TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI CỦA MỘT SỐ NƯỚC
CÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN
VÀ CÁC BIỆN PHÁP GIÚP VIỆT NAM VƯỢT RÀO CẢN
Giáo viên hướng dẫn: Thạc sỹ Bùi Thị Lý
Sinh viên thực hiện : Đào Thị Thu Hương
Lớp : Anh 10 – K38
Hà Nội, năm 2003
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 5
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI .............. 8
I. Rào cản kỹ thuật trong thương mại .....................................................8
1. Khái niệm và các hình thức của rào cản kỹ thuật trong thương mại........8
1.1. Rào cản kỹ thuật trong thương mại là gì? .............................................8
1.2.1. Tiêu chuẩn về chất lượng và quy cách sản phẩm.......................................... 10
1.2.2. Tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm và an toàn cho người sử dụng .................. 12
1.2.3. Tiêu chuẩn về môi trường............................................................................ 14
1.2. Các hình thức của rào cản kỹ thuật trong thuương mại quốc tế ............9
2. Quy định của WTO về rào cản kỹ thuật trong thương mại ....................17
2.1. Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại của WTO...................17
2.2. Hiệp định về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật của WTO ...20
II. Các hệ thống quản lý chất lượng thường được sử
dụng trên thế giới ...............................................................................22
1. Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 .................................................22
2. Hệ thống quản trị môi trường ISO 14000 ..............................................24
3. Hệ thống quản lý chất lượng đồng bộ (TQM)........................................27
4. Hệ thống HACCP .................................................................................28
III. Tác động của rào cản kỹ thuật đối với thương mại quốc tế .............30
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN ÁP DỤNG RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG
MẠI Ở MỘT SỐ NƯỚC CÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN ............................ 35
I. Liên minh châu Âu – EU.....................................................................35
1. Khái quát chung về thị trường EU.........................................................35
2. Một số quy định kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu vào thị trường EU....36
II. Mỹ ........................................................................................................46
1. Khái quát chung về thị trường Mỹ.........................................................46
2. Một số quy định kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu vào thị trường Mỹ....47
III. Nhật Bản .............................................................................................54
1. Khái quát về thị trường Nhật Bản..........................................................54
2. Một số quy định kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu vào thị trường Nhật .56
IV. Rào cản kỹ thuật trong thương mại của một số nước công nghiệp
phát triển khác .....................................................................................62
1. Canada ..................................................................................................62
2. Australia................................................................................................64
3. Hàn Quốc..............................................................................................67
CHƯƠNG III : CÁC GIẢI PHÁP GIÚP VIỆT NAM VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT
TRONG THƯƠNG MẠI.............................................................................. 72
I. Thực trạng xuất khẩu của Việt Nam trước rào cản kỹ thuật từ
các nước công nghiệp phát triển..........................................................72
1. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam từ 1986 đến nay..............................72
2. Những thách thức đối với xuất khẩu của Việt Nam trước rào cản
kỹ thuật từ các nước công nghiệp phát triển ...........................................74
II. Các giải pháp giúp Việt Nam vượt rào cản kỹ thuật
trong thương mại .................................................................................79
1. Các giải pháp cấp Nhà nước..................................................................79
1.1. Ký kết các hiệp định song phương và đa phương về rào cản
kỹ thuật trong thương mại ......................................................................80
1.2. Tuyên tryền giới thiệu cho các doanh nghiệp về rào cản kỹ thuật
của các nước...........................................................................................82
1.3. Tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý về chất lượng và kỹ
thuật cho các doanh nghiệp.....................................................................84
1.4. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia cho sản phẩm và thành
lập các cơ quan kiểm tra chất lượng đối với hàng xuất khẩu ..................85
2. Các giải pháp ở cấp độ doanh nghiệp ........................................................88
2.1. Nâng cao nhận thức về rào cản kỹ thuật trong thương mại ....................88
2.2. Áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế............................................89
2.3. Gắn “nhãn sinh thái” cho hàng hoá ......................................................91
2.4. Đổi mới công nghệ và nâng cao trình độ quản lý kỹ thuật để
nâng cao chất lượng sản phẩm................................................................92
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trên đường đổi mới, chuyển đổi sang nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước và đã đạt được khá nhiều thành tựu đáng kể. Trong mấy năm gần đây nền
kinh tế luôn tăng trưởng với tốc độ 6-7%/năm. Đặc biệt, xuất khẩu của Việt Nam
đã có sự tăng trưởng mạnh và góp phần to lớn cho sự phát triển của đất nước.
Kim ngạch xuất khẩu hàng năm ngày càng tăng. Kim ngạch xuất khẩu năm 2001
đạt 15 tỷ USD, năm 2002 đạt 16,7 tỷ USD chiếm khoảng 50% GDP của cả nước.
Và trong những năm tới, xuất khẩu vẫn là một định hướng phát triển chiến lược
của chúng ta.
Nền kinh tế thế giới đang trong thời kỳ hội nhập với xu hướng toàn cầu hoá khu
vực hoá, hình thành các khối mậu dịch tự do và hiện nay trên thế giới cũng hình
thành các tập đoàn đa quốc gia có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế thế giới. Trong
kỷ nguyên này, thế giới sẽ là một thị trường thống nhất, mà chủ thể kinh tế là các
khối mậu dịch tự do, đơn vị kinh tế chủ yếu chi phối thị trường là các tập đoàn đa
quốc gia. Cạnh tranh kinh tế sẽ diễn ra gay gắt trên quy mô toàn cầu. Các quốc
gia sẽ không thể phát triển tốt và sẽ bị tụt hậu nếu đứng ngoài cuộc.
Theo xu hướng đó, Việt Nam cũng đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế
giớivà khu vực. Việt Nam đã là thành viên của ASEAN, APEC, AFTA và đang
trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO.
Hội nhập kinh tế mang lại rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam: các
rào cản thương mại được dỡ bỏ theo hiệp định được ký kết giữa các quốc gia
thành viên của các tổ chức, việc tiếp cận thị trường dễ dàng hơn, thông tin được
cung cấp đầy đủ hơn. Nhưng các doanh nghiệp cũng đứng trước nhiều thách thức:
các quốc gia thay vì sử dụng thuế, giấy phép xuất nhập khẩu, hạn ngạch… để bảo
vệ thị trường đã dựng nên một loại rào cản mới tinh vi , phức tạp và khó vượt qua
hơn nhiều. Đó là rào cản kỹ thuật. Rào cản kỹ thuật thật sự là thách thức lớn cho
các doanh nghiệp Việt Nam bởi trình độ kỹ thuật của nước ta còn thấp, các doanh
nghiệp còn chưa ý thức được tầm quan trọng của các rào cản đó. Do vậy, các
doanh nghiệp nước ta gặp rất nhiều khó khăn khi tiếp cận và xuất khẩu hàng sang
các thị trường có sử dụng rào cản kỹ thuật. Vậy rào cản kỹ thuật trong thương mại
là gì, có tác động thế nào tới thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu của Việt
Nam nói riêng, thực tiễn áp dụng các rào cản kỹ thuật của các nước trên thế giới
như thế nào, các doanh nghiệp Việt Nam cần làm gì để vượt qua các rào cản đó
để thâm nhập thị trường các nước? Đề tài “Rào cản kỹ thuật trong thương mại của
một số nước công nghiệp phát triển và các biện pháp để Việt Nam vượt rào cản”
được chọn lựa để làm rõ vấn đề rào cản kỹ thuật trong thương mại của một số
nước công nghiệp phát triển như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia… và
đưa ra một số giải pháp giúp các doanh nghiệp Việt Nam vượt qua các rào cản đó.
II. Mục đích nghiên cứu của khoá luận:
Nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề lý luận chung về rào cản kỹ
thuật trong thương mại quốc tế.
Phân tích thực tiễn áp dụng rào cản kỹ thuật trong thương mại của một số
nước công nghiệp phát triển.
Kiến nghị một số giải pháp giúp các doanh nghiệp Việt Nam vượt rào cản.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu những vấn đề khái quát về rào cản kỹ thuật trong thương mại
quốc tế.
Nghiên cứu về tình hình sử dụng rào cản kỹ thuật trong thương mại của
một số nước công nghiệp phát triển.
Đánh giá thực trạng của thương mại Việt Nam trước các rào cản kỹ thuật
và đưa ra các kiến nghị về các biện pháp giúp các doanh nghiệp Việt Nam
vượt rào cản.
IV. Phương pháp nghiên cứu của khoá luận:
Khoá luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, so sánh, phân tích, tổng
hợp, chứng minh kết hợp lý luận với những hiện tượng thực tế để làm sáng tỏ vấn
đề.
V. Những đóng góp của khoá luận:
Khoá luận chứng minh rằng trong thương mại quốc tế hiện nay, rào cản kỹ
thuật có tác động rất to lớn tới thương mại giữa các nước và việc sử dụng
rào cản kỹ thuật ngày càng phổ biến.
Khoá luận đưa ra những rào cản mà một số nước công nghiệp phát triển
hiện nay đang áp dụng để giúp các doanh nghiệp Việt Nam hiểu rõ hơn về
rào cản kỹ thuật từ đó rút ra bài học và kinh nghiệm khi xuất khẩu sang các
nước đó.
Khoá luận đưa ra những kiến nghị về các giải pháp để các doanh nghiệp
Việt Nam có thể vượt qua được các rào cản kỹ thuật đó khi tham gia
thương mại quốc tế.
VI. Kết cấu của khoá luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khoá luận gồm 3 chương:
Chương I : Khái quát về rào cản kỹ thuật trong thương mại.
Chương II : Thực tiễn áp dụng rào cản kỹ thuật trong thương mại của một
số nước công nghiệp phát triển.
Chương III : Các giải pháp giúp Việt Nam vượt rào cản kỹ thuật trong
thương mại.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Thạc sĩ Bùi Thị Lý, giảng viên
môn Quan hệ kinh tế quốc tế, Khoa Kinh tế Ngoại thương đã tận tình hướng dẫn,
chỉ bảo và giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành khoá luận này
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI
I. RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm và các hình thức của rào cản kỹ thuật trong thương mại
1.1. Rào cản kỹ thuật trong thương mại là gì?
Thương mại quốc tế ngày càng phát triển, không chỉ giới hạn ở thương mại hàng
hoá mà còn mở rộng ra các lĩnh vực khác như dịch vụ, sở hữu trí tuệ…, đem lại
lợi ích cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Vì thế phấn đấu cho nền thương mại
tự do toàn cầu là mục tiêu của nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khác nhau mà cụ thể là do trình độ phát triển kinh tế – xã hội không
đồng đều mà các biện pháp bảo hộ thuế quan và phi thuế quan ra đời nhằm bảo hộ
nền sản xuất nội địa. Do đó, trong thương mại quốc tế hiện nay, để thâm nhập vào
một thị trường, các doanh nghiệp cần phải vượt qua hai loại rào cản, đó là:
Hàng rào thuế quan ( Custom duties barriers )
Hàng rào phi thuế quan (Non tariff-Trade barriers )
Tuy nhiên, hiện nay với xu hướng tự do hoá thương mại, hàng rào thuế quan giữa
các khối kinh tế, giữa các quốc gia ngày càng giảm đi và tiến tới xoá bỏ hoàn
toàn. Do đó, dù thuế quan là một công cụ bảo hộ thị trường quan trọng nhất và đã
từng có hiệu quả tốt trước đây nhưng hiện nay vai trò của nó đã bị suy giảm. Bên
cạnh hàng rào thuế quan, một số rào cản phi thuế khác như quota, quy định giá
tính thuế… cũng sẽ được bãi bỏ. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các nhà
xuất khẩu có thể dễ dàng tiếp cận vào các thị trường khác mà việc tiếp cận và
thâm nhập thị trường càng trở nên khó khăn hơn do việc các quốc gia tăng cường
sử dụng những quy định và các yêu cầu thị trường trong các khía cạnh về an toàn,
sức khoẻ, chất lượng và các vấn đề môi trường và xã hội. Các quy định này được
gọi chung là các rào cản kỹ thuật trong thương mại.
Rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế (Technical Barriers to International
Trade – TBT) là một hình thức bảo vệ mậu dịch thông qua việc các nước nhập
khẩu đưa ra các yêu cầu về tiêu chuẩn đối với hàng hoá nhập khẩu vào nước mình
hết sức khắt khe. Nếu hàng nhập khẩu không đạt một trong các tiêu chuẩn được
đưa ra đều không được nhập khẩu vào lãnh thổ nước nhập hàng.
Rào cản kỹ thuật chính là các chỉ tiêu về chất lượng và an toàn cho người tiêu
dùng của hàng hoá mà các nước đưa ra để hạn chế hàng hoá nhập khẩu vào nước
mình.
Khi chưa hội nhập với tổ chức thương mại khu vực hay quốc tế, các nước thường
áp dụng ba loại hàng rào : thuế quan, hạn ngạch và rào cản kỹ thuật để hạn chế
sức cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài với hàng hoá trong nước. Nhưng sau khi
hội nhập, tham gia vào các tổ chức thương mại tự do của khu vực và thế giới thì
các nước sẽ phải xoá bỏ hạn ngạch, thuế xuất nhập khẩu bằng không hoặc áp
dụng cùng một loại thuế suất đối với một loại hay một nhóm hàng. Do đó, hiện
nay, rào cản kỹ thuật là biện pháp rất quan trọng và được các nước sử dụng ngày
càng nhiều. Các quốc gia khi áp dụng rào cản kỹ thuật thường đưa ra những quy
định rất nghiêm ngặt và khó vượt qua về chất lượng và các tiêu chuẩn kỹ thuật
của hàng hoá vì vậy, rào cản kỹ thuật là một biện pháp hết sức tinh vi và hiệu quả.
Sự khác biệt giữa các hàng rào kỹ thuật với các loại rào cản trước đây là những
quy định và yêu cầu của thị trường được phát triển từ những mối quan tâm chung
của cả Chính phủ và người tiêu dùng về an toàn, sức khoẻ, chất lượng và môi
trường. Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trước đây nhìn chung là nhằm
bảo vệ các nhà sản xuất trong nước. Ngày nay, bảo vệ môi trường và bảo vệ
người tiêu dùng ngày càng được quan tâm và thay thế cho việc bảo vệ nhà sản
xuất và lao động.
1.2. Các hình thức của rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế
Rào cản kỹ thuật trong thương mại là một hình thức bảo hộ hết sức phức tạp và
tinh vi. Các yêu cầu của các thị trường đặt ra cho hàng hoá nhập khẩu liên quan
đến nhiều khía cạnh như tiêu chuẩn về quy cách, mẫu mã, bao bì, nhãn mác, về
chất lượng, về vệ sinh, về an toàn cho người tiêu dùng, an toàn cho người lao
động, về mức độ gây ô nhiễm môi sinh, môi trường… Tuy nhiên, chúng ta có thể
chia những rào cản đó thành 3 loại cơ bản sau :
Tiêu chuẩn về chất lượng và quy cách của sản phẩm
Tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm và an toàn cho người sử dụng
Tiêu chuẩn về môi trường
1.2.1. Tiêu chuẩn về chất lượng và quy cách sản phẩm.
Chất lượng là yếu tố quan trọng hàng đầu để hàng hoá có thể thâm nhập vào thị
trường các nước. Người tiêu dùng các nước, đặc biệt là người tiêu dùng ở những
nước phát triển đều có yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm. Người tiêu dùng
thường ưa chuộng và đánh giá cao những hàng hoá được cấp giấy chứng nhận
chất lượng. Và các nước cũng đưa ra nhiều các quy định về chất lượng sản phẩm
đối với hàng nhập khẩu để bảo vệ lợi ích cho người tiêu dùng nước mình. Tuy
nhiên, chất lượng là một khái niệm rất rộng và phức tạp do đó có nhiều nước đã
lợi dụng việc đưa ra các tiêu chuẩn chất lượng để dựng lên những rào cản về chất
lượng đối với hàng nhập khẩu.
Hiện nay, hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 gần như là yêu cầu bắt buộc đối
với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu vì nhiều thị trường nhập khẩu bây
giờ đều yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu phải có giấy chứng nhận chất lượng
quốc tế. Người tiêu dùng có thể yên tâm hơn khi sử dụng sản phẩm của những
doanh nghiệp này. Nói cách khác, ISO 9000 có thể được coi như một ngôn ngữ
xác định chữ tín giữa người sản xuất và người tiêu dùng, giữa các doanh nghiệp
với nhau. Và thực tế cho thấy rằng ở mọi thị trường nhập khẩu hàng hoá của
những doanh nghiệp có giấy chứng nhận ISO 9000 thì dễ thâm nhập thị trường
hơn nhiều so với hàng hoá của các doanh nghiệp khác. Đối với một số chủng loại
sản phẩm thì chỉ những hàng hoá nào có đủ các giấy chứng nhận chất lượng nhất
định và đáp ứng các yêu cầu cụ thể của nước nhập khẩu thì mới được nhập vào
lãnh thổ nước đó. Ví dụ EU quy định rằng những sản phẩm nào chịu sự chi phối
của các chỉ thị có liên quan đến “cách tiếp cận mới với hệ thống hài hoà kỹ thuật”
phải có nhãn CE chứng tỏ những sản phẩm này tuân thủ các yêu cầu đã được quy
định trong tất cả các chỉ thị đó mới được phép bán trên thị trường EU.
Trong các tiêu chuẩn về chất lượng có tiêu chuẩn về hàm lượng và các thành phần
cấu tạo nên sản phẩm. Đối với các chất không có lợi cho sức khoẻ của con người
và cho môi trường sinh thái thì các nước quy định hàm lượng tối thiểu của các
chất đó. Ví dụ, đối với hàng thuỷ sản nhập khẩu vào EU thì phải đáp ứng các tiêu
chuẩn về hàm lượng nitơ dưới dạng amoniac và độ PH trong 1 gam sảm phẩm.
Về quy cách sản phẩm, các quốc gia cũng đưa ra các quy định rất chặt chẽ liên
quan đến kích thước, hình dáng thiết kế, độ dài, các chức năng của sản phẩm. Ví
dụ, đối với một số loại rau quả và hạt nhất định muốn xuất sang thị trường Mỹ
phải đáp ứng các quy định của Mỹ về phẩm cấp, kích thước, chất lượng và độ
chín.
Bao bì, nhãn mác của sản phẩm cũng được quy định chặt chẽ. Bao bì sản phẩm
ngoài các yêu cầu phải phù hợp với việc tái sinh, sử dụng lại và không gây ô
nhiễm môi trường, còn phải đáp ứng các quy định về mẫu mã và kích cỡ bao bì.
Việc bao gói và bảo quản phải có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền để có thể
đảm bảo chất lượng của hàng hoá. Trên bao bì phải ghi rõ các hướng dẫn vận
chuyển, lưu kho và các hướng dẫn chuyên môn khác bằng các ngôn ngữ cần thiết.
Luật pháp của các nước thường quy định hết sức nghiêm ngặt về việc ghi nhãn
đối với hàng hoá. Các nước yêu cầu trên nhãn hàng hoá phải ghi đủ những thông
tin cần thiết về sản phẩm và nhà sản xuất bằng các ngôn ngữ theo quy định của
từng nước để giúp khách hàng lựa chọn và đảm bảo an toàn cho khách hàng khi
sử dụng. Nhãn hàng phải đáp ứng đúng quy định thì sản phẩm mới được lưu
thông trên thị trường.
Mục đích của các quy định và tiêu chuẩn này là nhằm bảo vệ an toàn và sức khoẻ
cho con người, cho động thực vật và môi trường của nước nhập khẩu. Tuy nhiên
do sự chênh lệch về trình độ phát triển nên những quy định này của các nước phát
triển đã tạo ra một rào cản rất khó vượt đối với hàng hoá của các nước đang và
kém phát triển vì những nước này chưa có trình độ khoa học công nghệ cao nên
khó có thể đáp ứng được những yêu cầu này.
1.2.2. Tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm và an toàn cho người sử dụng
Vệ sinh thực phẩm và an toàn cho người sử dụng là những vấn đề được người
tiêu dùng và Chính phủ các nước đặc biệt quan tâm vì nó liên quan trực tiếp đến
sức khoẻ và an toàn của người tiêu dùng. Từ cuối những năm 1990 cho đến gần
đây, vì nguy cơ truyền nhiễm bọt não bò vẫn được gọi là bệnh bò điên người tiêu
dùng các nước đã tẩy chay những sản phẩm có nguy cơ lây bệnh. Còn các nước
thì cấm nhập khẩu các sản phẩm có nguồn gốc từ động vật từ các nước có bệnh
bò điên và tiêu huỷ các sản phẩm đã được nhập khẩu có nghi ngờ mang mầm
bệnh.
Tháng 2-2002, EU đã loại bỏ Trung Quốc ra khỏi danh sách các nước xuất khẩu
thuỷ sản sang EU do Trung Quốc không đáp ứng được các yêu cầu về kiểm soát
dư lượng kháng sinh chloramphenicol của EU và quyết định kiểm tra tất cả các lô
hàng tôm nhập khẩu từ Việt Nam, Myanmar và Thái Lan vì phát hiện thấy hàm
lượng chất nitrofuran và chloramphenicol quá cao trong các lô tôm nhập khâủ từ
5 nước châu Á gây thiệt hại rất lớn cho ngành xuất khẩu thuỷ sản của các nước
này.
Qua những sự kiện trên, chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề vệ
sinh và an toàn đối với hàng hoá xuất khẩu, đặc biệt là đối với hàng thực phẩm.
Và thực tế thì các quốc gia cũng quản lý vấn đề này rất nghiêm ngặt. Các biện
pháp quản lý về vệ sinh thực phẩm và an toàn cho người tiêu dùng bao gồm tất cả
các luật, nghị định, quy định, yêu cầu và thủ tục liên quan như các tiêu chuẩn đối
với sản phẩm cuối cùng; các phương pháp sản xuất và chế biến, các thủ tục xét
nghiệm, giám định, chứng nhận và chấp thuận; những xử lý cách ly bao gồm các
yêu cầu liên quan đến việc vận chuyển cây trồng vật nuôi, các chất trong quá trình
nuôi dưỡng chúng trong quá trình vận chuyển; những quy định về phương pháp
thống kê, thủ tục chọn mẫu và các phương pháp đánh giá rủi ro.
Các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật Bản, các nước thuộc liên minh
châu Âu EU, Canada… đều ban hành Luật Vệ sinh thực phẩm và Luật trách
nhiệm sản phẩm hay các luật và các quy định tương tự để bảo vệ cho quyền lợi
người tiêu dùng. Theo đó, thì các nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm về những
tổn thất xảy ra đối với người tiêu dùng nếu đưa ra một sản phẩm có sai sót. Nước
nào cũng thành lập cơ quan kiểm dịch hàng hoá để kiểm tra vệ sinh và các tiêu
chuẩn an toàn của các sản phẩm nhập khẩu vào nước mình.
Điển hình như EU là thị trường được coi là rất khó tính đối với thực phẩm nhập
khẩu đã ban hành 16 quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các loại thuỷ
sản nhập khẩu vào khối này. Đó là các quy định về tiêu chuẩn nuôi trồng, chế
biến, tồn trữ và vận chuyển; về hệ thống kiểm tra HACCP, về dư lượng tối đa các
chất độc hại trong sản phẩm. Sản phẩm nhập khẩu vào EU sẽ phải chịu sự kiểm
tra gắt gao gồm ba bước: kiểm tra chứng từ về vệ sinh y tế, kiểm tra sự đồng nhất
giữa chứng từ và sản phẩm, kiểm tra trên sản phẩm.
Trong các quy định về vệ sinh và an toàn cho người tiêu dùng thì giấy chứng
nhận tiêu chuẩn xác định tình trạng nguy hiểm HACCP là một quy định bắt buộc
của rất nhiều thị trường. Nếu các doanh nghiệp không áp dụng và có giấy chứng
nhận đạt tiêu chuẩn HACCP thì không được phép xuất khẩu hàng sang những thị
trường có yêu cầu về điều kiện này. Các doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần tuân
thủ nghiêm ngặt tiêu chuẩn thực hành sản xuất tốt GMP – Good Manufacturing
Practice ( GMP đòi hỏi người công nhân, nhà máy, các phương tiện chế biến, đồ
chứa, nguồn nước phải đảm bảo an toàn vệ sinh) và các quy định trong hiệp định
về các biện pháp vệ sinh và vệ sinh thực phẩm của WTO. Ngoài ra, tuỳ theo mặt
hàng và tuỳ theo yêu cầu của từng thị trường mà còn có nhiều các quy định khác
như quy định về nhãn mác sản phẩm, các chỉ tiêu vi sinh quy định loại, lượng
khuẩn có trong sản phẩm đối với thuỷ sản, các chỉ tiêu về tiếng ồn, mức phóng xạ
đối với các sản phẩm tiêu dùng…
Tóm lại, cũng như các loại rào cản kỹ thuật khác, rào cản về vệ sinh và an toàn
cho người tiêu dùng là một loại rào cản hết sức phức tạp , tinh vi, đa dạng và
được sử dụng ngày càng nhiều khiến cho các doanh nghiệp xuất khẩu rất khó nắm
bắt và khó vượt qua gây cản trở không ít cho thương mại quốc tế.
1.2.3. Tiêu chuẩn về môi trường
Phát triển thương mại gắn với bảo vệ môi trường đang là xu thế thương mại quốc
tế, đó là phát triển thương mại bền vững trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
được gọi chung là “thương mại-môi trường”. Sau một thời gian dài chạy theo lợi
nhuận, phát triển ồ ạt, không quan tâm đến môi trường sinh thái, các quốc gia đã
nhận thấy tầm quan trọng của môi trường đối với sự phát triển bền vững và đã
thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ môi trường, trong đó có việc đưa ra
các tiêu chuẩn về môi trường đối với hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, do các quy
định của WTO cho phép các nước sử dụng các biện pháp bảo hộ vì mục đích môi
trường nên các quốc gia đã thực sự dựng nên những rào cản về môi trường đối
với hàng hoá của nước ngoài nhập khẩu vào nước mình. Hiện nay giấy chứng
nhận ISO 14000 đã trở thành một yêu cầu bắt buộc, một giấy thông hành của
doanh nghiệp khi muốn xuất hàng sang các nước khác, đặc biệt là khi xuất sang
thị trường những nước phát triển.
Hệ thống rào cản môi trường trong thương mại quốc tế hiện nay rất đa dạng và
được áp dụng rất khác nhau ở các nước tuỳ vào điều kiện cụ thể của mỗi nước.
Nhưng nhìn chung, các rào cản môi trường thường được áp dụng trong thương
mại quốc tế bao gồm :
Các phương pháp chế biến và sản xuất theo quy định môi trường
Đây là các tiêu chuẩn quy định sản phẩm cần phải được sản xuất như thế nào. Các
tiêu chuẩn này áp dụng cho giai đoạn sản xuất, nghĩa là giai đoạn trước khi sản
phẩm được tung ra trên thị trường. Về mặt môi trường, việc xem xét quy trình sản
xuất là để giải quyết một trong những câu hỏi trọng tâm của quá trình quản lý môi
trường: sản phẩm được sản xuất như thế nào, sản phẩm được sử dụng như thế
nào, sản phẩm được vứt bỏ như thế nào, những quá trình này có làm tổn hại đến
môi trường không.
Những quy định và tiêu chuẩn về phương pháp chế biến được áp dụng để hạn chế
chất thải ô nhiễm và lãng phí tài nguyên không tái tạo. Đây là những tiêu chuẩn
đối với công nghệ, quá trình sản xuất sản phẩm nhằm đánh giá xem quá trình sản
xuất có gây ô nhiễm và huỷ hoại môi trường hay không.
Các yêu cầu về đóng gói bao bì :
Vấn đề bao bì sau tiêu dùng liên quan đến việc xử lý chất thải rắn. Các chính sách
đóng gói bao gồm những quy định liên quan đến nguyên vật liệu đóng gói, những
quy định về tái sinh, những quy định về xử lý và thu gom sau quá trình sử dụng…
Những tiêu chuẩn và quy định liên quan đến những đặc tính tự nhiên của sản
phẩm và nguyên liệu đóng gói đòi hỏi việc đóng gói phải phù hợp với việc tái
sinh hay dùng lại. Những sản phẩm không phù hợp có thể bị thị trường từ chối cả
nguyên vật liệu đóng gói và sản phẩm chứa trong bao bì.
Nhãn môi trường :
Sản phẩm được dán nhãn sinh thái nhằm mục đích thông báo cho người tiêu dùng
biết là sản phẩm đó được coi là tốt hơn về mặt môi trường. Các tiêu chuẩn về dán
nhãn sinh thái được xây dựng trên cơ sở phân tích chu kỳ sống của sản phẩm, một
quá trình còn được gọi là phân tích từ đầu đến cuối (từ lúc sinh đến lúc chết).
