thuật thì các nước xuất khẩu sẽ gặp phải rất nhiều khó

khăn: xuất khẩu bị giảm sút, hàng hoá bị tiêu huỷ hay trả lại gây tổn thất lớn cho

các nước này. Thực tế, thương mại thế giới đã xảy ra nhiều trường hợp bị cản trở

và thiệt hại do gặp phải các rào cản kỹ thuật.

Trung Quốc là một quốc gia có tiềm lực phát triển kinh tế và năng lực xuất khẩu

lớn nhưng cũng gặp phải nhiều rào cản kỹ thuật từ phía các thị trường nhập khẩu.

Do xuất hiện bệnh lở mồm long móng ở Hongkong, Indonesia đã cấm nhập khẩu

ngô Trung Quốc dù rằng chưa có bằng chứng nào về dịch bệnh này ở đại lục và

cũng không có bằng chứng nào chứng minh mối liên hệ giữa bệnh này với ngô

nhập khẩu. Đầu năm 2002, do bị phát hiện có hàm lượng chất chloramphenicol và

enrofloxacine quá cao trong các sản phẩm nên Trung Quốc đã bị EU ra lệnh cấm

nhập khẩu tôm trong 3 tháng và bị loại ra khỏi danh sách I các nước được phép

xuất khẩu thuỷ sản sang EU. EU cũng cấm nhập khẩu thịt gà, thịt thỏ, mật ong.

Cũng như EU, cơ quan vệ sinh dịch tễ Nga cũng ban hành lệnh cấm tạm thời đối

với thịt lợn, thịt bò và thịt gà nhập khẩu từ Trung Quốc. Những rào cản kỹ thuật

từ các nước này đã kìm hãm xuất khẩu của Trung Quốc, đặc biệt là hàng nông sản

và thực phẩm. Theo báo cáo của Bộ thương mại Trung Quốc, năm 2001, có tới

71% các nhà xuất khẩu Trung Quốc và 39% mặt hàng xuất khẩu của nước này

gặp phải các rào cản kỹ thuật, khiến họ thiệt hại 17 tỷ USD, bằng 5,2% kim ngạch

xuất khẩu. Trong đó, riêng hàng nông sản chiếm tới 90% và thiệt hại của mặt

hàng này lên tới 9 tỷ USD.

Không chỉ có Trung Quốc, thương mại các nước khác cũng bị ảnh hưởng nặng nề

do rào cản kỹ thuật. Hồi đầu năm 2001, các nước châu Á đã bị EU ra quyết định

tịch thu và tiêu huỷ nhiều lô hàng tôm nhập khẩu do phát hiện có dư lượng chất

kháng sinh cao trong những lô hàng này của 5 nước châu Á và EU cũng quyết

định sẽ kiểm tra toàn bộ các lô hàng thuỷ sản nhập khẩu từ các nước này. Dù

chloramphenicol là loại kháng sinh được coi là có khả năng gây hại cho người

nhưng khoa học chưa đưa ra được một mức dư lượng tối đa không gây hại cho

sức khoẻ. Gần đây nhiều công trình khoa học tại Hà Lan đã cho thấy nếu mức dư

lượng thấp đến phần tỷ (ppb) thì các chất kháng sinh này cũng vô hại đối với

người tiêu dùng. Và với lượng tiêu thụ tôm hàng năm của con người thì mức gây hại của chúng thấp hơn 5000 lần so với liều lượng có thể gây bệnh ung thư (1).

Mặc dù vậy, EU vẫn kiểm tra ngày càng gắt gao dư lượng kháng sinh trong các lô

hàng bằng những trang thiết bị mới hiện đại. Như vậy có thể thấy thực sự EU đã

dựng lên một rào cản kỹ thuật đối với thực phẩm và thuỷ sản nhập khẩu vào EU.

Rào cản này của EU đã gây thiệt hại không nhỏ cho các nước xuất khẩu thuỷ sản

và thực phẩm châu Á. Lợi nhuận của xuất khẩu của các nước này đã bị sụt giảm

mạnh, tiêu biểu là Thái Lan, một nước xuất khẩu thuỷ sản lớn ở châu Á. Do việc

tăng cường kiểm tra dư lượng kháng sinh của EU mà xuất khẩu tôm của Thái Lan năm 2001 đã giảm 20-25% so với năm trước, trị giá tương đương là 100 tỷ bạt (2).

Đầu năm 1996, do phát hiện một loại bệnh có tên là bệnh bò điên (Mad-Cow

disease) ở Anh quốc và có thể đó là do ăn phải thịt của những con bò điên nên

Pháp và các nước Âu châu đã tuyên bố cấm nhập khẩu thịt bò của Anh. Sự kiện

này đã khiến Anh thiệt hại hàng tỷ đô la vì thịt bò là một mặt hàng xuất khẩu

(1) Tạp chí Doanh nghiệp thương mại, số 160, 2002 (2) Foodmarketexchange, 19/11/2002

quan trọng của Anh. Cho đến tháng 3/2002, Pháp vẫn kiên quyết duy trì lệnh cấm

nhập khẩu thịt bò Anh cho dù quyết định của Liên minh châu Âu cho rằng lệnh

cấm này là bất hợp pháp vì bệnh bò điên tại Anh đã được thanh toán. Sau đó,

chính Pháp cũng bị các nước cấm vận thịt bò vì nguy cơ mắc bệnh bò điên.

Canada chỉ có một trường hợp duy nhất về bệnh bò điên xảy ra mà cũng bị 30

nước cấm nhập khẩu thịt bò. Ngành xuất khẩu thịt bò của Canada bị thiệt hại

nặng nề, ước tính khoảng 27 triệu đôla Canada (tương đương 19 triệu USD) mỗi

ngày. Năm 2001, do dịch bệnh lở mồm long móng ở lợn nên EU đã cấm nhập

khẩu các sản phẩm thịt lợn, sữa và gia súc từ Anh, Mỹ cũng ngừng nhập khẩu thịt

lợn từ Anh mặc dù Cơ quan tiêu chuẩn thực phẩm của Anh đã tuyên bố bệnh này

không gây nguy hiểm gì cho người. Những lệnh cấm này đã làm cho nền nông

nghiệp Anh phải lao đao. Cũng dựa vào lý do đó mà Bộ nông nghiệp Braxil đã

ban hành lệnh cấm nhập gia súc của Argentina cùng đa số chủng loại thịt bò và

sản phẩm có nguồn gốc từ bò. Tokyo cũng đã cấm nhập khẩu các sản phẩm thịt từ

Hàn Quốc trong 2 năm liền do nguy cơ của bệnh này.Từ những sự kiện trên,

chúng ta có thể thấy vì rào cản vệ sinh mà các nước nhập khẩu áp dụng (ngay cả

khi nguy cơ lây nhiếm không còn) mà các nước có dịch bệnh bò điên đã phải chịu

thiệt hại lớn: phải tiêu huỷ những sản phẩm bị nghi ngờ mang bệnh, các sản phẩm

bị tẩy chay không xuất khẩu được gây ra những tổn thất khổng lồ cho các nước

này.

Hiệp định về rào cản kỹ thuật và Hiệp định về các biện pháp vệ sinh và vệ sinh

thực phẩm của WTO cho phép các thành viên, trong những điều kiện cụ thể, duy

trì mức độ bảo vệ thích hợp mà người dân đã chấp nhận trong khuôn khổ luật

pháp của nước mình. Do đó, các nước đã lợi dụng điều này để dựng lên những

rào cản đối với thương mại và cũng đã gây ra những vụ tranh chấp, trả đũa giữa

các nước vì vấn đề này. Tháng 9/2002, Trung Quốc đã tuyên bố cấm nhập khẩu

mỹ phẩm từ 18 nước châu Âu đã bị ảnh hưởng của dịch bò điên, lấy lý do là sợ

các sản phẩm đó được sản xuất từ thịt bò, cừu, dê để trả đũa việc EU cấm nhập

khẩu thuỷ sản và các sản phẩm thịt của Trung Quốc, dù EU đã cấm sử dụng

nguyên liệu từ những động vật trên để sản xuất mỹ phẩm từ giữa những năm 90.

Canada cũng đã gây sức ép với Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc trong cuộc họp của

WTO khi các nước này vẫn cấm nhập khẩu thịt bò từ Canada khi Canada đã

chứng minh được thịt bò của nước mình an toàn. Pêru đã đệ đơn kiện EU vi phạm

Hiệp định về rào cản kỹ thuật lên WTO hồi đầu năm 2001 khi EU tuyên bố chỉ có

loài cá Sardin pilchardus Walbaum ở đông bắc Đại Tây Dương mới gọi là cá

Sardin vì điều này không phù hợp với các tiêu chuẩn dinh dưỡng của Codex.

Nhưng EU đã phản đối những lập luận đó và đưa ra Hội đồng thượng thẩm WTO.

Các vụ tranh chấp và trả đũa thương mại giữa các nước đã ngăn cản thương mại

quốc tế, đi ngược lại xu hướng tự do hoá thương mại, gây thiệt hại cho thương

mại các nước nói riêng và thương mại thế giới nói chung.

Như vậy, ta có thể thấy mức độ ảnh hưởng của các loại rào cản kỹ thuật đối với

thương mại quốc tế lớn như thế nào. Những rào cản này thực sự gây nhiều khó

khăn và thiệt hại cho các nước khi phải đối mặt với chúng.

Các nước có trình độ phát triển cao, có tiềm lực kinh tế lớn và có ảnh hưởng đối

với thương mại quốc tế là những nước thường áp dụng các rào cản kỹ thuật vì các

nước này có đầy đủ cơ sở vật chất và kỹ thuật để đưa ra các rào cản và cũng có

thể dựa vào tiềm lực của mình để ép các quốc gia khác phải tuân thủ các điều kiện

do mình đặt ra. Và thực tế cũng chỉ ra rằng các nhà xuất khẩu của các nước đang

và kém phát triển là những nước chịu tác động của rào cản kỹ thuật nhiều nhất

bởi hàng xuất khẩu của những nước này chủ yếu dựa vào thiên nhiên có nguồn

gốc đa dạng sinh học mà việc khai thác chế biến ảnh hưởng đến môi trường, trình

độ khoa học công nghệ thấp kém nên các tiêu chuẩn chất lượng và các tiêu chuẩn

vệ sinh an toàn không cao vì vậy khó có thể vượt qua được các rào cản đó khi mà

thậm chí các nước phát triển cũng gặp không ít khó khăn khi gặp phải. Trong

tương lai thậm chí các nước kém phát triển này còn gặp phải những khó khăn còn

lớn hơn khi các nước tăng cường sử dụng những rào cản này.

CHƯƠNG II

THỰC TIỄN ÁP DỤNG RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI Ở

MỘT SỐ NƯỚC CÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN

I. LIÊN MINH CHÂU ÂU- EU

1. Khái quát chung về thị trường EU

Liên minh châu Âu-EU (The European Union) là một thể chế với mục tiêu thống

nhất châu Âu thành một thị trường chung. Hiện nay, EU có 15 nước thành viên,

với khoảng 375 triệu dân và là một thị trường chung lớn nhất thế giới. Và trong

tương lai gần đây, thị trường EU sẽ ngày càng được mở rộng bằng cách hoà nhập

các nền kinh tế của các nước Đông Âu. Là một khối thị trường chung, thị trường

EU phát triển vượt xa khỏi những hiệp định mậu dịch tự do giữa các nước thành

viên. Đây là một liên hiệp về hải quan và tiền tệ, cho phép hàng hoá, dịch vụ, con

người và vốn được di chuyển tự do điều hành bởi các định chế chung như Uỷ ban

châu Âu, Nghị viện châu Âu..., các hệ thống quy định luật lệ mang tính hoà hợp

chung và các chính sách phù hợp nhất.

Tuy nhiên, EU cũng là một thị trường bao gồm nhiều thị trường khác nhau, gồm

15 khối dân số, văn hoá, kinh tế khác nhau.. Do vậy, khi thâm nhập thị trường

châu Âu, các nhà xuất khẩu cũng nên lưu ý đến tính chất đặc điểm riêng của từng

thị trường thành viên. Mặc dù có thể cho rằng không có những rào cản giữa

những quốc gia thành viên, các quốc gia mở cửa cho các quốc gia thành viên

khác, các nền kinh tế thống nhất và hệ thống quy định, luật pháp hoà hợp nhưng

EU vẫn là một thị trường không đồng bộ do sự khác biệt về dân số, diện tích, tôn

giáo, văn hoá, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng và hệ thống kinh tế-

chính trị.

Về mặt kinh tế, EU là một trong những khu vực kinh tế có GDP lớn nhất thế giới. Năm 2002, GDP của EU đạt 8.447 tỷ euro (3), đứng thứ hai trên thế giới sau Mỹ.

(3) www.nationmaster.com/country/eu/economy

EU là một thị trường nhập khẩu lớn của thế giới với nhu cầu rất đa dạng, phong

phú. Tổng kim ngạch nhập khẩu từ các nước ngoài khối của EU năm 2002 là 988

tỷ euro. Giá trị nhập khẩu từ các nước đang phát triển chiếm 14% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của EU (4).

Tuy EU là một thị trường rộng lớn, ổn định, có nhiều tiềm năng và giá cả thì cao

hơn tất cả các thị trường khác nhưng EU lại là một thị trường khó tính, đòi hỏi rất

cao về chất lượng và điều kiện thương mại thì nghiêm ngặt. Hàng muốn được

nhập vào EU phải vượt qua rất nhiều rào cản với những điều kiện, luật lệ khắt

khe.

2. Một số quy định kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu vào thị trường EU

Cũng như ở các thị trường khác, khi các hàng rào thuế quan được cắt giảm và một

số hàng rào phi thuế bị dỡ bỏ thì EU cũng tăng cường đưa ra những rào cản kỹ

thuật mới làm cho việc tiếp cận thị trường EU trở nên khó khăn hơn.

EU là thành viên của Tổ chức thương mại quốc tế-WTO nên chế độ quản lý nhập

khẩu chủ yếu dựa trên các nguyên tắc của tổ chức này. Các mặt hàng quản lý

bằng hạn ngạch không nhiều, nhưng lại sử dụng khá nhiều các biện pháp phi thuế.

Mặc dù thuế quan của EU thấp hơn so với các cường quốc kinh tế lớn và có xu

hướng giảm nhưng EU vẫn là một thị trường bảo hộ rất chặt chẽ vì hàng rào kỹ

thuật rất nghiêm ngặt. Rào cản kỹ thuật của EU chính là quy chế nhập khẩu chung

và các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng được cụ thể hoá ở các tiêu chuẩn của sản

phẩm như tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn an

toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và tiêu chuẩn về lao động.

Việc sử dụng các hàng rào kỹ thuật của EU được điều chỉnh thông qua các hàng

rào kỹ thuật trong Hiệp định thương mại của WTO. Bên cạnh đó cần phải chú ý

rằng đây không chỉ là những quy định luật lệ các chính phủ áp dụng thêm nhằm

xác định các tiêu chuẩn cao trong an toàn, sức khoẻ và môi trường mà bản thân

người tiêu dùng cũng ngày càng trở nên khó chịu trước những sản phẩm và những

ảnh hưởng có hại tiềm tàng. Đó chính là nguyên nhân dẫn tới các quy định khó

(4) Báo cáo của Eurostat, 2003

khăn hơn xuất phát từ thị trường.

* Tiêu chuẩn hóa ở EU và một số chỉ thị về an toàn sản phẩm

Uỷ ban tiêu chuẩn hoá kỹ thuật điện tử châu Âu (CENELEC – European

Committee for Electronical Standardization), Uỷ ban tiêu chuẩn hoá châu Âu

(CEN – European Committee for Standardization) và Viện tiêu chuẩn viễn thông

châu Âu (ETSI – European Telecommunications Standard Institute) là 3 cơ quan

tiêu chuẩn hoá của châu Âu được coi là đủ năng lực trong việc tiêu chuẩn hoá kỹ

thuật. Ba cơ quan này đã đưa ra các tiêu chuẩn của EU trong từng lĩnh vực riêng

biệt và tạo ra “hệ thống tiêu chuẩn hoá châu Âu”. Và hiện tại, EU đang tạo ra các

tiêu chuẩn thống nhất và điều hoà cho toàn EU đối với các lĩnh vực sản phẩm

chính nhằm thay thế cho hàng ngàn các tiêu chuẩn quốc gia khác nhau. Nhìn

chung các mức độ yêu cầu được đặt ra hoặc sẽ được đặt ra trong những năm tới

đây. Các quốc gia thành viên được phép đưa ra thêm các yêu cầu cho ngành công

nghiệp của mình. Tuy nhiên, nếu sản phẩm nào đáp ứng được những yêu cầu tối

thiểu sẽ được cho phép lưu hành tự do tại EU. Tiêu chuẩn hoá không chỉ quan

trọng trong lĩnh vực sức khoẻ, an toàn mà còn trong lĩnh vực quản lý chất lượng,

sản xuất mang tính môi trường, trách nhiệm xã hội.

Để bảo vệ người tiêu dùng, EU cũng đã ra các chỉ thị như: Chỉ thị về tiếng ồn của

các thiết bị điện trong gia đình, Chỉ thị về việc sử dụng viên ngọt (chất thay thế

đường) và phụ gia trong hàng thực phẩm, và những yêu cầu khác cho giày dép,

Chỉ thị về kiểm soát việc sử dụng niken trong các vật dụng có ảnh hưởng tới da

như đồng hồ đeo tay và đồ trang sức. Tương tự, các nước thành viên cũng đưa ra

các chỉ thị áp dụng riêng cho quốc gia mình. Áo, Đức và Hà Lan áp dụng quy chế

cấm buôn bán quần áo, giày dép và bộ đồ trải giường chứa thuốc nhuộm có nguồn

gốc hữu cơ mà có thể từ chất này chiết suất ra một loại amine thơm. Pháp, Áo,

Đan Mạch, Hy Lạp và Thuỵ Điển đã áp dụng các biện pháp kiểm soát việc sử

dụng hoá chất có khả năng chuyển màu trong một số đồ chơi hoặc vật dụng của

trẻ em bằng nhựa PVC...

* Nhãn CE (Conformité Européene- European Conformity)

EU có các chỉ thị liên quan đến “cách tiếp cận mới với hệ thống hài hoà kỹ thuật”

quản lý các tiêu chuẩn về độ an toàn cho đồ chơi, máy móc và tính tương hợp

điện từ (EMC), thiết bị y tế có thể cấy dưới da, các thiết bị y tế, các thiết bị cân

không tự động, các sản phẩm xây dựng, thiết bị điện chống nổ, thiết bị điện có

hiệu điện thế thấp, các ống áp suất đơn giản, thiết bị bảo vệ cá nhân và các thiết bị

sử dụng gas. Trong đó chỉ thị EMC yêu cầu từ tháng 1/1996, tất cả các sản phẩm

điện và điện tử bán trên thị trường EU không được phát ra những sóng làm nhiễm

từ vượt quá mức tối đa đã quy định và phải có mức độ phù hợp miễn nhiễm các

sóng làm nhiễm điện từ này. Những sản phẩm chịu sự chi phối của các chỉ thị này

phải có nhãn CE. (Những sản phẩm không thuộc sự kiểm soát của các chỉ thị này

hay các luật khác của Liên minh sẽ phải tuân thủ theo Chỉ thị An toàn sản phẩm

chung, đề ra tiêu chuẩn an toàn tối thiểu mà tất cả các sản phẩm được cung cấp

trên thị trường EU phải đáp ứng).

Hiện nay, toàn bộ 15 quốc gia thành viên của EU đều yêu cầu nhãn CE cho

những nhóm sản phẩm nói trên. Ngay cả các nước thuộc Hiệp hội tự do thương

mại châu Âu (EFTA – European Free Trade Area) (trừ Thuỵ Sỹ) cũng yêu cầu

phải có dấu CE. 12 nước đang xin gia nhập EU cũng đã bắt đầu tuân thủ các yêu

cầu về dấu CE để đảm bảo rằng sản phẩm của họ có thể tự do lưu hành tại các

nước thành viên EU. CE hay còn gọi là “dấu CE” là dấu bắt buộc cho rất nhiều

loại sản phẩm (khoảng 70%) bán trên thị trường EU và nó được xem là “giấy

thông hành để bước vào thị trường EU” đối với các sản phẩm sản xuất ngoài khu

vực này. Dấu CE thể hiện công bố của nhà sản xuất trong việc tuân thủ nhũng chỉ

thị mà EU ban hành. Đối với phần lớn các sản phẩm bán trên thị trường EU, việc

sử dụng dấu CE và việc công bố phù hợp là bắt buộc. Dấu CE hé cửa cho sản

phẩm vào thị trường EU, cho phép sản phẩm được tự do lưu hành nhưng đồng

thời nó cũng cho phép hải quan và các cơ quan có thẩm quyền thu hồi những sản

phẩm không phù hợp. Hướng dẫn thực hiện các chỉ thị thống nhất của EU quy

định rõ: “Các nhà sản xuất có trách nhiệm đảm bảo rằng sản phẩm của họ trên thị

trường đáp ứng được tất cả các quy định có liên quan. Với những quy định không

yêu cầu chứng nhận bắt buộc, các nhà sản xuất vẫn thường xin đăng ký chứng

nhận tự nguyện để tự đảm bảo rằng sản phẩm của họ đáp ứng các yêu cầu của luật

pháp”. Dấu CE được yêu cầu nhiều nhất với 23 nhóm sản phẩm như: các hệ thống

và thiết bị quản lý không lưu, lắp đặt các đường cáp vận chuyển người, các sản

phẩm xây dựng, thiết bị điện, các loại thuốc nổ dân dụng, bình nước nóng, tủ lạnh

và máy làm đá gia đình, thang máy, máy móc, thiết bị hàng hải, thiết bị vô tuyến

và viễn thông đầu cuối, hệ thống đường sắt xuyên châu Âu...

Chỉ thị về an toàn sản phẩm chung 92/59/EC (thường được biết dưới tên Chỉ thị

về an toàn sản phẩm) được Cộng đồng châu Âu thông qua ngày 29/6/1992. Và

nghị định có hiệu lực hoàn toàn từ tháng 6/1994 và áp dụng cho an toàn sản phẩm

khi sản phẩm có mặt lần đầu tiên tại thị trường EU và được kéo dài suốt đời sống

có thể có của sản phẩm. Theo Chỉ thị, những nhà sản xuất và phân phối chỉ được

kinh doanh những sản phẩm an toàn. Một “sản phẩm an toàn” được định nghĩa là

một sản phẩm không có-đặc biệt ở khía cạnh thiết kế, cấu thành, hoạt động, chức

năng, bao bì, các điều kiện lắp ráp, bảo trì hay thải hồi, các hướng dẫn xử lý, sử

dụng, hoặc các đặc tính khác của sản phẩm-bất cứ một rủi ro trực tiếp hay gián

tiếp không thể chấp nhận cho an toàn và sức khoẻ của con người hoặc ảnh hưởng

trên các sản phẩm khác hay các phụ tùng của nó. Chỉ thị yêu cầu các sản phẩm

cho người tiêu dùng không được có bất kỳ rủi ro không thể chấp nhận nào và

cũng yêu cầu những người sử dụng tiềm năng những sản phẩm này được cảnh

báo đầy đủ các rủi ro có thể xảy ra. Chỉ thị về an toàn sản phẩm được đặt ra nhằm

vào sản phẩm cho người sử dụng cuối cùng (thực phẩm hay phi thực phẩm) nếu

như không có các quy định đặc biệt nào cho những sản phẩm này.

* Quy định về vệ sinh và an toàn thực phẩm

Đối với hàng thực phẩm, EU quy định hết sức chặt chẽ về vấn đề vệ sinh và an

toàn thực phẩm. Theo Báo cáo của Europa, USDA, đến cuối năm 2000, EU đã có

124 văn bản quy định về chất lượng an toàn và vệ sinh thực phẩm. Chỉ thị

93/43/EC về vệ sinh thực phẩm của EU có hiệu lực vào tháng 11/1996 quy định

“các công ty thực phẩm phải xác định từng khía cạnh trong hoạt động của họ đều

có liên quan tới an toàn thực phẩm và việc bảo đảm thủ tục an toàn thực phẩm

phải được thiết lập, áp dụng, duy trì và sửa đổi trên cơ sở của hệ thống HACCP”.

Các công ty sản xuất thực phẩm sẽ phải hiểu và phải chống lại các nguy cơ có

liên quan đến sản xuất thức ăn ở mọi công đoạn, từ nuôi trồng, chế biến, sản xuất,

phân phối đến tiêu thụ. Đấy là những rủi ro sinh học vĩ mô (súc vật), vi mô (vi

rút, vi khuẩn, mốc), độc tố (phóng xạ hoá học và thuốc trừ sâu) hay vật chất (gỗ,

kim loại, thuỷ tinh, nhựa, xơ).

Tiêu chuẩn HACCP là rất quan trọng đối với các nhà xuất khẩu nước ngoài vì các

nhà nhập khẩu của EU sẽ yêu cầu các nhà cung cấp phải thực hiện HACCP.

Riêng đối với ngành thuỷ sản, theo quy định của Chỉ thị 91/492/EEC thì các nhà

sản xuất thuỷ sản buộc phải thực hiện HACCP thì mới được xuất khẩu sang EU.

Đối với các sản phẩm trồng trọt, EU đang xây dựng các hướng dẫn về Quy trình

canh tác nông nghiệp đảm bảo (GAP). GAP gồm các tiêu chuẩn về quản lý ruộng

vườn, sử dụng phân bón, bảo vệ mùa màng và dùng thuốc trừ sâu, thu hoạch và

sau thu hoạch, sức khoẻ và an toàn công nhân. Và sắp tới trong tương lai gần, quy

trình này sẽ trở thành yêu cầu bắt buộc đối với các nhà xuất khẩu, các nhà cung

cấp hoa quả và rau tươi.

Đối với các phụ gia thực phẩm, ở các nước EU, các phụ gia thực phẩm được chấp

nhận đều mang số hiệu nhận biết, trước số hiệu là chữ E. Các phụ gia thực phẩm

phải được ghi nhãn trong danh sách các thành tố trên bao bì bằng cách cho biết

tên hay số hiệu E của nó. EU đã ban hành các Chỉ thị đặt ra các yêu cầu đối với

các chất làm ngọt (Chỉ thị 94/35/EEC), phẩm màu (Chỉ thị 94/36/EEC) và các

phụ gia thực phẩm khác (Chỉ thị 95/2/EEC) để sử dụng cho thực phẩm.

Ngoài ra, EU còn có các luật khác điều chỉnh về mức độ tối đa thuốc trừ sâu

không phân huỷ, kim loại nặng, nhiễm độc vi sinh và phóng xạ...

Về các yêu cầu dư lượng chất trong các sản phẩm, EU đưa ra giới hạn đối với

các chất như aflatoxin, chloramphenicol, nitrofuran. Tháng 1/1998, EU công bố

với WTO một đề nghị xác lập những giới hạn tối đa mới đối với aflatoxin trong

một số sản phẩm gồm một số hạt, sữa, lạc, hoa quả khô. Mới đây, EU đã tuyên bố

mức dư lượng bằng không đối với chất chloramphenicol và nitrofuran trong tôm.

Lô hàng nào mà bị phát hiện có dư lượng kháng sinh sẽ bị tiêu huỷ vô điều kiện

tại cảng đến. Những giới hạn mới được đưa ra ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc

nhập khẩu một số sản phẩm vào EU trong khi không tạo thêm được sự bảo vệ nào

đối với người tiêu dùng. Hiện nay, EU chỉ cho phép sử dụng 4 loại kháng sinh

làm chất kích thích tăng trưởng cho gà, gà tây, lợn và bò. EU kiểm tra dư lượng

kháng sinh trong sản phẩm vô cùng chặt chẽ. Hơn nữa, EU còn đưa ra thủ tục mới

về lấy mẫu dẫn tới một số lượng lớn hàng hoá bị từ chối mặc dù những hàng hoá

này được các nước xuất khẩu coi là an toàn trên thực tế.

Về nhãn mác của sản phẩm, đối với hàng thực phẩm đóng gói phải ghi rõ tên sản

phẩm, thành phẩm, trọng lượng, thời gian và cách sử dụng sản phẩm, nơi sản

xuất, các điều kiện bảo quản và sử dụng, mã số và mã vạch để nhận dạng lô hàng.

Đối với thực phẩm biến đổi gen, EU có quy định với các yêu cầu chi tiết trong

việc đặt nhãn mác cho tất cả các loại thực phẩm và nguyên liệu thực phẩm chế

biến mới bao gồm cả các thực phẩm được làm từ các chất biến đổi gen. Đối với

nhãn/mác thịt bò, từ 31/8/1998, nhãn mác trên thịt bò đóng gói để bán cho người

tiêu dùng phải được EU và các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia thành

viên phê chuẩn, nhằm cung cấp cho người tiêu dùng các thông tin cần thiết liên

quan đến sản phẩm.

* Tiêu chuẩn vệ sinh đối với thuỷ hải sản nhập khẩu

Riêng về hàng thuỷ sản nhập khẩu, EU có hai chỉ thị: Chỉ thị 91/493/EEC quy

định các điều kiện y tế đối với việc sản xuất và đưa hàng vào thị trường thuỷ sản

nói chung và Chỉ thị 91/492/EC quy định các điều kiện nghiêm ngặt đối với động

vật thân mềm hai mảnh vỏ sống. Theo Chỉ thị 91/493/EC ban hành tháng 6/1993,

thì các doanh nghiệp tại các nước xuất khẩu phải có điều kiện tương đương như

các doanh nghiệp của nước nhập khẩu và phải được cơ quan kiểm tra chất lượng

của EU công nhận. Các nước ngoài liên minh châu Âu muốn xuất khẩu thuỷ sản

vào EU phải đạt ba điều kiện:

 Một là tương đương về luật lệ kiểm soát chất lượng và an toàn vệ sinh.

 Hai là tương đương về cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc kiểm

soát chất lượng và an toàn vệ sinh với tổ chức có cùng chức năng trong EU.

 Ba là các doanh nghiệp trong danh sách xuất khẩu thuỷ sản vào EU phải

tương đương doanh nghiệp sản xuất cùng loại của EU về điều kiện an toàn

vệ sinh phần cứng và phần mềm.

Để đạt được những điều kiện tương đương này là rất khó khăn ngay cả với những

nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Australia...Và kể từ 1/1/2000, chỉ những nước

đáp ứng đủ các điều kiện tương đương mới được cho phép hoàn toàn xuất khẩu

thuỷ sản vào EU (gọi là danh sách I). Còn những nước chưa đáp ứng được đầy đủ

các điều kiện đó thì EU xếp vào danh sách các nước được phép xuất khẩu có điều

kiện hoặc danh sách các nước bị cấm xuất khẩu.

Nhằm bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng, EU đã ban hành 16 quy định về an toàn

vệ sinh thực phẩm đối với các loại thuỷ sản nhập khẩu. Đó là các quy định về tiêu

chuẩn nuôi trồng, chế biến, tồn trữ và vận chuyển cá, về hệ thống kiểm tra

HACCP, về dư lượng tối đa các chất độc hại (thuỷ ngân, TVB-n, chì, cadmium,

kháng sinh...) trong sản phẩm. Ngoài ra còn có quy định về dán nhãn sản phẩm.

Từ 1/1/2002, các loại thuỷ hải sản bày bán trên thị trường EU phải dán nhãn

mang các nội dung sau: tên thương mại của hải sản, tên nước xuất xứ, phương

thức sản xuất (đánh bắt ở vùng nước nào hay nuôi trồng...), cách chế biến, cách

bảo quản, kích cỡ, trọng lượng, thành phần, hạn sử dụng, khuyến cáo, nhà sản

xuất, nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu. Sản phẩm nhập khẩu vào EU phải chịu sự

kiểm tra chặt chẽ gồm ba bước: kiểm tra chứng từ vệ sinh y tế, kiểm tra sự đồng

nhất giữa chứng từ và sản phẩm, kiểm tra trên sản phẩm (đóng gói, nhiệt độ tồn

trữ...).

Theo quyết định 95/328/EEC, tất cả các thuỷ hải sản nhập khẩu vào EU đều phải

có giấy chứng nhận an toàn, trừ những nước mà EU có quy định riêng. Giấy này

được kiểm tra rất kỹ lưỡng do đó cần phải điền đầy đủ và chính xác, phải được

viết bằng ngôn ngữ chính thức của quốc gia nhập khẩu nếu cần thì bằng cả ngôn

ngữ của nước đích đến.

* Tiêu chuẩn về môi trường

Để bảo vệ môi trường, EU cũng đã thông qua nhiều thoả thuận mang tính tình

nguyện cũng như mang tính pháp lý về vấn đề môi trường. Để có thể đưa được

hàng vào EU, các nhà xuất khẩu phải tuân thủ những quy định về môi trường.

Các quy định không chỉ áp dụng cho các sản phẩm mà còn áp dụng cả cho bao bì

của sản phẩm. EU đã ban hành Chỉ thị 94/62/EEC về bao bì và rác thải bao bì quy

định các mức độ tối đa của các kim loại nặng trong bao bì và mô tả các yêu cầu

đối với sản xuất và thành phần của bao bì. Các nhà sản xuất và xuất khẩu cần

giảm thiểu bao bì sản phẩm khi xuất khẩu sang EU nhằm duy trì mức độ an toàn

vệ sinh cần thiết và sự chấp nhận của người tiêu dùng cho sản phẩm đóng gói.

Đồng thời, bao bì cần được thiết kế, sản xuất sao cho có thể thu hồi, tái sử dụng

và phải giảm thiểu sự hiện diện của các chất độc hại trong bao bì để hạn chế đến

mức thấp nhất ảnh hưởng đến môi trường. Ở Đức, ngành thương mại và công

nghiệp phải thu hồi lại bao bì để tái sử dụng hay tái chế. Quy định này cũng áp

dụng cho cả hàng nhập khẩu. Trên bao bì các sản phẩm này sẽ được in biểu tượng

Green dot để thể hiện cho người tiêu dùng thấy.

EU còn tiến hành dán nhãn sinh thái cho hàng hoá. Ở châu Âu có nhãn hiệu sinh

thái của một nước, nhãn hiệu sinh thái EU và các nhãn hiệu môi trường cụ thể của

sản phẩm. Các chương trình nhãn hiệu sinh thái quốc gia có mục đích là nhằm

mang lại cho khách hàng một sự lựa chọn khi mua các sản phẩm được thiết kế,

sản xuất, đóng gói bao bì để có thể bị vứt bỏ khi kết thúc vòng đời theo cách

không ảnh hưởng đến môi trường. Ngoài các sản phẩm mang nhãn hiệu sinh thái

quốc gia, hiện nay EU còn có 14 nhóm sản phẩm nằm trong phạm vi chương trình

gắn nhãn hiệu sinh thái của EU và 7 nhóm sản phẩm khác cũng đang được xây

dựng tiêu chuẩn. Để bổ sung cho các nhãn hiệu sinh thái quốc gia và nhãn sinh

thái EU, các sản phẩm cụ thể ở thị trường EU còn có các nhãn hiệu môi trường

riêng cho từng sản phẩm. Hiện nay tuy việc sử dụng các nhãn hiêu này còn mang

tính tự nguyện nhưng các sản phẩm sinh thái thường được người tiêu dùng ưa

chuộng và chắc chắn sẽ được sử dụng nhiều hơn và mang tính bắt buộc trong

tương lai.

Bản thân người tiêu dùng EU cũng có ý thức rất cao về bảo vệ môi trường cho

nên tuân thủ các quy định về môi trường cũng là đáp ứng nhu cầu của người tiêu

dùng EU và đó là điều quan trọng để thành công tại thị trường EU.

* Sách trắng đối với hoá chất

Ngày 13/2/2003, EU đã thông qua Sách trắng về chính sách mới đối với hoá chất.

Nội dung chủ yếu của Quy định này là một hệ thống quản lý mới về đăng ký,

thẩm tra, cấp phép và hạn chế đối với các hoá chất được đưa vào lưu thông trên

thị trường EU với số lượng từ 1 tấn trở lên đối với một doanh nghiệp trong một

năm.

Hệ thống này gồm 4 phần chính:

 Quy chế về đăng ký hoá chất: Yêu cầu các doanh nghiệp của EU sản xuất

hoặc nhập khẩu hoá chất (kể cả thành phần hoá chất) phải tiến hành thử

nghiệm hoá chất mà họ sản xuất hay nhập khẩu và đăng ký/cung cấp thông

tin này đến cơ quan quản lý có thẩm quyền của EU (có thể là Tổng cục hoá

chất châu Âu). Hoá chất này sẽ không được sản xuất hay nhập khẩu nếu

chưa được đăng ký với cơ quan thẩm quyền.

 Quy chế về thẩm tra hoá chất: Cơ quan chức năng của EU sẽ thẩm tra

thông tin đăng ký của tất cả các hoá chất. Nếu cần, cơ quan thẩm tra sẽ yêu

cầu doanh nghiệp đăng ký (là doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu hoặc cơ sở

sử dụng hoá chất để sản xuất) tiến hành thí nghiệm bổ sung đối với hoá

chất, chủ yếu tập trung vào hậu quả của việc phơi nhiễm lâu dài.

 Quy chế về cấp phép: Tất cả các hoá chất thuộc nhóm gây ung thư, nhóm

dễ biến đổi, nhóm độc hại đối với sinh sản, nhóm gây ô nhiễm hữu cơ bền

vững và các chất gây rối loạn hệ thống nội tiết đều phải được cơ quan có

thẩm quyền của EU cầp phép trước khi xuất/nhập khẩu.

 Quy chế về hạn chế: Tất cả các sản phẩm hoá chất bị hạn chế chỉ được sản

xuất, đưa vào lưu thông trên thị trường hoặc sử dụng nếu tuân thủ các quy

định về hạn chế.

Mục đích của chính sách hoá chất mới của EU là nhằm bảo vệ sức khoẻ con

người, động vật và môi trường, kiểm soát phần lớn hoá chất lưu thông trên thị

trường. Song trên thực tế, khi đưa vào thực hiện, chính sách này sẽ bao trùm rất

nhiều lĩnh vực từ công nghiệp thực phẩm, đồ dùng gia đình cho đến dệt may, giày

dép, sản phẩm nhựa… Và trên thực tế thì đây là một hình thức rào cản kỹ thuật

mới của EU bởi với nhiều cách hiểu, cách thực hiện khác nhau thì quy định này

sẽ phương hại đến hàng nhập khẩu và phân biệt đối với hàng hoá nhập khẩu vào

EU.

* Luật trách nhiệm sản phẩm

EU cũng đưa ra Luật trách nhiệm sản phẩm áp dụng đối với tất cả các sai sót của

những sản phẩm tiêu dùng có thể di chuyển và với các mặt hàng nông sản. Người

sản xuất phải chịu trách nhiệm đối với sai sót của sản phẩm trong trường hợp gây

ra thiệt hại cho người sử dụng sản phẩm. Người bị thiệt hại có 3 năm để yêu cầu

bồi thường kể từ ngày nguyên đơn nhận ra thiệt hại và sai sót của người sản xuất.

Nhà sản xuất cũng như nhà nhập khẩu và người bán lẻ có tránh nhiệm đối với

những thiệt hại và bồi thường.

Tóm lại, EU là một thị trường nhập khẩu rộng lớn và rất tiềm năng nhưng lại là

một thị trường khó tính với những quy định và đòi hỏi khắt khe về chất lượng, vệ

sinh và an toàn sản phẩm cũng như về yêu cầu bảo vệ môi trường. Đó chính là

những rào cản khó có thể vượt qua mà các doanh nghiệp các nước phải đối mặt

khi muốn tiếp cận thị trường này.

II. MỸ

1. Khái quát chung về thị trường Mỹ

Giành độc lập vào năm 1776 và thông qua Hiến pháp năm 1789, Mỹ đã trở thành

một nước dân chủ. Trong thế kỷ 19, nhiều bang mới đã được sáp nhập vào cùng

với 13 bang ban đầu làm cho nước Mỹ được mở rộng trên lục địa Bắc Mỹ và một

số vùng lãnh thổ xa bờ khác. Nền kinh tế Mỹ được đặc trưng bằng sự tăng trưởng

vững chắc, tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát thấp, sự phát triển nhanh chóng về khoa

học và công nghệ.

Hiện nay, Mỹ đang là một nền kinh tế hùng mạnh nhất trên thế giới. Năm 2002,

với GDP đạt 10.400 tỷ USD, Mỹ là nước có GDP lớn nhất thế giới. Giá trị GDP trên đầu người của Mỹ năm 2002 là 37.600 USD (5), đứng thứ bảy trên thế giới.

Mỹ có một nền kinh tế thị trường năng động với mức độ cạnh tranh gay gắt. Mỹ

luôn là người đi đầu trong việc phát triển và áp dụng các thành tựu công nghệ tiên

tiến, hiện đại đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin, y học, công nghệ vũ

trụ... Và hiện nay, Mỹ cũng là nước có nền khoa học công nghệ phát triển nhất

thế giới.

Mỹ đứng đầu thế giới về công nghiệp. Ngành công nghiệp của Mỹ có đặc điểm là

đa dạng và phát triển về công nghệ. Các ngành công nghiệp chính của Mỹ gồm có

dầu khí, thép , công nghiệp ô tô, hàng không, bưu chính viễn thông, hoá chất,

điện tử, chế biến thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến gỗ... Ngành nông

nghiệp của Mỹ cũng rất phát triển nhờ áp dụng những tiến bộ khoa học vào trong

sản xuất. Các sản phẩm nông nghiệp chính gồm lúa mỳ, các loại hạt, ngũ cốc,

quả, rau, bông sợi, thịt bò, thịt lợn, gia cầm, các loại sữa, lâm sản và thuỷ sản.

(5)www.cia.gov/cia/publications/factbook/goes/us

Ở Mỹ, các công ty lớn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của

nền kinh tế. Mỹ có những tập đoàn kinh tế hết sức lớn mạnh đứng đầu thế giới

trong các lĩnh vực kinh tế khác nhau. Các khoản chi tiêu khổng lồ của Chính phủ

cũng góp phần rất lớn trong việc điều tiết và thúc đẩy nền kinh tế Mỹ phát triển.