Theo phương pháp này, người ta sẽ đánh giá mức độ ảnh hưởng đối với môi
trường của sản phẩm ở các giai đoạn khác nhau trong toàn bộ chu kỳ sống của nó.
Các giai đoạn này bao gồm giai đoạn tiền sản xuất (chế biến nguyên liệu thô), sản
xuất, phân phối (bao gồm cả đóng gói), sử dụng hoặc tiêu thụ và loại bỏ sau khi
sử dụng.
Phí, thuế và các khoản thu liên quan đến môi trường:
Các khoản này được gọi chung là phí môi trường thường được áp dụng nhằm ba
mục tiêu chính: thu lại các chi phí phải sử dụng cho môi trường, thay đổi cách
ứng xử của cá nhân và tập thể đối với các hoạt động có liên quan tới môi trường
và thu quỹ cho các hoạt động bảo vệ môi trường. Thường có các loại phí sau:
- Phí sản phẩm: được áp dụng cho các sản phẩm gây ô nhiễm như có chứa các
hoá chất độc hại (xăng pha chì) hoặc có một số thành phần cấu tạo của sản phẩm
gây khó khăn cho việc thải loại sau sử dụng.
- Phí đối với khí thải: được áp dụng với các chất gây ô nhiễm thoát vào không
khí, nước hoặc đất hoặc gây tiếng ồn. Các khoản phí này có thể được đánh vào
thời điểm tiêu thụ (trong trường hợp này tương đương với phí sản phẩm và có tác
động tương tự đến thương mại), hoặc có thể được thu dưới hình thức phí đối với
người sử dụng để trang trải chi phí xử lý rác thải công cộng.
- Phí hành chính: được áp dụng cùng với các quy định để trang trải các chi phí
dịch vụ của Chính phủ và có thể được thu dưới hình thức phí giấy phép, đăng ký,
phí kiểm định và kiểm soát. Cơ sở của việc đánh thuế hay thu phí vì mục đích
môi trường được dựa trên nguyên tắc người gây ô nhiễm và người sử dụng các
nguồn lực môi trường phải chịu phí.
Tất cả các rào cản môi trường này đều ảnh hưởng tới thương mại quốc tế, tới sức
cạnh tranh của các doanh nghiệp, các quốc gia.
Các quy định về môi trường được các nước sử dụng ngày càng nhiều và đã thật
sự trở thành một rào cản hữu hiệu để bảo hộ thị trường trong nước mà vẫn phù
hợp với các quy định của WTO.
Ngoài các hình thức trên, rào cản kỹ thuật trong thương mại còn tồn tại dưới
những hình thức khác như các biện pháp an ninh: các nước đưa ra các quy định
hạn chế nhập khẩu, thậm chí cấm nhập khẩu vì những lý do an ninh hay các tiêu
chuẩn an toàn cho người lao động: một số quốc gia không nhập khẩu hàng hoá từ
những doanh nghiệp không đáp ứng được các điều kiện an toàn cho người lao
động.
Các nước có thể dựa vào nhiều lý do khác nhau để đưa ra các tiêu chuẩn nhằm
mục đích bảo vệ thị trường, người tiêu dùng và môi trường trong nước cho nên
rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế tồn tại dưới nhiều hình thức rất đa dạng
và phức tạp.
2. Quy định của WTO về rào cản kỹ thuật trong thương mại
Do thương mại quốc tế ngày càng phát triển, rào cản thương mại không chỉ dừng
ở hình thức hàng rào thuế quan và các hàng rào phi thuế mang tính định lượng
như cấm nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu… mà đã phát triển ngày càng tinh vi,
phức tạp hơn tạo ra nhiều trở ngại cho quá trình tự do hoá thương mại quốc tế.
Trong đó quan trọng nhất là rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế. Vì vậy,
các quốc gia, các tổ chức đa quốc gia đã ban hành rất nhiều các quy định, cũng
như tham gia ký kết các hiệp định song phương, đa phương về rào cản kỹ thuật
trong thương mại. Trong số đó, thì hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại
của GATT/WTO là quan trọng và có phạm vi hiệu lực lớn nhất.
2.1. Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại của WTO
Với mục đích thúc đẩy thương mại quốc tế, từ khi mới thành lập, GATT đã tổ
chức các vòng đàm phán thương mại về các vấn đề giao dịch. Trong các vòng
đàm phán đầu, trọng điểm thảo luận tập trung vào thuế suất. Nhưng từ vòng đàm
phán Tokyo (1973-1979), do thực tế tình hình thương mại quốc tế đã xuất hiện
những hình thức mới của rào cản thương mại nên các nước đã tập trung nghiên
cứu về các cản trở không liên quan đến thuế suất, đó là các yêu cầu kỹ thuật mà
hàng hoá phải đáp ứng trước khi nhập khẩu vào các quốc gia khác.
Và năm 1979, 17 quốc gia đã ký hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại
được gọi là điều lệ chuẩn của GATT và thoả thuận về các biện pháp vệ sinh và vệ
sinh thực phẩm.
Hiệp định về rào cản kỹ thuật có hiệu lực từ 01/01/1980. Những quy định của
Hiệp định này nhằm đảm bảo tính ổn định sản phẩm về chất lượng, giảm bớt
kiểm tra. Ngoài ra, Hiệp định còn đảm bảo tính an toàn vệ sinh cho người, gia súc
và cây cối, bảo vệ môi trường sinh thái.
Tuy nhiên Hiệp định cũng cho phép sử dụng những rào cản kỹ thuật trong những
trường hợp cần thiết. Trong phần đầu của Hiệp định có nêu rõ: “không một quốc
gia nào bị ngăn cấm đưa ra những biện pháp cần thiết nhằm bảo vệ con người,
động vật, cuộc sống hoặc sức khoẻ của thực vật, của môi trường hoặc không bị
ngăn cấm đưa ra các biện pháp nhằm ngăn cản các hành động lừa bịp với mức độ
phù hợp”.
Hiệp định quy định các nước thành viên phải đối xử một cách bình đẳng giữa các
sản phẩm nhập khẩu và các sản phẩm nội địa hoặc sản phẩm cùng loại có xuất xứ
từ bất kỳ quốc gia nào khác. Điều 2.1 nêu rõ: “ Các thành viên phải đảm bảo rằng
theo các quy định kỹ thuật, các sản phẩm nhập khẩu từ một lãnh thổ của bất cứ
Thành viên nào đều phải được đối xử không ít thuận lợi hơn các đối xử được áp
dụng cho các sản phẩm nội địa tương tự và cho cho các sản phẩm tương tự xuất
xứ từ bất cứ nước nào khác”.
Các Thành viên phải đảm bảo rằng các quy định kỹ thuật không được soạn thảo
nhằm tạo ra những trở ngại không cần thiết đối với thương mại quốc tế. Các tiêu
chuẩn và quy định kỹ thuật phải có cơ sở hợp pháp và phù hợp với các tiêu chuẩn
quốc tế và các tiêu chuẩn có thể thay đổi cho phù hợp khi tình hình thực tế hay
mục tiêu khi ban hành chúng thay đổi.
Các nước thành viên phải đảm bảo rằng các cơ quan tiêu chuẩn (cấp nhà nước,
địa phương và phi chính phủ trong phạm vi lãnh thổ của mình cũng như các cơ
quan tiêu chuẩn khu vực mà họ là thành viên ) chấp nhận và tuân thủ quy phạm
về biên soạn, ban hành và áp dụng các tiêu chuẩn ( Phụ lục 3 của Hiệp định này).
Hiệp định cũng nêu rõ quy trình đánh giá sự phù hợp theo nguyên tắc thủ tục do
nước chủ nhà ban hành gồm các tổ chức chứng nhận của chính quyền địa phương,
phi chính phủ, các tổ chức cấp vùng và cấp quốc tế.
Quy trình đánh giá sự phù hợp cũng phải đảm bảo sự thuận lợi cho các sản phẩm
nhập khẩu không kém so với các sản phẩm nội địa tương tự về mặt thời gian tiến
hành hay chi phí đồng thời không gây ra sự bất tiện không cần thiết cho người
đăng ký hay đại lý của họ.
Theo điều 6.1 các Thành viên phải đảm bảo rằng các kết quả của hoạt động đánh
giá sự phù hợp ở những Thành viên khác sẽ được chấp nhận ngay kể cả khi các
quy trình đó khác với các quy trình của chính mình.
Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại của WTO có quy định về việc
cung cấp thông tin và trợ giúp giữa các Thành viên. Theo Hiệp định, mỗi Thành
viên phải có một đầu mối liên lạc để trả lời các yêu cầu hợp lý từ các Thành viên
khác và các bên quan tâm cũng như cung cấp các tài liệu có liên quan đến và các
Thành viên khi có yêu cầu phải tư vấn và trợ giúp kỹ thuật cho các Thành viên
khác, đặc biệt là các nước đang phát triển trong các lĩnh vực theo quy định của
Hiệp định.
Hiệp định còn quy định những ưu đãi đặc biệt và khác biệt đối với các nước thành
viên đang phát triển về nhu cầu phát triển, tài chính, thương mại cũng như trong
quá trình soạn thảo, áp dụng các quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn…Các nước thành
viên đang phát triển có thể được Uỷ ban về rào cản kỹ thuật đối với thương mại
dành cho những ngoại lệ trong việc thực hiện toàn bộ hay một phần nghĩa vụ của
Hiệp định.
Hiệp định cũng thành lập một Uỷ ban về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại
gồm đại diện của các Thành viên để điều phối việc áp dụng rào cản kỹ thuật trong
thương mại của các nước nhằm tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy việc phát triển
kinh tế của các nước thành viên.
Hiệp định đưa ra các phương pháp để các bên bàn bạc và giải quyết khi có tranh
chấp xảy ra dưới sự giám sát của cơ quan giải quyết tranh chấp.
Theo tạp chí Export quality số 44 tháng 3/1995 thì “ Hiệp định về rào cản kỹ
thuật trong thương mại quốc tế nhằm tạo ra những cơ cấu, những định chế trong
các doanh nghiệp, trong các quốc gia, trong các khu vực nhằm giảm thiểu hoặc
loại trừ dần rào cản kỹ thuật trong thương mại giữa các tổ chức”.
2.2. Hiệp định về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật của WTO
Bên cạnh Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại, WTO đưa ra Hiệp định
về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật (SPS – Sanitary and
Phytosanitary Measures) để điều chỉnh việc áp dụng các biện pháp vệ sinh và
kiểm dịch động vật có ảnh hưởng tới thương mại của các nước.
Hiệp định về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật của WTO cũng cho
phép các nước thành viên sử dụng các biện pháp cần thiết liên quan đến vấn đề vệ
sinh và kiểm dịch động vật để bảo vệ con người, động thực vật và môi trường của
mình trong những trường hợp cần thiết với điều kiện các biện pháp này không
được tạo nên một sự đối xử bất công bằng giữa các Thành viên cũng như không
được tạo ra các rào cản trá hình đối với thương mại quốc tế.
Hiệp định cũng hướng tới việc thống nhất các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch
động vật của các Thành viên. Do đó, Hiệp định quy định rõ các biện pháp vệ sinh
và kiểm dịch động vật phải được dựa trên các tiêu chuẩn, những hướng dẫn và
quy định quốc tế. Các Thành viên không được ban hành và duy trì sử dụng các
biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật nếu những biện pháp này tạo ra một sự
bảo vệ lớn hơn về mặt vệ sinh so với sự bảo vệ mà các biện pháp phù hợp với các
quy định quốc tế tạo ra trừ khi có những chứng cứ khoa học đầy đủ. Để tạo ra sự
phù hợp giữa các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch được các nước thành viên sử
dụng và các tiêu chuẩn, quy định quốc tế thì các Thành viên phải nỗ lực hết sức
trong điều kiện có thể để phối hợp với các tổ chức quốc tế có liên quan để xây
dựng cũng như thường xuyên xem xét lại các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan đến
các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật.
Để ngăn cản các Thành viên có thể dùng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động
vật để cản trở thương mại quốc tế, Hiệp định có quy định về việc đánh giá nguy
cơ và mức độ bảo hộ vệ sinh hợp lý. Theo đó, các Thành viên trong quá trình
đánh giá nguy cơ và mức độ bảo hộ vệ sinh hợp lý phải sử dụng các công cụ đánh
giá của các tổ chức quốc tế liên quan và phải tính đến các yếu tố như: các bằng
chứng khoa học; phương pháp sản xuất và chế biến ; kết quả giám định, phương
pháp kiểm tra và lấy mẫu ; các điều kiện môi trường và sinh thái; sự tồn tại của
các vùng dịch bệnh hay các vùng miễn dịch.... Ngoài ra, các Thành viên còn phải
tính đến các yếu tố khác như: các yếu tố kinh tế liên quan, tính khả thi về mặt kỹ
thuật và kinh tế. Đặc biệt, các nước cần chú ý đến việc giảm thiểu các tác động
tiêu cực đối với thương mại của các biện pháp bảo hộ đó.
Hiệp định cũng nêu rõ các Thành viên phải đảm bảo các biện pháp vệ sinh và
kiểm dịch động vật của mình phù hợp với đặc điểm vệ sinh và kiểm dịch động vật
của khu vực xuất xứ của sản phẩm.
Theo Hiệp định, các Thành viên phải đảm bảo tính minh bạch của các biện pháp
mà mình áp dụng. Các Thành viên phải công bố rộng rãi cho các Thành viên khác
về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật của mình cũng như những thay
đổi của các biện pháp đó.
Đồng thời, Hiệp định này cũng có quy định về sự hỗ trợ kỹ thuật giữa các nước
thành viên, đặc biệt là cho các Thành viên đang phát triển thông qua các hiệp
định song phương hoặc trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế phù hợp.
Tương tự Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại, Hiệp định về các biện
pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật cũng có sự ưu đãi và đối xử đặc biệt đối với
các nước thành viên đang phát triển.
Ngoài ra, Hiệp định này cũng có các điều khoản về việc thực thi Hiệp định, điều
khoản về tư vấn và giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các Thành viên và thành
lập một Uỷ ban về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật để điều hành việc
thực hiện các điều khoản của Hiệp định.
Có thể nói Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại và Hiệp định về các
biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật của WTO là công cụ quan trọng góp
phần vào việc hội nhập thị trường thế giới của các doanh nghiệp, các quốc gia dù
ở trình độ phát triển khác nhau.
II. CÁC HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG THƯỜNG ĐƯỢC SỬ DỤNG TRÊN THẾ
GIỚI.
Trong thời đại ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu nếu các
quốc gia không muốn bị tụt hậu, bị cô lập. Nhưng khi tham gia thương mại thế
giới thì các nước lại gặp rất nhiều rào cản. Do đó, mỗi doanh nghiệp cần phải có
những giải pháp để vừa hội nhập kinh tế thành công vừa bảo đảm được những
quyền lợi của doanh nghiệp mình.
Để vượt qua các rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế, các doanh nghiệp có
thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau trong đó có việc áp dụng các hệ thống
quản lý chất lượng quốc tế. Hiện nay trên thế giới có nhiều hệ thống quản lý chất
lượng do các tổ chức tiêu chuẩn và chất lượng khác nhau ban hành và cấp giấy
chứng nhận trong đó phổ biến là hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, hệ thống
quản trị môi trường ISO 14000, hệ thống quản lý chất lượng đồng bộ TQM và hệ
thống quản lý chất lượng theo HACCP.
1. Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000.
Thực chất đây là một bộ tiêu chuẩn do Tổ chức về Tiêu chuẩn hoá (International
Organisation for Standardization - ISO) ban hành. Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 được
ban hành lần đầu năm 1987 nhằm mục đích đưa ra một mô hình được chấp nhận
ở mức độ quốc tế về hệ thống đảm bảo chất lượng và có thể áp dụng rộng rãi
trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ.
ISO 9000 là sự kế thừa của các tiêu chuẩn đã tồn tại và dược sử dụng rộng rãi,
trước tiên là trong lĩnh vực quốc phòng như tiêu chuẩn quốc phòng của Mỹ (MIL-
Q-9058A), của khối NATO (AQQP1). Viện tiêu chuẩn Anh (BSI – British
Standard Institute) đã ban hành tiêu chuẩn BS 5750 về đảm bảo chất lượng sử
dụng trong dân sự. Để phục vụ cho nhu cầu giao lưu thương mại quốc tế, Tổ chức
Tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO đã thành lập ban kỹ thuật TC 176 để soạn thảo bộ
tiêu chuẩn về quản lý chất lượng. Những tiêu chuẩn đầu tiên của bộ tiêu chuẩn
được ban hành năm 1987 là ISO 8402 và được sửa đổi lần đầu tiên năm 1994
thành ISO 9000 và năm 2000 phiên bản ISO 9000-2000 ra đời. ISO 9000 đề cập
đến các lĩnh vực chủ yếu trong quản lý chất lượng như chính sách chất lượng,
thiết kế triển khai sản phẩm và quá trình cung ứng, kiểm soát quá trình, bao gói,
phân phối, dịch vụ sau khi bán, xem xét đánh giá nội bộ, kiểm soát tài liệu, đào
tạo… ISO 9000 tập hợp các kinh nghiệm quản lý chất lượng tốt nhất đã được
thực thi trong nhiều quốc gia và khi vực và được chấp nhận là tiêu chuẩn quốc gia
của nhiều nước.
Mục tiêu lớn nhất của bộ ISO 9000 là đảm bảo chất lượng đối với nguời tiêu
dùng.
Bộ ISO 9000 gồm 24 tiêu chuẩn, chia thành 5 nhóm là:
ISO 9001: Hệ thống chất lượng – Mô hình đảm bảo chất lượng trong quá
trình thiết kế, sản xuất, lắp đặt và dịch vụ.
ISO 9002: Hệ thống chất lượng – Mô hình đảm bảo chất lượng trong quá
trình sản xuất lắp đặt và dịch vụ.
ISO 9003: Hệ thống chất lượng – Mô hình đảm bảo chất lượng trong quá
trình kiểm tra cuối cùng và thử nghiệm.
ISO 9004.1: Quản lý chất lượng và các yếu tố trong hệ thống chất lượng.
Phần 1: Hưóng dẫn
ISO 9004.2: Quản lý chất lượng và các yếu tố trong hệ thống chất lượng
Phần 2: Hướng dẫn dịch vụ
Bốn triết lý của bộ ISO 9000:
Phương hướng tổng quát của bộ ISO 9000 là nhằm tạo ra những sản phẩm
và dịch vụ có chất lượng để thoả mãn nhu cầu của khách hàng bên trong và
bên ngoài doanh nghiệp.
Các đặc trưng kỹ thuật đơn thuần không thể đảm bảo sự phù hợp của sản
phẩm đối với nhu cầu của khách hàng.Các tiêu chuẩn của hệ thống chất
lượng sẽ bổ sung thêm vào các đặc trưng kỹ thuật của sản phẩm nhằm thoả
mãn một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
Bộ ISO 9000 nêu ra những hướng dẫn đối với hệ thống chất lượng cho việc
phát triển có hiệu quả chứ không áp đặt một hệ thống chất lượng chuẩn đối
với từng doanh nghiệp. Hệ thống chất lượng của mỗi doanh nghiệp bị chi
phối bởi tầm nhìn, văn hoá, cách quản trị, cách thực hiện, ngành công
nghiệp, loại sản phẩm hay dịch vụ. Mỗi loại hình doanh nghiệp sẽ có hệ
thống quản lý chất lượng đặc trưng phù hợp cho từng hoàn cảnh cụ thể.
Hệ thống chất lượng của bộ ISO 9000 dựa trên mô hình quản trị theo quá
trình (MBP – Management By Process) lấy phòng ngừa làm phương châm
chủ yếu trong suốt vòng đời sản phẩm (thiết kế - sản xuất - tiêu dùng).
Bộ tiêu chuẩn ISO là một bộ tiêu chuẩn mang tính toàn cầu, được thừa nhận rộng
rãi trên thế giới do đó các doanh nghiệp sẽ có lợi ích rất lớn nếu được bên thứ ba
công nhận đạt tiêu chuẩn ISO 9000. Các doanh nghiệp ISO 9000 này sẽ được:
- Bên mua hàng hoá, dịch vụ hay bỏ thầu miễn giảm việc thử nghiệm lại sản
phẩm.
- Xuất khẩu và trúng thầu dễ dàng đối với các đối tác nước ngoài.
- Có hệ thống mua bán tin cậy trong việc bán hàng giữa các doanh nghiệp cũng
như giữa các quốc gia.
- Dễ được thị trường khó tính chấp nhận, đặc biệt là các sản phẩm liên quan đến
sức khoẻ, an ninh và môi trường.
2. Hệ thống quản trị môi trường ISO 14000.
ISO 14000 là tiêu chuẩn về hệ thống quản trị môi trường (Environment
Management System – EMS) do Tổ chức Tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO xây dựng
và ban hành. ISO 14000 bắt nguồn từ sự cam kết của ISO nhằm hỗ trợ mục tiêu
“phát triển bền vững” được thoả luận tại Hội nghị Liên hợp quốc về môi trường
và phát triển ở Rio de Janeiro, 1992. ISO thành lập Uỷ ban kỹ thuật ISO/TC207
về quản lý môi trường năm 1993. Thành phần của Uỷ ban Kỹ thuật TC 207 gồm
các phái đoàn thương mại và chuyên gia chính phủ từ 55 quốc gia tham gia và có
16 quốc gia tham gia với tư cách quan sát viên. Những tiêu chuẩn đầu tiên do TC
207 xây dựng được ấn hành năm 1996. Kết quả hoạt động của Uỷ ban này được
biết chung dưới tiêu đề “bộ tiêu chuẩn ISO 14000”. Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 là
tập hợp các tiêu chuẩn cùng họ, bao gồm các tiêu chuẩn và các hướng dẫn chủ
yếu liên quan đến vấn đề quản lý môi truờng. Bộ tiêu chuẩn này thích ứng với
yêu cầu giải quyết vấn đề môi trường toàn cầu, mục đích chính của nó là cải thiện
việc quản lý môi trường, bảo vệ môi trường, chú trọng đến các tác động, các ảnh
hưởng xấu của quá trìng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đến môi trường.
Áp dụng ISO 14000 đi liền với việc thiết lập vận hành một hệ thống quản lý môi
trường.
Các tiêu chuẩn ISO 14000 dưa ra những chuẩn cứ được quốc tế thừa nhận về
quản lý, đo lường và đánh giá môi trường. Các tiêu chuẩn này tuy không đề cập
đến những chỉ tiêu chất lượng môi trường nhưng những công cụ được đưa ra lại
là những công cụ hữu hiệu giúp các tổ chức và các doanh nghiệp thực hiện việc
đánh giá và kiểm soát tác động môi trường đối với các hoạt động, sản phẩm và
dịch vụ của mình. ISO 14000 được biên soạn để áp dụng cho tất cả các loại hình
và quy mô tổ chức/doanh nghiệp. Kể từ những tiêu chuẩn đầu tiên được xuất bản
năm 1996 đến nay, bộ tiêu chuẩn ISO đã có khoảng 20 tiêu chuẩn, báo cáo kỹ
thuật, hướng dẫn sử dụng.
Theo tiêu chuẩn ISO 14001 – Hệ thống quản lý môi trường. Quy định và hướng
dẫn sử dụng ( một trong các tiêu chuẩn của bộ ISO 14000), một hệ thống quản lý
môi trường gồm 5 thành phần cơ bản sau:
Chính sách môi trường: phù hợp với bản chất, quy mô và tác động môi
trường của các hoạt động, sản phẩm và dịch vụ, thể hiện các định hướng và
cam kết về cải tiến liên tục, tuân thủ các quy định về môi trường và ngăn
ngừa ô nhiễm.
Lập kế hoạch: xác định và phân tích các khía cạnh của tác động môi trường
do các hoạt động, sản phẩm và dịch vụ gây ra, thiết lập các mục tiêu và chỉ
tiêu môi trường nhất quán với chính sách môi trường, định rõ trách nhiệm
nhằm đạt được các mục tiêu và chỉ tiêu ở từng bộ phận chức năng, định rõ
phương tiện và biểu đồ thời gian để đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu.
Áp dụng và hoạt động: xây dựng và đưa ra các quy trình (đào tạo, thông
tin, tài liệu, kiểm soát tài liệu, kiểm soát hoạt động…) vào thực hiện nhằm
đạt được các mục tiêu và chỉ tiêu môi trường đã đề ra.
Kiểm tra và hành động chỉnh sửa: giám sát và đo các chỉ tiêu môi trường
nhằm đánh giá sự phù hợp so với các mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra, trong
trường hợp chưa đạt được sự phù hợp thì phải có các thủ tục xác định trách
nhiệm và quyền hạn xử lý cũng như tiến hành các hành động khắc phục,
thiết lập và duy trì một chương trình và trình tự đánh giá định kỳ hệ thống
quản lý môi trường.
Xem xét lại của ban lãnh đạo: lãnh đạo cao nhất của tổ chức sau từng thời
gian đã được xác định xem xét lại hệ thống quản lý môi trường nhằm đảm
bảo tính thích hợp, đầy đủ và hiệu quả liên tục của hệ thống.
Giống như bộ tiêu chuẩn ISO 9000, bộ tiêu chuẩn ISO 14000 cũng đem lại lợi ích
không nhỏ đối với doanh nghiệp. Trong nền thương mại quốc tế hiện nay, một số
quốc gia thường lợi dụng điều khoản liên quan đến những biện pháp bảo vệ môi
trường, bảo vệ con người để bảo vệ sản phẩm của mình dựng lên những rào cản
môi trường đối với thương mại thì ISO 14000 có thể được coi là một sự đảm bảo
cho hàng hoá của các nước có thể vượt qua các rào cản đó để bước chân vào thị
trường các nước khác.
Tóm lại ISO 14000 góp phần làm tăng ý thức bảo vệ môi trường của người dân,
thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật về công tác bảo vệ môi trường, giúp
doanh nghiệp tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước thông
qua việc giảm giá thành, tạo lập hình ảnh tốt đẹp trong tâm trí người tiêu dùng,
thúc đẩy sự phát triển của “mậu dịch xanh”.
3. Hệ thống quản lý chất lượng đồng bộ (TQM).
Theo tiêu chuẩn ISO 8402:1994 (TCVN5814:1994): “Quản lý chất lượng đồng
bộ (Total Quality Management – TQM) là một phương pháp quản lý của một tổ
chức định hướng vào chất lượng, dựa trên sự tham gia của mọi thành viên và
nhằm đem lại sự thành công dài hạn thông qua sự thoả mãn khách hàng và lợi ích
của mọi thành viên của công ty, của xã hội”.
TQM đã được đưa ra và áp dụng đầu tiên vào thập kỷ 20 tại các nhà máy ở Mỹ.
Do nó có tác dụng thực tiễn trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, trong quản
lý chất lượng nên càng ngày TQM càng được nhiều nước trên thế giới coi trọng
và đã áp dụng rộng rãi cả ở khu vực sản xuất kinh doanh và khu vực quản lý hành
chính công. Ngày nay, các nhà quản lý hành chính hiện đại nhận ra rằng các
phương pháp tư duy và tiếp cận truyền thống trong quản lý ít có tác dụng đảm bảo
kết quả dịch vụ đáp ứng nhu cầu khách hàng. Việc chuyển sang phương pháp
quản lý theo TQM đã có tác dụng làm cho các tổ chức, đơn vị dịch vụ công tăng
cường hiệu quả hoạt độngvà tận dụng được các nguồn lực.Và TQM đã được coi
là chìa khoá của thành công.
Mục tiêu cuối cùng của TQM là làm cho tổ chức đạt được chất lượng tổng thể
trong toàn bộ các lĩnh vực hoạt động. Chất lượng ở đây không chỉ các sản phẩm,
dịch vụ có chất lượng mà còn bao gồm cả các yếu tố trong vận hành và hoạt động
của tổ chức. Có nghĩa là chất lượng hoạt động của một tổ chức được phản ánh
trên nhiều mặt từ hiệu quả của công tác quản lý, năng lực của cán bộ nhân viên
đến hiệu quả của các hệ thống vận hành...
Đặc điểm nổi bật của TQM so với các phương pháp quản lý chất lượng trước đây
là nó cung cấp một hệ thống toàn diện cho công tác quản lý và cải tiến mọi khía
cạnh có liên quan đến chất lượng và huy động sự tham gia của mọi bộ phận và
mọi cá nhân để đạt mục tiêu chất lượng đề ra.
Trong quá trình hoạt động, TQM thường xuyên kiểm soát các chi phí để đảm bảo
tận dụng tốt các nguồn lực, chất lượng sản phẩm cao, công việc được thực hiện
đúng quy trình và tạo ra được các giá trị bổ sung.
Để thực hiện tốt TQM và đảm bảo cho TQM trở thành nề nếp hoạt động của tổ
chức phải xây dựng được một môi trường công việc thuận lợi. Muốn vậy, phải
đảm bảo các nguyên tắc sau:
Sự ủng hộ của lãnh đạo.