Trong thương mại quốc tế, Mỹ có ảnh hưởng rất lớn. Mỹ đối tác thương mại lớn

nhất của các nước trên thế giới. Năm 2002, Mỹ đã xuất hàng ra thị trường nước ngoài với trị giá 687 tỷ USD và nhập về các hàng hoá trị giá 1.165 tỷ USD (5) (tính

theo giá fob). Với số dân hơn 278 triệu người và mức thu nhập bình quân đầu

người cao, nhu cầu tiêu dùng của cả nền kinh tế lớn, Mỹ đang là thị trường nhập

khẩu lớn nhất hiện nay. Hơn nữa, so với các thị trường khác như EU hay Nhật

Bản thì Mỹ được coi là thị trường tương đối dễ tính nên là thị trường mục tiêu

cho rất nhiều nước. Nói như thế không có nghĩa là các nhà xuất khẩu có thể dễ

dàng tiếp cận thị trường Mỹ mà thực tế khi tiếp cận thị trường này các nhà xuất

khẩu gặp phải rất nhiều khó khăn. Trước hết là bởi hệ thống luật pháp của Mỹ hết

sức phức tạp ngoài luật pháp chung của Liên bang, mỗi bang đều có các luật riêng

khác nhau, do đó, rất khó để các doanh nghiệp có thể hiểu hết được nên thường

gặp phải rắc rối khi thâm nhập thị trường này. Sau đó là vì Mỹ hay lợi dụng vị thế

của mình và dựa vào các quy định của WTO sử dụng những biện pháp bảo hộ thị

trường như thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp... và đặc biệt là đặt ra các

rào cản kỹ thuật đối với hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ. Trong đó, biện pháp sử

dụng rào cản kỹ thuật ngày càng được sử dụng phổ biến và thật sự là một chướng

ngạivật cho những ai muốn thâm nhập thị trường này.

2. Một số quy định kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu vào thị trường Mỹ

Tuy không phải là một thị trường khó tính như EU hay Nhật Bản nhưng Mỹ cũng

là một thị trường có những đòi hỏi nghiêm ngặt đối với hàng hoá nhập khẩu. Mỹ

rất quan tâm đến xuất xứ của hàng hoá vì lý do an ninh và ưu đãi thuế quan. Vấn

đề nhãn mác và thương hiệu hàng hoá cũng được rất chú trọng tại thị trường này.

(5)www.cia.gov/cia/publications/factbook/goes/us

Nhãn mác phải chứa đựng đầy đủ các thông tin liên quan đến hàng hoá. Và các

doanh nghiệp cần đăng ký thương hiệu tại thị trường Mỹ để bảo vệ quyền lợi cho

mình. Mỹ cũng có yêu cầu cao đối với vấn đề chất lượng và vệ sinh thực phẩm.

* Quy định về nguồn gốc xuất xứ hàng hoá

Hàng hoá khi xuất sang Mỹ phải ghi rõ nhãn của nước xuất xứ trên sản phẩm.

Luật Hải quan của Mỹ, điều 134 quy định trừ một số mặt hàng theo danh sách

riêng được miễn ghi tên nước xuất xứ còn lại tất cả các hàng hoá nhập khẩu vào

Mỹ đều phải ghi tên của nước xuất xứ tại một vị trí dễ thấy và bằng cách không

phai mờ, thường xuyên theo đúng bản chất của hàng hoá. Tên của nước xuất xứ

phải được ghi bằng tiếng Anh. Các nước thuộc NAFTA thì có thể ghi tên nước

xuất xứ bằng tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Tây Ban Nha. Ngoài ra, trong các

Luật khác cũng có những quy định cho các loại hàng hoá cụ thể:

Luật thuế quan năm 1984 bắt buộc ghi xuất xứ đối với những loại ống khớp nối,

xi lanh ga, nắp cống và khung nhập khẩu.

Luật thương mại và cạnh tranh năm 1988 yêu cầu ghi rõ xuất xứ nơi thu hoạch

đối với nấm đóng hộp.

Luật nhãn mác ô tô Mỹ có những quy định chi tiết về xuất xứ phụ tùng, việc lắp

ráp ô tô và ô tô nguyên chiếc.

Luật nông trại 2002 quy định các mặt hàng thực phẩm tươi và đông lạnh như: thịt

bò (kể cả bê), thịt cừu, thịt lợn pha, xay, cá thuỷ sản dòng giáp xác nuôi hoặc

được đánh bắt từ tự nhiên, rau quả và lạc… trên thị trường Mỹ cần phải ghi rõ

nguồn gốc xuất xứ.

Nếu hàng hoá không tuân thủ các quy định về nước xuất xứ sẽ bị phạt 10% trị giá

(không kể các loại thuế và phí khác), đồng thời nhà nhập khẩu vẫn phải tuân thủ

những quy định có liên quan khác như hàng sẽ bị giữ lại tại hải quan cho đến khi

nhà nhập khẩu thu xếp tái xuất, tiêu huỷ hay làm lại cho đúng dưới sự giám sát

của hải quan. Phần 1907 (a) của Luật thương mại và cạnh tranh tăng mức phạt tối

đa có thể lên tới 100.000 USD cho lần đầu cố tình vi phạm thay đổi hoặc xoá

nhãn ghi xuất xứ và 250.000 USD cho lần tái phạm sau.

* Quy định về nhãn mác và thương hiệu

Về nhãn mác của hàng hoá, hầu hết các mặt hàng sản xuất hay nhập khẩu vào Mỹ

đều phải tuân thủ các quy định về nhãn mác của các cơ quan chuyên ngành trừ

những loại hàng hoá được hải quan miễn trừ theo quy chế hải quan cho phép. Ví

dụ, theo Luật 19 USC 1526(d); 19 CFR 148.55 thì các hàng hoá mang theo người

nhập cảnh vào Mỹ, nếu là đồ dùng cá nhân, không phải để bán thì được quyền

miễn trừ về nhãn mác. Các hàng hoá phải dính mác một cách rõ ràng tại những

nơi quy định để có thể nhận biết rõ rệt về nước sản xuất ra những hàng hoá đó

cũng như hàm lượng các chất làm ra các sản phẩm đó. Ngoài những thông tin

chung như tên hàng, tên, địa chỉ người sản xuất, đóng gói, kinh doanh hoặc phân

phối sản phẩm, tên nước xuất xứ của hàng hoá…, từng mặt hàng cụ thể có những

quy định chi tiết riêng. Nhãn hàng tiêu dùng thì nhất định phải có mã số, mã vạch.

Nhãn hàng thực phẩm thì phải ghi rõ thành phần hoá học chủ yếu, hướng dẫn sử

dụng, hạn sử dụng, hướng dẫn bảo quản. Đối với đồ điện, nhãn hàng phải có chỉ

dẫn về an toàn; nếu là quần áo thì phải có chỉ dẫn về giặt, là, phơi.

Các doanh nghiệp khi xuất hàng sang Mỹ cần chú ý đăng ký thương hiệu với Văn

phòng sáng chế và thương hiệu Mỹ (USPTO) để nhận được những quyền ưu tiên

cho người sở hữu thương hiệu. Luật pháp Mỹ quy định hàng hoá mang thương

hiệu giả hay sao chép thương hiệu đã được đăng ký và lưu bản quyền tại cục Hải

quan đều bị cấm nhập khẩu vào Mỹ, bị thu giữ, tịch thu sung công hoặc tiêu huỷ.

* Quy chế kiểm dịch động thực vật

Khi xuất hàng thực phẩm, dược phẩm sang Mỹ, các doanh nghiệp cần chú ý theo

dõi diễn biến tình hình các quy định về chất lượng và vệ sinh an toàn đồng thời

chủ động chuẩn bị thực hiện các quy chế mới của Cơ quan quản lý thực phẩm và

dược phẩm Hoa Kỳ.

Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm - FDA (Food and Drug

Administration) là cơ quan của Bộ Y tế Mỹ, tập hợp nhiều nhà khoa học kỹ thuật

của Mỹ để đề ra và giám sát thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn tiêu dùng

đối với hàng thực phẩm, dược phẩm và dụng cụ y tế và mỹ phẩm sản xuất tại Mỹ

cũng như nhập khẩu từ nước ngoài vào lãnh thổ Mỹ. Hàng năm, các thành viên,

điều tra viên của FDA tiến hành 15.000 cuộc viếng thăm tới các cơ sở sản xuất

trong và ngoài nước để xem xét các sản phẩm có được làm theo tiêu chuẩn vệ

sinh không, nhãn mác hàng hoá có phù hợp không, nhằm đảm bảo thực phẩm

phải thật an toàn khi ăn, mỹ phẩm không được gây hại, dược phẩm và dụng cụ y

tế đảm bảo an toàn và có hiệu quả. Thực phẩm, mỹ phẩm, thiết bị, dụng cụ y tế

phải tuân theo các quy định của Luật về thực phẩm, Dược phẩm và Mỹ phẩm

(Federal Food, Drug and Cosmetic Act – FDCA) do FDA giám sát thi hành. Các

dược phẩm chưa được FDA duyệt thì không được phép nhập. Trên lý thuyết thì

tất cả các loại thực phẩm nội địa và ngoại nhập ở Mỹ đều phải đáp ứng đúng các

tiêu chuẩn của FDA. Tuy nhiên, trên thực tế, thực phẩm nội địa và ngoại nhập sẽ

trải qua hai thủ tục phê chuẩn khác nhau. Thực phẩm ngoại nhập phải trải qua thủ

tục rất gắt gao của FDA. Các sản phẩm nhập khẩu thuộc quyền quản lý của FDA

sẽ phải qua giám định tại thời điểm hàng tới cửa khẩu. FDA sẽ kiểm tra hàng tại

cửa khẩu để phát hiện dư lượng thuốc trừ sâu trong thực phẩm, phát hiện hàm

lượng thuỷ ngân trong hải sản và sản phẩm hư hỏng, phát hiện các khuẩn Ecoli,

Samonella, Listeria, Mono-cytogene, pháy hiện mức độ nhiễm bẩn, phát hiện hàm

lượng chì, cadimi thẩm lậu vào thực phẩm. Các chuyến hàng bị phát hiện không

phù hợp với luật và các quy định sẽ bị từ chối nhập cảnh và bị buộc phải làm lại

cho phù hợp, huỷ hoặc tái xuất khẩu. Với sự cho phép của FDA, người nhập

khẩu có thể sửa lại lô hàng chưa phù hợp thành phù hợp nếu xét thấy có thể làm

được. Bất kỳ sự tuyển lựa lại, tái chế hoặc dán nhãn lại nào phải có sự giám sát

của FDA với chi phí do người nhập khẩu chịu.

* Quy trình kiểm soát chất lượng theo HACCP

Một rào cản đối với hàng thực phẩm nhập khẩu vào Mỹ là quy trình kiểm tra chất

lượng thực phẩm theo HACCP. Theo Bộ Luật thực phẩm của Mỹ, chương 123,

doanh nghiệp muốn xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ phải được FDA chấp thuận

chương trình HACCP theo quy định của Mỹ. HACCP được ban hành vào tháng

12 năm 1995 hiện đã được đưa vào Bộ luật thực phẩm do FDA giám sát thi hành

và sẽ được mở rộng ra áp dụng cho nhiều mặt hàng thực phẩm khác, trước mắt là

chế biến nước quả. Bộ Nông nghiệp Mỹ cũng đã thiết lập hệ thống HACCP cho

các nhà máy chế biến thịt và gia cầm và đã áp dụng từ tháng 11 năm 1999.

* Cơ chế tự động giam hàng thực phẩm

Hàng thực phẩm nhập khẩu vào Mỹ còn có nguy cơ bị Hải quan thu giữ theo cơ

chế giam hàng tự động. Kể từ năm 1974, FDA áp dụng chính sách giam hàng một

cách tự động các thực phẩm nhập ngoại mà không cần trải qua thủ tục khám xét

hay kiểm định. Thay vì khám xét và kiểm định, mỗi khi hàng nhập quan, FDA sẽ

dựa vào thông tin trong sổ đen để tự động giam hàng của một công ty hay hàng

xuất phát từ một vùng hay một quốc gia nào đó đã bị lên sổ. Giam hàng tự động

(Automatic Detention) được định nghĩa là “một quyết định hành chính nhằm ngăn

chặn sự xâm nhập của các loại hàng mà trong quá khứ đã có nhiều vi phạm, hoặc

đã có bằng chứng cho thấy sẽ có vi phạm các điều khoản của đạo luật Thực phẩm

và Dược phẩm và Mỹ phẩm của Liên bang mà không cần phải qua thủ tục thẩm

định”. Quyết định giam hàng tự động của FDA dựa vào các thông tin là sản phẩm

hay nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, một dịa phương hay một quốc gia có nhiều quá

trình vi phạm trong quá khứ. Hơn nữa nếu thống kê cho thấy hàng xuất phát từ

một khu vực có nhiều vấn nạn về môi sinh như hàng đến từ một nước bị ô nhiễm,

dịch bệnh hoặc có thông tin cho thấy cách thức sản xuất của sản phẩm quá lạc hậu

không đạt các tiêu chuẩn vệ sinh thì quyết định giam hàng tự động có thể được áp

dụng. Hàng bị giam tự động có thể được giải phóng nếu:

 Cá thể nào có quan hệ với hàng giam có thể yêu cầu FDA giải phóng cho

hàng bị giam hay công ty có hàng bị giam ra khỏi danh sách bị giam hàng

tự động nếu cung cấp đủ dữ kiện cho thấy sản phẩm đã được điều chỉnh để

không còn vi phạm và các dữ kiện hiện tại cho thấy sự giam hàng tự động

của FDA không còn phù hợp nữa.

 Nếu sau 6 tháng mà nhà gửi hàng không còn nhập bất cứ một lần hàng nào

bị vi phạm và có thể cung ứng các dữ liệu cho thấy họ sẽ không nhập các

sản phẩm có vi phạm thì tên của nhà gửi hàng này sẽ được gỡ ra khỏi danh

sách có sản phẩm bị giam.

 Để gỡ một sản phẩm ra khỏi danh sách bị giam tự động, nhà sản xuất phải

cung ứng các dữ liệu cho thấy trong 5 lần nhập gần đây nhất không có lần

nào vi phạm.

 Nếu một nhà gửi hàng, một công ty sản xuất hay một sản phẩm đã bị lên

danh sách giam hàng tự động mà còn tái phạm thì muốn gỡ hàng có thể sẽ

bị đòi hỏi phải có hơn 5 lần nhập hàng liên tục không vi phạm.

 Một sản phẩm nào đó đến từ một quốc gia hay một vùng nào đó muốn gỡ

hàng phải chứng tỏ cho thấy có hơn 12 lần nhập hàng không bị vi phạm. 12

lần nhập hàng này phải có tính đại diện cho các nhà sản xuất, hay xuất

khẩu trong vùng hàng bị lên danh sách.

Quy định này rõ ràng là một rào cản rất lớn cho các doanh nghiệp khi xuất hàng

sang thị trường Mỹ. Với biện pháp này thì cơ quan FDA đã chuyển trách nhiệm

chứng minh tiêu chuẩn của sản phẩm sang các các nhà sản xuất ngoại quốc.

* Quy định về hạn chế nhập khẩu vì lý do an ninh

Mỹ còn có các quy định liên quan đến việc hạn chế nhập khẩu vì lý do an ninh.

Phần 232, Luật Khuếch trương thương mại 1962 và các phần sửa đổi bổ sung cho

phép Tổng thống áp đặt hạn chế nhập khẩu loại hàng ảnh hưởng hoặc đe doạ làm

ảnh hưởng tới an ninh quốc gia. Luật này cũng yêu cầu Bộ Thương mại Mỹ tự

mình hoặc theo yêu cầu của công ty, tổ chức điều tra việc nhập khẩu một mặt

hàng có ảnh hưởng hoặc có nguy cơ ảnh hưởng tới an ninh quốc gia không. Vì do

an ninh, Mỹ đã thông qua Dự luật “Sẵn sàng chống khủng bố sinh học”, dự luật

này sẽ có hiệu lực từ ngày 12/12/2003. Theo đó, hàng nông sản, thực phẩm xuất

sang thị trường Mỹ sẽ bị kiểm tra nghiêm ngặt hơn. Theo Dự luật này, các cơ sở

thực phẩm tại Mỹ phải đăng ký, kê khai tất cả các loại sản phẩm. Các cơ sở ở

ngoài nước Mỹ phải uỷ quyền cho người đại diện ở Mỹ đăng ký thay với cơ quan

FDA trước ngày 12/12/2003. Các cơ sở này đều phải xây dựng và bảo quản hồ sơ

chi tiết về hàng hoá. Hồ sơ phải xác định thông tin của nguồn cung cấp cũng như

các cơ sở tiếp nhận trực tiếp nhằm giúp cơ quan FDA có thể ngay lập tức truy

được nguồn gốc mặt hàng cũng như mục đích đến của nó. Điều 307 của Dự luật

yêu cầu thông báo tin tức trước khi xuất khẩu thực phẩm và phải cung cấp thông

tin về hàng hoá, kê khai trên hoá đơn nhập khẩu trong vòng 5 ngày và không

chậm hơn 8 tiếng trước khi hàng đến. Nếu không, hàng có thể bị giữ tại cảng. Mọi

thay đổi về thông tin hàng hoá phải được báo trước. Bộ trưởng FDA sẽ xác định

nếu có bằng chứng cụ thể là những thực phẩm có thể dẫn đến đe doạ nghiêm

trọng sức khoẻ của người hay súc vật. FDA có thể giữ sản phẩm tới 45 ngày nếu

có dấu hiệu vi phạm các quy định liên quan đến mỹ phẩm, thuốc và thực phẩm.

Các công ty có thể bị cấm xuất khẩu vĩnh viễn nếu họ phạm luật có chủ ý và vi

phạm nhiều lần. Dự luật này sẽ thực sự gây nhiều khó khăn và bất lợi cho các nhà

xuất khẩu thực phẩm sang Mỹ.

* Luật trách nhiệm sản phẩm

Mỹ cũng ban hành Luật về trách nhiệm sản phẩm rất nổi tiếng trên thế giới nhằm

bảo vệ người tiêu dùng đối với những thương vong của con người do sử dụng sản

phẩm mà các công ty phát minh, thiết kế, sản xuất hay đưa nó vào thị trường.

Luật pháp Mỹ được thể hiện trước hết qua các quyết định của Toà án, quy trách

nhiệm đối với người thiết kế, người sản xuất và người bán sản phẩm trong nhiều

tình huống khác nhau như: vô ý hoặc cố ý lơ là trong thiết kế/sản xuất một sản

phẩm, dẫn đến lỗi thiết kế/sản xuất của sản phẩm được sản xuất ra gây hại cho

người tiêu dùng; hoặc không kịp cảnh báo những lỗi của sản phẩm, lỗi do không

tuân thủ quy trình hoặc lỗi ngẫu nhiên trong việc sử dụng. Mỹ cũng thành lập Uỷ

ban về an toàn người sử dụng để can thiệp tới sự không thành công trong việc

cảnh báo cho người tiêu dùng những lỗi hay những mối nguy hiểm trong sử dụng

sản phẩm. Uỷ ban này đã đưa ra các quy định mà theo đó các nhà sản xuất phải

có những nỗ lực đặc biệt để cảnh báo cho khách hàng những rủi ro có thể xảy ra

khi sử dụng sản phẩm. Vì thế mà thực thi Luật trách nhiệm sản phẩm ở thị trường

Mỹ cũng làm các nhà sản xuất, xuất khẩu tốn nhiều chi phí và công sức.

Tóm lại, Mỹ là một thị trường tiềm năng đối với mọi quốc gia bạn hàng của Mỹ.

Tuy nhiên, thị trường này cũng có những rào cản nhất định mà các nhà xuất khẩu

phải vượt qua đặc biệt là các rào cản kỹ thuật. Thực tế, các tiêu chuẩn trong rào

cản kỹ thuật của Mỹ không cao nhưng lại phức tạp và thiếu rõ ràng nên gây nhiều

khó khăn cho các nhà xuất khẩu. Mỹ là một đối tác thương mại lớn nhất thế giới

hiện nay nên có thể dựa vào lợi thế đó đưa ra nhiều quy định, điều kiện buộc các

nước khác nước khác phải tuân theo nếu muốn xuất hàng sang Mỹ. Vì thế, các

nhà sản xuất, xuất khẩu cần hết sức chú ý tới những quy định đó để có thể xuất

khẩu sang Mỹ thuận lợi và tránh những tổn thất không đáng có.

III. NHẬT BẢN

1. Khái quát về thị trường Nhật Bản

Nhật Bản nằm ở phía Tây Bắc lòng chảo Thái Bình Dương được coi là khu vực

kinh tế phát triển năng động nhất thế giới hiện nay. Nhật Bản là một quốc gia có

nền kinh tế công nghiệp phát triển ở mức độ cao. Sau sự tàn phá của Đại chiến thế

giới lần hai, Nhật Bản đã vươn dậy, phục hồi và trở thành một cường quốc kinh

tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản trong những năm 60, 70 đã làm cả

thế giới thán phục. Nhật Bản đã tạo nên một hiện tượng kinh tế “thần kỳ”.