Xây dựng kế hoạch chiến lược lâu dài về chất lượng.
Hướng vào khách hàng.
Tổ chức đào tạo và ghi nhận nỗ lực của cán bộ nhân viên.
Thúc đẩy phương pháp làm việc theo nhóm.
Xây dựng các biện pháp đánh giá do lường công việc.
Chú trọng để đảm bảo chất lượng.
Nhìn chung, TQM là một phương pháp quản lý chất lượng có hiệu quả cao và đã
được thực tiễn chứng minh. Do đó, TQM ngày càng được áp dụng rộng rãi ở các
nước trên thế giới.
4. Hệ thống HACCP.
HACCP ( Hazard Analysis and Critical Control Point) là hệ thống phân tích mối
nguy và xác định điểm kiểm soát trọng yếu. HACCP là sự tiếp cận có tính khoa
học, hợp lý và có tính hệ thống cho sự nhận biết, xác định và kiểm soát mối nguy
trong chế tạo, gia công, sản xuất, chuẩn bị và sử dụng thực phẩm để đảm bảo rằng
thực phẩm là an toàn khi tiêu dùng (tức là nó không có mối nguy không thể chấp
nhận cho sức khoẻ). Hệ thống này nhận biết những mối nguy có thể xảy ra trong
quá trình sản xuất thực phẩm và đặt ra các biện pháp kiểm soát để tránh những
mối nguy xảy ra.
HACCP là khái niệm được hình thành vào những năm 1960 bởi công ty Pillsbury.
Cùng với Viện quản lý không gian và hàng không quốc gia (NASA) và phòng thí
nghiệm quân đội Mỹ ở Natick, họ đã phát triển hệ thống này để đảm bảo an toàn
thực phẩm cho các phi hành gia trong chương trình không gian. Việc phát triển kế
hoạch liên quan khắp thế giới về an toàn thực phẩm bởi những người có thẩm
quyền, sức khoẻ cộng đồng, công nghiệp thực phẩm và người tiêu dùng đã là sự
thúc đẩy chủ yếu trong việc áp dụng hệ thống HACCP trong những năm gần
đây.Việc này được chứng minh bởi sự tăng lên đáng kể phạm vi ra đời thực phẩm
không bệnh tật trên thế giới và sự gia tăng nhận thức về hiệu quả kinh tế và hiệu
quả sức khoẻ của thực phẩm không bệnh tật. Và việc áp dụng HACCP được yêu
cầu ngày càng nhiều bởi những người tiêu dùng tại các thị trường như Mỹ, châu
Âu, Australia, Canada...
Nhiều tổ chức quốc tế như Viện hàn lâm Khoa học Quốc gia Mỹ, Uỷ ban Tư vấn
Quốc gia về tiêu chuẩn vi trùng học cho thực phẩm và Uỷ ban CodexWHO/FAO
đã chứng nhận HACCP là hệ thống có hiệu quả kinh tế nhất cho đảm bảo an toàn
thực phẩm.
HACCP quan trọng trong sản xuất thực phẩm vì nó kiểm soát mối nguy tiềm tàng
trong sản xuất thực phẩm. Thông qua việc kiểm soát những rủi ro thực phẩm chủ
yếu như chất gây ô nhiễm thuộc vi trùng học, hoá học và vật lý những nhà sản
xuất có thể đảm bảo tốt hơn cho người tiêu dùng rằng sản phẩm của họ an toàn
cho tiêu dùng. Việc giảm bớt mối nguy thực phẩm, việc bảo vệ sức khoẻ cộng
đồng sẽ được củng cố.
HACCP có nhiều ưu điểm so với những cách tiếp cận truyền thống để kiểm soát
an toàn thực phẩm. Những chương trình kiểm soát an toàn thực phẩm truyền
thống nói chung dựa trên sự kiểm tra “chụp ảnh nhanh” và nghiên cứu thành
phẩm tức là cách tiếp cận “quan sát, phát hiện và tiếp xúc” tin tưởng vào phát
hiện mối nguy tiềm tàng hơn là ngăn chặn. Mà những cách tiếp cận này có giới
hạn của chúng như mất nhiều thời gian mới thu được kết quả, không dự báo được
những vấn đề an toàn thực phẩm tiềm tàng, chi phí cao do việc nghiên cứu thành
phẩm, khó khăn trong việc tập hợp và nghiên cứu đủ ví dụ tiêu biểu để thu được
thông tin có ý nghĩa. Còn với hệ thống HACCP, an toàn thực phẩm được hợp
nhất vào đề cương của phương pháp chứ không phải là vào hệ thống không hiệu
lực của phương pháp nghiên cứu thành phẩm. Bởi vậy, hệ thống HACCP cung
cấp một phương pháp mang lại lợi nhuận hơn và ngăn ngừa cho an toàn thực
phẩm. Kinh nghiệm của một số quốc gia cho thấy việc áp dụng hệ thống HACCP
dẫn đến việc phòng ngừa có hiệu quả hơn bệnh tật từ sản phẩm. Ví dụ, theo Cơ
quan quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ, ứng dụng của HACCP cho máy chế
biến cá được đánh giá ngăn chặn khoảng chừng 20 đến 60% bệnh do hải sản gây
ra.
HACCP có 7 nguyên tắc làm cơ sở. Đó là:
Hướng dẫn phân tích những mối nguy.
Xác định những điểm kiểm soát trọng yếu (CCPs – Control Critical
Points).
Thiết lập những ranh giới tới hạn.
Thiết lập một hệ thống kiểm tra việc điều khiển của CCPs.
Thiết lập hoạt động hiệu chỉnh được thực hiện khi hệ thống kiểm tra chỉ ra
một CCP đặc biệt không nằm dưới sự kiểm soát.
Thiết lập những thủ tục kiểm tra xác định hệ thống HACCP đang làm việc
hiệu quả.
Thiết lập tài liệu dẫn chứng liên quan tới tất cả các thủ tục và các biên bản
thích hợp với những nguyên tắc này và áp dụng của chúng.
Áp dụng hệ thống HACCP rất có ích đối với các doanh nghiệp vì nó giúp doanh
nghiệp nâng cao được chất lượng, đảm bảo vấn đề vệ sinh cho sản phẩm, nâng
cao được hình ảnh của doanh nghiệp và tăng cơ hội xuất khẩu của doanh nghiệp
sang những thị trường khó tính, có yêu cầu cao về an toàn và vệ sinh thực phẩm.
III. TÁC ĐỘNG CỦA RÀO CẢN KỸ THUẬT ĐỐI VỚI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Thương mại quốc tế ngày càng phát triển. Tiến trình tự do hoá thương mại đã
được tăng tốc bởi vòng đàm phán Uruguay, điều này có nghĩa là các hàng rào phi
thuế quan như quota sẽ được bãi bỏ và những hàng rào thuế quan cũng sẽ được
cắt giảm. Tuy nhiên, thương mại thế giới vẫn gặp rất nhiều cản trở, khó khăn do
các quốc gia lần lượt dựng lên những rào cản kỹ thuật để bảo vệ thị trường trong
nước, cản trở sự phát triển thương mại tự do. Và các rào cản này thực sự đã gây ra
thiệt hại lớn cho các nước khi gặp phải chúng do đó dẫn đến những cuộc trả đũa
giữa các nước bóp méo thương mại quốc tế.
Do hình thức đa dạng và linh hoạt nên các rào cản kỹ thuật có phạm vi ảnh hưởng
rất rộng rãi. Theo điều tra của Trung tâm thương mại quốc tế (INTRACEN –
International Trade Centre), chỉ riêng các rào cản liên quan đến môi trường cũng
đã ảnh hưởng trực tiếp đến 3746 sản phẩm trong số 4917 sản phẩm được nghiên
cứu. Trong khi đó, nghiên cứu năm 1999 của WTO về rào cản thương mại đã chỉ
ra rằng chỉ có 11% trong số 2.300 các thông báo về các rào cản kỹ thuật trong
thương mại là có liên quan đến môi trường. Như vậy có thể thấy hầu hết thương
mại thế giới gặp phải cản trở của các rào cản kỹ thuật. Một khi, các nước nhập
khẩu sử dụng rào cản kỹ thuật thì các nước xuất khẩu sẽ gặp phải rất nhiều khó
khăn: xuất khẩu bị giảm sút, hàng hoá bị tiêu huỷ hay trả lại gây tổn thất lớn cho
các nước này. Thực tế, thương mại thế giới đã xảy ra nhiều trường hợp bị cản trở
và thiệt hại do gặp phải các rào cản kỹ thuật.
Trung Quốc là một quốc gia có tiềm lực phát triển kinh tế và năng lực xuất khẩu
lớn nhưng cũng gặp phải nhiều rào cản kỹ thuật từ phía các thị trường nhập khẩu.
Do xuất hiện bệnh lở mồm long móng ở Hongkong, Indonesia đã cấm nhập khẩu
ngô Trung Quốc dù rằng chưa có bằng chứng nào về dịch bệnh này ở đại lục và
cũng không có bằng chứng nào chứng minh mối liên hệ giữa bệnh này với ngô
nhập khẩu. Đầu năm 2002, do bị phát hiện có hàm lượng chất chloramphenicol và
enrofloxacine quá cao trong các sản phẩm nên Trung Quốc đã bị EU ra lệnh cấm
nhập khẩu tôm trong 3 tháng và bị loại ra khỏi danh sách I các nước được phép
xuất khẩu thuỷ sản sang EU. EU cũng cấm nhập khẩu thịt gà, thịt thỏ, mật ong.
Cũng như EU, cơ quan vệ sinh dịch tễ Nga cũng ban hành lệnh cấm tạm thời đối
với thịt lợn, thịt bò và thịt gà nhập khẩu từ Trung Quốc. Những rào cản kỹ thuật
từ các nước này đã kìm hãm xuất khẩu của Trung Quốc, đặc biệt là hàng nông sản
và thực phẩm. Theo báo cáo của Bộ thương mại Trung Quốc, năm 2001, có tới
71% các nhà xuất khẩu Trung Quốc và 39% mặt hàng xuất khẩu của nước này
gặp phải các rào cản kỹ thuật, khiến họ thiệt hại 17 tỷ USD, bằng 5,2% kim ngạch
xuất khẩu. Trong đó, riêng hàng nông sản chiếm tới 90% và thiệt hại của mặt
hàng này lên tới 9 tỷ USD.
Không chỉ có Trung Quốc, thương mại các nước khác cũng bị ảnh hưởng nặng nề
do rào cản kỹ thuật. Hồi đầu năm 2001, các nước châu Á đã bị EU ra quyết định
tịch thu và tiêu huỷ nhiều lô hàng tôm nhập khẩu do phát hiện có dư lượng chất
kháng sinh cao trong những lô hàng này của 5 nước châu Á và EU cũng quyết
định sẽ kiểm tra toàn bộ các lô hàng thuỷ sản nhập khẩu từ các nước này. Dù
chloramphenicol là loại kháng sinh được coi là có khả năng gây hại cho người
nhưng khoa học chưa đưa ra được một mức dư lượng tối đa không gây hại cho
sức khoẻ. Gần đây nhiều công trình khoa học tại Hà Lan đã cho thấy nếu mức dư
lượng thấp đến phần tỷ (ppb) thì các chất kháng sinh này cũng vô hại đối với
người tiêu dùng. Và với lượng tiêu thụ tôm hàng năm của con người thì mức gây hại của chúng thấp hơn 5000 lần so với liều lượng có thể gây bệnh ung thư (1).
Mặc dù vậy, EU vẫn kiểm tra ngày càng gắt gao dư lượng kháng sinh trong các lô
hàng bằng những trang thiết bị mới hiện đại. Như vậy có thể thấy thực sự EU đã
dựng lên một rào cản kỹ thuật đối với thực phẩm và thuỷ sản nhập khẩu vào EU.
Rào cản này của EU đã gây thiệt hại không nhỏ cho các nước xuất khẩu thuỷ sản
và thực phẩm châu Á. Lợi nhuận của xuất khẩu của các nước này đã bị sụt giảm
mạnh, tiêu biểu là Thái Lan, một nước xuất khẩu thuỷ sản lớn ở châu Á. Do việc
tăng cường kiểm tra dư lượng kháng sinh của EU mà xuất khẩu tôm của Thái Lan năm 2001 đã giảm 20-25% so với năm trước, trị giá tương đương là 100 tỷ bạt (2).
Đầu năm 1996, do phát hiện một loại bệnh có tên là bệnh bò điên (Mad-Cow
disease) ở Anh quốc và có thể đó là do ăn phải thịt của những con bò điên nên
Pháp và các nước Âu châu đã tuyên bố cấm nhập khẩu thịt bò của Anh. Sự kiện
này đã khiến Anh thiệt hại hàng tỷ đô la vì thịt bò là một mặt hàng xuất khẩu
(1) Tạp chí Doanh nghiệp thương mại, số 160, 2002 (2) Foodmarketexchange, 19/11/2002
quan trọng của Anh. Cho đến tháng 3/2002, Pháp vẫn kiên quyết duy trì lệnh cấm
nhập khẩu thịt bò Anh cho dù quyết định của Liên minh châu Âu cho rằng lệnh
cấm này là bất hợp pháp vì bệnh bò điên tại Anh đã được thanh toán. Sau đó,
chính Pháp cũng bị các nước cấm vận thịt bò vì nguy cơ mắc bệnh bò điên.
Canada chỉ có một trường hợp duy nhất về bệnh bò điên xảy ra mà cũng bị 30
nước cấm nhập khẩu thịt bò. Ngành xuất khẩu thịt bò của Canada bị thiệt hại
nặng nề, ước tính khoảng 27 triệu đôla Canada (tương đương 19 triệu USD) mỗi
ngày. Năm 2001, do dịch bệnh lở mồm long móng ở lợn nên EU đã cấm nhập
khẩu các sản phẩm thịt lợn, sữa và gia súc từ Anh, Mỹ cũng ngừng nhập khẩu thịt
lợn từ Anh mặc dù Cơ quan tiêu chuẩn thực phẩm của Anh đã tuyên bố bệnh này
không gây nguy hiểm gì cho người. Những lệnh cấm này đã làm cho nền nông
nghiệp Anh phải lao đao. Cũng dựa vào lý do đó mà Bộ nông nghiệp Braxil đã
ban hành lệnh cấm nhập gia súc của Argentina cùng đa số chủng loại thịt bò và
sản phẩm có nguồn gốc từ bò. Tokyo cũng đã cấm nhập khẩu các sản phẩm thịt từ
Hàn Quốc trong 2 năm liền do nguy cơ của bệnh này.Từ những sự kiện trên,
chúng ta có thể thấy vì rào cản vệ sinh mà các nước nhập khẩu áp dụng (ngay cả
khi nguy cơ lây nhiếm không còn) mà các nước có dịch bệnh bò điên đã phải chịu
thiệt hại lớn: phải tiêu huỷ những sản phẩm bị nghi ngờ mang bệnh, các sản phẩm
bị tẩy chay không xuất khẩu được gây ra những tổn thất khổng lồ cho các nước
này.
Hiệp định về rào cản kỹ thuật và Hiệp định về các biện pháp vệ sinh và vệ sinh
thực phẩm của WTO cho phép các thành viên, trong những điều kiện cụ thể, duy
trì mức độ bảo vệ thích hợp mà người dân đã chấp nhận trong khuôn khổ luật
pháp của nước mình. Do đó, các nước đã lợi dụng điều này để dựng lên những
rào cản đối với thương mại và cũng đã gây ra những vụ tranh chấp, trả đũa giữa
các nước vì vấn đề này. Tháng 9/2002, Trung Quốc đã tuyên bố cấm nhập khẩu
mỹ phẩm từ 18 nước châu Âu đã bị ảnh hưởng của dịch bò điên, lấy lý do là sợ
các sản phẩm đó được sản xuất từ thịt bò, cừu, dê để trả đũa việc EU cấm nhập
khẩu thuỷ sản và các sản phẩm thịt của Trung Quốc, dù EU đã cấm sử dụng
nguyên liệu từ những động vật trên để sản xuất mỹ phẩm từ giữa những năm 90.
Canada cũng đã gây sức ép với Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc trong cuộc họp của
WTO khi các nước này vẫn cấm nhập khẩu thịt bò từ Canada khi Canada đã
chứng minh được thịt bò của nước mình an toàn. Pêru đã đệ đơn kiện EU vi phạm
Hiệp định về rào cản kỹ thuật lên WTO hồi đầu năm 2001 khi EU tuyên bố chỉ có
loài cá Sardin pilchardus Walbaum ở đông bắc Đại Tây Dương mới gọi là cá
Sardin vì điều này không phù hợp với các tiêu chuẩn dinh dưỡng của Codex.
Nhưng EU đã phản đối những lập luận đó và đưa ra Hội đồng thượng thẩm WTO.
Các vụ tranh chấp và trả đũa thương mại giữa các nước đã ngăn cản thương mại
quốc tế, đi ngược lại xu hướng tự do hoá thương mại, gây thiệt hại cho thương
mại các nước nói riêng và thương mại thế giới nói chung.
Như vậy, ta có thể thấy mức độ ảnh hưởng của các loại rào cản kỹ thuật đối với
thương mại quốc tế lớn như thế nào. Những rào cản này thực sự gây nhiều khó
khăn và thiệt hại cho các nước khi phải đối mặt với chúng.
Các nước có trình độ phát triển cao, có tiềm lực kinh tế lớn và có ảnh hưởng đối
với thương mại quốc tế là những nước thường áp dụng các rào cản kỹ thuật vì các
nước này có đầy đủ cơ sở vật chất và kỹ thuật để đưa ra các rào cản và cũng có
thể dựa vào tiềm lực của mình để ép các quốc gia khác phải tuân thủ các điều kiện
do mình đặt ra. Và thực tế cũng chỉ ra rằng các nhà xuất khẩu của các nước đang
và kém phát triển là những nước chịu tác động của rào cản kỹ thuật nhiều nhất
bởi hàng xuất khẩu của những nước này chủ yếu dựa vào thiên nhiên có nguồn
gốc đa dạng sinh học mà việc khai thác chế biến ảnh hưởng đến môi trường, trình
độ khoa học công nghệ thấp kém nên các tiêu chuẩn chất lượng và các tiêu chuẩn
vệ sinh an toàn không cao vì vậy khó có thể vượt qua được các rào cản đó khi mà
thậm chí các nước phát triển cũng gặp không ít khó khăn khi gặp phải. Trong
tương lai thậm chí các nước kém phát triển này còn gặp phải những khó khăn còn
lớn hơn khi các nước tăng cường sử dụng những rào cản này.
CHƯƠNG II
THỰC TIỄN ÁP DỤNG RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI Ở
MỘT SỐ NƯỚC CÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN
I. LIÊN MINH CHÂU ÂU- EU
1. Khái quát chung về thị trường EU
Liên minh châu Âu-EU (The European Union) là một thể chế với mục tiêu thống
nhất châu Âu thành một thị trường chung. Hiện nay, EU có 15 nước thành viên,
với khoảng 375 triệu dân và là một thị trường chung lớn nhất thế giới. Và trong
tương lai gần đây, thị trường EU sẽ ngày càng được mở rộng bằng cách hoà nhập
các nền kinh tế của các nước Đông Âu. Là một khối thị trường chung, thị trường
EU phát triển vượt xa khỏi những hiệp định mậu dịch tự do giữa các nước thành
viên. Đây là một liên hiệp về hải quan và tiền tệ, cho phép hàng hoá, dịch vụ, con
người và vốn được di chuyển tự do điều hành bởi các định chế chung như Uỷ ban
châu Âu, Nghị viện châu Âu..., các hệ thống quy định luật lệ mang tính hoà hợp
chung và các chính sách phù hợp nhất.
Tuy nhiên, EU cũng là một thị trường bao gồm nhiều thị trường khác nhau, gồm
15 khối dân số, văn hoá, kinh tế khác nhau.. Do vậy, khi thâm nhập thị trường
châu Âu, các nhà xuất khẩu cũng nên lưu ý đến tính chất đặc điểm riêng của từng
thị trường thành viên. Mặc dù có thể cho rằng không có những rào cản giữa
những quốc gia thành viên, các quốc gia mở cửa cho các quốc gia thành viên
khác, các nền kinh tế thống nhất và hệ thống quy định, luật pháp hoà hợp nhưng
EU vẫn là một thị trường không đồng bộ do sự khác biệt về dân số, diện tích, tôn
giáo, văn hoá, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng và hệ thống kinh tế-
chính trị.
Về mặt kinh tế, EU là một trong những khu vực kinh tế có GDP lớn nhất thế giới. Năm 2002, GDP của EU đạt 8.447 tỷ euro (3), đứng thứ hai trên thế giới sau Mỹ.
(3) www.nationmaster.com/country/eu/economy
EU là một thị trường nhập khẩu lớn của thế giới với nhu cầu rất đa dạng, phong
phú. Tổng kim ngạch nhập khẩu từ các nước ngoài khối của EU năm 2002 là 988
tỷ euro. Giá trị nhập khẩu từ các nước đang phát triển chiếm 14% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của EU (4).
Tuy EU là một thị trường rộng lớn, ổn định, có nhiều tiềm năng và giá cả thì cao
hơn tất cả các thị trường khác nhưng EU lại là một thị trường khó tính, đòi hỏi rất
cao về chất lượng và điều kiện thương mại thì nghiêm ngặt. Hàng muốn được
nhập vào EU phải vượt qua rất nhiều rào cản với những điều kiện, luật lệ khắt
khe.
2. Một số quy định kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu vào thị trường EU
Cũng như ở các thị trường khác, khi các hàng rào thuế quan được cắt giảm và một
số hàng rào phi thuế bị dỡ bỏ thì EU cũng tăng cường đưa ra những rào cản kỹ
thuật mới làm cho việc tiếp cận thị trường EU trở nên khó khăn hơn.
EU là thành viên của Tổ chức thương mại quốc tế-WTO nên chế độ quản lý nhập
khẩu chủ yếu dựa trên các nguyên tắc của tổ chức này. Các mặt hàng quản lý
bằng hạn ngạch không nhiều, nhưng lại sử dụng khá nhiều các biện pháp phi thuế.
Mặc dù thuế quan của EU thấp hơn so với các cường quốc kinh tế lớn và có xu
hướng giảm nhưng EU vẫn là một thị trường bảo hộ rất chặt chẽ vì hàng rào kỹ
thuật rất nghiêm ngặt. Rào cản kỹ thuật của EU chính là quy chế nhập khẩu chung
và các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng được cụ thể hoá ở các tiêu chuẩn của sản
phẩm như tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn an
toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và tiêu chuẩn về lao động.
Việc sử dụng các hàng rào kỹ thuật của EU được điều chỉnh thông qua các hàng
rào kỹ thuật trong Hiệp định thương mại của WTO. Bên cạnh đó cần phải chú ý
rằng đây không chỉ là những quy định luật lệ các chính phủ áp dụng thêm nhằm
xác định các tiêu chuẩn cao trong an toàn, sức khoẻ và môi trường mà bản thân
người tiêu dùng cũng ngày càng trở nên khó chịu trước những sản phẩm và những
ảnh hưởng có hại tiềm tàng. Đó chính là nguyên nhân dẫn tới các quy định khó
(4) Báo cáo của Eurostat, 2003
khăn hơn xuất phát từ thị trường.
* Tiêu chuẩn hóa ở EU và một số chỉ thị về an toàn sản phẩm
Uỷ ban tiêu chuẩn hoá kỹ thuật điện tử châu Âu (CENELEC – European
Committee for Electronical Standardization), Uỷ ban tiêu chuẩn hoá châu Âu
(CEN – European Committee for Standardization) và Viện tiêu chuẩn viễn thông
châu Âu (ETSI – European Telecommunications Standard Institute) là 3 cơ quan
tiêu chuẩn hoá của châu Âu được coi là đủ năng lực trong việc tiêu chuẩn hoá kỹ
thuật. Ba cơ quan này đã đưa ra các tiêu chuẩn của EU trong từng lĩnh vực riêng
biệt và tạo ra “hệ thống tiêu chuẩn hoá châu Âu”. Và hiện tại, EU đang tạo ra các
tiêu chuẩn thống nhất và điều hoà cho toàn EU đối với các lĩnh vực sản phẩm
chính nhằm thay thế cho hàng ngàn các tiêu chuẩn quốc gia khác nhau. Nhìn
chung các mức độ yêu cầu được đặt ra hoặc sẽ được đặt ra trong những năm tới
đây. Các quốc gia thành viên được phép đưa ra thêm các yêu cầu cho ngành công
nghiệp của mình. Tuy nhiên, nếu sản phẩm nào đáp ứng được những yêu cầu tối
thiểu sẽ được cho phép lưu hành tự do tại EU. Tiêu chuẩn hoá không chỉ quan
trọng trong lĩnh vực sức khoẻ, an toàn mà còn trong lĩnh vực quản lý chất lượng,
sản xuất mang tính môi trường, trách nhiệm xã hội.
Để bảo vệ người tiêu dùng, EU cũng đã ra các chỉ thị như: Chỉ thị về tiếng ồn của
các thiết bị điện trong gia đình, Chỉ thị về việc sử dụng viên ngọt (chất thay thế
đường) và phụ gia trong hàng thực phẩm, và những yêu cầu khác cho giày dép,
Chỉ thị về kiểm soát việc sử dụng niken trong các vật dụng có ảnh hưởng tới da
như đồng hồ đeo tay và đồ trang sức. Tương tự, các nước thành viên cũng đưa ra
các chỉ thị áp dụng riêng cho quốc gia mình. Áo, Đức và Hà Lan áp dụng quy chế
cấm buôn bán quần áo, giày dép và bộ đồ trải giường chứa thuốc nhuộm có nguồn
gốc hữu cơ mà có thể từ chất này chiết suất ra một loại amine thơm. Pháp, Áo,
Đan Mạch, Hy Lạp và Thuỵ Điển đã áp dụng các biện pháp kiểm soát việc sử
dụng hoá chất có khả năng chuyển màu trong một số đồ chơi hoặc vật dụng của
trẻ em bằng nhựa PVC...
* Nhãn CE (Conformité Européene- European Conformity)
EU có các chỉ thị liên quan đến “cách tiếp cận mới với hệ thống hài hoà kỹ thuật”
quản lý các tiêu chuẩn về độ an toàn cho đồ chơi, máy móc và tính tương hợp
điện từ (EMC), thiết bị y tế có thể cấy dưới da, các thiết bị y tế, các thiết bị cân
không tự động, các sản phẩm xây dựng, thiết bị điện chống nổ, thiết bị điện có
hiệu điện thế thấp, các ống áp suất đơn giản, thiết bị bảo vệ cá nhân và các thiết bị
sử dụng gas. Trong đó chỉ thị EMC yêu cầu từ tháng 1/1996, tất cả các sản phẩm
điện và điện tử bán trên thị trường EU không được phát ra những sóng làm nhiễm
từ vượt quá mức tối đa đã quy định và phải có mức độ phù hợp miễn nhiễm các
sóng làm nhiễm điện từ này. Những sản phẩm chịu sự chi phối của các chỉ thị này
phải có nhãn CE. (Những sản phẩm không thuộc sự kiểm soát của các chỉ thị này
hay các luật khác của Liên minh sẽ phải tuân thủ theo Chỉ thị An toàn sản phẩm
chung, đề ra tiêu chuẩn an toàn tối thiểu mà tất cả các sản phẩm được cung cấp
trên thị trường EU phải đáp ứng).
Hiện nay, toàn bộ 15 quốc gia thành viên của EU đều yêu cầu nhãn CE cho
những nhóm sản phẩm nói trên. Ngay cả các nước thuộc Hiệp hội tự do thương
mại châu Âu (EFTA – European Free Trade Area) (trừ Thuỵ Sỹ) cũng yêu cầu
phải có dấu CE. 12 nước đang xin gia nhập EU cũng đã bắt đầu tuân thủ các yêu
cầu về dấu CE để đảm bảo rằng sản phẩm của họ có thể tự do lưu hành tại các
nước thành viên EU. CE hay còn gọi là “dấu CE” là dấu bắt buộc cho rất nhiều
loại sản phẩm (khoảng 70%) bán trên thị trường EU và nó được xem là “giấy
thông hành để bước vào thị trường EU” đối với các sản phẩm sản xuất ngoài khu
vực này. Dấu CE thể hiện công bố của nhà sản xuất trong việc tuân thủ nhũng chỉ
thị mà EU ban hành. Đối với phần lớn các sản phẩm bán trên thị trường EU, việc
sử dụng dấu CE và việc công bố phù hợp là bắt buộc. Dấu CE hé cửa cho sản
phẩm vào thị trường EU, cho phép sản phẩm được tự do lưu hành nhưng đồng
thời nó cũng cho phép hải quan và các cơ quan có thẩm quyền thu hồi những sản
phẩm không phù hợp. Hướng dẫn thực hiện các chỉ thị thống nhất của EU quy
định rõ: “Các nhà sản xuất có trách nhiệm đảm bảo rằng sản phẩm của họ trên thị
trường đáp ứng được tất cả các quy định có liên quan. Với những quy định không
yêu cầu chứng nhận bắt buộc, các nhà sản xuất vẫn thường xin đăng ký chứng
nhận tự nguyện để tự đảm bảo rằng sản phẩm của họ đáp ứng các yêu cầu của luật
pháp”. Dấu CE được yêu cầu nhiều nhất với 23 nhóm sản phẩm như: các hệ thống
và thiết bị quản lý không lưu, lắp đặt các đường cáp vận chuyển người, các sản
phẩm xây dựng, thiết bị điện, các loại thuốc nổ dân dụng, bình nước nóng, tủ lạnh
và máy làm đá gia đình, thang máy, máy móc, thiết bị hàng hải, thiết bị vô tuyến
và viễn thông đầu cuối, hệ thống đường sắt xuyên châu Âu...