Hiện nay, Nhật Bản là nước có nền công nghệ phát triển đứng thứ hai thế giới sau

Mỹ đồng thời cũng là nước có tổng thu nhập quốc dân lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ. Năm 2002, GDP của Nhật đạt 3.550 tỷ USD (6).

(6)www.nationmaster.com/country/ja/economy

Nhật Bản có hai đặc trưng lớn. Một là các nhà sản xuất, cung ứng và phân phối

kết nối chặt chẽ với nhau thành những tập đoàn. Đặc trưng thứ hai là lực lượng

công nhân thành thị chiếm một vị trí quan trọng. Công nghiệp-khu vực quan trọng

nhất của nền kinh tế-phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên liệu thô và nhiên

liệu. Khu vực nông nghiệp nhỏ bé được hỗ trợ và bảo hộ chặt chẽ, sản lượng và

hiệu suất sản xuất nông nghiệp được xếp vào loại cao nhất thế giới. Sản xuất gạo

của Nhật đủ cung cấp cho tiêu dùng trong nước nhưng nước này hàng năm vẫn

phải nhập 40% lương thực thực phẩm cho tiêu dùng và khoảng 50% sản lượng các loại hạt và thức ăn cho gia súc, gia cầm (7). Nhật Bản cũng là một trong những

quốc gia có sản lượng đánh bắt cá cao trên thế giới, chiếm khoảng 15% tổng sản lượng toàn thế giới nhờ có một vùng biển rộng lớn bao bọc quanh đất nước (7).

Mặc dù bước sang thập kỷ 90, kinh tế Nhật Bản gặp nhiều khó khăn, tốc độ phát

triển kinh tế giảm mạnh nhưng Nhật Bản vẫn là một cường quốc kinh tế lớn thứ

hai trên thế giới và là nước phát triển nhất ở châu Á. Nhật Bản có một vai trò

quan trọng trong thương mại thế giới. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu của Nhật đạt 383,9 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu là 292,1 tỷ USD (6). Các mặt hàng xuất

khẩu chính của Nhật gồm có động cơ, sản phẩm bán dẫn, máy văn phòng, hoá

chất. Các thị trường xuất khẩu chủ yếu của Nhật là Mỹ, Đài Loan, Hàn Quốc,

Trung Quốc, Hồng Kông. Và Nhật Bản thường nhập khẩu các mặt hàng như

nhiên liệu, thực phẩm, hoá chất, hàng dệt may...phục vụ sản xuất và tiêu dùng từ

các thị trường chính như Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan...

Nhật Bản là nước đông dân thứ bảy trên thế giới với 126,1 triệu dân, GDP trên

đầu người của Nhật Bản tương đối cao, chi phí dành cho sinh hoạt rất lớn. Do đó,

Nhật Bản là một thị trường mục tiêu quan trọng của các nhà xuất khẩu. Tuy

nhiên, Nhật Bản cũng là một thị trường khó tính, có yêu cầu rất cao đối với hàng

hoá nhập khẩu. Người tiêu dùng Nhật Bản đã quen thuộc với những hàng hoá có

chất lượng cao và đảm bảo các điều kiện về vệ sinh, an toàn thực phẩm và các

tiêu chuẩn về môi trường. Giống như các nước khác, Nhật Bản cũng đưa ra nhiều

(6)www.nationmaster.com/country/ja/economy (7)www.exim-pro.com/kinhte/thitruong/nhatban

quy định, nhiều tiêu chuẩn đối với hàng hoá nhập khẩu với mục đích bảo vệ

người tiêu dùng, bảo vệ môi trường trong nước. Và những quy định, tiêu chuẩn

này đã dựng lên những rào cản kỹ thuật thực sự cho hàng hoá nhập khẩu vào thị

trường Nhật Bản.

2. Một số quy định kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản

Nhật Bản là một nước tham gia nhiệt tình vào vòng đàm phán Uruguay nhằm cắt

giảm thuế quan, tiến tới tự do hoá thương mại cho nên so với các nước chủ chốt

khác của nền thương mại thế giới thì thuế nhập khẩu của Nhật Bản không lớn.

Hầu hết các mặt hàng được nhập khẩu tự do vào Nhật mà không cần xin giấy

phép nhập khẩu. Rào cản lớn nhất đối với các hàng hoá khi thâm nhập vào thị

trường Nhật Bản hiện nay là các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật do Nhật Bản đặt ra

cho hàng hoá nhập khẩu.

* Tiêu chuẩn chất lượng

Hầu hết các sản phẩm trong nước và các sản phẩm nhập khẩu của Nhật đều phải

chịu kiểm tra hàng hoá và không thể tiêu thụ tại thị trường này nếu không được

cấp những giấy chứng nhận sản phẩm đã tuân theo những tiêu chuẩn. Trong đó,

một số tiêu chuẩn là bắt buộc, một số là tự nguyện. Nhưng thực tế thì người tiêu

dùng Nhật Bản đã quen thuộc với những hàng hoá đạt tiêu chuẩn chất lượng cao

và được cấp dấu chất lượng. Do đó, việc được cấp dấu chứng nhận chất lượng đã

trở thành điều kiện tối cần thiết để sản phẩm có thể tồn tại được trên thị trường

Nhật Bản. Hiện nay, ở Nhật có hai dấu chất lượng được sử dụng phổ biến và

được người tiêu dùng hết sức tin tưởng. Đó là dấu chứng nhận tiêu chuẩn công

nghiệp (JIS) và dấu chứng nhận tiêu chuẩn nông nghiệp (JAS). Việc sử dụng các

dấu hiệu này trên nhãn hiệu không chỉ để cung cấp một sự đảm bảo về chất lượng

mà còn bảo vệ người tiêu dùng thông qua việc thông tin đầy đủ cho họ về chất

lượng sản phẩm.

Dấu chứng nhận “Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản” (JIS – Japanese Industrial

Standard) dựa trên “Luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp” được ban hành vào tháng 6

năm 1949. Dấu JIS được áp dụng cho rất nhiều loại sản phẩm khác nhau như vải,

quần áo, lò sưởi, các thiết bị điện, giày dép, bàn ghế, đồ dùng nấu nướng, dụng cụ

thể thao, nhạc cụ và các loại sản phẩm khác đòi hỏi phải được tiêu chuẩn hoá về

chất lượng và kích cỡ hay các quy cách sản phẩm khác. Các tiêu chuẩn JIS được

sửa đổi, bổ sung theo định kỳ để phù hợp với các tiến bộ công nghệ. JIS góp phần

rất lớn trong việc mở rộng tiêu chuẩn hoá trên phạm vi toàn bộ nền công nghiệp

Nhật Bản. Dấu chứng nhận JIS chỉ được phép áp dụngvới các sản phẩm thoả mãn

các yêu cầu về chất lượng của JIS. Do đó, dấu chất lượng tiêu chuẩn JIS đại diện

cho chất lượng và rất được coi trọng. Theo điều 26 của Luật tiêu chuẩn hoá công

nghiệp, tất cả các cơ quan của Chính phủ phải ưu tiên đối với các sản phẩm được

đóng dấu chất lượng JIS khi mua hàng hoá để phục vụ cho hoạt động của các cơ

quan này. Sau khi Nhật tham gia ký kết Hiệp định về rào cản kỹ thuật đối với

thương mại của GATT, Nhật đã sửa đổi Luật này cho phép các nhà sản xuất nước

ngoài cũng được cấp phép đóng dấu JIS. Tuy nhiên, Nhật là một nước có nền

công nghệ rất phát triển vì vậy các tiêu chuẩn đặt ra đối với hàng hoá thường rất

cao. Vì thế, để được cấp giấy phép đóng dấu chứng nhận tiêu chuẩn JIS không

phải là một điều dễ dàng, đặc biệt là đối với hàng hoá của các nước đang và kém

phát triển.

Dấu chứng nhận tiêu chuẩn nông nghiệp (JAS – Japanese Agricultural Standard)

được cấp dựa trên Luật về tiêu chuẩn hoá các nông lâm sản và hợp lý hoá các

nhãn hiệu chất lượng hay còn gọi là Luật tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản hay

Luật JAS. Danh sách các sản phẩm được điều chỉnh bởi Luật JAS bao gồm đồ

uống, thực phẩm chế biến, dầu ăn và mỡ, các nông lâm thuỷ sản chế biến. Đối với

hầu hết các sản phẩm, JAS quy định một cách rõ ràng các tiêu chuẩn cụ thể

nhưng với một số sản phẩm còn lại, các quy định của Luật chỉ đưa ra những

hướng dẫn cho việc nâng cao chất lượng.

Đối với hàng thực phẩm chế biến, các tiêu chuẩn về việc dán nhãn đòi hỏi trên

nhãn hiệu phải có các thông tin như tên sản phẩm, thành phần, trọng lượng, ngày

hết hạn sử dụng và tên của nhà sản xuất và phải ghi bằng tiếng Nhật. Dù JAS là

một hệ thống tiêu chuẩn tự nguyện nhưng nó được áp dụng ngày càng rộng rãi và

đã trở thành cơ sở cho người tiêu dùng trong việc lựa chọn các sản phẩm chế biến

vì vậy với những hàng hoá không được đóng dấu chất lượng JAS thì khó có thể

thâm nhập vào thị trường Nhật Bản được.

Tuy việc sử dụng dấu chất lượng JAS trên nhãn sản phẩm là hoàn toàn tự nguyện

nhưng Luật JAS sửa đổi năm 1970 lại quy định các sản phẩm đều phải dán hiệu

trên đó chứa đựng các thông tin về thành phần và chất lượng sản phẩm. Trong

trường hợp các hàng hoá không tuân theo các quy định về việc ghi nhãn thì hàng

hoá đó sẽ không được nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản còn đối với hàng hoá

trong nước thì hàng hoá đó sẽ bị tẩy chay. Cũng như dấu chất lượng JIS, hàng hoá

nhập khẩu cũng có thể được cấp dấu chứng nhận chất lượng JAS nếu đáp ứng

được các tiêu chuẩn đặt ra.

Ngoài ra, trên thị trường Nhật Bản còn có nhiều các dấu chất lượng và độ an toàn

sản phẩm khác như dấu Q là chất lượng và độ đồng nhất của sản phẩm, dấu G về

thiết kế, dịch vụ sau bán hàng và chất lượng, dấu S về độ an toàn (bắt buộc), dấu

Len dùng cho sợi len nguyên chất, dồ len có trên 99% len mới, dấu SIF cho các

mặt hàng may mặc có chất lượng tốt...

Và ngày nay, khi vấn đề môi trường ngày càng được quan tâm thì Nhật Bản cũng

khuyến khích người tiêu dùng sử dụng các sản phẩm không làm hại sinh thái. Và

những sản phẩm này được đóng dấu “Ecomark”. Đó là những sản phẩm mà việc

sử dụng sản phẩm không hoặc ít gây ô nhiễm môi trường hoặc đem lại lợi ích cho

môi trường.

* Tiêu chuẩn vệ sinh và an toàn thực phẩm

Để bảo vệ sức khỏe, vệ sinh và an toàn chung của người dân, Nhật Bản đã ban

hành Luật Vệ sinh thực phẩm, Luật chống các bệnh truyền nhiễm trong súc vật

nuôi, Luật kiểm dịch thực vật và các luật và quy định khác liên quan đến nhập

khẩu.

Vì tỷ lệ tự đáp ứng lương thực thực phẩm của Nhật là thấp, thực tế Nhật Bản phải

nhập khẩu 40% lương thực thực phẩm tiêu dùng nên Chính phủ cũng như người

tiêu dùng Nhật đặc biệt quan tâm đến việc đảm bảo chất lượng của thực phẩm.

Luật vệ sinh thực phẩm ra đời và có hiệu lực từ năm 1947. Luật vệ sinh thực

phẩm quy định cho tất cả các thực phẩm và đồ uống tiêu dùng ở Nhật bao gồm cả

hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu. Điều 1 của Luật nêu rõ : “Luật vệ

sinh thực phẩm nhằm phòng chống tất cả các nguy hại cho sức khoẻ gây ra bởi

việc dùng thực phẩm và đồ uống nhằm nâng cao sức khoẻ nhân dân”. Bên cạnh

thực phẩm, Luật còn quy định cả về gia vị, các máy móc chế biến và bảo quản

thực phẩm, các dụng cụ đựng và bao bì cho thực phẩm cũng như cho các gia vị,

đồ chơi cho trẻ em và các chất tẩy rửa dùng cho việc làm sạch thực phẩm và đồ

ăn. Luật cấm các loại thực phẩm sau:

 Các thực phẩm ôi thiu, mất màu, mất mùi, phân giải hay quá thời hạn sử

dụng.

 Thực phẩm có chứa chất độc hại, thực phẩm tiếp xúc với các chất độc hại,

thực phẩm bị nghị ngờ tiếp xúc với các chất độc hại.

 Thực phẩm bị nhiễm độc hoặc nghi ngờ có chứa các chất vi khuẩn gây

bệnh

 Các thực phẩm có hại cho sực khoẻ do chứa tạp chất và các chất bẩn.

Vì thế, việc nhập khẩu thịt, xúc xích, thịt muối nếu không có chứng nhận vệ sinh

của cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu cấp, chứng minh vấn đề đảm bảo

vệ sinh của sản phẩm xuất khẩu thì sản phẩm đó sẽ bị cấm.

Bộ y tế và phúc lợi có quyền cấm các loại thực phẩm mới, thậm chí là các loại

thực phẩm đã bày bán từ lâu bị cho là gây nguy hiểm cho sức khoẻ. Và các hoá

chất tổng hợp được sử dụng như thực phẩm gia vị sẽ bị cấm nếu không được phép

của Bộ này. Bộ y tế và phúc lợi cũng đã xây dựng các yêu cầu và tiêu chuẩn cho

việc chế biến, xử lý, sử dụng, nấu nướng, bảo quản chất lượng của thực phẩm và

gia vị. Nếu việc nhập khẩu các loại thực phẩm không đáp ứng các tiêu chuẩn này

sẽ bị cấm. Bộ y tế và phúc lợi đã xây dựng các yêu cầu và tiêu chuẩn cho việc dán

nhãn hàng hoá, gia vị, máy móc và đóng gói. Các ký hiệu và chữ viết trên nhãn

hàng phải bằng tiếng Nhật Bản và phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.

Bất kỳ ai muốn nhập khẩu thực phẩm, gia vị thực phẩm, bao bì đựng các loại này

đều phải thông báo về từng chuyến hàng cho Bộ y tế và phúc lợi biết. Sau đó,

hàng sẽ được kiểm tra xem có đủ tiêu chuẩn không. Nếu hàng không đủ tiêu

chuẩn sẽ bị gửi trả lại hàng, hoặc sử dụng với mục đích khác hoặc bị vứt bỏ.

Nhật vẫn duy trì chế độ kiểm tra hải quan đối với hàng nhập khẩu. Đối với hàng

thuỷ sản khi nhập khẩu sẽ phải làm thủ tục kiểm tra vệ sinh và kiểm dịch thực

phẩm. Người nhập khẩu phải điền vào tờ khai nhập khẩu thực phẩm. Nếu thuỷ

sản nhập khẩu được xác định là cần kiểm tra theo Luật kiểm dịch tại bộ phận

kiểm tra thực phẩm nhập khẩu của các trạm kiểm dịch thì sẽ được lấy mẫu để

kiểm tra và trong vòng hai ngày kể từ ngày lấy mẫu, trạm kiểm dịch sẽ đưa ra ý

kiến. Nếu thuỷ sản có vi sinh vật gây bệnh dịch tả thì sẽ bị huỷ. Nếu không có thì

thông báo cho người nhập khẩu để làm thủ tục tiếp. Khi kiểm tra vệ sinh thực

phẩm, bộ phận kiểm tra sẽ xử lý “tờ khai thực phẩm nhập khẩu” và kiểm tra

chứng từ xem có vi phạm về vệ sinh thực phẩm không (dựa vào tờ khai và các

giấy tờ có liên quan khác, tình hình nhập khẩu trong thời gian qua kể cả các vụ vi

phạm, kết quả kiểm tra của phòng thí nghiệm…). Nếu thấy cần, bộ phận này sẽ

quyết định phương pháp kiểm tra, nếu không cần thì bộ phận này sẽ đóng dấu đã

khai báo và giao cho người nhập khẩu. Quá trình kiểm tra này cũng tốn nhiều thời

gian của các doanh nghiệp, gây chậm trễ cho quá trình nhập khẩu.

Kể từ 1/1/2001, Nhật Bản đã chính thức áp dụng việc quản lý nhập khẩu các mặt

hàng thịt từ nước ngoài theo tăng cường kiểm soát chặt chẽ vệ sinh, an toàn thực

phẩm từ khâu giết mổ, chế biến thịt và các sản phẩm từ thịt. Nhật Bản sẽ chỉ cho

phép nhập khẩu thịt từ một nước nếu nước xuất khẩu này cung cấp đầy đủ các

văn bản pháp quy quy định điều kiện vệ sinh đối với sản phẩm thịt xuất khẩu của

nước mình và được Nhật xem là tương đương các điều kiện vệ sinh của Nhật Bản.

Các quy định liên quan đến vệ sinh thực phẩm rất nhiều và phức tạp do đó gây

nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp khi muốn xuất hàng thực phẩm sang Nhật.

* Luật trách nhiệm sản phẩm

Để bảo vệ người tiêu dùng, Luật trách nhiệm sản phẩm được ban hành vào tháng

7 năm 1995. Luật trách nhiệm sản phẩm được áp dụng cho cả hàng hoá trong

nước và hàng nhập khẩu từ nước ngoài. Theo điều 1 của Luật này thì nếu như một

sản phẩm có khuyết tật gây ra thương tích cho người hay thiệt hại về của cải thì

nạn nhân có thể đòi người sản xuất bồi thường cho các thiệt hại nếu chứng minh

được rằng đã có thiệt hại xảy ra, sản phẩm có khuyết tật và có mối quan hệ nhân

quả giữa thiệt hại và khuyết tật của sản phẩm.

Khái niệm “người tiêu dùng” được đề cập ở trong luật không chỉ bao gồm những

người mua, người tiêu dùng hay sử dụng sản phẩm nhằm phục vụ các mục đích

của bản thân họ mà còn bao gồm cả khách hàng bị tai nạn do máy móc gây ra.

Khái niệm người tiêu dùng còn được dùng để chỉ cả các tự nhiên nhân và pháp

nhân. Bên chịu trách nhiệm với sản phẩm có thể là nhà sản xuất, nhà nhập khẩu,

người dán nhãn cho sản phẩm khi người này là nhà nhập khẩu hoặc người đại

diện của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu.

Khái niệm “khuyết tật” được hiểu là sự thiếu sót về tính an toàn của sản phẩm nên

dẫn đến thiệt hại về người và tài sản. Nếu có khuyết tật thì nhà sản xuất phải chịu

trách nhiệm cả trong trường hợp không có sơ suất. Ngược lại, nếu không có

khuyết tật thì sẽ không phải chịu trách nhiệm gì.

Vì thế, các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu kỹ các quy định, tiêu chuẩn đặt ra với

hàng nhập khẩu và phải đảm bảo tính vệ sinh, an toàn cho hàng hoá theo đúng các

yêu cầu của Nhật thì mới có thể xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Nhật Bản

được.

IV. RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI CỦA MỘT SỐ NƯỚC CÔNG NGHIỆP

PHÁT TRIỂN KHÁC

1. Canada

Là một quốc gia rộng lớn và rất giàu tài nguyên ở Bắc Mỹ, Canada đã trở thành

một nước có nền kinh tế và khoa học công nghệ phát triển ở trình độ cao. Canada

là một thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO đồng thời tham gia vào

khối mậu dịch tự do NAFTA nên Canada cũng có nghĩa vụ phải cắt giảm hàng

rào thuế quan và dỡ bỏ dần các hàng rào phi thuế tạo điều kiện cho thương mại tự

do. Nhưng cũng như các nước có nền kinh tế phát triển khác, hiện nay, Canada

đang dựng lên các rào cản kỹ thuật nhằm bảo hộ thị trường nội địa thay cho hàng

rào thuế quan và các hàng rào phi thuế khác.

Hàng hoá nhập khẩu vào Canada phải đảm bảo các tiêu chuẩn nghiêm ngặt đã

được đề ra trong các đạo luật, các quy định của Chính phủ, nổi bật là các quy định

về ghi nhãn và bao bì hàng hoá và các yêu cầu về vệ sinh thực phẩm.

* Yêu cầu về ghi nhãn hàng hoá và bao bì đối với hàng nhập khẩu

Theo Bộ luật về bao gói hàng tiêu dùng thì tất cả các loại thực phẩm và hàng tiêu

dùng nhập khẩu vào thị trường Canada đều phải đảm bảo các yêu cầu khắt khe về

bao gói hàng hoá. Nhãn hàng hoá phải được ghi chi tiết bằng cả tiếng Anh và

tiếng Pháp đối với tất cả các mặt hàng tiêu dùng. Nhãn hàng phải ghi đầy đủ các

thông tin nhận dạng, thông tin về nhà sản xuất, thông tin về sản phẩm và tiêu

chuẩn chất lượng.