Chỉ thị về an toàn sản phẩm chung 92/59/EC (thường được biết dưới tên Chỉ thị
về an toàn sản phẩm) được Cộng đồng châu Âu thông qua ngày 29/6/1992. Và
nghị định có hiệu lực hoàn toàn từ tháng 6/1994 và áp dụng cho an toàn sản phẩm
khi sản phẩm có mặt lần đầu tiên tại thị trường EU và được kéo dài suốt đời sống
có thể có của sản phẩm. Theo Chỉ thị, những nhà sản xuất và phân phối chỉ được
kinh doanh những sản phẩm an toàn. Một “sản phẩm an toàn” được định nghĩa là
một sản phẩm không có-đặc biệt ở khía cạnh thiết kế, cấu thành, hoạt động, chức
năng, bao bì, các điều kiện lắp ráp, bảo trì hay thải hồi, các hướng dẫn xử lý, sử
dụng, hoặc các đặc tính khác của sản phẩm-bất cứ một rủi ro trực tiếp hay gián
tiếp không thể chấp nhận cho an toàn và sức khoẻ của con người hoặc ảnh hưởng
trên các sản phẩm khác hay các phụ tùng của nó. Chỉ thị yêu cầu các sản phẩm
cho người tiêu dùng không được có bất kỳ rủi ro không thể chấp nhận nào và
cũng yêu cầu những người sử dụng tiềm năng những sản phẩm này được cảnh
báo đầy đủ các rủi ro có thể xảy ra. Chỉ thị về an toàn sản phẩm được đặt ra nhằm
vào sản phẩm cho người sử dụng cuối cùng (thực phẩm hay phi thực phẩm) nếu
như không có các quy định đặc biệt nào cho những sản phẩm này.
* Quy định về vệ sinh và an toàn thực phẩm
Đối với hàng thực phẩm, EU quy định hết sức chặt chẽ về vấn đề vệ sinh và an
toàn thực phẩm. Theo Báo cáo của Europa, USDA, đến cuối năm 2000, EU đã có
124 văn bản quy định về chất lượng an toàn và vệ sinh thực phẩm. Chỉ thị
93/43/EC về vệ sinh thực phẩm của EU có hiệu lực vào tháng 11/1996 quy định
“các công ty thực phẩm phải xác định từng khía cạnh trong hoạt động của họ đều
có liên quan tới an toàn thực phẩm và việc bảo đảm thủ tục an toàn thực phẩm
phải được thiết lập, áp dụng, duy trì và sửa đổi trên cơ sở của hệ thống HACCP”.
Các công ty sản xuất thực phẩm sẽ phải hiểu và phải chống lại các nguy cơ có
liên quan đến sản xuất thức ăn ở mọi công đoạn, từ nuôi trồng, chế biến, sản xuất,
phân phối đến tiêu thụ. Đấy là những rủi ro sinh học vĩ mô (súc vật), vi mô (vi
rút, vi khuẩn, mốc), độc tố (phóng xạ hoá học và thuốc trừ sâu) hay vật chất (gỗ,
kim loại, thuỷ tinh, nhựa, xơ).
Tiêu chuẩn HACCP là rất quan trọng đối với các nhà xuất khẩu nước ngoài vì các
nhà nhập khẩu của EU sẽ yêu cầu các nhà cung cấp phải thực hiện HACCP.
Riêng đối với ngành thuỷ sản, theo quy định của Chỉ thị 91/492/EEC thì các nhà
sản xuất thuỷ sản buộc phải thực hiện HACCP thì mới được xuất khẩu sang EU.
Đối với các sản phẩm trồng trọt, EU đang xây dựng các hướng dẫn về Quy trình
canh tác nông nghiệp đảm bảo (GAP). GAP gồm các tiêu chuẩn về quản lý ruộng
vườn, sử dụng phân bón, bảo vệ mùa màng và dùng thuốc trừ sâu, thu hoạch và
sau thu hoạch, sức khoẻ và an toàn công nhân. Và sắp tới trong tương lai gần, quy
trình này sẽ trở thành yêu cầu bắt buộc đối với các nhà xuất khẩu, các nhà cung
cấp hoa quả và rau tươi.
Đối với các phụ gia thực phẩm, ở các nước EU, các phụ gia thực phẩm được chấp
nhận đều mang số hiệu nhận biết, trước số hiệu là chữ E. Các phụ gia thực phẩm
phải được ghi nhãn trong danh sách các thành tố trên bao bì bằng cách cho biết
tên hay số hiệu E của nó. EU đã ban hành các Chỉ thị đặt ra các yêu cầu đối với
các chất làm ngọt (Chỉ thị 94/35/EEC), phẩm màu (Chỉ thị 94/36/EEC) và các
phụ gia thực phẩm khác (Chỉ thị 95/2/EEC) để sử dụng cho thực phẩm.
Ngoài ra, EU còn có các luật khác điều chỉnh về mức độ tối đa thuốc trừ sâu
không phân huỷ, kim loại nặng, nhiễm độc vi sinh và phóng xạ...
Về các yêu cầu dư lượng chất trong các sản phẩm, EU đưa ra giới hạn đối với
các chất như aflatoxin, chloramphenicol, nitrofuran. Tháng 1/1998, EU công bố
với WTO một đề nghị xác lập những giới hạn tối đa mới đối với aflatoxin trong
một số sản phẩm gồm một số hạt, sữa, lạc, hoa quả khô. Mới đây, EU đã tuyên bố
mức dư lượng bằng không đối với chất chloramphenicol và nitrofuran trong tôm.
Lô hàng nào mà bị phát hiện có dư lượng kháng sinh sẽ bị tiêu huỷ vô điều kiện
tại cảng đến. Những giới hạn mới được đưa ra ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc
nhập khẩu một số sản phẩm vào EU trong khi không tạo thêm được sự bảo vệ nào
đối với người tiêu dùng. Hiện nay, EU chỉ cho phép sử dụng 4 loại kháng sinh
làm chất kích thích tăng trưởng cho gà, gà tây, lợn và bò. EU kiểm tra dư lượng
kháng sinh trong sản phẩm vô cùng chặt chẽ. Hơn nữa, EU còn đưa ra thủ tục mới
về lấy mẫu dẫn tới một số lượng lớn hàng hoá bị từ chối mặc dù những hàng hoá
này được các nước xuất khẩu coi là an toàn trên thực tế.
Về nhãn mác của sản phẩm, đối với hàng thực phẩm đóng gói phải ghi rõ tên sản
phẩm, thành phẩm, trọng lượng, thời gian và cách sử dụng sản phẩm, nơi sản
xuất, các điều kiện bảo quản và sử dụng, mã số và mã vạch để nhận dạng lô hàng.
Đối với thực phẩm biến đổi gen, EU có quy định với các yêu cầu chi tiết trong
việc đặt nhãn mác cho tất cả các loại thực phẩm và nguyên liệu thực phẩm chế
biến mới bao gồm cả các thực phẩm được làm từ các chất biến đổi gen. Đối với
nhãn/mác thịt bò, từ 31/8/1998, nhãn mác trên thịt bò đóng gói để bán cho người
tiêu dùng phải được EU và các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia thành
viên phê chuẩn, nhằm cung cấp cho người tiêu dùng các thông tin cần thiết liên
quan đến sản phẩm.
* Tiêu chuẩn vệ sinh đối với thuỷ hải sản nhập khẩu
Riêng về hàng thuỷ sản nhập khẩu, EU có hai chỉ thị: Chỉ thị 91/493/EEC quy
định các điều kiện y tế đối với việc sản xuất và đưa hàng vào thị trường thuỷ sản
nói chung và Chỉ thị 91/492/EC quy định các điều kiện nghiêm ngặt đối với động
vật thân mềm hai mảnh vỏ sống. Theo Chỉ thị 91/493/EC ban hành tháng 6/1993,
thì các doanh nghiệp tại các nước xuất khẩu phải có điều kiện tương đương như
các doanh nghiệp của nước nhập khẩu và phải được cơ quan kiểm tra chất lượng
của EU công nhận. Các nước ngoài liên minh châu Âu muốn xuất khẩu thuỷ sản
vào EU phải đạt ba điều kiện:
Một là tương đương về luật lệ kiểm soát chất lượng và an toàn vệ sinh.
Hai là tương đương về cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc kiểm
soát chất lượng và an toàn vệ sinh với tổ chức có cùng chức năng trong EU.
Ba là các doanh nghiệp trong danh sách xuất khẩu thuỷ sản vào EU phải
tương đương doanh nghiệp sản xuất cùng loại của EU về điều kiện an toàn
vệ sinh phần cứng và phần mềm.
Để đạt được những điều kiện tương đương này là rất khó khăn ngay cả với những
nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Australia...Và kể từ 1/1/2000, chỉ những nước
đáp ứng đủ các điều kiện tương đương mới được cho phép hoàn toàn xuất khẩu
thuỷ sản vào EU (gọi là danh sách I). Còn những nước chưa đáp ứng được đầy đủ
các điều kiện đó thì EU xếp vào danh sách các nước được phép xuất khẩu có điều
kiện hoặc danh sách các nước bị cấm xuất khẩu.
Nhằm bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng, EU đã ban hành 16 quy định về an toàn
vệ sinh thực phẩm đối với các loại thuỷ sản nhập khẩu. Đó là các quy định về tiêu
chuẩn nuôi trồng, chế biến, tồn trữ và vận chuyển cá, về hệ thống kiểm tra
HACCP, về dư lượng tối đa các chất độc hại (thuỷ ngân, TVB-n, chì, cadmium,
kháng sinh...) trong sản phẩm. Ngoài ra còn có quy định về dán nhãn sản phẩm.
Từ 1/1/2002, các loại thuỷ hải sản bày bán trên thị trường EU phải dán nhãn
mang các nội dung sau: tên thương mại của hải sản, tên nước xuất xứ, phương
thức sản xuất (đánh bắt ở vùng nước nào hay nuôi trồng...), cách chế biến, cách
bảo quản, kích cỡ, trọng lượng, thành phần, hạn sử dụng, khuyến cáo, nhà sản
xuất, nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu. Sản phẩm nhập khẩu vào EU phải chịu sự
kiểm tra chặt chẽ gồm ba bước: kiểm tra chứng từ vệ sinh y tế, kiểm tra sự đồng
nhất giữa chứng từ và sản phẩm, kiểm tra trên sản phẩm (đóng gói, nhiệt độ tồn
trữ...).
Theo quyết định 95/328/EEC, tất cả các thuỷ hải sản nhập khẩu vào EU đều phải
có giấy chứng nhận an toàn, trừ những nước mà EU có quy định riêng. Giấy này
được kiểm tra rất kỹ lưỡng do đó cần phải điền đầy đủ và chính xác, phải được
viết bằng ngôn ngữ chính thức của quốc gia nhập khẩu nếu cần thì bằng cả ngôn
ngữ của nước đích đến.
* Tiêu chuẩn về môi trường
Để bảo vệ môi trường, EU cũng đã thông qua nhiều thoả thuận mang tính tình
nguyện cũng như mang tính pháp lý về vấn đề môi trường. Để có thể đưa được
hàng vào EU, các nhà xuất khẩu phải tuân thủ những quy định về môi trường.
Các quy định không chỉ áp dụng cho các sản phẩm mà còn áp dụng cả cho bao bì
của sản phẩm. EU đã ban hành Chỉ thị 94/62/EEC về bao bì và rác thải bao bì quy
định các mức độ tối đa của các kim loại nặng trong bao bì và mô tả các yêu cầu
đối với sản xuất và thành phần của bao bì. Các nhà sản xuất và xuất khẩu cần
giảm thiểu bao bì sản phẩm khi xuất khẩu sang EU nhằm duy trì mức độ an toàn
vệ sinh cần thiết và sự chấp nhận của người tiêu dùng cho sản phẩm đóng gói.
Đồng thời, bao bì cần được thiết kế, sản xuất sao cho có thể thu hồi, tái sử dụng
và phải giảm thiểu sự hiện diện của các chất độc hại trong bao bì để hạn chế đến
mức thấp nhất ảnh hưởng đến môi trường. Ở Đức, ngành thương mại và công
nghiệp phải thu hồi lại bao bì để tái sử dụng hay tái chế. Quy định này cũng áp
dụng cho cả hàng nhập khẩu. Trên bao bì các sản phẩm này sẽ được in biểu tượng
Green dot để thể hiện cho người tiêu dùng thấy.
EU còn tiến hành dán nhãn sinh thái cho hàng hoá. Ở châu Âu có nhãn hiệu sinh
thái của một nước, nhãn hiệu sinh thái EU và các nhãn hiệu môi trường cụ thể của
sản phẩm. Các chương trình nhãn hiệu sinh thái quốc gia có mục đích là nhằm
mang lại cho khách hàng một sự lựa chọn khi mua các sản phẩm được thiết kế,
sản xuất, đóng gói bao bì để có thể bị vứt bỏ khi kết thúc vòng đời theo cách
không ảnh hưởng đến môi trường. Ngoài các sản phẩm mang nhãn hiệu sinh thái
quốc gia, hiện nay EU còn có 14 nhóm sản phẩm nằm trong phạm vi chương trình
gắn nhãn hiệu sinh thái của EU và 7 nhóm sản phẩm khác cũng đang được xây
dựng tiêu chuẩn. Để bổ sung cho các nhãn hiệu sinh thái quốc gia và nhãn sinh
thái EU, các sản phẩm cụ thể ở thị trường EU còn có các nhãn hiệu môi trường
riêng cho từng sản phẩm. Hiện nay tuy việc sử dụng các nhãn hiêu này còn mang
tính tự nguyện nhưng các sản phẩm sinh thái thường được người tiêu dùng ưa
chuộng và chắc chắn sẽ được sử dụng nhiều hơn và mang tính bắt buộc trong
tương lai.
Bản thân người tiêu dùng EU cũng có ý thức rất cao về bảo vệ môi trường cho
nên tuân thủ các quy định về môi trường cũng là đáp ứng nhu cầu của người tiêu
dùng EU và đó là điều quan trọng để thành công tại thị trường EU.
* Sách trắng đối với hoá chất
Ngày 13/2/2003, EU đã thông qua Sách trắng về chính sách mới đối với hoá chất.
Nội dung chủ yếu của Quy định này là một hệ thống quản lý mới về đăng ký,
thẩm tra, cấp phép và hạn chế đối với các hoá chất được đưa vào lưu thông trên
thị trường EU với số lượng từ 1 tấn trở lên đối với một doanh nghiệp trong một
năm.
Hệ thống này gồm 4 phần chính:
Quy chế về đăng ký hoá chất: Yêu cầu các doanh nghiệp của EU sản xuất
hoặc nhập khẩu hoá chất (kể cả thành phần hoá chất) phải tiến hành thử
nghiệm hoá chất mà họ sản xuất hay nhập khẩu và đăng ký/cung cấp thông
tin này đến cơ quan quản lý có thẩm quyền của EU (có thể là Tổng cục hoá
chất châu Âu). Hoá chất này sẽ không được sản xuất hay nhập khẩu nếu
chưa được đăng ký với cơ quan thẩm quyền.
Quy chế về thẩm tra hoá chất: Cơ quan chức năng của EU sẽ thẩm tra
thông tin đăng ký của tất cả các hoá chất. Nếu cần, cơ quan thẩm tra sẽ yêu
cầu doanh nghiệp đăng ký (là doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu hoặc cơ sở
sử dụng hoá chất để sản xuất) tiến hành thí nghiệm bổ sung đối với hoá
chất, chủ yếu tập trung vào hậu quả của việc phơi nhiễm lâu dài.
Quy chế về cấp phép: Tất cả các hoá chất thuộc nhóm gây ung thư, nhóm
dễ biến đổi, nhóm độc hại đối với sinh sản, nhóm gây ô nhiễm hữu cơ bền
vững và các chất gây rối loạn hệ thống nội tiết đều phải được cơ quan có
thẩm quyền của EU cầp phép trước khi xuất/nhập khẩu.
Quy chế về hạn chế: Tất cả các sản phẩm hoá chất bị hạn chế chỉ được sản
xuất, đưa vào lưu thông trên thị trường hoặc sử dụng nếu tuân thủ các quy
định về hạn chế.
Mục đích của chính sách hoá chất mới của EU là nhằm bảo vệ sức khoẻ con
người, động vật và môi trường, kiểm soát phần lớn hoá chất lưu thông trên thị
trường. Song trên thực tế, khi đưa vào thực hiện, chính sách này sẽ bao trùm rất
nhiều lĩnh vực từ công nghiệp thực phẩm, đồ dùng gia đình cho đến dệt may, giày
dép, sản phẩm nhựa… Và trên thực tế thì đây là một hình thức rào cản kỹ thuật
mới của EU bởi với nhiều cách hiểu, cách thực hiện khác nhau thì quy định này
sẽ phương hại đến hàng nhập khẩu và phân biệt đối với hàng hoá nhập khẩu vào
EU.
* Luật trách nhiệm sản phẩm
EU cũng đưa ra Luật trách nhiệm sản phẩm áp dụng đối với tất cả các sai sót của
những sản phẩm tiêu dùng có thể di chuyển và với các mặt hàng nông sản. Người
sản xuất phải chịu trách nhiệm đối với sai sót của sản phẩm trong trường hợp gây
ra thiệt hại cho người sử dụng sản phẩm. Người bị thiệt hại có 3 năm để yêu cầu
bồi thường kể từ ngày nguyên đơn nhận ra thiệt hại và sai sót của người sản xuất.
Nhà sản xuất cũng như nhà nhập khẩu và người bán lẻ có tránh nhiệm đối với
những thiệt hại và bồi thường.
Tóm lại, EU là một thị trường nhập khẩu rộng lớn và rất tiềm năng nhưng lại là
một thị trường khó tính với những quy định và đòi hỏi khắt khe về chất lượng, vệ
sinh và an toàn sản phẩm cũng như về yêu cầu bảo vệ môi trường. Đó chính là
những rào cản khó có thể vượt qua mà các doanh nghiệp các nước phải đối mặt
khi muốn tiếp cận thị trường này.
II. MỸ
1. Khái quát chung về thị trường Mỹ
Giành độc lập vào năm 1776 và thông qua Hiến pháp năm 1789, Mỹ đã trở thành
một nước dân chủ. Trong thế kỷ 19, nhiều bang mới đã được sáp nhập vào cùng
với 13 bang ban đầu làm cho nước Mỹ được mở rộng trên lục địa Bắc Mỹ và một
số vùng lãnh thổ xa bờ khác. Nền kinh tế Mỹ được đặc trưng bằng sự tăng trưởng
vững chắc, tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát thấp, sự phát triển nhanh chóng về khoa
học và công nghệ.
Hiện nay, Mỹ đang là một nền kinh tế hùng mạnh nhất trên thế giới. Năm 2002,
với GDP đạt 10.400 tỷ USD, Mỹ là nước có GDP lớn nhất thế giới. Giá trị GDP trên đầu người của Mỹ năm 2002 là 37.600 USD (5), đứng thứ bảy trên thế giới.
Mỹ có một nền kinh tế thị trường năng động với mức độ cạnh tranh gay gắt. Mỹ
luôn là người đi đầu trong việc phát triển và áp dụng các thành tựu công nghệ tiên
tiến, hiện đại đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin, y học, công nghệ vũ
trụ... Và hiện nay, Mỹ cũng là nước có nền khoa học công nghệ phát triển nhất
thế giới.
Mỹ đứng đầu thế giới về công nghiệp. Ngành công nghiệp của Mỹ có đặc điểm là
đa dạng và phát triển về công nghệ. Các ngành công nghiệp chính của Mỹ gồm có
dầu khí, thép , công nghiệp ô tô, hàng không, bưu chính viễn thông, hoá chất,
điện tử, chế biến thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến gỗ... Ngành nông
nghiệp của Mỹ cũng rất phát triển nhờ áp dụng những tiến bộ khoa học vào trong
sản xuất. Các sản phẩm nông nghiệp chính gồm lúa mỳ, các loại hạt, ngũ cốc,
quả, rau, bông sợi, thịt bò, thịt lợn, gia cầm, các loại sữa, lâm sản và thuỷ sản.
(5)www.cia.gov/cia/publications/factbook/goes/us
Ở Mỹ, các công ty lớn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của
nền kinh tế. Mỹ có những tập đoàn kinh tế hết sức lớn mạnh đứng đầu thế giới
trong các lĩnh vực kinh tế khác nhau. Các khoản chi tiêu khổng lồ của Chính phủ
cũng góp phần rất lớn trong việc điều tiết và thúc đẩy nền kinh tế Mỹ phát triển.
Trong thương mại quốc tế, Mỹ có ảnh hưởng rất lớn. Mỹ đối tác thương mại lớn
nhất của các nước trên thế giới. Năm 2002, Mỹ đã xuất hàng ra thị trường nước ngoài với trị giá 687 tỷ USD và nhập về các hàng hoá trị giá 1.165 tỷ USD (5) (tính
theo giá fob). Với số dân hơn 278 triệu người và mức thu nhập bình quân đầu
người cao, nhu cầu tiêu dùng của cả nền kinh tế lớn, Mỹ đang là thị trường nhập
khẩu lớn nhất hiện nay. Hơn nữa, so với các thị trường khác như EU hay Nhật
Bản thì Mỹ được coi là thị trường tương đối dễ tính nên là thị trường mục tiêu
cho rất nhiều nước. Nói như thế không có nghĩa là các nhà xuất khẩu có thể dễ
dàng tiếp cận thị trường Mỹ mà thực tế khi tiếp cận thị trường này các nhà xuất
khẩu gặp phải rất nhiều khó khăn. Trước hết là bởi hệ thống luật pháp của Mỹ hết
sức phức tạp ngoài luật pháp chung của Liên bang, mỗi bang đều có các luật riêng
khác nhau, do đó, rất khó để các doanh nghiệp có thể hiểu hết được nên thường
gặp phải rắc rối khi thâm nhập thị trường này. Sau đó là vì Mỹ hay lợi dụng vị thế
của mình và dựa vào các quy định của WTO sử dụng những biện pháp bảo hộ thị
trường như thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp... và đặc biệt là đặt ra các
rào cản kỹ thuật đối với hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ. Trong đó, biện pháp sử
dụng rào cản kỹ thuật ngày càng được sử dụng phổ biến và thật sự là một chướng
ngạivật cho những ai muốn thâm nhập thị trường này.
2. Một số quy định kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu vào thị trường Mỹ
Tuy không phải là một thị trường khó tính như EU hay Nhật Bản nhưng Mỹ cũng
là một thị trường có những đòi hỏi nghiêm ngặt đối với hàng hoá nhập khẩu. Mỹ
rất quan tâm đến xuất xứ của hàng hoá vì lý do an ninh và ưu đãi thuế quan. Vấn
đề nhãn mác và thương hiệu hàng hoá cũng được rất chú trọng tại thị trường này.
(5)www.cia.gov/cia/publications/factbook/goes/us
Nhãn mác phải chứa đựng đầy đủ các thông tin liên quan đến hàng hoá. Và các
doanh nghiệp cần đăng ký thương hiệu tại thị trường Mỹ để bảo vệ quyền lợi cho
mình. Mỹ cũng có yêu cầu cao đối với vấn đề chất lượng và vệ sinh thực phẩm.
* Quy định về nguồn gốc xuất xứ hàng hoá
Hàng hoá khi xuất sang Mỹ phải ghi rõ nhãn của nước xuất xứ trên sản phẩm.
Luật Hải quan của Mỹ, điều 134 quy định trừ một số mặt hàng theo danh sách
riêng được miễn ghi tên nước xuất xứ còn lại tất cả các hàng hoá nhập khẩu vào
Mỹ đều phải ghi tên của nước xuất xứ tại một vị trí dễ thấy và bằng cách không
phai mờ, thường xuyên theo đúng bản chất của hàng hoá. Tên của nước xuất xứ
phải được ghi bằng tiếng Anh. Các nước thuộc NAFTA thì có thể ghi tên nước
xuất xứ bằng tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Tây Ban Nha. Ngoài ra, trong các
Luật khác cũng có những quy định cho các loại hàng hoá cụ thể:
Luật thuế quan năm 1984 bắt buộc ghi xuất xứ đối với những loại ống khớp nối,
xi lanh ga, nắp cống và khung nhập khẩu.
Luật thương mại và cạnh tranh năm 1988 yêu cầu ghi rõ xuất xứ nơi thu hoạch
đối với nấm đóng hộp.
Luật nhãn mác ô tô Mỹ có những quy định chi tiết về xuất xứ phụ tùng, việc lắp
ráp ô tô và ô tô nguyên chiếc.
Luật nông trại 2002 quy định các mặt hàng thực phẩm tươi và đông lạnh như: thịt
bò (kể cả bê), thịt cừu, thịt lợn pha, xay, cá thuỷ sản dòng giáp xác nuôi hoặc
được đánh bắt từ tự nhiên, rau quả và lạc… trên thị trường Mỹ cần phải ghi rõ
nguồn gốc xuất xứ.
Nếu hàng hoá không tuân thủ các quy định về nước xuất xứ sẽ bị phạt 10% trị giá
(không kể các loại thuế và phí khác), đồng thời nhà nhập khẩu vẫn phải tuân thủ
những quy định có liên quan khác như hàng sẽ bị giữ lại tại hải quan cho đến khi
nhà nhập khẩu thu xếp tái xuất, tiêu huỷ hay làm lại cho đúng dưới sự giám sát
của hải quan. Phần 1907 (a) của Luật thương mại và cạnh tranh tăng mức phạt tối
đa có thể lên tới 100.000 USD cho lần đầu cố tình vi phạm thay đổi hoặc xoá
nhãn ghi xuất xứ và 250.000 USD cho lần tái phạm sau.
* Quy định về nhãn mác và thương hiệu
Về nhãn mác của hàng hoá, hầu hết các mặt hàng sản xuất hay nhập khẩu vào Mỹ
đều phải tuân thủ các quy định về nhãn mác của các cơ quan chuyên ngành trừ
những loại hàng hoá được hải quan miễn trừ theo quy chế hải quan cho phép. Ví
dụ, theo Luật 19 USC 1526(d); 19 CFR 148.55 thì các hàng hoá mang theo người
nhập cảnh vào Mỹ, nếu là đồ dùng cá nhân, không phải để bán thì được quyền
miễn trừ về nhãn mác. Các hàng hoá phải dính mác một cách rõ ràng tại những
nơi quy định để có thể nhận biết rõ rệt về nước sản xuất ra những hàng hoá đó
cũng như hàm lượng các chất làm ra các sản phẩm đó. Ngoài những thông tin
chung như tên hàng, tên, địa chỉ người sản xuất, đóng gói, kinh doanh hoặc phân
phối sản phẩm, tên nước xuất xứ của hàng hoá…, từng mặt hàng cụ thể có những
quy định chi tiết riêng. Nhãn hàng tiêu dùng thì nhất định phải có mã số, mã vạch.
Nhãn hàng thực phẩm thì phải ghi rõ thành phần hoá học chủ yếu, hướng dẫn sử
dụng, hạn sử dụng, hướng dẫn bảo quản. Đối với đồ điện, nhãn hàng phải có chỉ
dẫn về an toàn; nếu là quần áo thì phải có chỉ dẫn về giặt, là, phơi.
Các doanh nghiệp khi xuất hàng sang Mỹ cần chú ý đăng ký thương hiệu với Văn
phòng sáng chế và thương hiệu Mỹ (USPTO) để nhận được những quyền ưu tiên
cho người sở hữu thương hiệu. Luật pháp Mỹ quy định hàng hoá mang thương
hiệu giả hay sao chép thương hiệu đã được đăng ký và lưu bản quyền tại cục Hải
quan đều bị cấm nhập khẩu vào Mỹ, bị thu giữ, tịch thu sung công hoặc tiêu huỷ.