Một số mặt hàng tiêu dùng cá nhân, đồ gia dụng, phần cứng, đồ trang sức và dụng

cụ thể thao, sản phẩm từ giấy, quần áo cũng cần phải dán mác, tem và gắn nhãn

hiệu xuất xứ. Ngoài ra, tất cả các mặt hàng dệt may đều phải đóng dấu về chủng

loại sợi. Thuốc lá nhập khẩu và các sản phẩm tương tự cũng cần phải được đóng

gói theo những quy định đặc biệt và phải có dán tem.

Đối với thực phẩm, trong Đạo luật về thực phẩm và dược phẩm cũng quy định

đối với các thực phẩm bán ra thị trường cần phải có nhãn mác và nhãn ghi thành

phần. Trong các mặt hàng, thì dược phẩm là mặt hàng có những yêu cầu nghiêm

ngặt nhất về ghi nhãn hàng hoá.

Và theo luật pháp Canada, bao bì phải được sản xuất, ghi nhãn và hiển thị để sao

cho người tiêu dùng không thể nhầm lẫn về chất lượng cũng như số lượng sản

phẩm trong bao bì.

Như vậy, khi xuất hàng sang Canada, các doanh nghiệp phải chú ý đóng gói hàng

hoá sao cho vừa phù hợp với các quy định nghiêm ngặt của Canada, vừa đảm bảo

tính hấp dẫn đối với bao bì sản phẩm để thu hút được người tiêu dùng.

* Yêu cầu về vệ sinh thực phẩm đối với hàng nhập khẩu

Canada có Cơ quan kiểm dịch thực phẩm liên bang phụ trách về vấn đề vệ sinh,

an toàn thực phẩm. Canada quy định việc nhập khẩu động vật, cây và các sản

phẩm từ động, thực vật (bao gồm các loại rau, quả, thực phẩm chế biến từ rau,

quả, các loại hạt, cỏ khô và lâm sản) phải có chứng nhận đảm bảo vệ sinh do cơ

quan có thẩm quyền của nước xuất xứ cấp. Với nhiều mặt hàng, Canada còn yêu

cầu cần phải kiểm tra khi cập cảng Canada. Hoa quả, rau, mật ong, thịt, cá và các

thực phẩm chế biến là những mặt hàng phải tuân thủ các quy định rất chặt chẽ.

Nhà xuất khẩu cần đảm bảo với đối tác nhập khẩu của mình ở Canada là các mặt

hàng xuất khẩu đáp ứng các yêu cầu và các quy định đối với hàng hoá nhập khẩu

vào thị trường Canada. Dưới đây là một số yêu cầu chính:

 Chứng nhận về tẩy uế đối với các loại rơm, cỏ khô, than bùn, rêu và các

loại bao bì làm từ đất.

 Giấy phép bảo vệ thực vật cũng là một đòi hỏi thường xuyên đối với các

loại thực vật nhập khẩu.

 Các loại bao, gói, vải bạt và các loại bao bì khác tương tự bị cấm.

 Hộp đóng gói thịt, thịt gà và các sản phẩm tương tự đều phải ghi nhãn đầy

đủ và phải được cơ quan có thẩm quyền của Canada cấp phép.

 Các loại keo dán, mỡ bôi trơn, sáp nến và các loại mỡ không ăn được khác,

thịt và các sản phẩm từ thịt cũng có thể nhập khẩu vào Canada nếu trên

container, bao bì ghi rõ tên hàng hoá, tên, địa chỉ nhà sản xuất hoặc đại lý

và cùng tên sản phẩm phải ghi kèm chữ “không ăn được”.

2. Australia

Australia có nền kinh tế tư bản theo đường lối phương tây thịnh vượng với mức

GDP trên đầu người ở mức tương đương với nền kinh tế lớn thứ tư Tây Âu. Là

nước giàu tài nguyên, Australia là nước xuất khẩu lớn các nông sản, khoáng chất,

kim loại và năng lượng hoá thạch. Và Australia nhập khẩu các mặt hàng chính

như thiết bị và máy móc, máy tính, máy văn phòng, dầu thô và các sản phẩm dầu

khí...

Đối với hàng hoá nhập khẩu, Australia cũng đưa ra các tiêu chuẩn về chất lượng,

vệ sinh và an toàn với người sử dụng...

Australia có những tiêu chuẩn của riêng mình. Do đó, các doanh nghiệp khi xuất

khẩu sang thị trường này cần chú ý điều chỉnh sao cho sản phẩm của mình phù

hợp với các tiêu chuẩn của Australia. Các tổ chức tiêu chuẩn của Australia gồm

năm tổ chức chính, trong đó có hai cơ quan của nhà nước chịu trách nhiệm về

việc xây dựng, ban hành các tiêu chuẩn cho sản phẩm. Australia đã ký kết Hiệp

định tiêu chuẩn GATT/WTO và cũng đã tham gia Hiệp định của WTO về rào cản

kỹ thuật đối với thương mại nhưng nước này vẫn duy trì những quy định hạn chế

về tiêu chuẩn và quy định về mẫu mã đối với ô tô, các bộ phận phụ nhất định của

ô tô, thiết bị điện, thiết bị y tế và thiết bị viễn thông, các bộ phận máy móc và

thiết bị.

* Quy định về vệ sinh và kiểm dịch

Các quy định về kiểm dịch của Australia đã hạn chế nhập khẩu một số lượng lớn

hàng nông sản và sản phẩm có liên quan đến thực phẩm. Một số biện pháp liên

quan đến điều kiện vệ sinh, sức khoẻ đang bị các thành viên của WTO phản đối.

Thực phẩm không phải chỉ đáp ứng các quy định kiểm dịch khi được bán tại

Australia mà chúng cần tuân theo Hiệp định tiêu chuẩn thực phẩm giữa Australia

và New Zealand và quy định của AQIS (Australian Quarantine and Inspection

Service). AQIS là cơ quan chịu trách nhiệm theo dõi, kiểm tra thực phẩm nhập

khẩu.

Theo quy định hiện hành, một số hàng thực phẩm nhập khẩu cần phải có giấy

phép nhập khẩu, ví dụ như cá hồi và các chủng loại cá lấy vây. Thậm chí một số

mặt hàng sẽ bị yêu cầu làm phân tích rủi ro nhập khẩu.

Australia có những quy định vệ sinh nghiêm ngặt ảnh hưởng tới nhập khẩu hoa

quả tươi và các quy định khác ảnh hưởng tới nhập khẩu nhập khẩu thịt và gia

cầm. Hầu hết cây trồng, vật nuôi, cá và các sản phẩm khác đều phải tuân theo các

yêu cầu kiểm dịch, yêu cầu có những chứng nhận đặc biệt do cơ quan có thẩm

quyền tại nước xuất khẩu phát hành chứng nhận chúng đã đáp ứng các yêu cầu cụ

thể của Australia. Thêm vào đó, hầu hết những sản phẩm này cần phải được

Chính phủ Australia cho phép nhập khẩu. Nhập khẩu động vật sống, trừ ngựa,

phải tuân theo những quy định kiểm dịch. Trâu bò lấy giống, chăn nuôi, đã mổ

chỉ được phép nhập khẩu nếu đã qua kiểm dịch. Các sản phẩm theo “Luật sâu

bệnh trong hoa quả” phải có giấy chứng nhận vệ sinh ghi rõ không có sâu trong

sản phẩm trong phạm vi 80 km khu vực trồng hoa quả trong vòng 12 tháng qua.

Nếu hàng hoá được chuyên chở trong các container gỗ phải kèm theo một chứng

nhận chính thức của nhà xuất khẩu chỉ rõ gỗ đã được sấy khô hoặc xông ngay

trước khi vận chuyển, để phù hợp với các quy định kiểm dịch của Australia.

Australia cũng quy định hết sức chặt chẽ về dán nhãn và đóng gói đối với hàng

nhập khẩu.

* Quy định về dán nhãn

Hàng hoá nhập khẩu vào Australia phải được ghi nhãn đầy đủ các thông tin cần

thiết bằng tiếng Anh, chữ phải rõ ràng và tương phản với nền. Nhãn hàng phải

cung cấp đủ thông tin về: nơi sản xuất, nhà sản xuất, thông tin về sản phẩm và

tieu chuẩn chất lượng. Một số sản phẩm phải ghi các thông tin về vệ sinh thực

phẩm và thành phần. Nhãn hàng cũng phải ghi rõ tên, thương hiệu, nước xuất xứ.

* Quy định về bao bì đóng gói

Trên bao bì đóng gói phải ghi rõ các thông tin mô tả thương mại hàng một cách

trung thực nhất. Yêu cầu:

 Ký tự trên bao bì phải dễ đọc, in nổi.

 Nhãn mác gắn trên hàng hoá phải ở vị trí dễ thấy.

 Số lượng, trọng lượng hàng phải được ghi trung thực trên phần chính của

bao bì bằng hệ mét (Với những hàng có khối lượng lớn thì nên ghi trọng

lượng tịnh).

Tháng 11/2000, một văn bản luật về tiêu chuẩn thực phẩm đã được Bộ trưởng Y

tế Australia và New Zealand thông qua. Trong đó yêu cầu thực phẩm đóng gói

phải ghi đủ các thông tin về dinh dưỡng như hàm lượng chất béo, protein, năng

lượng, muối và cacbonhydrate; nhãn mác phải ghi rõ phần% các chất chính và tất

cả các chất có thể gây dị ứng.

Nhìn chung, hàng rào kỹ thuật đối với thương mại của Australia cũng gây nhiều

khó khăn cho các nhà xuất khẩu và đã hạn chế một khối lượng lớn hàng hoá nhập

khẩu vào Australia. Các doanh nghiệp khi chuẩn bị xuất khẩu cần hết sức chú ý

các quy định, tiêu chuẩn mà Australia đề ra và nên trao đổi với phía đối tác để

nắm được đầy đủ thông tin và có biện pháp xử lý kịp thời để vượt qua được các

rào cản đó.

3. Hàn Quốc

Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, nền cộng hoà được thiết lập ở phía nam bán

đảo Triều Tiên. Sau đó, trong công cuộc tái thiết đất nước, Hàn Quốc đã đạt được

tốc độ tăng trưởng kinh tế kỷ lục đáng ngạc nhiên và đã trở thành một trong bốn

con rồng châu Á. Cách đây ba thập kỷ, GDP trên đầu người của Hàn Quốc tương

đương với các nước nghèo thuộc châu Á và châu Phi. Nhưng hiện nay, mức GDP

trên đầu người của Hàn Quốc đã đạt 16.700 USD (năm 2002), gấp 7 lần của Ấn

Độ, 16 lần của Bắc Triều Tiên và tương đương với các nền kinh tế thuộc Liên minh Châu Âu (8). Thành công này đạt được trong những năm cuối 1980 do chính

sách đóng cửa thắt chặt thương mại của Chính phủ bao gồm tín dụng trực tiếp,

hạn chế nhập khẩu, hỗ trợ các ngành công nghiệp cụ thể và nỗ lực lao động cao.

Hàn Quốc cũng là một thị trường nhập khẩu khá lớn, kim ngạch nhập khẩu của Hàn Quốc năm 2002 là 165,3 tỷ USD (8). Tuy nhiên, các nhà xuất khẩu nước

ngoài muốn thâm nhập vào thị trường này thì phải đối mặt với một rào cản đáng

kể đó là hệ thống tiêu chuẩn và cấp giấy chứng nhận của Hàn Quốc vì hệ thống

tiêu chuẩn rất phức tạp và thiếu minh bạch. Hơn nữa, Chính phủ Hàn Quốc

thường hay đưa ra các quy định mới mà không có thủ tục thông qua ý kiến dân

chúng nên không có một thời gian để nhận định và không có thời gian tương

xứng cho các ngành công nghiệp điều chỉnh. Đó chính là một trở ngại lớn đối với

thương mại. Và thời kỳ thực thi đôi khi không đủ dài để các nhà sản xuất nước

ngoài có thể đáp ứng nên dẫn đến sự gián đoạn và tốn kém không cần thiết trong

thương mại.

* Hệ thống tiêu chuẩn

Về hệ thống tiêu chuẩn, Chính phủ Hàn Quốc đã công nhận hệ thống ISO 9000

(được sửa đổi thành hệ thống KSA 9000) là hệ thống tiêu chuẩn chính thức của

nước này từ tháng 4 năm 1992 và phát hành các quy định liên quan vào tháng 10

năm 1993. Năm 1997, Hàn Quốc cũng bắt đầu áp dụng hệ thống quản lý môi

trường theo ISO 14000. Mặc dù Hàn Quốc là thành viên của Tổ chức tiêu chuẩn

quốc tế ISO từ năm 1963 nhưng chỉ có khoảng 2000 trong số hơn 10.000 tiêu (8)www.exim-pro.com/kinhte/thitruong/hanquoc chuẩn được ban hành từ năm 1999 là hợp với các tiêu chuẩn quốc tế (8). Điều này

gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng sang Hàn Quốc khi

phải đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định của nước này đồng thời. (Hiện nay,

Hàn Quốc đang nỗ lực để sửa đổi các tiêu chuẩn sao cho phù hợp với các tiêu

chuẩn quốc tế nhằm tạo điều kiện cho các công ty trong nước có thể cạnh tranh

trên thị trường thế giới).

Đối với thủ tục đăng ký và chứng nhận tiêu chuẩn, Hàn Quốc yêu cầu những

thông tin rất chi tiết về sản phẩm như thành phần % từng loại của thực phẩm.

Hàn Quốc có các phòng thí nghiệm kiểm tra trong nước được uỷ quyền chứng

nhận cho các công ty theo hệ thống ISO 9000. Nhưng Hàn Quốc không công

nhận kết quả giám định và giấy chứng nhận chất lượng của bất kỳ một nước xuất

khẩu nào khác ngoài các nước là thành viên của Diễn đàn chứng nhận quốc tế-

Hiệp định công nhận đa phương (IAF-MLA).

* Quy định về chứng chỉ xuất xứ

Mọi hàng hoá thương mại vào Hàn Quốc đều phải có nhãn ghi xuất xứ nước sản

xuất. Cơ quan Hải quan Hàn Quốc (Korean Customs Service-KCS) ấn hành một

danh sách những quy định đối với nhãn hàng ghi xuất xứ nước sản xuất theo hệ

thống mã số thống nhất HS (Hamornized System).

Theo quy định, chứng chỉ xuất xứ hàng hoá nên nêu chi tiết mô tả mặt hàng, số

lượng, giá, địa điểm xuất xứ, nhà xuất khẩu, tên nhà nhập khẩu... và có thể viết

bằng tiếng Anh, tiếng Hàn, hoặc tiếng Pháp.

Đối với mặt hàng xuất khẩu trực tiếp đến Hàn Quốc từ nước xuất xứ ghi trên

chứng chỉ xuất xứ thì chứng chỉ xuất xứ đó phải do Phòng thương mại và Công

nghiệp trực tiếp cấp.

Hàn Quốc yêu cầu phải ghi rõ tên nước xuất xứ cả trên bao bì và sản phẩm. Cơ

quan quản lý yêu cầu thông tin về nước xuất xứ phải được khắc hoặc in trên sản

(8)www.exim-pro.com/kinhte/thitruong/hanquoc

phẩm và không chấp nhận việc ghi trên một tờ giấy đính kèm. Như vậy sẽ làm

tăng giá thành sản phẩm và làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm nhập khẩu.

* Yêu cầu ghi nhãn đối với sản phẩm nhập khẩu

Tất cả các mặt hàng Thực phẩm nhập khẩu (tức là các sản phẩm từ vật nuôi tuân

thủ theo tiêu chuẩn của Bộ Nông lâm nghiệp Hàn Quốc) đều buộc phải ghi nhãn

bằng tiếng Hàn.

Đối với các loại dược phẩm, tất cả các kiện hàng và bao gói đều phải được ghi rõ:

 Nước xuất xứ, nhà sản xuất, tên và địa chỉ nhà nhập khẩu

 Tên sản phẩm

 Ngày sản xuất, số lô

 Tên và trọng lượng thành phần

 Số lượng

 Số đơn vị

 Phương thức bảo quản

 Ngày hết hạn sử dụng

 Hướng dẫn sử dụng

 Số giấy phép nhập khẩu

 Công hiệu

 Giá nhập khẩu và giá khuyến cáo bán lẻ.

Ngoài ra, Hải quan Hàn Quốc yêu cầu nhà nhập khẩu ghi bằng tiếng Hàn tên của:

nhà nhập khẩu, địa chỉ, nhãn hiệu thương mại và nước xuất xứ lên tất cả các sản

phẩm gương kính.

Trước đây, Hàn Quốc yêu cầu phải đăng giá trên nhãn hàng nhưng đến tháng 8

năm 1998, quy định này đã được bãi bỏ. Tuy nhiên, việc yết giá bán lẻ vẫn bắt

buộc đối với những hàng hoá nhập và sản xuất trong nước được bán tại các cửa

hàng có mặt bằng trên 33 mét vuông.

Để phù hợp với các yêu cầu về ký mã hiệu của Hàn Quốc, nhà sản xuất nước

ngoài phải thay đổi quy trình sản xuất hoặc phải sản xuất những lô hàng đặc biệt

để xuất khẩu vào thị trường Hàn Quốc hoặc phải in tên nước sản xuất vào cả các

lô hàng không xuất khẩu sang Hàn Quốc.

Với từng mặt hàng cụ thể thì có những quy định nhãn mác cụ thể do các cơ quan

chính phủ chuyên trách những mặt hàng này ban hành. Cơ quan phụ trách Dược

phẩm và thực phẩm Hàn Quốc (The Korean Food & Drug Administration-KFDA)

chịu trách nhiệm ra các quy định và thi hành các quy định về nhãn mác đối với

hàng thực phẩm chứ không phải hàng tươi sống. Bộ Nông lâm nghiệp (MAF –

Ministry of Agriculture and Forest) ra các quy định đối với hàng tươi sống. MAF

cũng có riêng một hệ thống tiêu chuẩn về ký hiệu đối với việc ghi xuất xứ trên

nhãn mác đối với hàng nông sản.

Nhãn hàng hoá bằng tiếng Hàn Quốc trừ những ký mã hiệu về xuất xứ nước sản

xuất phải được xuất trình trước hoặc ngay sau thời điểm làm thủ tục hải quan thì

hàng mới được nhập vào Hàn Quốc.

* Những quy định nhãn mác theo GMO (Genetically Modified organisms)

Kể từ 1/3/2001, theo Luật quản lý chất lượng đối với những mặt hàng nông lâm

nghiệp, Hàn Quốc quy định rằng những sản phẩm được sản xuất bằng công nghệ

vi sinh cần được ghi rõ trên nhãn hàng là chúng là những sản phẩm nông nghiệp

được chế biến theo phương pháp cấy gen. Đậu, ngô và giá đều chịu sự điều chỉnh

của những quy định này. Khoai tây cũng bắt đầu chịu điều chỉnh của quy định

này từ tháng 3 năm 2002. Và từ 13/7/2001, Hàn Quốc cũng yêu cầu các sản phẩm

sử dụng chất phụ gia trong quá trình sản xuất cũng như là đối với các nguyên liệu

chính sử dụng công nghệ sinh học đều phải ghi nhãn GMO theo quy định ghi

trong Luật trên. Nhãn hiệu hàng phải ghi bằng chữ khổ lớn, dễ đọc và chứa đầy

đủ các thông tin cần thiết.

Các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng hoá nhập khẩu của Hàn Quốc là

một rào cản lớn ngăn cản thương mại quốc tế. Rào cản kỹ thuật của Hàn Quốc

càng khó vượt qua và gây thiệt hại cho các nhà xuất khẩu bởi chúng phức tạp,

không rõ ràng lại hay thay đổi làm cho các nhà xuất khẩu khó nắm bắt.

Tóm lại, rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế có rất nhiều hình thức đa

dạng. Mỗi nước lại có một hình thức rào cản khác biệt tuỳ vào điều kiện cụ thể và

tuỳ vào chủ ý của từng nước. Nhưng dù với hình thức nào thì rào cản kỹ thuật

cũng cản trở thương mại quốc tế và gây ra thiệt hại cho các nước, đặc biệt là các

nước đang và kém phát triển khi tham gia thương mại quốc tế.

CHƯƠNG III

CÁC GIẢI PHÁP GIÚP VIỆT NAM VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT

TRONG THƯƠNG MẠI

I. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU VIỆT NAM TRƯỚC RÀO CẢN KỸ THUẬT TỪ CÁC NƯỚC

CÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN

1. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam từ 1986 đến nay

Kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng công cuộc đổi mới, mở cửa nền

kinh tế đến nay, đất nước ta thật sự có những biến đổi sâu sắc. Hoạt động ngoại

thương có những tiến bộ vượt bậc và góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát

triển đất nước .

Nhờ thực hiện chính sách mở cửa, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế

đối ngoại, đến nay nước ta đã mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều nước thay vì

đóng cửa nền kinh tế như trước đây. Tính đến nay, nước ta đã có quan hệ buôn

bán với hơn 100 nước và lãnh thổ trên thế giới. Chúng ta đã ký kết nhiều hiệp

định thương mại song phương cũng như đa phương với các quốc gia và lãnh thổ

trên thế giới tạo điều kiện cho thương mại phát triển. Nước ta cũng đã nộp đơn

xin tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO và hiện nay đang trong quá trình

đàm phán. Nhờ những chính sách, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước mà

hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.

Trong đó nổi bật là thành tựu của hoạt động ngoại thương, cụ thể là xuất khẩu.

Hoạt động xuất khẩu được đẩy mạnh góp phần rất lớn vào việc phát triển nền

kinh tế nói chung. Giá trị xuất khẩu gia tăng giúp cân bằng cán cân thương mại và

mang lại một nguồn ngoại tệ tích luỹ không nhỏ cho đất nước. Từ năm 1986 đến

nay, tốc độ tăng xuất khẩu luôn cao hơn tốc độ tăng GDP. Nếu tính trong vòng 10

năm từ 1990-2000 thì xuất khẩu năm 2000 tăng gấp 5,95 lần năm 1990, trong khi đó GDP chỉ tăng có 2 lần (9). Trong mấy năm gần đây, tuy thị trường thế giới có

nhiều biến động nhưng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn tiếp tục tăng.

Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam từ 1998 đến 2002

Năm 1998 1999 2000 2001 2002

Giá trị 9.360 11.541 14.483 15.029 16.705 (triệu USD)

Nguồn: Niên giám thống kê 2002, NXB Thống kê, 2003

Trong tương lai, xuất khẩu vẫn là là một hoạt động kinh tế mũi nhọn của nước ta.

Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra mục tiêu cho xuất khẩu Việt Năm trong giai đoạn

2000-2010 là: tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình hàng năm đạt 15%, giá trị kim ngạch xuất khẩu từ 2000 đến 2010 đạt 70 tỷ USD (10).

Cơ cấu hàng xuất khẩu trong hơn 15 năm qua cũng có những thay đổi tích cực.

Giá trị xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản có sự gia tăng

lớn do Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô. Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản xuất

khẩu có xu hướng giảm dần trong cơ cấu xuất khẩu. Xuất khẩu hàng công nghiệp

có xu hướng tăng đều trong những năm qua. Tỷ lệ hàng thô sơ chế có giá trị

không ổn định trong cơ cấu xuất khẩu giảm dần, tỷ lệ hàng chế biến xuất khẩu

ngày tăng. Trước đây, các mặt hàng thô sơ chế thường chiếm khoảng 60-70%

tổng giá trị xuất khẩu nhưng hiện nay tỷ lệ này đã giảm xuống đáng kể. Năm

2001, tỷ lệ xuất khẩu của các mặt hàng chế biến chiếm 55,8% tổng kim ngạch xuất khẩu còn các mặt hàng thô sơ chế chỉ còn chiếm 44,2% (11). Mục tiêu của

chúng ta trong thời gian tới là giảm tỷ lệ hàng thô sơ chế trong tổng kim ngạch xuất khẩu xuống còn 14% (10). Việt Nam cũng đã xây dựng được những mặt hàng

xuất khẩu chủ lực gồm những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt từ 1 tỷ USD

một năm như dầu thô, giày dép, may mặc, thuỷ sản…Đây là những mặt hàng mà

Việt Nam có lợi thế và có khả năng phát triển trong tương lai. Những mặt hàng

(9) Giáo trình Kinh tế Ngoại thương, GS. Bùi Xuân Lưu, ĐH Ngoại thương, 2001 (10) Chỉ thị 22/2000/CT-TTg, ngày 27/10/2000 của Chính phủ (11) Xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam, Tổng cục Thống kê, NXB Thống kê, 2002

này sẽ đóng vai trò chủ chốt giúp đẩy mạnh xuất khẩu của nước ta.

Thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong hơn 15 năm qua cũng có nhiều thay

đổi. Trước đây, thị trường xuất khẩu chủ yếu của chúng ta là Liên Xô và các nước

xã hội chủ nghĩa Đông Âu.Khi khối xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã và rơi vào

khủng hoảng thì Việt Nam mất đi thị trường xuất khẩu chủ lực và gặp nhiều khó

khăn. Tuy nhiên, chúng ta đã nhanh chóng chuyển hướng, tiếp cận và thâm nhập

những thị trường mới, nhờ đó mà xuất khẩu của chúng ta thoát khỏi khủng

khoảng và có những bước phát triển mới. Thị trường châu Á và châu Âu chiếm tỷ

lệ ngày càng cao trong cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong khi các

nước Đông Âu và các nước thuộc Liên Xô cũ lại giảm mạnh vào những năm 80

và nửa đầu những năm 90. Xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thuộc châu

Mỹ, châu Đại Dương cũng ngày càng tăng. Trong thời gian tới, châu Á được xác

định là thị trường xuất khẩu chủ lực của chúng ta, đồng thời, chúng ta vẫn tiếp tục

đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường châu Âu và châu Mỹ. Chúng ta đặt mục

tiêu trong giai đoạn 2000-2010, xuất khẩu của nước ta sang các thị trường châu Á

sẽ chiếm 45% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tỷ lệ xuất khẩu sang châu Âu và châu Mỹ đều là 25% (10).

Nhìn chung, trong hơn 15 năm qua, xuất khẩu Việt Nam đã đạt được khá nhiều

thành tựu, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất

nước. Và trong những năm tới, đẩy mạnh xuất khẩu vẫn được Đảng và Nhà nước

ta xác định là hướng phát triển chiến lược của nước ta.

2. Những thách thức đối với xuất khẩu của Việt Nam trước rào cản kỹ thuật từ các thị

trường nhập khẩu

Tuy xuất khẩu Việt Nam trong những năm qua đạt được một số thành tích nhất

định nhưng hiện nay, trước xu hướng phát triển mới của thương mại quốc tế, đặc

biệt là xu hướng tăng cường sử dụng các rào cản kỹ thuật đối với thương mại của

các nước công nghiệp phát triển thì xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp không ít khó

khăn.

(10) Chỉ thị 22/2000/CT-TTg, ngày 27/10/2000 của Chính phủ

Xuất khẩu của nước ta hiện nay vẫn dựa chủ yếu vào nhóm hàng có nguồn gốc

thiên nhiên, giá trị gia tăng thấp và phải chịu nhiều các quy định về môi trường và

an toàn vệ sinh của các thị trường nhập khẩu. Cụ thể là hàng xuất khẩu thô và sơ

chế vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu xuất khẩu (năm 2000, tỷ lệ là 44,2%).

Đây là nhóm hàng có nguồn gốc đa dạng sinh học mà việc khai thác chế biến có

nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường, làm mất đi nguồn đa dạng sinh học, tài

nguyên không tái tạo dễ bị các nước hạn chế nhập khẩu vì lý do bảo vệ môi

trường. Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay thì đại

bộ phận là các mặt hàng có nguồn gốc thiên nhiên như thuỷ sản, dầu thô, gạo, cà

phê, rau quả mà việc khai thác, chế biến đang gặp phải các giới hạn về môi

trường như làm thu hẹp diện tích rừng, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm nguồn nước

và đa dạng sinh học. Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay như gạo,

đồ uống, cà phê, rau quả, thuỷ sản, khoáng sản… đang gặp những rào cản kỹ

thuật rất lớn liên quan đến tiêu chuẩn của sản phẩm như tiêu chuẩn và quy định

về vệ sinh an toàn thực phẩm, quá trình chế biến, chất lượng hàng hoá, nhãn môi

trường, bao bì, đóng gói… Kể cả các mặt hàng chế biến đang có kim ngạch ngày

càng tăng như dệt may, giày da, chế biến thuỷ sản…cũng có thể gặp phải các rào

cản kỹ thuật từ các thị trường do công nghệ của chúng ta hiên nay còn thấp kém

so với thế giới.

* Khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn quốc tế của một số mặt hàng xuất

khẩu của Việt Nam

Hàng thuỷ sản: Đến nay, tuy thuỷ sản Việt Nam đã lần lượt vượt qua các rào cản

của EU và cũng được các thị trường khó tính khác như Nhật Bản, Mỹ, Australia

chấp nhận nhưng việc xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vẫn còn gặp phải nhiều

khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm. Chỉ có 78

trong số 264 cơ sở chế biến thuỷ sản chiếm 80% lượng thuỷ sản xuất khẩu được

Bộ thuỷ sản công nhận đạt tiêu chuẩn ngành về điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn

thực phẩm còn lại các cơ sở khác đang sản xuất trong điều kiện không đảm bảo

vệ sinh. Công nghệ chế biến và bảo quản sản phẩm thuỷ sản còn lạc hậu do đó

khó có thể đáp ứng các tiêu chuẩn cao về chất lượng cũng như vệ sinh của các thị

trường.

Mặt hàng thịt: Hàng thịt xuất khẩu của Việt Nam mới tiếp cận được những thị

trường có tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm thấp, chưa vào được những thị

trường khó tính như EU, Nhật Bản, Mỹ…Lý do là thịt của nước ta chưa đáp ứng

các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của nước nhập khẩu. Chăn nuôi còn

theo cách thủ công, không tuân thủ các quy định về chế độ ăn uống, chăm sóc y

tế. Khâu chế biến còn lạc hậu, hệ thống quy định về thú y chưa phù hợp với thông

lệ quốc tế. Một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất liên quan đến xuất khẩu

thịt là HACCP. Đây là tiêu chuẩn bắt buộc đối với mặt hàng thịt. Theo báo cáo

của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, đến nay, chưa có một nhà máy nào

của ta được cấp chứng chỉ về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.

Cà phê: Mặc dù hệ thống tiêu chuẩn của cà phê Việt Nam hiện nay tương đối

hoàn chỉnh nhưng chất lượng cà phê chưa cao do quá trình chăm sóc, thu hái,

phơi sấy, chế biến và đóng gói chưa tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật và

tiêu chuẩn chất lượng. Vệ sinh công nghiệp trong các xưởng chế biến còn yếu.

Một vấn đề cần được đặc biệt quan tâm là độ ẩm của cà phê trong bảo quản, vận

chuyển. Ngành cà phê cần cố gắng hoàn thiện rất nhiều để có thể đáp ứng các yêu

cầu của thị trường nhập khẩu.

Rau quả: Hiện nay, rau quả của Việt Nam mới xuất khẩu chủ yếu sang Trung

Quốc vì các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm và các tiêu chuẩn môi trường

còn dễ dãi. Hàng rau quả xuất sang EU, Nhật Bản, Mỹ, Australia còn rất hạn chế.

Thậm chí ngay trong nước nhu cầu rau quả sạch cũng rất lớn nhưng các nhà sản

xuất cũng chưa đáp ứng được. Thách thức lớn nhất đối với mặt hàng này hiện nay

là các tiêu chuẩn về môi trường, vệ sinh và mức dư lượng các chất kháng sinh

trong sản phẩm.

Ngoài những mặt hàng kể trên thì các mặt hàng xuất khẩu khác của nước ta như

da giày, dệt may, thủ công mỹ nghệ…cũng gặp phải các rào cản kỹ thuật từ phía

thị trường nhập khẩu phát triển.

Các thị trường xuất khẩu chủ yếu của nước ta lại là các nước công nghiệp phát

triển như EU, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc…Hiện nay, xuất khẩu của Việt Nam sang các

thị trường này chiếm tỷ trọng rất lớn trong kim ngạch xuất khẩu.

Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam theo thị trường

Đơn vị: triệu USD

2000 2001 2002

Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ

EU 2845,1 19,6% 3002,9 20,0% 3149,9 18,9%

Nhật Bản 2575,2 17,8% 2509,8 16,7% 2438,1 14,6%

Mỹ 723,8 5,1% 1065,3 7,1% 2421,1 14,5%

Tổng 14483,0 100,0% 15029,0 100,0% 16705,0 100,0% KNXK

Nguồn: Niên giám thống kê 2002, NXB Thống kê, 2003

Những thị trường xuất khẩu chủ yếu của nước ta là những thị trường khó tính, có

đòi hỏi cao đối với hàng nhập khẩu và thường dùng các rào cản kỹ thuật để hạn

chế nhập khẩu. Do đó, Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc đẩy mạnh xuất

khẩu sang các thị trường chiến lược này. Và thực tế thì xuất khẩu của Việt Nam

cũng đã gặp phải những rào cản kỹ thuật từ phía các thị trường.

Từ đầu năm 2002, EU liên tục thông báo dư lượng chloramphenicol (một loại

kháng sinh bị cấm vì có khả năng gây ung thư ) trong các lô tôm xuất khẩu của

Việt Nam và họ đã giữ lại hoặc thiêu huỷ hàng chục lô tôm của Việt Nam và

quyết định sẽ kiểm tra toàn bộ các lô tôm xuất khẩu của Việt Nam sang EU.

Quyết định này là một rào chắn mà EU thiết lập đối với hàng thuỷ sản của Việt

Nam. Trước đây, Việt Nam và EU có ký kết với nhau các văn bản về kiểm soát

dư lượng độc tố trong các sản phẩm thuỷ sản, thống nhất với nhau về các tiêu

chuẩn cũng như các thiết bị kiểm tra, và Việt Nam đã đáp ứng được các yêu cầu

này. Nhưng đến thời điểm đó, EU lại đơn phương sử dụng thiết bị kiểm tra mới

với tiêu chuẩn khác để phát hiện dư lượng chlramphenicol với tỷ lệ chỉ bằng 2/10

tiêu chuẩn đã thống nhất mà không hề báo trước. Do đó, Việt Nam không kịp ứng

phó và phải chịu thiệt. Vì EU là một thị trường có các tiêu chuẩn nghiêm đối với

vệ sinh và an toàn thực phẩm và được các thị trường khác lấy làm chuẩn mực

trong lĩnh vực này nên sau khi EU đưa ra quyết định trên thì hàng loạt các thị

trường khác cũng vậy. Cơ quan kiểm soát thực phẩm Hàn Quốc cũng tuyên bố sẽ

kiểm tra dư lượng chất chloramphenicol trong các lô tôm sú và cua ghẹ nhập khẩu

của Việt Nam vào thị trường này ít nhất một tháng một lần. Nhật cũng yêu cầu

các lô hàng thuỷ sản nhập khẩu phải có giấy chứng nhận không chứa các chất nói

trên. Mỹ cũng tuyên bố kiểm tra chặt chẽ các lô hàng thuỷ sản nhập khẩu. Riêng

Canada thì quyết định lấy mẫu kiểm tra chất chloramphenicol đối với 100% lô

hàng thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam. Quyết định này của EU và các thị trường

gây cho nước ta thiệt hại không nhỏ do các lô hàng xuất đi bị giữ và thiêu huỷ,

hơn nữa, quyết định này còn làm cho các nhà xuất khẩu e ngại không dám xuất

hàng thực hiện các hợp đồng nữa.

Theo Báo cáo của Tổng cục quản lý thị trường năm 2000 thì từ tháng 2 đến tháng

12 năm 2002 đã có 34% số hàng xuất sang Mỹ bị trả lại vì lỗi về ghi nhãn hàng

hoá. Nguyên nhân là do quy chế ghi nhãn hàng hoá còn chưa hoàn thiện, còn

nhiều bất cập, chồng chéo, chưa phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và các doanh

nghiệp cũng ý thức chưa cao về vấn đề này.

Tháng 11/2001, Mỹ đã ban hành dự luật HR 2330 với điều khoản SA 2000, theo

đó FDA không được sử dụng ngân sách để làm thủ tục nhập khẩu các loại cá da

trơn mang tên catfish trừ khi chúng thuộc họ Ictaluridae. Quy định này là bất hợp

lý vì ngay cả cơ quan FDA của Mỹ cũng khẳng định tất cả các loại cá da trơn đều

được mang tên catfish và ca da trơn của Việt Nam cũng được công nhận mang tên

catfish có kèm theo tính từ để phân biệt với các loại các da trơn khác. Dự luật này

gây khó khăn lớn cho xuất khẩu cá catfish của Việt Nam.

Những rào cản kỹ thuật đó đã hạn chế khả năng xuất khẩu của Việt Nam đồng

thời cũng gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế. Trong tương lai, Việt Nam vẫn

chú trong đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường nói trên và vẫn sẽ gặp phải vô

số các hàng rào kỹ thuật mà các thị trường này sử dụng. EU tuy đã chấm dứt việc

kiểm tra toàn bộ các lô hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam nhưng vẫn rất

nghiêm ngặt trong vấn đề dư lượng kháng sinh trong thực phẩm. EU, Mỹ và các

thị trường khác đã đưa ra quy định “dư lượng bằng không” trong thuỷ sản. Điều

này buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực hơn nữa để giải quyết vấn đề dư

lượng kháng sinh. Ngoài ra, chúng ta còn gặp phải những rào cản môi trường

ngày càng được sử dụng rộng rãi hơn ở EU. Mỹ cũng vừa ban hành Dự luật sẵn

sàng chống khủng bố sinh học nhằm ngăn chặn các hành động khủng bố sinh học

đối với nước này. Các nhà xuất khẩu VIệt Nam sẽ gặp không ít khó khăn với

những quy định của Dự luật này.

Tóm lại, khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế của hàng hoá Việt

Nam còn thấp, các thị trường lại ngày càng sử dụng nhiều các rào cản kỹ thuật

đối với hàng hoá nhập khẩu nên xuất khẩu của Việt Nam đã và sẽ gặp rất nhiều

khó khăn. Việt Nam cần phải có những biện pháp hữu hiệu để có thể vượt qua các

rào cản đó, hội nhập thành công vào thương mại quốc tế và đạt được những mục

tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.

II. CÁC GIẢI PHÁP GIÚP VIỆT NAM VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI

1. Các giải pháp cấp Nhà nước

Để giúp hàng hoá và các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam vượt qua được

các rào cản kỹ thuật và đẩy mạnh được xuất khẩu sang các thị trường trọng điểm

thì chúng ta cần tiến hành nhiều biện pháp. Trong đó, ở cấp độ nhà nước, Nhà

nước ta cần thực hiện một số giải pháp sau:

1.1. Ký kết các hiệp định song phương và đa phương về rào cản kỹ thuật trong

thương mại.

Trong tình hình hiện nay, các quốc gia phát triển đang lợi dụng trình độ khoa học

công nghệ vượt trội hơn để đặt ra ngày càng nhiều các rào cản kỹ thuật để hạn

chế nhập khẩu từ các nước khác, đặc biệt là từ các nước đang và kém phát triển.

Do đó, Chính phủ các quốc gia đang và kém phát triển phải thực hiện các biện

pháp cần thiết để bảo vệ quyền lợi của mình. Một trong những biện pháp hữu hiệu

là tham gia vào các diến đàn quốc tế về vấn đề này. Khi tham gia vào các Hiệp

định quốc tế song phương cũng như đa phương về rào cản kỹ thuật thì các nước

sẽ có được sự bảo vệ cũng như giúp đỡ cần thiết từ các bên liên quan nhờ đó sẽ có

được sự công bằng khi tham gia vào thương mại quốc tế. Ví dụ như trong Hiệp

định của WTO về rào cản kỹ thuật trong thương mại có điều khoản 11 về trợ giúp

kỹ thuật cho các thành viên khác quy định các thành viên khi được yêu cầu phải

tư vấn, trợ giúp kỹ thuật cho các thành viên khác là các nước đang phát triển

trong việc soạn thảo các quy định kỹ thuật, thành lập cơ quan tiêu chuẩn hoá hay

tham gia vào các cơ quan tiêu chuẩn hoá quốc tế…Các nước đang phát triển khi

tham gia Hiệp định này còn được hưởng sự đối xử đặc biệt ưu đãi hơn các thành

viên phát triển khác như thành viên đang phát triển được phép “chấp nhận một số

các quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn hoặc các thủ tục đánh giá sự phù hợp nhằm duy

trì công nghệ, sản xuất trong nước phù hợp với nhu cầu phát triển của mình” tuỳ

theo những điều kiện kinh tế – xã hội, công nghệ của mình dù các tiêu chuẩn đó

chưa phù hợp với tiêu chuẩn hay quy định quốc tế. Ngoài ra, trong những tổ chức

quốc tế về rào cản kỹ thuật, các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật mà các quốc gia sử

dụng sẽ được thống nhất, công khai và áp dụng chung cho các thành viên. Vì vậy,

các tiêu chuẩn, quy định sẽ trở nên rõ ràng, minh bạch nhờ đó mà các nhà xuất

khẩu sẽ hiểu được các quy định và sẽ có biện pháp khắc phục tránh tình trạng các

tiêu chuẩn kỹ thuật không rõ ràng, rối rắm gây khó khăn cho các nhà xuất khẩu.

Với tình hình thực tiễn của nước ta hiện nay, khi trình độ kinh tế - xã hội cũng

như khoa học - công nghệ còn thấp so với thế giới, chúng ta cũng gặp nhiều khó

khăn khi phải đối mặt với các rào cản kỹ thuật. Các tiêu chuẩn mà nước ta áp

dụng chưa phù hợp với tiêu chuẩn thế giới và chưa được thế giới công nhận cho

nên hàng xuất khẩu của nước ta chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn mà các nước

nhập khẩu yêu cầu. Để giúp hàng hoá của ta có thể vượt qua được các rào cản kỹ

thuật, thâm nhập vào thị trường toàn thế giới thì Chính phủ ta cần tích cực tham

gia đàm phán, ký kết các hiệp định quốc tế về rào cản kỹ thuật và tiêu chuẩn hoá

song phương cũng như đa phương. Khi ký kết các hiệp định này, nước ta sẽ có

điều kiện rà soát hiệp định, tham gia xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế cho phù hợp

với trình độ phát triển của nước mình và có thể tận dụng quyền nhận xét các tiêu

chuẩn và các quy định quốc tế, bảo vệ được quyền lợi của nước ta cũng như các

nước đang và kém phát triển khác.