* Quy chế kiểm dịch động thực vật
Khi xuất hàng thực phẩm, dược phẩm sang Mỹ, các doanh nghiệp cần chú ý theo
dõi diễn biến tình hình các quy định về chất lượng và vệ sinh an toàn đồng thời
chủ động chuẩn bị thực hiện các quy chế mới của Cơ quan quản lý thực phẩm và
dược phẩm Hoa Kỳ.
Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm - FDA (Food and Drug
Administration) là cơ quan của Bộ Y tế Mỹ, tập hợp nhiều nhà khoa học kỹ thuật
của Mỹ để đề ra và giám sát thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn tiêu dùng
đối với hàng thực phẩm, dược phẩm và dụng cụ y tế và mỹ phẩm sản xuất tại Mỹ
cũng như nhập khẩu từ nước ngoài vào lãnh thổ Mỹ. Hàng năm, các thành viên,
điều tra viên của FDA tiến hành 15.000 cuộc viếng thăm tới các cơ sở sản xuất
trong và ngoài nước để xem xét các sản phẩm có được làm theo tiêu chuẩn vệ
sinh không, nhãn mác hàng hoá có phù hợp không, nhằm đảm bảo thực phẩm
phải thật an toàn khi ăn, mỹ phẩm không được gây hại, dược phẩm và dụng cụ y
tế đảm bảo an toàn và có hiệu quả. Thực phẩm, mỹ phẩm, thiết bị, dụng cụ y tế
phải tuân theo các quy định của Luật về thực phẩm, Dược phẩm và Mỹ phẩm
(Federal Food, Drug and Cosmetic Act – FDCA) do FDA giám sát thi hành. Các
dược phẩm chưa được FDA duyệt thì không được phép nhập. Trên lý thuyết thì
tất cả các loại thực phẩm nội địa và ngoại nhập ở Mỹ đều phải đáp ứng đúng các
tiêu chuẩn của FDA. Tuy nhiên, trên thực tế, thực phẩm nội địa và ngoại nhập sẽ
trải qua hai thủ tục phê chuẩn khác nhau. Thực phẩm ngoại nhập phải trải qua thủ
tục rất gắt gao của FDA. Các sản phẩm nhập khẩu thuộc quyền quản lý của FDA
sẽ phải qua giám định tại thời điểm hàng tới cửa khẩu. FDA sẽ kiểm tra hàng tại
cửa khẩu để phát hiện dư lượng thuốc trừ sâu trong thực phẩm, phát hiện hàm
lượng thuỷ ngân trong hải sản và sản phẩm hư hỏng, phát hiện các khuẩn Ecoli,
Samonella, Listeria, Mono-cytogene, pháy hiện mức độ nhiễm bẩn, phát hiện hàm
lượng chì, cadimi thẩm lậu vào thực phẩm. Các chuyến hàng bị phát hiện không
phù hợp với luật và các quy định sẽ bị từ chối nhập cảnh và bị buộc phải làm lại
cho phù hợp, huỷ hoặc tái xuất khẩu. Với sự cho phép của FDA, người nhập
khẩu có thể sửa lại lô hàng chưa phù hợp thành phù hợp nếu xét thấy có thể làm
được. Bất kỳ sự tuyển lựa lại, tái chế hoặc dán nhãn lại nào phải có sự giám sát
của FDA với chi phí do người nhập khẩu chịu.
* Quy trình kiểm soát chất lượng theo HACCP
Một rào cản đối với hàng thực phẩm nhập khẩu vào Mỹ là quy trình kiểm tra chất
lượng thực phẩm theo HACCP. Theo Bộ Luật thực phẩm của Mỹ, chương 123,
doanh nghiệp muốn xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ phải được FDA chấp thuận
chương trình HACCP theo quy định của Mỹ. HACCP được ban hành vào tháng
12 năm 1995 hiện đã được đưa vào Bộ luật thực phẩm do FDA giám sát thi hành
và sẽ được mở rộng ra áp dụng cho nhiều mặt hàng thực phẩm khác, trước mắt là
chế biến nước quả. Bộ Nông nghiệp Mỹ cũng đã thiết lập hệ thống HACCP cho
các nhà máy chế biến thịt và gia cầm và đã áp dụng từ tháng 11 năm 1999.
* Cơ chế tự động giam hàng thực phẩm
Hàng thực phẩm nhập khẩu vào Mỹ còn có nguy cơ bị Hải quan thu giữ theo cơ
chế giam hàng tự động. Kể từ năm 1974, FDA áp dụng chính sách giam hàng một
cách tự động các thực phẩm nhập ngoại mà không cần trải qua thủ tục khám xét
hay kiểm định. Thay vì khám xét và kiểm định, mỗi khi hàng nhập quan, FDA sẽ
dựa vào thông tin trong sổ đen để tự động giam hàng của một công ty hay hàng
xuất phát từ một vùng hay một quốc gia nào đó đã bị lên sổ. Giam hàng tự động
(Automatic Detention) được định nghĩa là “một quyết định hành chính nhằm ngăn
chặn sự xâm nhập của các loại hàng mà trong quá khứ đã có nhiều vi phạm, hoặc
đã có bằng chứng cho thấy sẽ có vi phạm các điều khoản của đạo luật Thực phẩm
và Dược phẩm và Mỹ phẩm của Liên bang mà không cần phải qua thủ tục thẩm
định”. Quyết định giam hàng tự động của FDA dựa vào các thông tin là sản phẩm
hay nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, một dịa phương hay một quốc gia có nhiều quá
trình vi phạm trong quá khứ. Hơn nữa nếu thống kê cho thấy hàng xuất phát từ
một khu vực có nhiều vấn nạn về môi sinh như hàng đến từ một nước bị ô nhiễm,
dịch bệnh hoặc có thông tin cho thấy cách thức sản xuất của sản phẩm quá lạc hậu
không đạt các tiêu chuẩn vệ sinh thì quyết định giam hàng tự động có thể được áp
dụng. Hàng bị giam tự động có thể được giải phóng nếu:
Cá thể nào có quan hệ với hàng giam có thể yêu cầu FDA giải phóng cho
hàng bị giam hay công ty có hàng bị giam ra khỏi danh sách bị giam hàng
tự động nếu cung cấp đủ dữ kiện cho thấy sản phẩm đã được điều chỉnh để
không còn vi phạm và các dữ kiện hiện tại cho thấy sự giam hàng tự động
của FDA không còn phù hợp nữa.
Nếu sau 6 tháng mà nhà gửi hàng không còn nhập bất cứ một lần hàng nào
bị vi phạm và có thể cung ứng các dữ liệu cho thấy họ sẽ không nhập các
sản phẩm có vi phạm thì tên của nhà gửi hàng này sẽ được gỡ ra khỏi danh
sách có sản phẩm bị giam.
Để gỡ một sản phẩm ra khỏi danh sách bị giam tự động, nhà sản xuất phải
cung ứng các dữ liệu cho thấy trong 5 lần nhập gần đây nhất không có lần
nào vi phạm.
Nếu một nhà gửi hàng, một công ty sản xuất hay một sản phẩm đã bị lên
danh sách giam hàng tự động mà còn tái phạm thì muốn gỡ hàng có thể sẽ
bị đòi hỏi phải có hơn 5 lần nhập hàng liên tục không vi phạm.
Một sản phẩm nào đó đến từ một quốc gia hay một vùng nào đó muốn gỡ
hàng phải chứng tỏ cho thấy có hơn 12 lần nhập hàng không bị vi phạm. 12
lần nhập hàng này phải có tính đại diện cho các nhà sản xuất, hay xuất
khẩu trong vùng hàng bị lên danh sách.
Quy định này rõ ràng là một rào cản rất lớn cho các doanh nghiệp khi xuất hàng
sang thị trường Mỹ. Với biện pháp này thì cơ quan FDA đã chuyển trách nhiệm
chứng minh tiêu chuẩn của sản phẩm sang các các nhà sản xuất ngoại quốc.
* Quy định về hạn chế nhập khẩu vì lý do an ninh
Mỹ còn có các quy định liên quan đến việc hạn chế nhập khẩu vì lý do an ninh.
Phần 232, Luật Khuếch trương thương mại 1962 và các phần sửa đổi bổ sung cho
phép Tổng thống áp đặt hạn chế nhập khẩu loại hàng ảnh hưởng hoặc đe doạ làm
ảnh hưởng tới an ninh quốc gia. Luật này cũng yêu cầu Bộ Thương mại Mỹ tự
mình hoặc theo yêu cầu của công ty, tổ chức điều tra việc nhập khẩu một mặt
hàng có ảnh hưởng hoặc có nguy cơ ảnh hưởng tới an ninh quốc gia không. Vì do
an ninh, Mỹ đã thông qua Dự luật “Sẵn sàng chống khủng bố sinh học”, dự luật
này sẽ có hiệu lực từ ngày 12/12/2003. Theo đó, hàng nông sản, thực phẩm xuất
sang thị trường Mỹ sẽ bị kiểm tra nghiêm ngặt hơn. Theo Dự luật này, các cơ sở
thực phẩm tại Mỹ phải đăng ký, kê khai tất cả các loại sản phẩm. Các cơ sở ở
ngoài nước Mỹ phải uỷ quyền cho người đại diện ở Mỹ đăng ký thay với cơ quan
FDA trước ngày 12/12/2003. Các cơ sở này đều phải xây dựng và bảo quản hồ sơ
chi tiết về hàng hoá. Hồ sơ phải xác định thông tin của nguồn cung cấp cũng như
các cơ sở tiếp nhận trực tiếp nhằm giúp cơ quan FDA có thể ngay lập tức truy
được nguồn gốc mặt hàng cũng như mục đích đến của nó. Điều 307 của Dự luật
yêu cầu thông báo tin tức trước khi xuất khẩu thực phẩm và phải cung cấp thông
tin về hàng hoá, kê khai trên hoá đơn nhập khẩu trong vòng 5 ngày và không
chậm hơn 8 tiếng trước khi hàng đến. Nếu không, hàng có thể bị giữ tại cảng. Mọi
thay đổi về thông tin hàng hoá phải được báo trước. Bộ trưởng FDA sẽ xác định
nếu có bằng chứng cụ thể là những thực phẩm có thể dẫn đến đe doạ nghiêm
trọng sức khoẻ của người hay súc vật. FDA có thể giữ sản phẩm tới 45 ngày nếu
có dấu hiệu vi phạm các quy định liên quan đến mỹ phẩm, thuốc và thực phẩm.
Các công ty có thể bị cấm xuất khẩu vĩnh viễn nếu họ phạm luật có chủ ý và vi
phạm nhiều lần. Dự luật này sẽ thực sự gây nhiều khó khăn và bất lợi cho các nhà
xuất khẩu thực phẩm sang Mỹ.
* Luật trách nhiệm sản phẩm
Mỹ cũng ban hành Luật về trách nhiệm sản phẩm rất nổi tiếng trên thế giới nhằm
bảo vệ người tiêu dùng đối với những thương vong của con người do sử dụng sản
phẩm mà các công ty phát minh, thiết kế, sản xuất hay đưa nó vào thị trường.
Luật pháp Mỹ được thể hiện trước hết qua các quyết định của Toà án, quy trách
nhiệm đối với người thiết kế, người sản xuất và người bán sản phẩm trong nhiều
tình huống khác nhau như: vô ý hoặc cố ý lơ là trong thiết kế/sản xuất một sản
phẩm, dẫn đến lỗi thiết kế/sản xuất của sản phẩm được sản xuất ra gây hại cho
người tiêu dùng; hoặc không kịp cảnh báo những lỗi của sản phẩm, lỗi do không
tuân thủ quy trình hoặc lỗi ngẫu nhiên trong việc sử dụng. Mỹ cũng thành lập Uỷ
ban về an toàn người sử dụng để can thiệp tới sự không thành công trong việc
cảnh báo cho người tiêu dùng những lỗi hay những mối nguy hiểm trong sử dụng
sản phẩm. Uỷ ban này đã đưa ra các quy định mà theo đó các nhà sản xuất phải
có những nỗ lực đặc biệt để cảnh báo cho khách hàng những rủi ro có thể xảy ra
khi sử dụng sản phẩm. Vì thế mà thực thi Luật trách nhiệm sản phẩm ở thị trường
Mỹ cũng làm các nhà sản xuất, xuất khẩu tốn nhiều chi phí và công sức.
Tóm lại, Mỹ là một thị trường tiềm năng đối với mọi quốc gia bạn hàng của Mỹ.
Tuy nhiên, thị trường này cũng có những rào cản nhất định mà các nhà xuất khẩu
phải vượt qua đặc biệt là các rào cản kỹ thuật. Thực tế, các tiêu chuẩn trong rào
cản kỹ thuật của Mỹ không cao nhưng lại phức tạp và thiếu rõ ràng nên gây nhiều
khó khăn cho các nhà xuất khẩu. Mỹ là một đối tác thương mại lớn nhất thế giới
hiện nay nên có thể dựa vào lợi thế đó đưa ra nhiều quy định, điều kiện buộc các
nước khác nước khác phải tuân theo nếu muốn xuất hàng sang Mỹ. Vì thế, các
nhà sản xuất, xuất khẩu cần hết sức chú ý tới những quy định đó để có thể xuất
khẩu sang Mỹ thuận lợi và tránh những tổn thất không đáng có.
III. NHẬT BẢN
1. Khái quát về thị trường Nhật Bản
Nhật Bản nằm ở phía Tây Bắc lòng chảo Thái Bình Dương được coi là khu vực
kinh tế phát triển năng động nhất thế giới hiện nay. Nhật Bản là một quốc gia có
nền kinh tế công nghiệp phát triển ở mức độ cao. Sau sự tàn phá của Đại chiến thế
giới lần hai, Nhật Bản đã vươn dậy, phục hồi và trở thành một cường quốc kinh
tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản trong những năm 60, 70 đã làm cả
thế giới thán phục. Nhật Bản đã tạo nên một hiện tượng kinh tế “thần kỳ”.
Hiện nay, Nhật Bản là nước có nền công nghệ phát triển đứng thứ hai thế giới sau
Mỹ đồng thời cũng là nước có tổng thu nhập quốc dân lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ. Năm 2002, GDP của Nhật đạt 3.550 tỷ USD (6).
(6)www.nationmaster.com/country/ja/economy
Nhật Bản có hai đặc trưng lớn. Một là các nhà sản xuất, cung ứng và phân phối
kết nối chặt chẽ với nhau thành những tập đoàn. Đặc trưng thứ hai là lực lượng
công nhân thành thị chiếm một vị trí quan trọng. Công nghiệp-khu vực quan trọng
nhất của nền kinh tế-phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên liệu thô và nhiên
liệu. Khu vực nông nghiệp nhỏ bé được hỗ trợ và bảo hộ chặt chẽ, sản lượng và
hiệu suất sản xuất nông nghiệp được xếp vào loại cao nhất thế giới. Sản xuất gạo
của Nhật đủ cung cấp cho tiêu dùng trong nước nhưng nước này hàng năm vẫn
phải nhập 40% lương thực thực phẩm cho tiêu dùng và khoảng 50% sản lượng các loại hạt và thức ăn cho gia súc, gia cầm (7). Nhật Bản cũng là một trong những
quốc gia có sản lượng đánh bắt cá cao trên thế giới, chiếm khoảng 15% tổng sản lượng toàn thế giới nhờ có một vùng biển rộng lớn bao bọc quanh đất nước (7).
Mặc dù bước sang thập kỷ 90, kinh tế Nhật Bản gặp nhiều khó khăn, tốc độ phát
triển kinh tế giảm mạnh nhưng Nhật Bản vẫn là một cường quốc kinh tế lớn thứ
hai trên thế giới và là nước phát triển nhất ở châu Á. Nhật Bản có một vai trò
quan trọng trong thương mại thế giới. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu của Nhật đạt 383,9 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu là 292,1 tỷ USD (6). Các mặt hàng xuất
khẩu chính của Nhật gồm có động cơ, sản phẩm bán dẫn, máy văn phòng, hoá
chất. Các thị trường xuất khẩu chủ yếu của Nhật là Mỹ, Đài Loan, Hàn Quốc,
Trung Quốc, Hồng Kông. Và Nhật Bản thường nhập khẩu các mặt hàng như
nhiên liệu, thực phẩm, hoá chất, hàng dệt may...phục vụ sản xuất và tiêu dùng từ
các thị trường chính như Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan...
Nhật Bản là nước đông dân thứ bảy trên thế giới với 126,1 triệu dân, GDP trên
đầu người của Nhật Bản tương đối cao, chi phí dành cho sinh hoạt rất lớn. Do đó,
Nhật Bản là một thị trường mục tiêu quan trọng của các nhà xuất khẩu. Tuy
nhiên, Nhật Bản cũng là một thị trường khó tính, có yêu cầu rất cao đối với hàng
hoá nhập khẩu. Người tiêu dùng Nhật Bản đã quen thuộc với những hàng hoá có
chất lượng cao và đảm bảo các điều kiện về vệ sinh, an toàn thực phẩm và các
tiêu chuẩn về môi trường. Giống như các nước khác, Nhật Bản cũng đưa ra nhiều
(6)www.nationmaster.com/country/ja/economy (7)www.exim-pro.com/kinhte/thitruong/nhatban
quy định, nhiều tiêu chuẩn đối với hàng hoá nhập khẩu với mục đích bảo vệ
người tiêu dùng, bảo vệ môi trường trong nước. Và những quy định, tiêu chuẩn
này đã dựng lên những rào cản kỹ thuật thực sự cho hàng hoá nhập khẩu vào thị
trường Nhật Bản.
2. Một số quy định kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là một nước tham gia nhiệt tình vào vòng đàm phán Uruguay nhằm cắt
giảm thuế quan, tiến tới tự do hoá thương mại cho nên so với các nước chủ chốt
khác của nền thương mại thế giới thì thuế nhập khẩu của Nhật Bản không lớn.
Hầu hết các mặt hàng được nhập khẩu tự do vào Nhật mà không cần xin giấy
phép nhập khẩu. Rào cản lớn nhất đối với các hàng hoá khi thâm nhập vào thị
trường Nhật Bản hiện nay là các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật do Nhật Bản đặt ra
cho hàng hoá nhập khẩu.
* Tiêu chuẩn chất lượng
Hầu hết các sản phẩm trong nước và các sản phẩm nhập khẩu của Nhật đều phải
chịu kiểm tra hàng hoá và không thể tiêu thụ tại thị trường này nếu không được
cấp những giấy chứng nhận sản phẩm đã tuân theo những tiêu chuẩn. Trong đó,
một số tiêu chuẩn là bắt buộc, một số là tự nguyện. Nhưng thực tế thì người tiêu
dùng Nhật Bản đã quen thuộc với những hàng hoá đạt tiêu chuẩn chất lượng cao
và được cấp dấu chất lượng. Do đó, việc được cấp dấu chứng nhận chất lượng đã
trở thành điều kiện tối cần thiết để sản phẩm có thể tồn tại được trên thị trường
Nhật Bản. Hiện nay, ở Nhật có hai dấu chất lượng được sử dụng phổ biến và
được người tiêu dùng hết sức tin tưởng. Đó là dấu chứng nhận tiêu chuẩn công
nghiệp (JIS) và dấu chứng nhận tiêu chuẩn nông nghiệp (JAS). Việc sử dụng các
dấu hiệu này trên nhãn hiệu không chỉ để cung cấp một sự đảm bảo về chất lượng
mà còn bảo vệ người tiêu dùng thông qua việc thông tin đầy đủ cho họ về chất
lượng sản phẩm.
Dấu chứng nhận “Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản” (JIS – Japanese Industrial
Standard) dựa trên “Luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp” được ban hành vào tháng 6
năm 1949. Dấu JIS được áp dụng cho rất nhiều loại sản phẩm khác nhau như vải,
quần áo, lò sưởi, các thiết bị điện, giày dép, bàn ghế, đồ dùng nấu nướng, dụng cụ
thể thao, nhạc cụ và các loại sản phẩm khác đòi hỏi phải được tiêu chuẩn hoá về
chất lượng và kích cỡ hay các quy cách sản phẩm khác. Các tiêu chuẩn JIS được
sửa đổi, bổ sung theo định kỳ để phù hợp với các tiến bộ công nghệ. JIS góp phần
rất lớn trong việc mở rộng tiêu chuẩn hoá trên phạm vi toàn bộ nền công nghiệp
Nhật Bản. Dấu chứng nhận JIS chỉ được phép áp dụngvới các sản phẩm thoả mãn
các yêu cầu về chất lượng của JIS. Do đó, dấu chất lượng tiêu chuẩn JIS đại diện
cho chất lượng và rất được coi trọng. Theo điều 26 của Luật tiêu chuẩn hoá công
nghiệp, tất cả các cơ quan của Chính phủ phải ưu tiên đối với các sản phẩm được
đóng dấu chất lượng JIS khi mua hàng hoá để phục vụ cho hoạt động của các cơ
quan này. Sau khi Nhật tham gia ký kết Hiệp định về rào cản kỹ thuật đối với
thương mại của GATT, Nhật đã sửa đổi Luật này cho phép các nhà sản xuất nước
ngoài cũng được cấp phép đóng dấu JIS. Tuy nhiên, Nhật là một nước có nền
công nghệ rất phát triển vì vậy các tiêu chuẩn đặt ra đối với hàng hoá thường rất
cao. Vì thế, để được cấp giấy phép đóng dấu chứng nhận tiêu chuẩn JIS không
phải là một điều dễ dàng, đặc biệt là đối với hàng hoá của các nước đang và kém
phát triển.
Dấu chứng nhận tiêu chuẩn nông nghiệp (JAS – Japanese Agricultural Standard)
được cấp dựa trên Luật về tiêu chuẩn hoá các nông lâm sản và hợp lý hoá các
nhãn hiệu chất lượng hay còn gọi là Luật tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản hay
Luật JAS. Danh sách các sản phẩm được điều chỉnh bởi Luật JAS bao gồm đồ
uống, thực phẩm chế biến, dầu ăn và mỡ, các nông lâm thuỷ sản chế biến. Đối với
hầu hết các sản phẩm, JAS quy định một cách rõ ràng các tiêu chuẩn cụ thể
nhưng với một số sản phẩm còn lại, các quy định của Luật chỉ đưa ra những
hướng dẫn cho việc nâng cao chất lượng.
Đối với hàng thực phẩm chế biến, các tiêu chuẩn về việc dán nhãn đòi hỏi trên
nhãn hiệu phải có các thông tin như tên sản phẩm, thành phần, trọng lượng, ngày
hết hạn sử dụng và tên của nhà sản xuất và phải ghi bằng tiếng Nhật. Dù JAS là
một hệ thống tiêu chuẩn tự nguyện nhưng nó được áp dụng ngày càng rộng rãi và
đã trở thành cơ sở cho người tiêu dùng trong việc lựa chọn các sản phẩm chế biến
vì vậy với những hàng hoá không được đóng dấu chất lượng JAS thì khó có thể
thâm nhập vào thị trường Nhật Bản được.
Tuy việc sử dụng dấu chất lượng JAS trên nhãn sản phẩm là hoàn toàn tự nguyện
nhưng Luật JAS sửa đổi năm 1970 lại quy định các sản phẩm đều phải dán hiệu
trên đó chứa đựng các thông tin về thành phần và chất lượng sản phẩm. Trong
trường hợp các hàng hoá không tuân theo các quy định về việc ghi nhãn thì hàng
hoá đó sẽ không được nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản còn đối với hàng hoá
trong nước thì hàng hoá đó sẽ bị tẩy chay. Cũng như dấu chất lượng JIS, hàng hoá
nhập khẩu cũng có thể được cấp dấu chứng nhận chất lượng JAS nếu đáp ứng
được các tiêu chuẩn đặt ra.
Ngoài ra, trên thị trường Nhật Bản còn có nhiều các dấu chất lượng và độ an toàn
sản phẩm khác như dấu Q là chất lượng và độ đồng nhất của sản phẩm, dấu G về
thiết kế, dịch vụ sau bán hàng và chất lượng, dấu S về độ an toàn (bắt buộc), dấu
Len dùng cho sợi len nguyên chất, dồ len có trên 99% len mới, dấu SIF cho các
mặt hàng may mặc có chất lượng tốt...
Và ngày nay, khi vấn đề môi trường ngày càng được quan tâm thì Nhật Bản cũng
khuyến khích người tiêu dùng sử dụng các sản phẩm không làm hại sinh thái. Và
những sản phẩm này được đóng dấu “Ecomark”. Đó là những sản phẩm mà việc
sử dụng sản phẩm không hoặc ít gây ô nhiễm môi trường hoặc đem lại lợi ích cho
môi trường.
* Tiêu chuẩn vệ sinh và an toàn thực phẩm
Để bảo vệ sức khỏe, vệ sinh và an toàn chung của người dân, Nhật Bản đã ban
hành Luật Vệ sinh thực phẩm, Luật chống các bệnh truyền nhiễm trong súc vật
nuôi, Luật kiểm dịch thực vật và các luật và quy định khác liên quan đến nhập
khẩu.
Vì tỷ lệ tự đáp ứng lương thực thực phẩm của Nhật là thấp, thực tế Nhật Bản phải
nhập khẩu 40% lương thực thực phẩm tiêu dùng nên Chính phủ cũng như người
tiêu dùng Nhật đặc biệt quan tâm đến việc đảm bảo chất lượng của thực phẩm.
Luật vệ sinh thực phẩm ra đời và có hiệu lực từ năm 1947. Luật vệ sinh thực
phẩm quy định cho tất cả các thực phẩm và đồ uống tiêu dùng ở Nhật bao gồm cả
hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu. Điều 1 của Luật nêu rõ : “Luật vệ
sinh thực phẩm nhằm phòng chống tất cả các nguy hại cho sức khoẻ gây ra bởi
việc dùng thực phẩm và đồ uống nhằm nâng cao sức khoẻ nhân dân”. Bên cạnh
thực phẩm, Luật còn quy định cả về gia vị, các máy móc chế biến và bảo quản
thực phẩm, các dụng cụ đựng và bao bì cho thực phẩm cũng như cho các gia vị,
đồ chơi cho trẻ em và các chất tẩy rửa dùng cho việc làm sạch thực phẩm và đồ
ăn. Luật cấm các loại thực phẩm sau:
Các thực phẩm ôi thiu, mất màu, mất mùi, phân giải hay quá thời hạn sử
dụng.
Thực phẩm có chứa chất độc hại, thực phẩm tiếp xúc với các chất độc hại,
thực phẩm bị nghị ngờ tiếp xúc với các chất độc hại.
Thực phẩm bị nhiễm độc hoặc nghi ngờ có chứa các chất vi khuẩn gây
bệnh
Các thực phẩm có hại cho sực khoẻ do chứa tạp chất và các chất bẩn.
Vì thế, việc nhập khẩu thịt, xúc xích, thịt muối nếu không có chứng nhận vệ sinh
của cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu cấp, chứng minh vấn đề đảm bảo
vệ sinh của sản phẩm xuất khẩu thì sản phẩm đó sẽ bị cấm.
Bộ y tế và phúc lợi có quyền cấm các loại thực phẩm mới, thậm chí là các loại
thực phẩm đã bày bán từ lâu bị cho là gây nguy hiểm cho sức khoẻ. Và các hoá
chất tổng hợp được sử dụng như thực phẩm gia vị sẽ bị cấm nếu không được phép
của Bộ này. Bộ y tế và phúc lợi cũng đã xây dựng các yêu cầu và tiêu chuẩn cho
việc chế biến, xử lý, sử dụng, nấu nướng, bảo quản chất lượng của thực phẩm và
gia vị. Nếu việc nhập khẩu các loại thực phẩm không đáp ứng các tiêu chuẩn này
sẽ bị cấm. Bộ y tế và phúc lợi đã xây dựng các yêu cầu và tiêu chuẩn cho việc dán
nhãn hàng hoá, gia vị, máy móc và đóng gói. Các ký hiệu và chữ viết trên nhãn
hàng phải bằng tiếng Nhật Bản và phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
Bất kỳ ai muốn nhập khẩu thực phẩm, gia vị thực phẩm, bao bì đựng các loại này
đều phải thông báo về từng chuyến hàng cho Bộ y tế và phúc lợi biết. Sau đó,
hàng sẽ được kiểm tra xem có đủ tiêu chuẩn không. Nếu hàng không đủ tiêu
chuẩn sẽ bị gửi trả lại hàng, hoặc sử dụng với mục đích khác hoặc bị vứt bỏ.
Nhật vẫn duy trì chế độ kiểm tra hải quan đối với hàng nhập khẩu. Đối với hàng
thuỷ sản khi nhập khẩu sẽ phải làm thủ tục kiểm tra vệ sinh và kiểm dịch thực
phẩm. Người nhập khẩu phải điền vào tờ khai nhập khẩu thực phẩm. Nếu thuỷ
sản nhập khẩu được xác định là cần kiểm tra theo Luật kiểm dịch tại bộ phận
kiểm tra thực phẩm nhập khẩu của các trạm kiểm dịch thì sẽ được lấy mẫu để
kiểm tra và trong vòng hai ngày kể từ ngày lấy mẫu, trạm kiểm dịch sẽ đưa ra ý
kiến. Nếu thuỷ sản có vi sinh vật gây bệnh dịch tả thì sẽ bị huỷ. Nếu không có thì
thông báo cho người nhập khẩu để làm thủ tục tiếp. Khi kiểm tra vệ sinh thực
phẩm, bộ phận kiểm tra sẽ xử lý “tờ khai thực phẩm nhập khẩu” và kiểm tra
chứng từ xem có vi phạm về vệ sinh thực phẩm không (dựa vào tờ khai và các
giấy tờ có liên quan khác, tình hình nhập khẩu trong thời gian qua kể cả các vụ vi
phạm, kết quả kiểm tra của phòng thí nghiệm…). Nếu thấy cần, bộ phận này sẽ
quyết định phương pháp kiểm tra, nếu không cần thì bộ phận này sẽ đóng dấu đã
khai báo và giao cho người nhập khẩu. Quá trình kiểm tra này cũng tốn nhiều thời
gian của các doanh nghiệp, gây chậm trễ cho quá trình nhập khẩu.
Kể từ 1/1/2001, Nhật Bản đã chính thức áp dụng việc quản lý nhập khẩu các mặt
hàng thịt từ nước ngoài theo tăng cường kiểm soát chặt chẽ vệ sinh, an toàn thực
phẩm từ khâu giết mổ, chế biến thịt và các sản phẩm từ thịt. Nhật Bản sẽ chỉ cho
phép nhập khẩu thịt từ một nước nếu nước xuất khẩu này cung cấp đầy đủ các
văn bản pháp quy quy định điều kiện vệ sinh đối với sản phẩm thịt xuất khẩu của
nước mình và được Nhật xem là tương đương các điều kiện vệ sinh của Nhật Bản.
Các quy định liên quan đến vệ sinh thực phẩm rất nhiều và phức tạp do đó gây
nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp khi muốn xuất hàng thực phẩm sang Nhật.
* Luật trách nhiệm sản phẩm
Để bảo vệ người tiêu dùng, Luật trách nhiệm sản phẩm được ban hành vào tháng
7 năm 1995. Luật trách nhiệm sản phẩm được áp dụng cho cả hàng hoá trong
nước và hàng nhập khẩu từ nước ngoài. Theo điều 1 của Luật này thì nếu như một
sản phẩm có khuyết tật gây ra thương tích cho người hay thiệt hại về của cải thì
nạn nhân có thể đòi người sản xuất bồi thường cho các thiệt hại nếu chứng minh
được rằng đã có thiệt hại xảy ra, sản phẩm có khuyết tật và có mối quan hệ nhân
quả giữa thiệt hại và khuyết tật của sản phẩm.
Khái niệm “người tiêu dùng” được đề cập ở trong luật không chỉ bao gồm những
người mua, người tiêu dùng hay sử dụng sản phẩm nhằm phục vụ các mục đích
của bản thân họ mà còn bao gồm cả khách hàng bị tai nạn do máy móc gây ra.
Khái niệm người tiêu dùng còn được dùng để chỉ cả các tự nhiên nhân và pháp
nhân. Bên chịu trách nhiệm với sản phẩm có thể là nhà sản xuất, nhà nhập khẩu,
người dán nhãn cho sản phẩm khi người này là nhà nhập khẩu hoặc người đại
diện của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu.
Khái niệm “khuyết tật” được hiểu là sự thiếu sót về tính an toàn của sản phẩm nên
dẫn đến thiệt hại về người và tài sản. Nếu có khuyết tật thì nhà sản xuất phải chịu
trách nhiệm cả trong trường hợp không có sơ suất. Ngược lại, nếu không có
khuyết tật thì sẽ không phải chịu trách nhiệm gì.
Vì thế, các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu kỹ các quy định, tiêu chuẩn đặt ra với
hàng nhập khẩu và phải đảm bảo tính vệ sinh, an toàn cho hàng hoá theo đúng các
yêu cầu của Nhật thì mới có thể xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Nhật Bản
được.
IV. RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI CỦA MỘT SỐ NƯỚC CÔNG NGHIỆP
PHÁT TRIỂN KHÁC
1. Canada
Là một quốc gia rộng lớn và rất giàu tài nguyên ở Bắc Mỹ, Canada đã trở thành
một nước có nền kinh tế và khoa học công nghệ phát triển ở trình độ cao. Canada
là một thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO đồng thời tham gia vào
khối mậu dịch tự do NAFTA nên Canada cũng có nghĩa vụ phải cắt giảm hàng
rào thuế quan và dỡ bỏ dần các hàng rào phi thuế tạo điều kiện cho thương mại tự
do. Nhưng cũng như các nước có nền kinh tế phát triển khác, hiện nay, Canada
đang dựng lên các rào cản kỹ thuật nhằm bảo hộ thị trường nội địa thay cho hàng
rào thuế quan và các hàng rào phi thuế khác.
Hàng hoá nhập khẩu vào Canada phải đảm bảo các tiêu chuẩn nghiêm ngặt đã
được đề ra trong các đạo luật, các quy định của Chính phủ, nổi bật là các quy định
về ghi nhãn và bao bì hàng hoá và các yêu cầu về vệ sinh thực phẩm.
* Yêu cầu về ghi nhãn hàng hoá và bao bì đối với hàng nhập khẩu
Theo Bộ luật về bao gói hàng tiêu dùng thì tất cả các loại thực phẩm và hàng tiêu
dùng nhập khẩu vào thị trường Canada đều phải đảm bảo các yêu cầu khắt khe về
bao gói hàng hoá. Nhãn hàng hoá phải được ghi chi tiết bằng cả tiếng Anh và
tiếng Pháp đối với tất cả các mặt hàng tiêu dùng. Nhãn hàng phải ghi đầy đủ các
thông tin nhận dạng, thông tin về nhà sản xuất, thông tin về sản phẩm và tiêu
chuẩn chất lượng.
Một số mặt hàng tiêu dùng cá nhân, đồ gia dụng, phần cứng, đồ trang sức và dụng
cụ thể thao, sản phẩm từ giấy, quần áo cũng cần phải dán mác, tem và gắn nhãn
hiệu xuất xứ. Ngoài ra, tất cả các mặt hàng dệt may đều phải đóng dấu về chủng
loại sợi. Thuốc lá nhập khẩu và các sản phẩm tương tự cũng cần phải được đóng
gói theo những quy định đặc biệt và phải có dán tem.
Đối với thực phẩm, trong Đạo luật về thực phẩm và dược phẩm cũng quy định
đối với các thực phẩm bán ra thị trường cần phải có nhãn mác và nhãn ghi thành
phần. Trong các mặt hàng, thì dược phẩm là mặt hàng có những yêu cầu nghiêm
ngặt nhất về ghi nhãn hàng hoá.
Và theo luật pháp Canada, bao bì phải được sản xuất, ghi nhãn và hiển thị để sao
cho người tiêu dùng không thể nhầm lẫn về chất lượng cũng như số lượng sản
phẩm trong bao bì.
Như vậy, khi xuất hàng sang Canada, các doanh nghiệp phải chú ý đóng gói hàng
hoá sao cho vừa phù hợp với các quy định nghiêm ngặt của Canada, vừa đảm bảo
tính hấp dẫn đối với bao bì sản phẩm để thu hút được người tiêu dùng.
* Yêu cầu về vệ sinh thực phẩm đối với hàng nhập khẩu
Canada có Cơ quan kiểm dịch thực phẩm liên bang phụ trách về vấn đề vệ sinh,
an toàn thực phẩm. Canada quy định việc nhập khẩu động vật, cây và các sản
phẩm từ động, thực vật (bao gồm các loại rau, quả, thực phẩm chế biến từ rau,
quả, các loại hạt, cỏ khô và lâm sản) phải có chứng nhận đảm bảo vệ sinh do cơ
quan có thẩm quyền của nước xuất xứ cấp. Với nhiều mặt hàng, Canada còn yêu
cầu cần phải kiểm tra khi cập cảng Canada. Hoa quả, rau, mật ong, thịt, cá và các
thực phẩm chế biến là những mặt hàng phải tuân thủ các quy định rất chặt chẽ.
Nhà xuất khẩu cần đảm bảo với đối tác nhập khẩu của mình ở Canada là các mặt
hàng xuất khẩu đáp ứng các yêu cầu và các quy định đối với hàng hoá nhập khẩu
vào thị trường Canada. Dưới đây là một số yêu cầu chính:
Chứng nhận về tẩy uế đối với các loại rơm, cỏ khô, than bùn, rêu và các
loại bao bì làm từ đất.
Giấy phép bảo vệ thực vật cũng là một đòi hỏi thường xuyên đối với các
loại thực vật nhập khẩu.
Các loại bao, gói, vải bạt và các loại bao bì khác tương tự bị cấm.
Hộp đóng gói thịt, thịt gà và các sản phẩm tương tự đều phải ghi nhãn đầy
đủ và phải được cơ quan có thẩm quyền của Canada cấp phép.
Các loại keo dán, mỡ bôi trơn, sáp nến và các loại mỡ không ăn được khác,
thịt và các sản phẩm từ thịt cũng có thể nhập khẩu vào Canada nếu trên
container, bao bì ghi rõ tên hàng hoá, tên, địa chỉ nhà sản xuất hoặc đại lý
và cùng tên sản phẩm phải ghi kèm chữ “không ăn được”.
2. Australia
Australia có nền kinh tế tư bản theo đường lối phương tây thịnh vượng với mức
GDP trên đầu người ở mức tương đương với nền kinh tế lớn thứ tư Tây Âu. Là
nước giàu tài nguyên, Australia là nước xuất khẩu lớn các nông sản, khoáng chất,
kim loại và năng lượng hoá thạch. Và Australia nhập khẩu các mặt hàng chính
như thiết bị và máy móc, máy tính, máy văn phòng, dầu thô và các sản phẩm dầu
khí...
Đối với hàng hoá nhập khẩu, Australia cũng đưa ra các tiêu chuẩn về chất lượng,
vệ sinh và an toàn với người sử dụng...
Australia có những tiêu chuẩn của riêng mình. Do đó, các doanh nghiệp khi xuất
khẩu sang thị trường này cần chú ý điều chỉnh sao cho sản phẩm của mình phù
hợp với các tiêu chuẩn của Australia. Các tổ chức tiêu chuẩn của Australia gồm
năm tổ chức chính, trong đó có hai cơ quan của nhà nước chịu trách nhiệm về
việc xây dựng, ban hành các tiêu chuẩn cho sản phẩm. Australia đã ký kết Hiệp
định tiêu chuẩn GATT/WTO và cũng đã tham gia Hiệp định của WTO về rào cản
kỹ thuật đối với thương mại nhưng nước này vẫn duy trì những quy định hạn chế
về tiêu chuẩn và quy định về mẫu mã đối với ô tô, các bộ phận phụ nhất định của
ô tô, thiết bị điện, thiết bị y tế và thiết bị viễn thông, các bộ phận máy móc và
thiết bị.
* Quy định về vệ sinh và kiểm dịch
Các quy định về kiểm dịch của Australia đã hạn chế nhập khẩu một số lượng lớn
hàng nông sản và sản phẩm có liên quan đến thực phẩm. Một số biện pháp liên
quan đến điều kiện vệ sinh, sức khoẻ đang bị các thành viên của WTO phản đối.
Thực phẩm không phải chỉ đáp ứng các quy định kiểm dịch khi được bán tại
Australia mà chúng cần tuân theo Hiệp định tiêu chuẩn thực phẩm giữa Australia
và New Zealand và quy định của AQIS (Australian Quarantine and Inspection
Service). AQIS là cơ quan chịu trách nhiệm theo dõi, kiểm tra thực phẩm nhập
khẩu.
Theo quy định hiện hành, một số hàng thực phẩm nhập khẩu cần phải có giấy
phép nhập khẩu, ví dụ như cá hồi và các chủng loại cá lấy vây. Thậm chí một số
mặt hàng sẽ bị yêu cầu làm phân tích rủi ro nhập khẩu.
Australia có những quy định vệ sinh nghiêm ngặt ảnh hưởng tới nhập khẩu hoa
quả tươi và các quy định khác ảnh hưởng tới nhập khẩu nhập khẩu thịt và gia
cầm. Hầu hết cây trồng, vật nuôi, cá và các sản phẩm khác đều phải tuân theo các
yêu cầu kiểm dịch, yêu cầu có những chứng nhận đặc biệt do cơ quan có thẩm
quyền tại nước xuất khẩu phát hành chứng nhận chúng đã đáp ứng các yêu cầu cụ
thể của Australia. Thêm vào đó, hầu hết những sản phẩm này cần phải được
Chính phủ Australia cho phép nhập khẩu. Nhập khẩu động vật sống, trừ ngựa,
phải tuân theo những quy định kiểm dịch. Trâu bò lấy giống, chăn nuôi, đã mổ
chỉ được phép nhập khẩu nếu đã qua kiểm dịch. Các sản phẩm theo “Luật sâu
bệnh trong hoa quả” phải có giấy chứng nhận vệ sinh ghi rõ không có sâu trong
sản phẩm trong phạm vi 80 km khu vực trồng hoa quả trong vòng 12 tháng qua.
Nếu hàng hoá được chuyên chở trong các container gỗ phải kèm theo một chứng
nhận chính thức của nhà xuất khẩu chỉ rõ gỗ đã được sấy khô hoặc xông ngay
trước khi vận chuyển, để phù hợp với các quy định kiểm dịch của Australia.
Australia cũng quy định hết sức chặt chẽ về dán nhãn và đóng gói đối với hàng
nhập khẩu.
* Quy định về dán nhãn
Hàng hoá nhập khẩu vào Australia phải được ghi nhãn đầy đủ các thông tin cần
thiết bằng tiếng Anh, chữ phải rõ ràng và tương phản với nền. Nhãn hàng phải
cung cấp đủ thông tin về: nơi sản xuất, nhà sản xuất, thông tin về sản phẩm và
tieu chuẩn chất lượng. Một số sản phẩm phải ghi các thông tin về vệ sinh thực
phẩm và thành phần. Nhãn hàng cũng phải ghi rõ tên, thương hiệu, nước xuất xứ.
* Quy định về bao bì đóng gói
Trên bao bì đóng gói phải ghi rõ các thông tin mô tả thương mại hàng một cách
trung thực nhất. Yêu cầu:
Ký tự trên bao bì phải dễ đọc, in nổi.
Nhãn mác gắn trên hàng hoá phải ở vị trí dễ thấy.
Số lượng, trọng lượng hàng phải được ghi trung thực trên phần chính của
bao bì bằng hệ mét (Với những hàng có khối lượng lớn thì nên ghi trọng
lượng tịnh).
Tháng 11/2000, một văn bản luật về tiêu chuẩn thực phẩm đã được Bộ trưởng Y
tế Australia và New Zealand thông qua. Trong đó yêu cầu thực phẩm đóng gói
phải ghi đủ các thông tin về dinh dưỡng như hàm lượng chất béo, protein, năng
lượng, muối và cacbonhydrate; nhãn mác phải ghi rõ phần% các chất chính và tất
cả các chất có thể gây dị ứng.
Nhìn chung, hàng rào kỹ thuật đối với thương mại của Australia cũng gây nhiều
khó khăn cho các nhà xuất khẩu và đã hạn chế một khối lượng lớn hàng hoá nhập
khẩu vào Australia. Các doanh nghiệp khi chuẩn bị xuất khẩu cần hết sức chú ý
các quy định, tiêu chuẩn mà Australia đề ra và nên trao đổi với phía đối tác để
nắm được đầy đủ thông tin và có biện pháp xử lý kịp thời để vượt qua được các
rào cản đó.
3. Hàn Quốc
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, nền cộng hoà được thiết lập ở phía nam bán
đảo Triều Tiên. Sau đó, trong công cuộc tái thiết đất nước, Hàn Quốc đã đạt được
tốc độ tăng trưởng kinh tế kỷ lục đáng ngạc nhiên và đã trở thành một trong bốn
con rồng châu Á. Cách đây ba thập kỷ, GDP trên đầu người của Hàn Quốc tương
đương với các nước nghèo thuộc châu Á và châu Phi. Nhưng hiện nay, mức GDP
trên đầu người của Hàn Quốc đã đạt 16.700 USD (năm 2002), gấp 7 lần của Ấn
Độ, 16 lần của Bắc Triều Tiên và tương đương với các nền kinh tế thuộc Liên minh Châu Âu (8). Thành công này đạt được trong những năm cuối 1980 do chính
sách đóng cửa thắt chặt thương mại của Chính phủ bao gồm tín dụng trực tiếp,
hạn chế nhập khẩu, hỗ trợ các ngành công nghiệp cụ thể và nỗ lực lao động cao.
Hàn Quốc cũng là một thị trường nhập khẩu khá lớn, kim ngạch nhập khẩu của Hàn Quốc năm 2002 là 165,3 tỷ USD (8). Tuy nhiên, các nhà xuất khẩu nước
ngoài muốn thâm nhập vào thị trường này thì phải đối mặt với một rào cản đáng
kể đó là hệ thống tiêu chuẩn và cấp giấy chứng nhận của Hàn Quốc vì hệ thống
tiêu chuẩn rất phức tạp và thiếu minh bạch. Hơn nữa, Chính phủ Hàn Quốc
thường hay đưa ra các quy định mới mà không có thủ tục thông qua ý kiến dân
chúng nên không có một thời gian để nhận định và không có thời gian tương
xứng cho các ngành công nghiệp điều chỉnh. Đó chính là một trở ngại lớn đối với
thương mại. Và thời kỳ thực thi đôi khi không đủ dài để các nhà sản xuất nước
ngoài có thể đáp ứng nên dẫn đến sự gián đoạn và tốn kém không cần thiết trong
thương mại.
* Hệ thống tiêu chuẩn
Về hệ thống tiêu chuẩn, Chính phủ Hàn Quốc đã công nhận hệ thống ISO 9000
(được sửa đổi thành hệ thống KSA 9000) là hệ thống tiêu chuẩn chính thức của
nước này từ tháng 4 năm 1992 và phát hành các quy định liên quan vào tháng 10
năm 1993. Năm 1997, Hàn Quốc cũng bắt đầu áp dụng hệ thống quản lý môi
trường theo ISO 14000. Mặc dù Hàn Quốc là thành viên của Tổ chức tiêu chuẩn
quốc tế ISO từ năm 1963 nhưng chỉ có khoảng 2000 trong số hơn 10.000 tiêu (8)www.exim-pro.com/kinhte/thitruong/hanquoc chuẩn được ban hành từ năm 1999 là hợp với các tiêu chuẩn quốc tế (8). Điều này
gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng sang Hàn Quốc khi
phải đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định của nước này đồng thời. (Hiện nay,
Hàn Quốc đang nỗ lực để sửa đổi các tiêu chuẩn sao cho phù hợp với các tiêu
chuẩn quốc tế nhằm tạo điều kiện cho các công ty trong nước có thể cạnh tranh
trên thị trường thế giới).
Đối với thủ tục đăng ký và chứng nhận tiêu chuẩn, Hàn Quốc yêu cầu những
thông tin rất chi tiết về sản phẩm như thành phần % từng loại của thực phẩm.
Hàn Quốc có các phòng thí nghiệm kiểm tra trong nước được uỷ quyền chứng
nhận cho các công ty theo hệ thống ISO 9000. Nhưng Hàn Quốc không công
nhận kết quả giám định và giấy chứng nhận chất lượng của bất kỳ một nước xuất
khẩu nào khác ngoài các nước là thành viên của Diễn đàn chứng nhận quốc tế-
Hiệp định công nhận đa phương (IAF-MLA).
* Quy định về chứng chỉ xuất xứ
Mọi hàng hoá thương mại vào Hàn Quốc đều phải có nhãn ghi xuất xứ nước sản
xuất. Cơ quan Hải quan Hàn Quốc (Korean Customs Service-KCS) ấn hành một
danh sách những quy định đối với nhãn hàng ghi xuất xứ nước sản xuất theo hệ
thống mã số thống nhất HS (Hamornized System).
Theo quy định, chứng chỉ xuất xứ hàng hoá nên nêu chi tiết mô tả mặt hàng, số
lượng, giá, địa điểm xuất xứ, nhà xuất khẩu, tên nhà nhập khẩu... và có thể viết
bằng tiếng Anh, tiếng Hàn, hoặc tiếng Pháp.
Đối với mặt hàng xuất khẩu trực tiếp đến Hàn Quốc từ nước xuất xứ ghi trên
chứng chỉ xuất xứ thì chứng chỉ xuất xứ đó phải do Phòng thương mại và Công
nghiệp trực tiếp cấp.
Hàn Quốc yêu cầu phải ghi rõ tên nước xuất xứ cả trên bao bì và sản phẩm. Cơ
quan quản lý yêu cầu thông tin về nước xuất xứ phải được khắc hoặc in trên sản
(8)www.exim-pro.com/kinhte/thitruong/hanquoc
phẩm và không chấp nhận việc ghi trên một tờ giấy đính kèm. Như vậy sẽ làm
tăng giá thành sản phẩm và làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm nhập khẩu.
* Yêu cầu ghi nhãn đối với sản phẩm nhập khẩu
Tất cả các mặt hàng Thực phẩm nhập khẩu (tức là các sản phẩm từ vật nuôi tuân
thủ theo tiêu chuẩn của Bộ Nông lâm nghiệp Hàn Quốc) đều buộc phải ghi nhãn
bằng tiếng Hàn.
Đối với các loại dược phẩm, tất cả các kiện hàng và bao gói đều phải được ghi rõ:
Nước xuất xứ, nhà sản xuất, tên và địa chỉ nhà nhập khẩu
Tên sản phẩm
Ngày sản xuất, số lô
Tên và trọng lượng thành phần
Số lượng
Số đơn vị
Phương thức bảo quản
Ngày hết hạn sử dụng
Hướng dẫn sử dụng
Số giấy phép nhập khẩu
Công hiệu
Giá nhập khẩu và giá khuyến cáo bán lẻ.
Ngoài ra, Hải quan Hàn Quốc yêu cầu nhà nhập khẩu ghi bằng tiếng Hàn tên của:
nhà nhập khẩu, địa chỉ, nhãn hiệu thương mại và nước xuất xứ lên tất cả các sản
phẩm gương kính.
Trước đây, Hàn Quốc yêu cầu phải đăng giá trên nhãn hàng nhưng đến tháng 8
năm 1998, quy định này đã được bãi bỏ. Tuy nhiên, việc yết giá bán lẻ vẫn bắt
buộc đối với những hàng hoá nhập và sản xuất trong nước được bán tại các cửa
hàng có mặt bằng trên 33 mét vuông.
Để phù hợp với các yêu cầu về ký mã hiệu của Hàn Quốc, nhà sản xuất nước
ngoài phải thay đổi quy trình sản xuất hoặc phải sản xuất những lô hàng đặc biệt
để xuất khẩu vào thị trường Hàn Quốc hoặc phải in tên nước sản xuất vào cả các
lô hàng không xuất khẩu sang Hàn Quốc.
Với từng mặt hàng cụ thể thì có những quy định nhãn mác cụ thể do các cơ quan
chính phủ chuyên trách những mặt hàng này ban hành. Cơ quan phụ trách Dược
phẩm và thực phẩm Hàn Quốc (The Korean Food & Drug Administration-KFDA)
chịu trách nhiệm ra các quy định và thi hành các quy định về nhãn mác đối với
hàng thực phẩm chứ không phải hàng tươi sống. Bộ Nông lâm nghiệp (MAF –
Ministry of Agriculture and Forest) ra các quy định đối với hàng tươi sống. MAF
cũng có riêng một hệ thống tiêu chuẩn về ký hiệu đối với việc ghi xuất xứ trên
nhãn mác đối với hàng nông sản.
Nhãn hàng hoá bằng tiếng Hàn Quốc trừ những ký mã hiệu về xuất xứ nước sản
xuất phải được xuất trình trước hoặc ngay sau thời điểm làm thủ tục hải quan thì
hàng mới được nhập vào Hàn Quốc.
* Những quy định nhãn mác theo GMO (Genetically Modified organisms)
Kể từ 1/3/2001, theo Luật quản lý chất lượng đối với những mặt hàng nông lâm
nghiệp, Hàn Quốc quy định rằng những sản phẩm được sản xuất bằng công nghệ
vi sinh cần được ghi rõ trên nhãn hàng là chúng là những sản phẩm nông nghiệp
được chế biến theo phương pháp cấy gen. Đậu, ngô và giá đều chịu sự điều chỉnh
của những quy định này. Khoai tây cũng bắt đầu chịu điều chỉnh của quy định
này từ tháng 3 năm 2002. Và từ 13/7/2001, Hàn Quốc cũng yêu cầu các sản phẩm
sử dụng chất phụ gia trong quá trình sản xuất cũng như là đối với các nguyên liệu
chính sử dụng công nghệ sinh học đều phải ghi nhãn GMO theo quy định ghi
trong Luật trên. Nhãn hiệu hàng phải ghi bằng chữ khổ lớn, dễ đọc và chứa đầy
đủ các thông tin cần thiết.
Các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng hoá nhập khẩu của Hàn Quốc là
một rào cản lớn ngăn cản thương mại quốc tế. Rào cản kỹ thuật của Hàn Quốc
càng khó vượt qua và gây thiệt hại cho các nhà xuất khẩu bởi chúng phức tạp,
không rõ ràng lại hay thay đổi làm cho các nhà xuất khẩu khó nắm bắt.
Tóm lại, rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế có rất nhiều hình thức đa
dạng. Mỗi nước lại có một hình thức rào cản khác biệt tuỳ vào điều kiện cụ thể và
tuỳ vào chủ ý của từng nước. Nhưng dù với hình thức nào thì rào cản kỹ thuật
cũng cản trở thương mại quốc tế và gây ra thiệt hại cho các nước, đặc biệt là các
nước đang và kém phát triển khi tham gia thương mại quốc tế.
CHƯƠNG III
CÁC GIẢI PHÁP GIÚP VIỆT NAM VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT
TRONG THƯƠNG MẠI
I. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU VIỆT NAM TRƯỚC RÀO CẢN KỸ THUẬT TỪ CÁC NƯỚC
CÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN
1. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam từ 1986 đến nay
Kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng công cuộc đổi mới, mở cửa nền
kinh tế đến nay, đất nước ta thật sự có những biến đổi sâu sắc. Hoạt động ngoại
thương có những tiến bộ vượt bậc và góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát
triển đất nước .
Nhờ thực hiện chính sách mở cửa, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế
đối ngoại, đến nay nước ta đã mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều nước thay vì
đóng cửa nền kinh tế như trước đây. Tính đến nay, nước ta đã có quan hệ buôn
bán với hơn 100 nước và lãnh thổ trên thế giới. Chúng ta đã ký kết nhiều hiệp
định thương mại song phương cũng như đa phương với các quốc gia và lãnh thổ
trên thế giới tạo điều kiện cho thương mại phát triển. Nước ta cũng đã nộp đơn
xin tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO và hiện nay đang trong quá trình
đàm phán. Nhờ những chính sách, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước mà
hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Trong đó nổi bật là thành tựu của hoạt động ngoại thương, cụ thể là xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu được đẩy mạnh góp phần rất lớn vào việc phát triển nền
kinh tế nói chung. Giá trị xuất khẩu gia tăng giúp cân bằng cán cân thương mại và
mang lại một nguồn ngoại tệ tích luỹ không nhỏ cho đất nước. Từ năm 1986 đến
nay, tốc độ tăng xuất khẩu luôn cao hơn tốc độ tăng GDP. Nếu tính trong vòng 10
năm từ 1990-2000 thì xuất khẩu năm 2000 tăng gấp 5,95 lần năm 1990, trong khi đó GDP chỉ tăng có 2 lần (9). Trong mấy năm gần đây, tuy thị trường thế giới có
nhiều biến động nhưng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn tiếp tục tăng.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam từ 1998 đến 2002
Năm 1998 1999 2000 2001 2002
Giá trị 9.360 11.541 14.483 15.029 16.705 (triệu USD)
Nguồn: Niên giám thống kê 2002, NXB Thống kê, 2003
Trong tương lai, xuất khẩu vẫn là là một hoạt động kinh tế mũi nhọn của nước ta.
Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra mục tiêu cho xuất khẩu Việt Năm trong giai đoạn
2000-2010 là: tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình hàng năm đạt 15%, giá trị kim ngạch xuất khẩu từ 2000 đến 2010 đạt 70 tỷ USD (10).
Cơ cấu hàng xuất khẩu trong hơn 15 năm qua cũng có những thay đổi tích cực.