Đến nay, Việt Nam cũng đã hội nhập khá tốt trong lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường

chất lượng. Đại diện của Nhà nước về lĩnh vực tiêu chuẩn hoá và chất lường là

Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng đã tham gia vào 15 tổ chức quốc tế và

khu vực như: Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế (ISO), Uỷ ban kỹ thuật điện quốc tế

(IEC – International Electrotechnical Commission), Uỷ ban tư vấn của ASEAN

về tiêu chuẩn chất lượng (ACCSQ – Asean Consultative Committee of Standards

and Quality), Diễn đàn tiêu chuẩn khu vực Thái Bình Dương (PASC – Pacific

Area Standards Congress)…Trong quá trình tham gia các tổ chức này, Việt Nam

cũng đã tranh thủ được sự giúp đỡ ủng hộ của các tổ chức này nhằm thúc đẩy

hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng trong nước. Việt Nam cũng đã ký các

Hiệp định hợp tác trong lĩnh vực tiêu chuẩn hoá, đo lường và chứng nhận, Hiệp

định thừa nhận lẫn nhau các kết quả chứng nhậnvà thử nghiệm với Liên bang

Nga, Trung Quốc, Ucraina… Việt Nam cũng đang trên đường gia nhập tổ chức

thương mại thế giới WTO, từ đó sẽ trở thành thành viên của các Hiệp định của tổ

chức này về tiêu chuẩn, chất lượng và về rào cản kỹ thuật như HIệp định về rào

cản kỹ thuật trong thương mại và Hiệp định về vệ sinh và các biện pháp vệ sinh

thực phẩm. Sau sự kiện EU đưa ra mức dư lượng bằng không đối với

chloramphenicol và nitrofuran trong thuỷ sản nhập khẩu, các nước ASEAN đang

thảo luận về việc thành lập một tổ chức gọi là Codax. Cơ quan thực phẩm này sẽ

đưa ra các tiêu chuẩn chung cho thực phẩm của các nước trong khối và các tiêu

chuẩn này sẽ được EU, Mỹ, Nhật Bản công nhận.

Tuy đã có nhiều cố gắng trong việc hội nhập quốc tế về tiêu chuẩn - chất lượng và

rào cản kỹ thuật nhưng Việt Nam vẫn cần tích cực hơn nữa trong việc đàm phán

ký kết các hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại để bảo vệ quyền lợi

quốc gia khi hội nhập kinh tế quốc tế.

1.2. Tuyên truyền, giới thiệu cho các doanh nghiệp về rào cản kỹ thuật của các

nước.

Một trong những nguyên nhân khiến cho các rào cản kỹ thuật trở nên khó vượt

qua là vì các rào cản này tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng, phức tạp, khó nhận

biết và thường xuyên thay đổi. Các doanh nghiệp ở các nước đang và kém phát

triển thường gặp khó khăn trong việc tìm hiểu và thu thập thông tin liên quan đến

rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu do hệ thống thông tin còn yếu. Và họ có

rất ít các thông tin cũng như hiểu biết rất hạn chế về rào cản kỹ thuật tại các thị

trường mà họ sẽ xuất hàng sang. Chính vì lý do đó mà các nước đang và kém phát

triển là những nước chịu thiệt thòi nhiều nhất từ các rào cản kỹ thuật.

Ở Việt Nam cũng vậy, các doanh nghiệp có nhận thức rất thấp về rào cản kỹ thuật

và lại càng mơ hồ về các rào cản cụ thể mà các thị trường xuất khẩu của mình

đang áp dụng. Do đó, hàng hoá xuất khẩu của chúng ta bị từ chối nhiều do không

đáp ứng được các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như các tiêu chuẩn vệ sinh,

môi trường mà các thị trường đặt ra cho hàng nhập khẩu. Với điều kiện như của

các doanh nghiệp nước ta hiện nay thì việc tiếp cận với các nguồn thông tin trực

tiếp từ các thị trường về các quy định nói chung và về rào cản kỹ thuật nói riêng

là khó khăn. Vì thế, để giúp đỡ các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp

vừa và nhỏ, có được đầy đủ các thông tin cần thiết về các thị trường xuất khẩu thì

sự trợ giúp của Nhà nước là cần thiết. Nhà nước cần có những cơ quan chuyên

trách về vấn đề rào cản kỹ thuật trong thương mại có nhiệm vụ tìm hiểu thu thập

các thông tin liên quan đến các quy định, tiêu chuẩn mà các nước đặt ra đối với

hàng nhập khẩu, đặc biệt là đối với những mặt hàng xuất khẩu của nước nhà. Sau

đó, các cơ quan này sẽ tuyên truyền, giới thiệu cho các doanh ngiệp biết về các

quy định cũng như tiêu chuẩn đó, giúp các doanh nghiệp có sự hiểu biết tốt hơn

về những quy định, tiêu chuẩn mà các mặt hàng xuất khẩu của doanh ngiệp mình

sẽ phải thoả mãn khi xuất sang từng thị trường cụ thể, nhất là những thị trường

xuất khẩu chiến lược của ta như EU, Nhật, Mỹ, Australia... Các cơ quan chuyên

trách này nên tổ chức các buổi hội thảo cũng như các buổi tuyên truyền, giới thiệu

định kỳ về rào cản kỹ thuật của các thị trường và có những thông báo bổ sung cần

thiết cho các doanh nghiệp khi các nước thay đổi, bổ sung các quy định, tiêu

chuẩn. Đồng thời, họ cũng có thể gợi ý những giải pháp mà các doanh nghiệp nên

áp dụng để vượt rào cản. Từ đó, doanh nghiệp sẽ có những biện pháp cần thiết để

đổi mới sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo các yêu cầu của thị

trường nhập khẩu và từng bước nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu của

doanh nghiệp nói riêng và của cả nước nói chung.

Hiện nay, nước ta có Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (Vietnam

Chamber of Commerce and Industry - VCCI) là tổ chức hỗ trợ và xúc tiến các

hoạt động thương mại của Việt Nam. Phòng thương mại và công nghiệp Việt

Nam cũng có vai trò đáng kể trong việc tuyên truyền, cung cấp các thông tin cần

thiết về thị trường, trong đó có thông tin về các rào cản kỹ thuật cho các doanh

nghiệp, giúp các doanh nghiệp tiếp cận các thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu.

Ngoài ra, nước ta còn có các có quan đại diện thương mại đóng tại các quốc gia

khác cũng có đóng góp lớn trong việc thu thập và cung cấp các thông tin về các

từng thị trường cụ thể cho các doanh nghiệp, giúp đỡ các doanh nghiệp tiếp cận

và thâm nhập các thị trường...

Tuy nhiên, các doanh nghiệp nước ta hiện nay thực sự vẫn chưa nhận được đầy

đủ các thông tin cần thiết về các thị trường, đặc biệt là các thông tin liên quan đến

các rào cản kỹ thuật trong thương mại nên còn vấp phải những cản trở, những thất

bại khi xuất khẩu hàng hoá, gây thiệt hại, mất uy tín không chỉ cho doanh nghiệp

mà còn cho cả quốc gia. Vì thế mà hoạt động tuyên truyền, giới thiệu về rào cản

kỹ thuật cho các doanh nghiệp là một hoạt động cần thiết mà Nhà nước ta cần tiến

hành để giúp các doanh nghiệp vượt rào cản kỹ thuật khi xuất khẩu.

1.3. Tổ chức đào tạo đội ngũ quản lý chất lượng và kỹ thuật cho các doanh

nghiệp.

Chất lượng của sản phẩm là yếu tố quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà

còn quan trọng đối với cả quốc gia. Những sản phẩm có chất lượng sẽ được người

tiêu dùng chấp nhận và có thể đứng vững trên thị trường. Hiện nay, khi các nước

công nghiệp phát triển tăng cường sử dụng các quy định về chất lượng và các tiêu

chuẩn kỹ thuật của sản phẩm làm rào cản đối với hàng hoá nhập khẩu thì vấn đề

chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm trở nên quan trọng hơn bao giờ

hết.

Để nâng cao chất lượng sản phẩm cần huy động rất nhiều yếu tố. Trong đó, yếu tố

con người đóng vai trò vô cùng quan trọng. Các doanh nghiệp cần có những công

nhân kỹ thuật lành nghề, có những nhà quản lý giỏi, hiểu biết về quản lý chất

lượng và ý thức được tầm quan trọng của chất lượng thì mới có thể thành công

được. Nhưng ở nước ta hiện nay còn thiếu vắng những cán bộ giỏi, có năng lực

trong lĩnh vực quản lý chất lượng sản phẩm. Chính sách đào tạo còn chưa thích

hợp. Số lượng các cán bộ quản lý về chất lượng được đào tạo chưa nhiều. Các cán

bộ quản lý của các doanh nghiệp hiện nay cũng chưa có nhận thức sâu sắc về tầm

quan trọng của chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật trong việc vượt các rào cản kỹ

thuật của các thị trường. Nhà nước ta cần quan tâm đến việc đào tạo cho các

doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu, một đội ngũ cán bộ quản lý

chất lượng và kỹ thuật giỏi và am hiểu về các rào cản kỹ thuật. Các cơ quan

chuyên trách có thể tổ chức các khoá học ngắn hạn cho các nhà quản lý của các

doanh nghiệp về vấn đề chất lượng, các tiêu chuẩn kỹ thuật và các biện pháp vượt

rào cản bằng việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong dài hạn thì nước ta nên

có chính sách thu hút và đào tạo một lực lượng cán bộ quản lý có chuyên môn

cao, có bằng cấp về chất lượng để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp trong

tương lai. Những cán bộ quản lý chất lượng và kỹ thuật này sẽ giúp các doanh

nghiệp lập các kế hoạch ngắn hạn, dài hạn về chất lượng sản phẩm và giám sát

quá trình thực hiện các kế hoạch đó giúp các doanh nghiệp từng bước nâng cao

chất lượng sản phẩm cho doanh nghiệp. Nhờ đó, mà sản phẩm của doanh nghiệp

có thể đáp ứng được các yêu cầu khắt khe của thị trường về chất lượng sản phẩm

và vượt qua được các rào cản kỹ thuật về mặt chất lượng mà các thị trường nhập

khẩu dựng lên.

Chất lượng và các tiêu chuẩn kỹ thuật là một hình thức của rào cản kỹ thuật trong

thương mại. Các doanh nghiệp Việt Nam muốn vượt qua được rào cản này thì cần

không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, làm cho sản phẩm thoả mãn những

yêu cầu nghiêm ngặt đối với sản phẩm của các nước nhập khẩu. Để làm được việc

này, các doanh nghiệp cần có các cán bộ quản lý chất lượng và kỹ thuật giỏi và

Nhà nước cần có chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý này cho các doanh

nghiệp.

1.4. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia cho sản phẩm và thành lập các cơ

quan kiểm tra chất lượng và kỹ thuật đối với hàng xuất khẩu.

Trong điều kiện quốc tế hoá nền kinh tế thế giới như hiện nay thì việc hài hoà hoá

các tiêu chuẩn chất lượng của quốc gia với các tiêu chuẩn quốc tế cũng là một xu

hướng tất yếu. Để hàng hoá của nước mình có thể được chấp nhận và tiêu thụ

được ở mọi thị trường trên thế giới mà không gặp phải các rào cản kỹ thuật thì

các quốc gia đều đang nỗ lực xây dựng cho mình một hệ thống tiêu chuẩn quốc

gia mới sao cho phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và được các nước khác thừa

nhận. Khi hệ thống tiêu chuẩn trong nước phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế thì

các sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước một khi đã đáp ứng được các tiêu

chuẩn trong nước thì vừa có thể tiêu thụ được ở thị trường nội địa vừa có thể tiêu

thụ được ở các thị trường nước ngoài.

Ở Việt Nam hiện nay, theo báo cáo của Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng

năm 2002 thì trong số 5200 TCVN hiện hành mới chỉ có 24% các tiêu chuẩn phù

hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Đây là một tỷ lệ thấp dù hiện giờ việc hài hoà hoá

các TCVN với các tiêu chuẩn quốc tế đã được chú trọng hơn. Vì có sự sai khác

giữa các TCVN và các tiêu chuẩn quốc tế nên phần lớn các sản phẩm của Việt

Nam không đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng và kỹ thuật do các thị trường

nhập khẩu đặt ra. Điều này đã hạn chế khả năng xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt

là xuất khẩu sang các thị trường có trình độ khoa học công nghệ cao vì các thị

trường này đặt ra các tiêu chuẩn rất khắt khe cho hàng hoá mà các TCVN hiện

nay thì chưa đáp ứng được.

Do đó, đổi mới hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam cần được đặc biệt quan tâm và phải

được xác định là một nhiệm vụ trọng tâm trong hội nhập quốc tế. Điều này rất có

ý nghĩa với Việt Nam vì nó sẽ giúp chúng ta vượt qua được các rào cản kỹ thuật

của thị trường các nước công nghiệp phát triển. Chúng ta cần xây dựng một hệ

thống tiêu chuẩn mới thay thế những tiêu chuẩn đã lạc hậu và không phù hợp với

các yêu cầu của hội nhập. Những tiêu chuẩn này sẽ phải được xây dựng trên cơ sở

khoa học, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế và phải tính đến các điều kiện đặc thù

của các doanh nghiệp trong nước. Những tiêu chuẩn mới sẽ phải bao quát hết

những đòi hỏi phổ biến của thế giới đối với hàng hoá như các tiêu chuẩn chất

lượng, tiêu chuẩn môi trường, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm...Giải pháp

này không những giúp hàng hoá Việt Nam có thể vượt qua các rào cản kỹ thuật

mà còn giúp nâng cao chất lượng hàng hoá trong nước, nâng cao chất lượng cuộc

sống của nhân dân.

Riêng đối với các mặt hàng xuất khẩu, Nhà nước cần thành lập các cơ quan kiểm

tra chất lượng và các tiêu chuẩn kỹ thuật trước khi cho xuất khẩu. Vì hiện nay, vì

việc kiểm soát chất lượng hàng xuất khẩu của chúng ta không chặt chẽ nên số

lượng hàng xuất khẩu không đạt tiêu chuẩn và bị trả lại, bị tiêu huỷ hoặc phải bán

giảm giá vẫn còn cao gây thiệt hại cho doanh nghiệp và mất uy tín cho hàng hoá

Việt Nam. Chính vì vậy mà chúng ta cần tăng cường công tác kiểm tra đối với

các lô hàng xuất khẩu để đảm bảo rằng các lô hàng này thoả mãn những yêu cầu

của thị trường nhập khẩu về chất lượng, các tiêu chuẩn vệ sinh, kiểm dịch..., tránh

tình trạng hàng của chúng ta sẽ bị từ chối khi nhập cảng. Hiện thời, chúng ta đã

thực hiện khá tốt công tác này đối với hàng thuỷ sản xuất khẩu. Năm 1994, Chính

phủ đã ban hành Nghị định 50 CP ngày 21/6/1994 thành lập Trung tâm kiểm tra

chất lượng và vệ sinh thuỷ sản (National Fisheries Inspection and Quality

Assurance Center - NAFIQACEN) nay là Cục quản lý chất lượng, an toàn và thú

y thuỷ sản có chức năng quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thuỷ sản từ khâu

nuôi trồng, khai thác, đến chế biến và tiêu thụ. Cục còn có trách nhiệm kiểm tra

chất lượng và các điều kiện vệ sinh của các cơ sở sản xuất thuỷ sản, công nhận

các cơ sở đủ điều kiện xuất khẩu sang các thị trường cụ thể và cấp giấy chứng

nhận vệ sinh cho các lô hàng thuỷ sản. Những lô hàng nào được Cục cấp giấy

chứng nhận thì sẽ được phép xuất khẩu và sẽ được thị trường chấp nhận. Nhờ đó,

thuỷ sản Việt Nam đã được nhiều thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật, Hàn

Quốc... chấp nhận. Hiện nay, Cục có 6 chi nhánh trên cả nước với những trang

thiết bị hiện đại, có thể kiểm tra và cấp giấy chứng nhận cho các cơ sở sản xuất,

chế biến và các lô hàng một cách kịp thời, nhanh chóng.

Tuy nhiên đối với các mặt hàng khác thì chúng ta còn chưa thực hiện tốt vấn đề

này. Do vậy, trong thời gian sắp tới, Nhà nước nên thành lập những trung tâm

tương tự cho các mặt hàng khác để đảm bảo chất lượng và các tiêu chuẩn kỹ thuật

khác cho các lô hàng xuất khẩu.

Ngoài các giải pháp trên thì Nhà nước cần hoàn thiện các quy định, thể chế pháp

luật liên quan đến vấn đề chất lượng nhằm đạt được một sự quản lý thống nhất

trên cả nước. Nhà nước cũng cần có chế độ khen thưởng đối với những doanh

nghiệp, tổ chức có thành tựu trong lĩnh vực quản lý chất lượng cũng như cần có

chế độ xử phạt, kỷ luật đối với những doanh nghiệp, tổ chức không chấp hành tốt

các quy định của Nhà nước về vấn đề chất lượng. Nhà nước cần có biện pháp trợ

giúp về kỹ thuật, thông tin... cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để các doanh

nghiệp này có thể vượt qua được các rào cản kỹ thuật. Tóm lại, vì nước ta là một

nước đang phát triển còn bị hạn chế về nhiều mặt, hơn nữa, rào cản kỹ thuật là

một vấn đề phức tạp và khá mới mẻ với nước ta nên Nhà nước cần phải hợp tác

với các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp cần thiết để giúp các doanh nghiệp

Việt Nam vượt rào cản thành công.

2. Các giải pháp ở cấp độ doanh nghiệp

2.1. Nâng cao nhận thức về rào cản kỹ thuật trong thương mại

Rào cản kỹ thuật là một vấn đề khá mới mẻ ở nước ta. Cho nên hiện nay, nhận

thức của các doanh nghiệp về rào cản kỹ thuật là thấp, nhất là các doanh nghiệp

vừa và nhỏ. Có doanh nghiệp còn không có chút khái niệm gì về rào cản kỹ thuật.

Có doanh nghiệp thì biết nhưng không ý thức được mức độ ảnh hưởng của rào

cản kỹ thuật đối với bản thân doanh nghiệp cũng như đối với thương mại nói

chung. Vì thế các doanh ngiệp không mấy quan tâm đến việc đổi mới sản xuất

nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, dịch tễ, đảm bảo các

yêu cầu về đảm bảo môi trường để có thể đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng thị

trường, thâm nhập những thị trường khó tính. Mà các doanh nghiệp hiện nay chỉ

sản xuất theo khả năng vốn có và tiêu thụ ở những thị trường dễ tính chấp nhận

những sản phẩm đó.

Muốn vượt qua được các rào cản kỹ thuật thì trước hết các doanh nghiệp phải

hiểu rõ rào cản kỹ thuật là gì, các hình thức và tác động của nó. Do đó, giải pháp

đầu tiên và rất quan trọng là phải nâng cao nhận thức về rào cản kỹ thuật cho các

doanh nghiệp, cho các thành viên của doanh nghiệp. Muốn vậy, trước hết, những

nhà quản trị của các doanh nghiệp cần có một nhận thức đầy đủ và sâu sắc về rào

cản kỹ thuật và ảnh hưởng của nó tới thương mại nói chung và tới doanh nghiệp

mình nói riêng. Các nhà quản trị cần nắm rõ các quy định, tiêu chuẩn cụ thể của

từng thị trường nhập khẩu đối với loại hàng hoá của doanh nghiệp mình và các

biện pháp mà doanh nghiệp cần áp dụng. Sau đó, các nhà quản trị sẽ tuyên truyền,

giáo dục cho từng thành viên trong công ty về các rào cản kỹ thuật và lợi ích của

việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế, việc tuân thủ các yêu cầu

về môi trường và vệ sinh đối với doanh nghiệp trong việc giúp doanh nghiệp vượt

rào cản. Một khi từng thành viên trong doanh nghiệp đã hiểu rõ về rào cản kỹ

thuật và tác động của nó tới doanh nghiệp mình thì họ sẽ tự ý thức và nỗ lực để

nâng cao chất lượng hàng hoá của doanh nghiệp mình, đáp ứng các đòi hỏi của thị

trường nhập khẩu.

Tóm lại, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp là một biện pháp rất cần thiết và

hiệu quả giúp doanh nghiệp có thể vượt qua các rào cản kỹ thuật. Vì nó làm cho

từng cá nhân, thành viên trong doanh nghiệp, dù ở vị trí nào cũng có ý thức rõ

ràng về trách nhiệm của mình trong việc giúp doanh nghiệp vượt qua các rào cản

kỹ thuật trong thương mại và cạnh tranh được trên thị trường thế giới.

2.2. Áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.