Giá trị xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản có sự gia tăng
lớn do Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô. Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản xuất
khẩu có xu hướng giảm dần trong cơ cấu xuất khẩu. Xuất khẩu hàng công nghiệp
có xu hướng tăng đều trong những năm qua. Tỷ lệ hàng thô sơ chế có giá trị
không ổn định trong cơ cấu xuất khẩu giảm dần, tỷ lệ hàng chế biến xuất khẩu
ngày tăng. Trước đây, các mặt hàng thô sơ chế thường chiếm khoảng 60-70%
tổng giá trị xuất khẩu nhưng hiện nay tỷ lệ này đã giảm xuống đáng kể. Năm
2001, tỷ lệ xuất khẩu của các mặt hàng chế biến chiếm 55,8% tổng kim ngạch xuất khẩu còn các mặt hàng thô sơ chế chỉ còn chiếm 44,2% (11). Mục tiêu của
chúng ta trong thời gian tới là giảm tỷ lệ hàng thô sơ chế trong tổng kim ngạch xuất khẩu xuống còn 14% (10). Việt Nam cũng đã xây dựng được những mặt hàng
xuất khẩu chủ lực gồm những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt từ 1 tỷ USD
một năm như dầu thô, giày dép, may mặc, thuỷ sản…Đây là những mặt hàng mà
Việt Nam có lợi thế và có khả năng phát triển trong tương lai. Những mặt hàng
(9) Giáo trình Kinh tế Ngoại thương, GS. Bùi Xuân Lưu, ĐH Ngoại thương, 2001 (10) Chỉ thị 22/2000/CT-TTg, ngày 27/10/2000 của Chính phủ (11) Xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam, Tổng cục Thống kê, NXB Thống kê, 2002
này sẽ đóng vai trò chủ chốt giúp đẩy mạnh xuất khẩu của nước ta.
Thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong hơn 15 năm qua cũng có nhiều thay
đổi. Trước đây, thị trường xuất khẩu chủ yếu của chúng ta là Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa Đông Âu.Khi khối xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã và rơi vào
khủng hoảng thì Việt Nam mất đi thị trường xuất khẩu chủ lực và gặp nhiều khó
khăn. Tuy nhiên, chúng ta đã nhanh chóng chuyển hướng, tiếp cận và thâm nhập
những thị trường mới, nhờ đó mà xuất khẩu của chúng ta thoát khỏi khủng
khoảng và có những bước phát triển mới. Thị trường châu Á và châu Âu chiếm tỷ
lệ ngày càng cao trong cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong khi các
nước Đông Âu và các nước thuộc Liên Xô cũ lại giảm mạnh vào những năm 80
và nửa đầu những năm 90. Xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thuộc châu
Mỹ, châu Đại Dương cũng ngày càng tăng. Trong thời gian tới, châu Á được xác
định là thị trường xuất khẩu chủ lực của chúng ta, đồng thời, chúng ta vẫn tiếp tục
đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường châu Âu và châu Mỹ. Chúng ta đặt mục
tiêu trong giai đoạn 2000-2010, xuất khẩu của nước ta sang các thị trường châu Á
sẽ chiếm 45% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tỷ lệ xuất khẩu sang châu Âu và châu Mỹ đều là 25% (10).
Nhìn chung, trong hơn 15 năm qua, xuất khẩu Việt Nam đã đạt được khá nhiều
thành tựu, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất
nước. Và trong những năm tới, đẩy mạnh xuất khẩu vẫn được Đảng và Nhà nước
ta xác định là hướng phát triển chiến lược của nước ta.
2. Những thách thức đối với xuất khẩu của Việt Nam trước rào cản kỹ thuật từ các thị
trường nhập khẩu
Tuy xuất khẩu Việt Nam trong những năm qua đạt được một số thành tích nhất
định nhưng hiện nay, trước xu hướng phát triển mới của thương mại quốc tế, đặc
biệt là xu hướng tăng cường sử dụng các rào cản kỹ thuật đối với thương mại của
các nước công nghiệp phát triển thì xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp không ít khó
khăn.
(10) Chỉ thị 22/2000/CT-TTg, ngày 27/10/2000 của Chính phủ
Xuất khẩu của nước ta hiện nay vẫn dựa chủ yếu vào nhóm hàng có nguồn gốc
thiên nhiên, giá trị gia tăng thấp và phải chịu nhiều các quy định về môi trường và
an toàn vệ sinh của các thị trường nhập khẩu. Cụ thể là hàng xuất khẩu thô và sơ
chế vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu xuất khẩu (năm 2000, tỷ lệ là 44,2%).
Đây là nhóm hàng có nguồn gốc đa dạng sinh học mà việc khai thác chế biến có
nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường, làm mất đi nguồn đa dạng sinh học, tài
nguyên không tái tạo dễ bị các nước hạn chế nhập khẩu vì lý do bảo vệ môi
trường. Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay thì đại
bộ phận là các mặt hàng có nguồn gốc thiên nhiên như thuỷ sản, dầu thô, gạo, cà
phê, rau quả mà việc khai thác, chế biến đang gặp phải các giới hạn về môi
trường như làm thu hẹp diện tích rừng, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm nguồn nước
và đa dạng sinh học. Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay như gạo,
đồ uống, cà phê, rau quả, thuỷ sản, khoáng sản… đang gặp những rào cản kỹ
thuật rất lớn liên quan đến tiêu chuẩn của sản phẩm như tiêu chuẩn và quy định
về vệ sinh an toàn thực phẩm, quá trình chế biến, chất lượng hàng hoá, nhãn môi
trường, bao bì, đóng gói… Kể cả các mặt hàng chế biến đang có kim ngạch ngày
càng tăng như dệt may, giày da, chế biến thuỷ sản…cũng có thể gặp phải các rào
cản kỹ thuật từ các thị trường do công nghệ của chúng ta hiên nay còn thấp kém
so với thế giới.
* Khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn quốc tế của một số mặt hàng xuất
khẩu của Việt Nam
Hàng thuỷ sản: Đến nay, tuy thuỷ sản Việt Nam đã lần lượt vượt qua các rào cản
của EU và cũng được các thị trường khó tính khác như Nhật Bản, Mỹ, Australia
chấp nhận nhưng việc xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vẫn còn gặp phải nhiều
khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm. Chỉ có 78
trong số 264 cơ sở chế biến thuỷ sản chiếm 80% lượng thuỷ sản xuất khẩu được
Bộ thuỷ sản công nhận đạt tiêu chuẩn ngành về điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm còn lại các cơ sở khác đang sản xuất trong điều kiện không đảm bảo
vệ sinh. Công nghệ chế biến và bảo quản sản phẩm thuỷ sản còn lạc hậu do đó
khó có thể đáp ứng các tiêu chuẩn cao về chất lượng cũng như vệ sinh của các thị
trường.
Mặt hàng thịt: Hàng thịt xuất khẩu của Việt Nam mới tiếp cận được những thị
trường có tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm thấp, chưa vào được những thị
trường khó tính như EU, Nhật Bản, Mỹ…Lý do là thịt của nước ta chưa đáp ứng
các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của nước nhập khẩu. Chăn nuôi còn
theo cách thủ công, không tuân thủ các quy định về chế độ ăn uống, chăm sóc y
tế. Khâu chế biến còn lạc hậu, hệ thống quy định về thú y chưa phù hợp với thông
lệ quốc tế. Một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất liên quan đến xuất khẩu
thịt là HACCP. Đây là tiêu chuẩn bắt buộc đối với mặt hàng thịt. Theo báo cáo
của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, đến nay, chưa có một nhà máy nào
của ta được cấp chứng chỉ về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.
Cà phê: Mặc dù hệ thống tiêu chuẩn của cà phê Việt Nam hiện nay tương đối
hoàn chỉnh nhưng chất lượng cà phê chưa cao do quá trình chăm sóc, thu hái,
phơi sấy, chế biến và đóng gói chưa tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật và
tiêu chuẩn chất lượng. Vệ sinh công nghiệp trong các xưởng chế biến còn yếu.
Một vấn đề cần được đặc biệt quan tâm là độ ẩm của cà phê trong bảo quản, vận
chuyển. Ngành cà phê cần cố gắng hoàn thiện rất nhiều để có thể đáp ứng các yêu
cầu của thị trường nhập khẩu.
Rau quả: Hiện nay, rau quả của Việt Nam mới xuất khẩu chủ yếu sang Trung
Quốc vì các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm và các tiêu chuẩn môi trường
còn dễ dãi. Hàng rau quả xuất sang EU, Nhật Bản, Mỹ, Australia còn rất hạn chế.
Thậm chí ngay trong nước nhu cầu rau quả sạch cũng rất lớn nhưng các nhà sản
xuất cũng chưa đáp ứng được. Thách thức lớn nhất đối với mặt hàng này hiện nay
là các tiêu chuẩn về môi trường, vệ sinh và mức dư lượng các chất kháng sinh
trong sản phẩm.
Ngoài những mặt hàng kể trên thì các mặt hàng xuất khẩu khác của nước ta như
da giày, dệt may, thủ công mỹ nghệ…cũng gặp phải các rào cản kỹ thuật từ phía
thị trường nhập khẩu phát triển.
Các thị trường xuất khẩu chủ yếu của nước ta lại là các nước công nghiệp phát
triển như EU, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc…Hiện nay, xuất khẩu của Việt Nam sang các
thị trường này chiếm tỷ trọng rất lớn trong kim ngạch xuất khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam theo thị trường
Đơn vị: triệu USD
2000 2001 2002
Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ
EU 2845,1 19,6% 3002,9 20,0% 3149,9 18,9%
Nhật Bản 2575,2 17,8% 2509,8 16,7% 2438,1 14,6%
Mỹ 723,8 5,1% 1065,3 7,1% 2421,1 14,5%
Tổng 14483,0 100,0% 15029,0 100,0% 16705,0 100,0% KNXK
Nguồn: Niên giám thống kê 2002, NXB Thống kê, 2003
Những thị trường xuất khẩu chủ yếu của nước ta là những thị trường khó tính, có
đòi hỏi cao đối với hàng nhập khẩu và thường dùng các rào cản kỹ thuật để hạn
chế nhập khẩu. Do đó, Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc đẩy mạnh xuất
khẩu sang các thị trường chiến lược này. Và thực tế thì xuất khẩu của Việt Nam
cũng đã gặp phải những rào cản kỹ thuật từ phía các thị trường.
Từ đầu năm 2002, EU liên tục thông báo dư lượng chloramphenicol (một loại
kháng sinh bị cấm vì có khả năng gây ung thư ) trong các lô tôm xuất khẩu của
Việt Nam và họ đã giữ lại hoặc thiêu huỷ hàng chục lô tôm của Việt Nam và
quyết định sẽ kiểm tra toàn bộ các lô tôm xuất khẩu của Việt Nam sang EU.
Quyết định này là một rào chắn mà EU thiết lập đối với hàng thuỷ sản của Việt
Nam. Trước đây, Việt Nam và EU có ký kết với nhau các văn bản về kiểm soát
dư lượng độc tố trong các sản phẩm thuỷ sản, thống nhất với nhau về các tiêu
chuẩn cũng như các thiết bị kiểm tra, và Việt Nam đã đáp ứng được các yêu cầu
này. Nhưng đến thời điểm đó, EU lại đơn phương sử dụng thiết bị kiểm tra mới
với tiêu chuẩn khác để phát hiện dư lượng chlramphenicol với tỷ lệ chỉ bằng 2/10
tiêu chuẩn đã thống nhất mà không hề báo trước. Do đó, Việt Nam không kịp ứng
phó và phải chịu thiệt. Vì EU là một thị trường có các tiêu chuẩn nghiêm đối với
vệ sinh và an toàn thực phẩm và được các thị trường khác lấy làm chuẩn mực
trong lĩnh vực này nên sau khi EU đưa ra quyết định trên thì hàng loạt các thị
trường khác cũng vậy. Cơ quan kiểm soát thực phẩm Hàn Quốc cũng tuyên bố sẽ
kiểm tra dư lượng chất chloramphenicol trong các lô tôm sú và cua ghẹ nhập khẩu
của Việt Nam vào thị trường này ít nhất một tháng một lần. Nhật cũng yêu cầu
các lô hàng thuỷ sản nhập khẩu phải có giấy chứng nhận không chứa các chất nói
trên. Mỹ cũng tuyên bố kiểm tra chặt chẽ các lô hàng thuỷ sản nhập khẩu. Riêng
Canada thì quyết định lấy mẫu kiểm tra chất chloramphenicol đối với 100% lô
hàng thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam. Quyết định này của EU và các thị trường
gây cho nước ta thiệt hại không nhỏ do các lô hàng xuất đi bị giữ và thiêu huỷ,
hơn nữa, quyết định này còn làm cho các nhà xuất khẩu e ngại không dám xuất
hàng thực hiện các hợp đồng nữa.
Theo Báo cáo của Tổng cục quản lý thị trường năm 2000 thì từ tháng 2 đến tháng
12 năm 2002 đã có 34% số hàng xuất sang Mỹ bị trả lại vì lỗi về ghi nhãn hàng
hoá. Nguyên nhân là do quy chế ghi nhãn hàng hoá còn chưa hoàn thiện, còn
nhiều bất cập, chồng chéo, chưa phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và các doanh
nghiệp cũng ý thức chưa cao về vấn đề này.
Tháng 11/2001, Mỹ đã ban hành dự luật HR 2330 với điều khoản SA 2000, theo
đó FDA không được sử dụng ngân sách để làm thủ tục nhập khẩu các loại cá da
trơn mang tên catfish trừ khi chúng thuộc họ Ictaluridae. Quy định này là bất hợp
lý vì ngay cả cơ quan FDA của Mỹ cũng khẳng định tất cả các loại cá da trơn đều
được mang tên catfish và ca da trơn của Việt Nam cũng được công nhận mang tên
catfish có kèm theo tính từ để phân biệt với các loại các da trơn khác. Dự luật này
gây khó khăn lớn cho xuất khẩu cá catfish của Việt Nam.
Những rào cản kỹ thuật đó đã hạn chế khả năng xuất khẩu của Việt Nam đồng
thời cũng gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế. Trong tương lai, Việt Nam vẫn
chú trong đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường nói trên và vẫn sẽ gặp phải vô
số các hàng rào kỹ thuật mà các thị trường này sử dụng. EU tuy đã chấm dứt việc
kiểm tra toàn bộ các lô hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam nhưng vẫn rất
nghiêm ngặt trong vấn đề dư lượng kháng sinh trong thực phẩm. EU, Mỹ và các
thị trường khác đã đưa ra quy định “dư lượng bằng không” trong thuỷ sản. Điều
này buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực hơn nữa để giải quyết vấn đề dư
lượng kháng sinh. Ngoài ra, chúng ta còn gặp phải những rào cản môi trường
ngày càng được sử dụng rộng rãi hơn ở EU. Mỹ cũng vừa ban hành Dự luật sẵn
sàng chống khủng bố sinh học nhằm ngăn chặn các hành động khủng bố sinh học
đối với nước này. Các nhà xuất khẩu VIệt Nam sẽ gặp không ít khó khăn với
những quy định của Dự luật này.
Tóm lại, khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế của hàng hoá Việt
Nam còn thấp, các thị trường lại ngày càng sử dụng nhiều các rào cản kỹ thuật
đối với hàng hoá nhập khẩu nên xuất khẩu của Việt Nam đã và sẽ gặp rất nhiều
khó khăn. Việt Nam cần phải có những biện pháp hữu hiệu để có thể vượt qua các
rào cản đó, hội nhập thành công vào thương mại quốc tế và đạt được những mục
tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
II. CÁC GIẢI PHÁP GIÚP VIỆT NAM VƯỢT RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI
1. Các giải pháp cấp Nhà nước
Để giúp hàng hoá và các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam vượt qua được
các rào cản kỹ thuật và đẩy mạnh được xuất khẩu sang các thị trường trọng điểm
thì chúng ta cần tiến hành nhiều biện pháp. Trong đó, ở cấp độ nhà nước, Nhà
nước ta cần thực hiện một số giải pháp sau:
1.1. Ký kết các hiệp định song phương và đa phương về rào cản kỹ thuật trong
thương mại.
Trong tình hình hiện nay, các quốc gia phát triển đang lợi dụng trình độ khoa học
công nghệ vượt trội hơn để đặt ra ngày càng nhiều các rào cản kỹ thuật để hạn
chế nhập khẩu từ các nước khác, đặc biệt là từ các nước đang và kém phát triển.
Do đó, Chính phủ các quốc gia đang và kém phát triển phải thực hiện các biện
pháp cần thiết để bảo vệ quyền lợi của mình. Một trong những biện pháp hữu hiệu
là tham gia vào các diến đàn quốc tế về vấn đề này. Khi tham gia vào các Hiệp
định quốc tế song phương cũng như đa phương về rào cản kỹ thuật thì các nước
sẽ có được sự bảo vệ cũng như giúp đỡ cần thiết từ các bên liên quan nhờ đó sẽ có
được sự công bằng khi tham gia vào thương mại quốc tế. Ví dụ như trong Hiệp
định của WTO về rào cản kỹ thuật trong thương mại có điều khoản 11 về trợ giúp
kỹ thuật cho các thành viên khác quy định các thành viên khi được yêu cầu phải
tư vấn, trợ giúp kỹ thuật cho các thành viên khác là các nước đang phát triển
trong việc soạn thảo các quy định kỹ thuật, thành lập cơ quan tiêu chuẩn hoá hay
tham gia vào các cơ quan tiêu chuẩn hoá quốc tế…Các nước đang phát triển khi
tham gia Hiệp định này còn được hưởng sự đối xử đặc biệt ưu đãi hơn các thành
viên phát triển khác như thành viên đang phát triển được phép “chấp nhận một số
các quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn hoặc các thủ tục đánh giá sự phù hợp nhằm duy
trì công nghệ, sản xuất trong nước phù hợp với nhu cầu phát triển của mình” tuỳ
theo những điều kiện kinh tế – xã hội, công nghệ của mình dù các tiêu chuẩn đó
chưa phù hợp với tiêu chuẩn hay quy định quốc tế. Ngoài ra, trong những tổ chức
quốc tế về rào cản kỹ thuật, các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật mà các quốc gia sử
dụng sẽ được thống nhất, công khai và áp dụng chung cho các thành viên. Vì vậy,
các tiêu chuẩn, quy định sẽ trở nên rõ ràng, minh bạch nhờ đó mà các nhà xuất
khẩu sẽ hiểu được các quy định và sẽ có biện pháp khắc phục tránh tình trạng các
tiêu chuẩn kỹ thuật không rõ ràng, rối rắm gây khó khăn cho các nhà xuất khẩu.
Với tình hình thực tiễn của nước ta hiện nay, khi trình độ kinh tế - xã hội cũng
như khoa học - công nghệ còn thấp so với thế giới, chúng ta cũng gặp nhiều khó
khăn khi phải đối mặt với các rào cản kỹ thuật. Các tiêu chuẩn mà nước ta áp
dụng chưa phù hợp với tiêu chuẩn thế giới và chưa được thế giới công nhận cho
nên hàng xuất khẩu của nước ta chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn mà các nước
nhập khẩu yêu cầu. Để giúp hàng hoá của ta có thể vượt qua được các rào cản kỹ
thuật, thâm nhập vào thị trường toàn thế giới thì Chính phủ ta cần tích cực tham
gia đàm phán, ký kết các hiệp định quốc tế về rào cản kỹ thuật và tiêu chuẩn hoá
song phương cũng như đa phương. Khi ký kết các hiệp định này, nước ta sẽ có
điều kiện rà soát hiệp định, tham gia xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế cho phù hợp
với trình độ phát triển của nước mình và có thể tận dụng quyền nhận xét các tiêu
chuẩn và các quy định quốc tế, bảo vệ được quyền lợi của nước ta cũng như các
nước đang và kém phát triển khác.
Đến nay, Việt Nam cũng đã hội nhập khá tốt trong lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường
chất lượng. Đại diện của Nhà nước về lĩnh vực tiêu chuẩn hoá và chất lường là
Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng đã tham gia vào 15 tổ chức quốc tế và
khu vực như: Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế (ISO), Uỷ ban kỹ thuật điện quốc tế
(IEC – International Electrotechnical Commission), Uỷ ban tư vấn của ASEAN
về tiêu chuẩn chất lượng (ACCSQ – Asean Consultative Committee of Standards
and Quality), Diễn đàn tiêu chuẩn khu vực Thái Bình Dương (PASC – Pacific
Area Standards Congress)…Trong quá trình tham gia các tổ chức này, Việt Nam
cũng đã tranh thủ được sự giúp đỡ ủng hộ của các tổ chức này nhằm thúc đẩy
hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng trong nước. Việt Nam cũng đã ký các
Hiệp định hợp tác trong lĩnh vực tiêu chuẩn hoá, đo lường và chứng nhận, Hiệp
định thừa nhận lẫn nhau các kết quả chứng nhậnvà thử nghiệm với Liên bang
Nga, Trung Quốc, Ucraina… Việt Nam cũng đang trên đường gia nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO, từ đó sẽ trở thành thành viên của các Hiệp định của tổ
chức này về tiêu chuẩn, chất lượng và về rào cản kỹ thuật như HIệp định về rào
cản kỹ thuật trong thương mại và Hiệp định về vệ sinh và các biện pháp vệ sinh
thực phẩm. Sau sự kiện EU đưa ra mức dư lượng bằng không đối với
chloramphenicol và nitrofuran trong thuỷ sản nhập khẩu, các nước ASEAN đang
thảo luận về việc thành lập một tổ chức gọi là Codax. Cơ quan thực phẩm này sẽ
đưa ra các tiêu chuẩn chung cho thực phẩm của các nước trong khối và các tiêu
chuẩn này sẽ được EU, Mỹ, Nhật Bản công nhận.
Tuy đã có nhiều cố gắng trong việc hội nhập quốc tế về tiêu chuẩn - chất lượng và
rào cản kỹ thuật nhưng Việt Nam vẫn cần tích cực hơn nữa trong việc đàm phán
ký kết các hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại để bảo vệ quyền lợi
quốc gia khi hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2. Tuyên truyền, giới thiệu cho các doanh nghiệp về rào cản kỹ thuật của các
nước.
Một trong những nguyên nhân khiến cho các rào cản kỹ thuật trở nên khó vượt
qua là vì các rào cản này tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng, phức tạp, khó nhận
biết và thường xuyên thay đổi. Các doanh nghiệp ở các nước đang và kém phát
triển thường gặp khó khăn trong việc tìm hiểu và thu thập thông tin liên quan đến
rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu do hệ thống thông tin còn yếu. Và họ có
rất ít các thông tin cũng như hiểu biết rất hạn chế về rào cản kỹ thuật tại các thị
trường mà họ sẽ xuất hàng sang. Chính vì lý do đó mà các nước đang và kém phát
triển là những nước chịu thiệt thòi nhiều nhất từ các rào cản kỹ thuật.
Ở Việt Nam cũng vậy, các doanh nghiệp có nhận thức rất thấp về rào cản kỹ thuật
và lại càng mơ hồ về các rào cản cụ thể mà các thị trường xuất khẩu của mình
đang áp dụng. Do đó, hàng hoá xuất khẩu của chúng ta bị từ chối nhiều do không
đáp ứng được các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như các tiêu chuẩn vệ sinh,
môi trường mà các thị trường đặt ra cho hàng nhập khẩu. Với điều kiện như của
các doanh nghiệp nước ta hiện nay thì việc tiếp cận với các nguồn thông tin trực
tiếp từ các thị trường về các quy định nói chung và về rào cản kỹ thuật nói riêng
là khó khăn. Vì thế, để giúp đỡ các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, có được đầy đủ các thông tin cần thiết về các thị trường xuất khẩu thì
sự trợ giúp của Nhà nước là cần thiết. Nhà nước cần có những cơ quan chuyên
trách về vấn đề rào cản kỹ thuật trong thương mại có nhiệm vụ tìm hiểu thu thập
các thông tin liên quan đến các quy định, tiêu chuẩn mà các nước đặt ra đối với
hàng nhập khẩu, đặc biệt là đối với những mặt hàng xuất khẩu của nước nhà. Sau
đó, các cơ quan này sẽ tuyên truyền, giới thiệu cho các doanh ngiệp biết về các
quy định cũng như tiêu chuẩn đó, giúp các doanh nghiệp có sự hiểu biết tốt hơn
về những quy định, tiêu chuẩn mà các mặt hàng xuất khẩu của doanh ngiệp mình
sẽ phải thoả mãn khi xuất sang từng thị trường cụ thể, nhất là những thị trường
xuất khẩu chiến lược của ta như EU, Nhật, Mỹ, Australia... Các cơ quan chuyên
trách này nên tổ chức các buổi hội thảo cũng như các buổi tuyên truyền, giới thiệu
định kỳ về rào cản kỹ thuật của các thị trường và có những thông báo bổ sung cần
thiết cho các doanh nghiệp khi các nước thay đổi, bổ sung các quy định, tiêu
chuẩn. Đồng thời, họ cũng có thể gợi ý những giải pháp mà các doanh nghiệp nên
áp dụng để vượt rào cản. Từ đó, doanh nghiệp sẽ có những biện pháp cần thiết để
đổi mới sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo các yêu cầu của thị
trường nhập khẩu và từng bước nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp nói riêng và của cả nước nói chung.
Hiện nay, nước ta có Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (Vietnam
Chamber of Commerce and Industry - VCCI) là tổ chức hỗ trợ và xúc tiến các
hoạt động thương mại của Việt Nam. Phòng thương mại và công nghiệp Việt
Nam cũng có vai trò đáng kể trong việc tuyên truyền, cung cấp các thông tin cần
thiết về thị trường, trong đó có thông tin về các rào cản kỹ thuật cho các doanh
nghiệp, giúp các doanh nghiệp tiếp cận các thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu.
Ngoài ra, nước ta còn có các có quan đại diện thương mại đóng tại các quốc gia
khác cũng có đóng góp lớn trong việc thu thập và cung cấp các thông tin về các
từng thị trường cụ thể cho các doanh nghiệp, giúp đỡ các doanh nghiệp tiếp cận
và thâm nhập các thị trường...
Tuy nhiên, các doanh nghiệp nước ta hiện nay thực sự vẫn chưa nhận được đầy
đủ các thông tin cần thiết về các thị trường, đặc biệt là các thông tin liên quan đến
các rào cản kỹ thuật trong thương mại nên còn vấp phải những cản trở, những thất
bại khi xuất khẩu hàng hoá, gây thiệt hại, mất uy tín không chỉ cho doanh nghiệp
mà còn cho cả quốc gia. Vì thế mà hoạt động tuyên truyền, giới thiệu về rào cản
kỹ thuật cho các doanh nghiệp là một hoạt động cần thiết mà Nhà nước ta cần tiến
hành để giúp các doanh nghiệp vượt rào cản kỹ thuật khi xuất khẩu.
1.3. Tổ chức đào tạo đội ngũ quản lý chất lượng và kỹ thuật cho các doanh
nghiệp.
Chất lượng của sản phẩm là yếu tố quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà
còn quan trọng đối với cả quốc gia. Những sản phẩm có chất lượng sẽ được người
tiêu dùng chấp nhận và có thể đứng vững trên thị trường. Hiện nay, khi các nước
công nghiệp phát triển tăng cường sử dụng các quy định về chất lượng và các tiêu
chuẩn kỹ thuật của sản phẩm làm rào cản đối với hàng hoá nhập khẩu thì vấn đề
chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm trở nên quan trọng hơn bao giờ
hết.
Để nâng cao chất lượng sản phẩm cần huy động rất nhiều yếu tố. Trong đó, yếu tố
con người đóng vai trò vô cùng quan trọng. Các doanh nghiệp cần có những công
nhân kỹ thuật lành nghề, có những nhà quản lý giỏi, hiểu biết về quản lý chất
lượng và ý thức được tầm quan trọng của chất lượng thì mới có thể thành công
được. Nhưng ở nước ta hiện nay còn thiếu vắng những cán bộ giỏi, có năng lực
trong lĩnh vực quản lý chất lượng sản phẩm. Chính sách đào tạo còn chưa thích
hợp. Số lượng các cán bộ quản lý về chất lượng được đào tạo chưa nhiều. Các cán
bộ quản lý của các doanh nghiệp hiện nay cũng chưa có nhận thức sâu sắc về tầm
quan trọng của chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật trong việc vượt các rào cản kỹ
thuật của các thị trường. Nhà nước ta cần quan tâm đến việc đào tạo cho các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu, một đội ngũ cán bộ quản lý
chất lượng và kỹ thuật giỏi và am hiểu về các rào cản kỹ thuật. Các cơ quan
chuyên trách có thể tổ chức các khoá học ngắn hạn cho các nhà quản lý của các
doanh nghiệp về vấn đề chất lượng, các tiêu chuẩn kỹ thuật và các biện pháp vượt
rào cản bằng việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong dài hạn thì nước ta nên
có chính sách thu hút và đào tạo một lực lượng cán bộ quản lý có chuyên môn
cao, có bằng cấp về chất lượng để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp trong
tương lai. Những cán bộ quản lý chất lượng và kỹ thuật này sẽ giúp các doanh
nghiệp lập các kế hoạch ngắn hạn, dài hạn về chất lượng sản phẩm và giám sát
quá trình thực hiện các kế hoạch đó giúp các doanh nghiệp từng bước nâng cao
chất lượng sản phẩm cho doanh nghiệp. Nhờ đó, mà sản phẩm của doanh nghiệp
có thể đáp ứng được các yêu cầu khắt khe của thị trường về chất lượng sản phẩm
và vượt qua được các rào cản kỹ thuật về mặt chất lượng mà các thị trường nhập
khẩu dựng lên.