Trong điều kiện hiện nay, trước tình trạng các doanh nghiệp của các nước đang

phát triển đang phải đối đầu với những đòi hỏi chứng nhận phù hợp với những

yêu cầu về chất lượng, môi trường, vệ sinh và an toàn thực phẩm được quy định

trong các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật đông thời cũng là rào cản của các nước

phát triển, việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế

đã trở thành yêu cầu bắt buộc cho các doanh nghiệp nếu muốn bước chân vào các

thị trường này.

Hiện nay, các doanh nghiệp có thể áp dụng các hệ thống chất lượng được công

nhận rộng rãi trên thế giới như hệ thống quản trị theo tiêu chuẩn của tổ chức quốc

tế ISO 9000, hệ thống quản lý chất lượng đồng bộ TQM, hệ thống quản lý chất

lượng theo HACCP, GMP cho các xí nghiệp sản xuất dược phẩm, thực phẩm,

nông sản và thuỷ sản, hệ thống quản trị môi trường theo ISO 14000... Áp dụng

các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế sẽ giúp các doanh nghiệp cải thiện hình ảnh của

mình, tạo niềm tin cho bạn hàng và người tiêu dùng. Việc áp dùng các hệ thống

này sẽ đem lại cho doanh nghiệp nhiều cái lợi so với sự đầu tư ban đầu.

Tính đến nay, cả nước đã có khoảng 500 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận

hệ thống chất lượng ISO 9000, hơn 40 doanh nghiệp đạt chứng chỉ ISO 14000 và

trong tổng số 264 cơ sở chế biến thuỷ sản thì đã có 78 cơ sở được công nhận đạt tiêu chuẩn của hệ thống HACCP (12). Đây là những con số đáng mừng cho thấy

các doanh nghiệp Việt Nam đã có ý thức trong việc áp dụng các hệ thống chất

lượng quốc tế. Nhưng những con số này còn thấp so với những doanh nghiệp còn

chưa áp dụng các hệ thống này. Vì không phải doanh nghiệp nào cũng quan tâm

và có điều kiện áp dụng các hệ thống chất lượng đó. Trong số các doanh nghiệp

áp dụng các hệ thống chất lượng thì còn nhiều doanh nghiệp còn chưa thực sự chú

trọng mà chủ yếu nặng về hình thức.

Trong thời gian tới, các doanh nghiệp cần chú trọng hơn nữa tới việc áp dụng các

hệ thống quản lý chất lượng quốc tế ở doanh nghiệp mình vì những hệ thống này

sẽ giúp cho các doanh nghiệp cũng như sản phẩm của doanh nghiệp được công

nhận toàn cầu và có thể vượt qua các quy định về chất lượng, vệ sinh và môi

trường của các nước nhập khẩu đồng thời cũng được người tiêu dùng ưa thích

hơn. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có điều kiện áp dụng các hệ

thống này thì Nhà nước cần có sự hỗ trợ, bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải tự

mình tìm ra các giải pháp thích hợp tuỳ điều kiện của mình. Đầu tư áp dụng các

hệ thống tiêu chuẩn quốc tế không những giúp doanh nghiệp có thể thoả mãn yêu

cầu của những thị trường khó tính mà doanh nghiệp còn có thể kiểm soát, quản lý

chất lượng tốt hơn, giảm những sản phẩm khuyết tật đồng thời tiết kiệm chi phí

kiểm tra, kiểm soát và sửa chữa cho doanh nghiệp.

Có thể nói hiện nay, việc áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế đã trở nên

phổ biến và là một một điều kiện không thể thiếu cho các doanh nghiệp xuất nhập

khẩu ví dụ như: giấy chứng nhận ISO 9000 được xem là “ngôn ngữ đảm bảo chữ

tín” về chất lượng giữa các doanh nghiệp, ISO 14000 được coi là tấm “hộ chiếu

xanh” cho hàng hoá và HACCP là một tiêu chuẩn bắt buộc đối với thực phẩm để

xuất khẩu sang thị trường các nước phát triển. Vì thế, để có thể tồn tại và phát

triển được trong tương lai thì các doanh nghiệp Việt Nam không còn sự lựa chọn

nào khác là phải áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.

2.3. Gắn “nhãn sinh thái” cho hàng hoá

“Thương mại - môi trường” chính là xu hướng phát triển trong tương lai của

thương mại quốc tế. Các quốc gia ngày càng quan tâm đến việc bảo vệ môi

trường sinh thái nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của quốc gia mình và của

cả thế giới. Một công cụ mà các nước trên thế giới hiện nay đang sử dụng để dung

hoà giữa yêu cầu phát triển thương mại quốc tế và bảo vệ môi trường là “nhãn

sinh thái”.

“Nhãn sinh thái” (hay còn gọi là “nhãn xanh”) là một trong những nội dung quan

trọng của Bộ tiêu chuẩn ISO 14000. Đó là một chứng chỉ được các cơ quan chứng

nhận cấp cho sản phẩm, hàng hoá, chứng nhận sản phẩm, hàng hoá đó ít gây tổn

hại đến môi trường (nói cách khác là “thân thiện với môi trường”). Nhãn sinh thái

là sự khẳng định uy tín của sản phẩm và của nhà sản xuất trong lĩnh vực bảo vệ

môi trường. Các sản phẩm được gắn nhãn sinh thái rất được người tiêu dùng ưa

chuộng và thường có giá bán cao hơn các sản phẩm cùng loại. Nhãn sinh thái

chính là một yếu tố quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh

nghiệp, nhất là với các doanh nghiệp ngoại thương, đồng thời, nó cũng là công cụ

giúp hàng hoá của các nước đang phát triển vượt qua rào cản kỹ thuật của các thị

trường khó tính. Vì hiện nay, các nước công nghiệp phát triển thường sử dụng các

yêu cầu về bảo vệ môi trường để hạn chế hàng nhập khẩu từ các nước khác. Và

rào cản này thường gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp, nhất là doanh

nghiệp của các nước đang phát triển.

Ở Việt Nam việc sử dụng nhãn sinh thái cho một số mặt hàng ở các doanh nghiệp

xuất nhập khẩu cũng đã được bắt đầu nghiên cứu, xem xét từ năm 2002. Tuy

nhiên, do hạn chế về mặt nhận thức và thông tin cho nên nhãn sinh thái còn là

một vấn đề hết sức mới mẻ nên nhiều doanh nghiệp còn chưa hiểu được nội dung

cũng như tầm quan trọng của việc áp dụng nhãn sinh thái đối với các sản phẩm

của mình. Để đáp ứng yêu cầu của thị trường về nhãn sinh thái thì các doanh

nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn thử thách. Hiện nay, ở

nước ta, việc áp dụng tiêu chuẩn ISO 9000 đã là một khó khăn đối với doanh

nghiệp chứ chưa nói đến việc áp dụng ISO 14000. Các doanh nghiệp nước ta phải

đối mặt với những thách thức về trình độ quản lý và kinh phí, đặc biệt là ở các

doanh nghiệp vừa và nhỏ, khi áp dụng nhãn sinh thái. Vì thế, ngoài sự tự nỗ lực

của các doanh nghiệp, Nhà nước cũng cần có những hỗ trợ cần thiết để các doanh

nghiệp có thể từng bước triển khai việc gắn nhãn sinh thái cho hàng hoá.

Trong tương lai, do sức ép của vấn đề môi trường quốc tế, nhãn sinh thái sẽ là

điều kiện bắt buộc đối với mọi hàng hoá nếu muốn thâm nhập các thị trường nước

ngoài. Điều này sẽ cản trở khả năng thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp

các nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Do đó mà ngay từ bây giờ, các

doanh nghiệp Việt Nam cần phải tự trang bị cho mình một cách đầy đủ các yêu

cầu về triển khai việc dán nhãn sinh thái và phải coi đó như một yêu cầu tất yếu

cấp bách mà doanh nghiệp phải thực hiện. Từ đó, có những bước chuẩn bị cần

thiết để có thể áp dụng nhãn sinh thái trong một tương lai gần.

2.4. Đổi mới công nghệ và nâng cao trình độ quản lý kỹ thuật để nâng cao chất

lượng sản phẩm.

Khi các nước công nghiệp phát triển sử dụng các rào cản kỹ thuật về chất lượng,

môi trường, vệ sinh để bảo hộ thị trường trong nước thì các doanh nghiệp của các

nước đang phát triển gặp phải nhiều khó khăn. Do trình độ phát triển kinh tế - xã

hội thấp, máy móc, thiết bị lạc hậu, trình độ quản lý không cao nên sản phẩm sản

xuất ra không thoả mãn các yêu cầu chất lượng và kỹ thuật khắt khe các thị

trường phát triển đặt ra. Công nghệ lạc hậu lại không có kinh phí để lắp đặt các

thiết bị xử lý nước thải, rác thải, khí thải gây ô nhiễm môi trường nên hàng hoá bị

người tiêu dùng các nước phát triển tẩy chay cũng như không đáp ứng được các

tiêu chuẩn bảo vệ môi trường của các nước phát triển. Vì thế mà hàng hoá của các

doanh nghiệp các nước đang phát triển như nước ta không thâm nhập được vào

các thị trường khó tính.

Để vượt qua các rào cản đó và đẩy mạnh xuất khẩu, các doanh nghiệp cần đầu tư

đổi mới công nghệ, mua sắm mới máy móc thiết bị. Điều này một mặt làm giảm

giá thành sản xuất, mặt khác nâng cao chất lượng hàng hoá, đáp ứng các yêu cầu

của các nước nhập khẩu về bao bì, đóng gói, an toàn vệ sinh, quy trình chế

biến...Những công nghệ mới ít gây ô nhiễm môi trường vừa bảo vệ môi trường

các nước sản xuất vừa giúp doanh nghiệp vượt quan rào cản về môi trường trong

thương mại. Tuy nhiên với điều kiện tài chính của các doanh nghiệp nước ta như

hiện nay thì không phải doanh nghiệp nào cũng có điều kiện để đổi mới hoàn toàn

công nghệ và máy móc mà các doanh nghiệp cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của

doanh nghiệp mình lập kế hoạch thay thế, đổi mới cho phù hợp. Các doanh

nghiệp cũng nên khuyến khích các sáng kiến đổi mới công nghệ, các giải pháp

hữu ích cho sản xuất của công nhân và cán bộ kỹ thuật trong doanh nghiệp. Biện

pháp này giúp doanh nghiệp có thể tiết kiệm chi phí mà vẫn có thể đổi mới

phương pháp sản xuất một cách hiệu quả.

Song song với đổi mới công nghệ, doanh nghiệp cũng cần chú trọng việc nâng

cao trình độ kỹ thuật và quản lý kỹ thuật trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần

liên tục đào tạo nâng cao tay nghề cho các công nhân kỹ thuật của doanh nghiệp

để họ có thể nắm bắt, sử dụng những công nghệ và thiết bị sản xuất mới hiện đại.

Đặc biệt, doanh nghiệp cần có những cán bộ quản lý kỹ thuật có trình độ, có khả

năng tiếp thu khoa học công nghệ mới. Những cán bộ kỹ thuật giỏi này sẽ là

những người tiếp xúc và nắm bắt công nghệ mới đầu tiên sau đó họ sẽ giúp hướng

dẫn, đào tạo các công nhân kỹ thuật cho doanh nghiệp. Những cán bộ kỹ thuật

cũng cần hiểu biết rõ về những quy định, tiêu chuẩn trong nước cũng như ngoài

nước đối với sản phẩm của công ty và đưa ra được các giải pháp để sản phẩm có

thể đấp ứng được các quy định, tiêu chuẩn đó. Để có được đội ngũ cán bộ kỹ

thuật có trình độ cao thì doanh nghiệp cần có chính sách đào tạo và bồi dưỡng

nhân tài phù hợp. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần có chế độ đãi ngộ đặc biệt đối

với họ. Những cán bộ kỹ thuật này sẽ là nòng cốt giúp doanh nghiệp từng bước

nâng cao trình độ kỹ thuật và năng lực sản xuất trong toàn doanh nghiệp. Nhờ đó,

các sản phẩm của doanh nghiệp sẽ có chất lượng ngày càng cao và đáp ứng các

tiêu chuẩn khắt khe của thị trường trong và ngoài nước.

Đổi mới công nghệ và đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật giỏi rất cần thiết đối với

mỗi doanh nghiệp. Biện pháp này không những giúp doanh nghiệp vượt qua được

các rào cản thương mại mà còn giúp tăng chất lượng hàng hoá, tăng năng lực

cạnh tranh của doanh nghiệp trên cả thị trường trong và ngoài nước.

Ngoài ra, các doanh nghiệp cần có những biện pháp như xây dựng chiến lược

kinh doanh dài hạn có tính đến các tác động của rào cản kỹ thuật; chủ động trong

việc tiếp cận các nguồn thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng,

hệ thống truyền thông quốc tế, các tổ chức trong nước và quốc tế, các bạn

hàng...để tìm hiểu về các rào cản kỹ thuật trong thương mại. Tóm lại, doanh

nghiệp cần phải có những sự chuẩn bị kỹ càng để có thể vượt qua các rào cản

thương mại đó.

KẾT LUẬN

Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế mở ra rất nhiều cơ hội phát triển cho các quốc

gia đồng thời cũng mang lại không ít khó khăn và thách thức. Theo xu hướng tự

do hoá thương mại, các rào cản thương mại chủ yếu là các rào cản thuế quan và

một số rào cản phi thuế khác sẽ được dỡ bỏ tạo điều kiện tiếp cận và mở rộng thị

trường cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên không phải các doanh nghiệp sẽ không

gặp khó khăn gì khi tiếp cận và thâm nhập các thị trường nước ngoài bởi các quốc

gia đang có xu hướng sử dụng một loại rào cản thương mại mới: rào cản kỹ thuật

để thay thế cho các rào cản đã bị xoá bỏ. Rào cản kỹ thuật là một hình thức rào

cản thương mại rất tinh vi, phức tạp và rất khó vượt qua ngay cả đối với doanh

nghiệp của các nước phát triển. Các quốc gia mà hiện nay chủ yếu là các nước

công nghiệp phát triển đã sử dụng các tiêu chuẩn, quy định về chất lượng, vệ sinh

và môi trường hết sức khắt khe để ngăn cản hàng hoá của các nước khác nhập

khẩu vào lãnh thổ nước mình. Các rào cản kỹ thuật này đã gây cản trở lớn cho

thương mại thế giới, thậm chí còn gây ra cả những vụ xung đột thương mại giữa

các quốc gia. Tương tương lai, khi các rào cản thương mại khác đã dược dỡ bỏ

hoàn toàn thì rào cản kỹ thuật sẽ được sử dụng ngày càng rộng rãi hơn và sẽ tác

động đến phần lớn thương mại thế giới. Do đó, các quốc gia trên thế giới đã tiến

hành ký kết nhiều Hiệp định song phương và đa phương về rào cản kỹ thuật nhằm

hạn chế những tác động tiêu cực của nó đến thương mại quốc tế. Các quốc gia

đang và kém phát triển, trong đó có Việt Nam là những nước chịu tác động của

rào cản kỹ thuật nhiều nhất.

Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, rào cản kỹ thuật là một vấn đề khá mới mẻ

và chưa được các doanh nghiệp quan tâm, chú ý nhiều. Tuy nhiên, trên thực tế thì

thương mại Việt Nam cũng đã chịu những thiệt hại không nhỏ do rào cản kỹ thuật

từ các nước công nghiệp phát triển gây ra. Và trong tương lai khi rào cản kỹ thuật

được sử dụng một cách rộng rãi thì xuất khẩu của Việt Nam sẽ đứng trước những

khó khăn thách thức lớn. Hiện nay, do các doanh nghiệp Việt Nam chưa ý thức

được tầm quan trọng và mức độ ảnh hưởng của rào cản kỹ thuật đối với bản thân

doanh nghiệp cũng như đối với thương mại nói chung nên chưa chú tâm tìm hiểu

kỹ càng về rào cản kỹ thuật và các biện pháp để vượt qua các rào cản đó. Cũng

như các nước đang phát triển khác, các doanh nghiệp Việt Nam cũng bị hạn chế

về trình độ khoa học công nghệ , khả năng tài chính và thiếu thông tin nên rất khó

vượt qua được các rào cản kỹ thuật mà các nước công nghiệp phát triển đã dựng

lên. Điều này sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng xuất khẩu của Việt Nam cũng

như tốc độ phát triển của nền kinh tế vì xuất khẩu đóng một vai trò quan trọng

trong nền kinh tế nước ta. Trong thời gian tới, để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng

xuất khẩu với tốc độ trung bình 15%/năm trong giai đoạn 2000-2010 mà Đảng và

Nhà nước đã đặt ra thì bản thân các doanh nghiệp cũng như Nhà nước ta cần nỗ

lực nhiều hơn nữa. Trong đó, các doanh nghiệp ngoại thương phải cần tích cực

tăng cường năng lực cạnh tranh, nâng cao chất lượng sản phẩm để có thể đáp ứng

các yêu cầu mà các thị trường nhập khẩu đặt ra. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần

thực hiện các giải pháp ở cấp vĩ mô để giúp các doanh nghiệp vượt rào cản.

Tóm lại, rào cản kỹ thuật là một hình thức mới của rào cản thương mại và có tác

động to lớn tới thương mại quốc tế. Các doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện

ngay những biện pháp cần thiết để vượt qua các rào cản kỹ thuật này, tiếp cận và

mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu góp phần phát triển nền kinh tế đất nước.

PHỤ LỤC

(1) Những biện pháp cấp bách hạn chế dư lượng kháng sinh trong thuỷ hải sản

xuất khẩu – Thanh Thuý, Tạp chí Doanh nghiệp thương mại, số 160, 2002

(2) Foodmarketexchange, 19/11/2002

(3) www.nationmaster.com/country/eu/economy

(4) Báo cáo của Eurostat, 2003

(5) www.cia.gov/cia/publications/factbook/goes/us

(6) www.nationmaster.com/country/ja/economy

(7) www.exim-pro.com/kinhte/thitruong/nhatban

(8) www.exim-pro.com/kinhte/thitruong/hanquoc

(9) Giáo trình Kinh tế Ngoại thương, GS. Bùi Xuân Lưu, ĐH Ngoại thương, 2001

(10) Niên giám thống kê 2002, NXB Thống kê, 2003

(11) Xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam, Tổng cục Thống kê, NXB Thống

kê, 2002

(12) http//khoahoc.vnn.vn/iso/ds

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Viện nghiên cứu chiến lược, Việt Nam trên đường hội nhập và thị

trường

chính sách công nghiệp, thế giới – NXB Thanh niên, 2003

Tạp chí công nghiệp

2. Trung tâm tư vấn và đào tạo Thị trường Nhật Bản - NXB Thanh niên,

kinh tế thương mại (ICTC) 1997

Tổ chức xúc tiến thương mại

Nhật Bản (JETRO)

3. G.S. Bùi Xuân Lưu Giáo trình Kinh tế Ngoại thương - ĐH

Ngoại thương, Hà Nội, 2001

4.T.S. Bùi Hữu Đạo Hệ thống rào cản môi trường trong thương

mại quốc tế và một số giải pháp đối với

hàng xuất khẩu của Việt Nam - Tạp chí

Thương mại, số 26/2003

5. Nguyễn Thanh Bình Một số vấn đề cần chú ý đối với hàng

hoánhập khẩu vào EU – Tạp chí Thương

mại, số 26/2003

6. Trần Sửu Một số điều cần biết khi xuất khẩu sản

phẩm vào Mỹ – Kỷ yếu Hội nghị khoa

học, Khoa QTKD, ĐH Ngoại thương,

2000

7. Trần Thanh Lâm Nhãn sinh thái hàng hoá và phát triển

thương mại bền vững trong quá trình hội

nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam – Tạp chí

Kinh tế và phát triển, số 15/2003

8. Nguyễn Huyền Trâm ISO 9000 – Kỷ yếu hội nghị khoa học,

Khoa QTKD, ĐH Ngoại thương, 2000

9. T.S. Bùi Hữu Đạo Hệ thống quản lý chất lượng- công cụ để

nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp-

Tạp chí Thương mại, số 17/2003

10. Thanh Thuý Những biện pháp cấp bách hạn chế dư

lượng kháng sinh trong sản phẩm thuỷ sản

– Báo Doanh nghiệp thương mại, số

160/2002

11. Nguyễn Thanh Bình Thị trường Nhật Bản-Một số vấn đề cần

lưu

ý khi thâm nhập - Kỷ yếu Hội nghị khoa

học Khoa KTNT, ĐH Ngoại thương, 2000

12. PV Để xuất khẩu hải sản vào Australia – Báo

Doanh nghiệp thương mại, số 185/2003

13. T.S. Hồ Tất Thắng Hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng

với hội nhập kinh tế quốc tế – Tạp chí Tiêu

chuẩn đo lường chất lượng, số 11/2002

14. T.S. Đinh Công Tuấn Vấn đề bảo hộ đối với sản phẩm nông ,lâm,

thuỷ sản ở thị trường EU - Nghiên cứu

châu

Âu, số 3/2003

15. Các trang web www.dongnai-industry.gov.vn

www.customs.gov

www.exim-pro.com/kinhte/thitruong

www.tcvn.gov.vn/wtcvn/newsraocan

www.vneconomy.com.vn

www.cia.gov/cia/publication/factbook

www.natonmaster.com/country

www.jisc.org

www.standards.com.au

www.smenet.com.vn/tiengviet/eu