Chất lượng và các tiêu chuẩn kỹ thuật là một hình thức của rào cản kỹ thuật trong
thương mại. Các doanh nghiệp Việt Nam muốn vượt qua được rào cản này thì cần
không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, làm cho sản phẩm thoả mãn những
yêu cầu nghiêm ngặt đối với sản phẩm của các nước nhập khẩu. Để làm được việc
này, các doanh nghiệp cần có các cán bộ quản lý chất lượng và kỹ thuật giỏi và
Nhà nước cần có chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý này cho các doanh
nghiệp.
1.4. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia cho sản phẩm và thành lập các cơ
quan kiểm tra chất lượng và kỹ thuật đối với hàng xuất khẩu.
Trong điều kiện quốc tế hoá nền kinh tế thế giới như hiện nay thì việc hài hoà hoá
các tiêu chuẩn chất lượng của quốc gia với các tiêu chuẩn quốc tế cũng là một xu
hướng tất yếu. Để hàng hoá của nước mình có thể được chấp nhận và tiêu thụ
được ở mọi thị trường trên thế giới mà không gặp phải các rào cản kỹ thuật thì
các quốc gia đều đang nỗ lực xây dựng cho mình một hệ thống tiêu chuẩn quốc
gia mới sao cho phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và được các nước khác thừa
nhận. Khi hệ thống tiêu chuẩn trong nước phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế thì
các sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước một khi đã đáp ứng được các tiêu
chuẩn trong nước thì vừa có thể tiêu thụ được ở thị trường nội địa vừa có thể tiêu
thụ được ở các thị trường nước ngoài.
Ở Việt Nam hiện nay, theo báo cáo của Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng
năm 2002 thì trong số 5200 TCVN hiện hành mới chỉ có 24% các tiêu chuẩn phù
hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Đây là một tỷ lệ thấp dù hiện giờ việc hài hoà hoá
các TCVN với các tiêu chuẩn quốc tế đã được chú trọng hơn. Vì có sự sai khác
giữa các TCVN và các tiêu chuẩn quốc tế nên phần lớn các sản phẩm của Việt
Nam không đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng và kỹ thuật do các thị trường
nhập khẩu đặt ra. Điều này đã hạn chế khả năng xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt
là xuất khẩu sang các thị trường có trình độ khoa học công nghệ cao vì các thị
trường này đặt ra các tiêu chuẩn rất khắt khe cho hàng hoá mà các TCVN hiện
nay thì chưa đáp ứng được.
Do đó, đổi mới hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam cần được đặc biệt quan tâm và phải
được xác định là một nhiệm vụ trọng tâm trong hội nhập quốc tế. Điều này rất có
ý nghĩa với Việt Nam vì nó sẽ giúp chúng ta vượt qua được các rào cản kỹ thuật
của thị trường các nước công nghiệp phát triển. Chúng ta cần xây dựng một hệ
thống tiêu chuẩn mới thay thế những tiêu chuẩn đã lạc hậu và không phù hợp với
các yêu cầu của hội nhập. Những tiêu chuẩn này sẽ phải được xây dựng trên cơ sở
khoa học, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế và phải tính đến các điều kiện đặc thù
của các doanh nghiệp trong nước. Những tiêu chuẩn mới sẽ phải bao quát hết
những đòi hỏi phổ biến của thế giới đối với hàng hoá như các tiêu chuẩn chất
lượng, tiêu chuẩn môi trường, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm...Giải pháp
này không những giúp hàng hoá Việt Nam có thể vượt qua các rào cản kỹ thuật
mà còn giúp nâng cao chất lượng hàng hoá trong nước, nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân.
Riêng đối với các mặt hàng xuất khẩu, Nhà nước cần thành lập các cơ quan kiểm
tra chất lượng và các tiêu chuẩn kỹ thuật trước khi cho xuất khẩu. Vì hiện nay, vì
việc kiểm soát chất lượng hàng xuất khẩu của chúng ta không chặt chẽ nên số
lượng hàng xuất khẩu không đạt tiêu chuẩn và bị trả lại, bị tiêu huỷ hoặc phải bán
giảm giá vẫn còn cao gây thiệt hại cho doanh nghiệp và mất uy tín cho hàng hoá
Việt Nam. Chính vì vậy mà chúng ta cần tăng cường công tác kiểm tra đối với
các lô hàng xuất khẩu để đảm bảo rằng các lô hàng này thoả mãn những yêu cầu
của thị trường nhập khẩu về chất lượng, các tiêu chuẩn vệ sinh, kiểm dịch..., tránh
tình trạng hàng của chúng ta sẽ bị từ chối khi nhập cảng. Hiện thời, chúng ta đã
thực hiện khá tốt công tác này đối với hàng thuỷ sản xuất khẩu. Năm 1994, Chính
phủ đã ban hành Nghị định 50 CP ngày 21/6/1994 thành lập Trung tâm kiểm tra
chất lượng và vệ sinh thuỷ sản (National Fisheries Inspection and Quality
Assurance Center - NAFIQACEN) nay là Cục quản lý chất lượng, an toàn và thú
y thuỷ sản có chức năng quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thuỷ sản từ khâu
nuôi trồng, khai thác, đến chế biến và tiêu thụ. Cục còn có trách nhiệm kiểm tra
chất lượng và các điều kiện vệ sinh của các cơ sở sản xuất thuỷ sản, công nhận
các cơ sở đủ điều kiện xuất khẩu sang các thị trường cụ thể và cấp giấy chứng
nhận vệ sinh cho các lô hàng thuỷ sản. Những lô hàng nào được Cục cấp giấy
chứng nhận thì sẽ được phép xuất khẩu và sẽ được thị trường chấp nhận. Nhờ đó,
thuỷ sản Việt Nam đã được nhiều thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật, Hàn
Quốc... chấp nhận. Hiện nay, Cục có 6 chi nhánh trên cả nước với những trang
thiết bị hiện đại, có thể kiểm tra và cấp giấy chứng nhận cho các cơ sở sản xuất,
chế biến và các lô hàng một cách kịp thời, nhanh chóng.
Tuy nhiên đối với các mặt hàng khác thì chúng ta còn chưa thực hiện tốt vấn đề
này. Do vậy, trong thời gian sắp tới, Nhà nước nên thành lập những trung tâm
tương tự cho các mặt hàng khác để đảm bảo chất lượng và các tiêu chuẩn kỹ thuật
khác cho các lô hàng xuất khẩu.
Ngoài các giải pháp trên thì Nhà nước cần hoàn thiện các quy định, thể chế pháp
luật liên quan đến vấn đề chất lượng nhằm đạt được một sự quản lý thống nhất
trên cả nước. Nhà nước cũng cần có chế độ khen thưởng đối với những doanh
nghiệp, tổ chức có thành tựu trong lĩnh vực quản lý chất lượng cũng như cần có
chế độ xử phạt, kỷ luật đối với những doanh nghiệp, tổ chức không chấp hành tốt
các quy định của Nhà nước về vấn đề chất lượng. Nhà nước cần có biện pháp trợ
giúp về kỹ thuật, thông tin... cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để các doanh
nghiệp này có thể vượt qua được các rào cản kỹ thuật. Tóm lại, vì nước ta là một
nước đang phát triển còn bị hạn chế về nhiều mặt, hơn nữa, rào cản kỹ thuật là
một vấn đề phức tạp và khá mới mẻ với nước ta nên Nhà nước cần phải hợp tác
với các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp cần thiết để giúp các doanh nghiệp
Việt Nam vượt rào cản thành công.
2. Các giải pháp ở cấp độ doanh nghiệp
2.1. Nâng cao nhận thức về rào cản kỹ thuật trong thương mại
Rào cản kỹ thuật là một vấn đề khá mới mẻ ở nước ta. Cho nên hiện nay, nhận
thức của các doanh nghiệp về rào cản kỹ thuật là thấp, nhất là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Có doanh nghiệp còn không có chút khái niệm gì về rào cản kỹ thuật.
Có doanh nghiệp thì biết nhưng không ý thức được mức độ ảnh hưởng của rào
cản kỹ thuật đối với bản thân doanh nghiệp cũng như đối với thương mại nói
chung. Vì thế các doanh ngiệp không mấy quan tâm đến việc đổi mới sản xuất
nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, dịch tễ, đảm bảo các
yêu cầu về đảm bảo môi trường để có thể đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng thị
trường, thâm nhập những thị trường khó tính. Mà các doanh nghiệp hiện nay chỉ
sản xuất theo khả năng vốn có và tiêu thụ ở những thị trường dễ tính chấp nhận
những sản phẩm đó.
Muốn vượt qua được các rào cản kỹ thuật thì trước hết các doanh nghiệp phải
hiểu rõ rào cản kỹ thuật là gì, các hình thức và tác động của nó. Do đó, giải pháp
đầu tiên và rất quan trọng là phải nâng cao nhận thức về rào cản kỹ thuật cho các
doanh nghiệp, cho các thành viên của doanh nghiệp. Muốn vậy, trước hết, những
nhà quản trị của các doanh nghiệp cần có một nhận thức đầy đủ và sâu sắc về rào
cản kỹ thuật và ảnh hưởng của nó tới thương mại nói chung và tới doanh nghiệp
mình nói riêng. Các nhà quản trị cần nắm rõ các quy định, tiêu chuẩn cụ thể của
từng thị trường nhập khẩu đối với loại hàng hoá của doanh nghiệp mình và các
biện pháp mà doanh nghiệp cần áp dụng. Sau đó, các nhà quản trị sẽ tuyên truyền,
giáo dục cho từng thành viên trong công ty về các rào cản kỹ thuật và lợi ích của
việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế, việc tuân thủ các yêu cầu
về môi trường và vệ sinh đối với doanh nghiệp trong việc giúp doanh nghiệp vượt
rào cản. Một khi từng thành viên trong doanh nghiệp đã hiểu rõ về rào cản kỹ
thuật và tác động của nó tới doanh nghiệp mình thì họ sẽ tự ý thức và nỗ lực để
nâng cao chất lượng hàng hoá của doanh nghiệp mình, đáp ứng các đòi hỏi của thị
trường nhập khẩu.
Tóm lại, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp là một biện pháp rất cần thiết và
hiệu quả giúp doanh nghiệp có thể vượt qua các rào cản kỹ thuật. Vì nó làm cho
từng cá nhân, thành viên trong doanh nghiệp, dù ở vị trí nào cũng có ý thức rõ
ràng về trách nhiệm của mình trong việc giúp doanh nghiệp vượt qua các rào cản
kỹ thuật trong thương mại và cạnh tranh được trên thị trường thế giới.
2.2. Áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.
Trong điều kiện hiện nay, trước tình trạng các doanh nghiệp của các nước đang
phát triển đang phải đối đầu với những đòi hỏi chứng nhận phù hợp với những
yêu cầu về chất lượng, môi trường, vệ sinh và an toàn thực phẩm được quy định
trong các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật đông thời cũng là rào cản của các nước
phát triển, việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế
đã trở thành yêu cầu bắt buộc cho các doanh nghiệp nếu muốn bước chân vào các
thị trường này.
Hiện nay, các doanh nghiệp có thể áp dụng các hệ thống chất lượng được công
nhận rộng rãi trên thế giới như hệ thống quản trị theo tiêu chuẩn của tổ chức quốc
tế ISO 9000, hệ thống quản lý chất lượng đồng bộ TQM, hệ thống quản lý chất
lượng theo HACCP, GMP cho các xí nghiệp sản xuất dược phẩm, thực phẩm,
nông sản và thuỷ sản, hệ thống quản trị môi trường theo ISO 14000... Áp dụng
các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế sẽ giúp các doanh nghiệp cải thiện hình ảnh của
mình, tạo niềm tin cho bạn hàng và người tiêu dùng. Việc áp dùng các hệ thống
này sẽ đem lại cho doanh nghiệp nhiều cái lợi so với sự đầu tư ban đầu.
Tính đến nay, cả nước đã có khoảng 500 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận
hệ thống chất lượng ISO 9000, hơn 40 doanh nghiệp đạt chứng chỉ ISO 14000 và
trong tổng số 264 cơ sở chế biến thuỷ sản thì đã có 78 cơ sở được công nhận đạt tiêu chuẩn của hệ thống HACCP (12). Đây là những con số đáng mừng cho thấy
các doanh nghiệp Việt Nam đã có ý thức trong việc áp dụng các hệ thống chất
lượng quốc tế. Nhưng những con số này còn thấp so với những doanh nghiệp còn
chưa áp dụng các hệ thống này. Vì không phải doanh nghiệp nào cũng quan tâm
và có điều kiện áp dụng các hệ thống chất lượng đó. Trong số các doanh nghiệp
áp dụng các hệ thống chất lượng thì còn nhiều doanh nghiệp còn chưa thực sự chú
trọng mà chủ yếu nặng về hình thức.
Trong thời gian tới, các doanh nghiệp cần chú trọng hơn nữa tới việc áp dụng các
hệ thống quản lý chất lượng quốc tế ở doanh nghiệp mình vì những hệ thống này
sẽ giúp cho các doanh nghiệp cũng như sản phẩm của doanh nghiệp được công
nhận toàn cầu và có thể vượt qua các quy định về chất lượng, vệ sinh và môi
trường của các nước nhập khẩu đồng thời cũng được người tiêu dùng ưa thích
hơn. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có điều kiện áp dụng các hệ
thống này thì Nhà nước cần có sự hỗ trợ, bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải tự
mình tìm ra các giải pháp thích hợp tuỳ điều kiện của mình. Đầu tư áp dụng các
hệ thống tiêu chuẩn quốc tế không những giúp doanh nghiệp có thể thoả mãn yêu
cầu của những thị trường khó tính mà doanh nghiệp còn có thể kiểm soát, quản lý
chất lượng tốt hơn, giảm những sản phẩm khuyết tật đồng thời tiết kiệm chi phí
kiểm tra, kiểm soát và sửa chữa cho doanh nghiệp.
Có thể nói hiện nay, việc áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế đã trở nên
phổ biến và là một một điều kiện không thể thiếu cho các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu ví dụ như: giấy chứng nhận ISO 9000 được xem là “ngôn ngữ đảm bảo chữ
tín” về chất lượng giữa các doanh nghiệp, ISO 14000 được coi là tấm “hộ chiếu
xanh” cho hàng hoá và HACCP là một tiêu chuẩn bắt buộc đối với thực phẩm để
xuất khẩu sang thị trường các nước phát triển. Vì thế, để có thể tồn tại và phát
triển được trong tương lai thì các doanh nghiệp Việt Nam không còn sự lựa chọn
nào khác là phải áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.
2.3. Gắn “nhãn sinh thái” cho hàng hoá
“Thương mại - môi trường” chính là xu hướng phát triển trong tương lai của
thương mại quốc tế. Các quốc gia ngày càng quan tâm đến việc bảo vệ môi
trường sinh thái nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của quốc gia mình và của
cả thế giới. Một công cụ mà các nước trên thế giới hiện nay đang sử dụng để dung
hoà giữa yêu cầu phát triển thương mại quốc tế và bảo vệ môi trường là “nhãn
sinh thái”.
“Nhãn sinh thái” (hay còn gọi là “nhãn xanh”) là một trong những nội dung quan
trọng của Bộ tiêu chuẩn ISO 14000. Đó là một chứng chỉ được các cơ quan chứng
nhận cấp cho sản phẩm, hàng hoá, chứng nhận sản phẩm, hàng hoá đó ít gây tổn
hại đến môi trường (nói cách khác là “thân thiện với môi trường”). Nhãn sinh thái
là sự khẳng định uy tín của sản phẩm và của nhà sản xuất trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường. Các sản phẩm được gắn nhãn sinh thái rất được người tiêu dùng ưa
chuộng và thường có giá bán cao hơn các sản phẩm cùng loại. Nhãn sinh thái
chính là một yếu tố quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp, nhất là với các doanh nghiệp ngoại thương, đồng thời, nó cũng là công cụ
giúp hàng hoá của các nước đang phát triển vượt qua rào cản kỹ thuật của các thị
trường khó tính. Vì hiện nay, các nước công nghiệp phát triển thường sử dụng các
yêu cầu về bảo vệ môi trường để hạn chế hàng nhập khẩu từ các nước khác. Và
rào cản này thường gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp, nhất là doanh
nghiệp của các nước đang phát triển.
Ở Việt Nam việc sử dụng nhãn sinh thái cho một số mặt hàng ở các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu cũng đã được bắt đầu nghiên cứu, xem xét từ năm 2002. Tuy
nhiên, do hạn chế về mặt nhận thức và thông tin cho nên nhãn sinh thái còn là
một vấn đề hết sức mới mẻ nên nhiều doanh nghiệp còn chưa hiểu được nội dung
cũng như tầm quan trọng của việc áp dụng nhãn sinh thái đối với các sản phẩm
của mình. Để đáp ứng yêu cầu của thị trường về nhãn sinh thái thì các doanh
nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn thử thách. Hiện nay, ở
nước ta, việc áp dụng tiêu chuẩn ISO 9000 đã là một khó khăn đối với doanh
nghiệp chứ chưa nói đến việc áp dụng ISO 14000. Các doanh nghiệp nước ta phải
đối mặt với những thách thức về trình độ quản lý và kinh phí, đặc biệt là ở các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, khi áp dụng nhãn sinh thái. Vì thế, ngoài sự tự nỗ lực
của các doanh nghiệp, Nhà nước cũng cần có những hỗ trợ cần thiết để các doanh
nghiệp có thể từng bước triển khai việc gắn nhãn sinh thái cho hàng hoá.
Trong tương lai, do sức ép của vấn đề môi trường quốc tế, nhãn sinh thái sẽ là
điều kiện bắt buộc đối với mọi hàng hoá nếu muốn thâm nhập các thị trường nước
ngoài. Điều này sẽ cản trở khả năng thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp
các nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Do đó mà ngay từ bây giờ, các
doanh nghiệp Việt Nam cần phải tự trang bị cho mình một cách đầy đủ các yêu
cầu về triển khai việc dán nhãn sinh thái và phải coi đó như một yêu cầu tất yếu
cấp bách mà doanh nghiệp phải thực hiện. Từ đó, có những bước chuẩn bị cần
thiết để có thể áp dụng nhãn sinh thái trong một tương lai gần.
2.4. Đổi mới công nghệ và nâng cao trình độ quản lý kỹ thuật để nâng cao chất
lượng sản phẩm.
Khi các nước công nghiệp phát triển sử dụng các rào cản kỹ thuật về chất lượng,
môi trường, vệ sinh để bảo hộ thị trường trong nước thì các doanh nghiệp của các
nước đang phát triển gặp phải nhiều khó khăn. Do trình độ phát triển kinh tế - xã
hội thấp, máy móc, thiết bị lạc hậu, trình độ quản lý không cao nên sản phẩm sản
xuất ra không thoả mãn các yêu cầu chất lượng và kỹ thuật khắt khe các thị
trường phát triển đặt ra. Công nghệ lạc hậu lại không có kinh phí để lắp đặt các
thiết bị xử lý nước thải, rác thải, khí thải gây ô nhiễm môi trường nên hàng hoá bị
người tiêu dùng các nước phát triển tẩy chay cũng như không đáp ứng được các
tiêu chuẩn bảo vệ môi trường của các nước phát triển. Vì thế mà hàng hoá của các
doanh nghiệp các nước đang phát triển như nước ta không thâm nhập được vào
các thị trường khó tính.
Để vượt qua các rào cản đó và đẩy mạnh xuất khẩu, các doanh nghiệp cần đầu tư
đổi mới công nghệ, mua sắm mới máy móc thiết bị. Điều này một mặt làm giảm
giá thành sản xuất, mặt khác nâng cao chất lượng hàng hoá, đáp ứng các yêu cầu
của các nước nhập khẩu về bao bì, đóng gói, an toàn vệ sinh, quy trình chế
biến...Những công nghệ mới ít gây ô nhiễm môi trường vừa bảo vệ môi trường
các nước sản xuất vừa giúp doanh nghiệp vượt quan rào cản về môi trường trong
thương mại. Tuy nhiên với điều kiện tài chính của các doanh nghiệp nước ta như
hiện nay thì không phải doanh nghiệp nào cũng có điều kiện để đổi mới hoàn toàn
công nghệ và máy móc mà các doanh nghiệp cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của
doanh nghiệp mình lập kế hoạch thay thế, đổi mới cho phù hợp. Các doanh
nghiệp cũng nên khuyến khích các sáng kiến đổi mới công nghệ, các giải pháp
hữu ích cho sản xuất của công nhân và cán bộ kỹ thuật trong doanh nghiệp. Biện
pháp này giúp doanh nghiệp có thể tiết kiệm chi phí mà vẫn có thể đổi mới
phương pháp sản xuất một cách hiệu quả.
Song song với đổi mới công nghệ, doanh nghiệp cũng cần chú trọng việc nâng
cao trình độ kỹ thuật và quản lý kỹ thuật trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần
liên tục đào tạo nâng cao tay nghề cho các công nhân kỹ thuật của doanh nghiệp
để họ có thể nắm bắt, sử dụng những công nghệ và thiết bị sản xuất mới hiện đại.
Đặc biệt, doanh nghiệp cần có những cán bộ quản lý kỹ thuật có trình độ, có khả
năng tiếp thu khoa học công nghệ mới. Những cán bộ kỹ thuật giỏi này sẽ là
những người tiếp xúc và nắm bắt công nghệ mới đầu tiên sau đó họ sẽ giúp hướng
dẫn, đào tạo các công nhân kỹ thuật cho doanh nghiệp. Những cán bộ kỹ thuật
cũng cần hiểu biết rõ về những quy định, tiêu chuẩn trong nước cũng như ngoài
nước đối với sản phẩm của công ty và đưa ra được các giải pháp để sản phẩm có
thể đấp ứng được các quy định, tiêu chuẩn đó. Để có được đội ngũ cán bộ kỹ
thuật có trình độ cao thì doanh nghiệp cần có chính sách đào tạo và bồi dưỡng
nhân tài phù hợp. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần có chế độ đãi ngộ đặc biệt đối
với họ. Những cán bộ kỹ thuật này sẽ là nòng cốt giúp doanh nghiệp từng bước
nâng cao trình độ kỹ thuật và năng lực sản xuất trong toàn doanh nghiệp. Nhờ đó,
các sản phẩm của doanh nghiệp sẽ có chất lượng ngày càng cao và đáp ứng các
tiêu chuẩn khắt khe của thị trường trong và ngoài nước.
Đổi mới công nghệ và đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật giỏi rất cần thiết đối với
mỗi doanh nghiệp. Biện pháp này không những giúp doanh nghiệp vượt qua được
các rào cản thương mại mà còn giúp tăng chất lượng hàng hoá, tăng năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp trên cả thị trường trong và ngoài nước.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cần có những biện pháp như xây dựng chiến lược
kinh doanh dài hạn có tính đến các tác động của rào cản kỹ thuật; chủ động trong
việc tiếp cận các nguồn thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng,
hệ thống truyền thông quốc tế, các tổ chức trong nước và quốc tế, các bạn
hàng...để tìm hiểu về các rào cản kỹ thuật trong thương mại. Tóm lại, doanh
nghiệp cần phải có những sự chuẩn bị kỹ càng để có thể vượt qua các rào cản
thương mại đó.
KẾT LUẬN
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế mở ra rất nhiều cơ hội phát triển cho các quốc
gia đồng thời cũng mang lại không ít khó khăn và thách thức. Theo xu hướng tự
do hoá thương mại, các rào cản thương mại chủ yếu là các rào cản thuế quan và
một số rào cản phi thuế khác sẽ được dỡ bỏ tạo điều kiện tiếp cận và mở rộng thị
trường cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên không phải các doanh nghiệp sẽ không
gặp khó khăn gì khi tiếp cận và thâm nhập các thị trường nước ngoài bởi các quốc
gia đang có xu hướng sử dụng một loại rào cản thương mại mới: rào cản kỹ thuật
để thay thế cho các rào cản đã bị xoá bỏ. Rào cản kỹ thuật là một hình thức rào
cản thương mại rất tinh vi, phức tạp và rất khó vượt qua ngay cả đối với doanh
nghiệp của các nước phát triển. Các quốc gia mà hiện nay chủ yếu là các nước
công nghiệp phát triển đã sử dụng các tiêu chuẩn, quy định về chất lượng, vệ sinh
và môi trường hết sức khắt khe để ngăn cản hàng hoá của các nước khác nhập
khẩu vào lãnh thổ nước mình. Các rào cản kỹ thuật này đã gây cản trở lớn cho
thương mại thế giới, thậm chí còn gây ra cả những vụ xung đột thương mại giữa
các quốc gia. Tương tương lai, khi các rào cản thương mại khác đã dược dỡ bỏ
hoàn toàn thì rào cản kỹ thuật sẽ được sử dụng ngày càng rộng rãi hơn và sẽ tác
động đến phần lớn thương mại thế giới. Do đó, các quốc gia trên thế giới đã tiến
hành ký kết nhiều Hiệp định song phương và đa phương về rào cản kỹ thuật nhằm
hạn chế những tác động tiêu cực của nó đến thương mại quốc tế. Các quốc gia
đang và kém phát triển, trong đó có Việt Nam là những nước chịu tác động của
rào cản kỹ thuật nhiều nhất.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, rào cản kỹ thuật là một vấn đề khá mới mẻ
và chưa được các doanh nghiệp quan tâm, chú ý nhiều. Tuy nhiên, trên thực tế thì
thương mại Việt Nam cũng đã chịu những thiệt hại không nhỏ do rào cản kỹ thuật
từ các nước công nghiệp phát triển gây ra. Và trong tương lai khi rào cản kỹ thuật
được sử dụng một cách rộng rãi thì xuất khẩu của Việt Nam sẽ đứng trước những
khó khăn thách thức lớn. Hiện nay, do các doanh nghiệp Việt Nam chưa ý thức
được tầm quan trọng và mức độ ảnh hưởng của rào cản kỹ thuật đối với bản thân
doanh nghiệp cũng như đối với thương mại nói chung nên chưa chú tâm tìm hiểu
kỹ càng về rào cản kỹ thuật và các biện pháp để vượt qua các rào cản đó. Cũng
như các nước đang phát triển khác, các doanh nghiệp Việt Nam cũng bị hạn chế
về trình độ khoa học công nghệ , khả năng tài chính và thiếu thông tin nên rất khó
vượt qua được các rào cản kỹ thuật mà các nước công nghiệp phát triển đã dựng
lên. Điều này sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng xuất khẩu của Việt Nam cũng
như tốc độ phát triển của nền kinh tế vì xuất khẩu đóng một vai trò quan trọng
trong nền kinh tế nước ta. Trong thời gian tới, để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng
xuất khẩu với tốc độ trung bình 15%/năm trong giai đoạn 2000-2010 mà Đảng và
Nhà nước đã đặt ra thì bản thân các doanh nghiệp cũng như Nhà nước ta cần nỗ
lực nhiều hơn nữa. Trong đó, các doanh nghiệp ngoại thương phải cần tích cực
tăng cường năng lực cạnh tranh, nâng cao chất lượng sản phẩm để có thể đáp ứng
các yêu cầu mà các thị trường nhập khẩu đặt ra. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần
thực hiện các giải pháp ở cấp vĩ mô để giúp các doanh nghiệp vượt rào cản.
Tóm lại, rào cản kỹ thuật là một hình thức mới của rào cản thương mại và có tác
động to lớn tới thương mại quốc tế. Các doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện
ngay những biện pháp cần thiết để vượt qua các rào cản kỹ thuật này, tiếp cận và
mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu góp phần phát triển nền kinh tế đất nước.
PHỤ LỤC
(1) Những biện pháp cấp bách hạn chế dư lượng kháng sinh trong thuỷ hải sản
xuất khẩu – Thanh Thuý, Tạp chí Doanh nghiệp thương mại, số 160, 2002
(2) Foodmarketexchange, 19/11/2002
(3) www.nationmaster.com/country/eu/economy
(4) Báo cáo của Eurostat, 2003
(5) www.cia.gov/cia/publications/factbook/goes/us
(6) www.nationmaster.com/country/ja/economy
(7) www.exim-pro.com/kinhte/thitruong/nhatban
(8) www.exim-pro.com/kinhte/thitruong/hanquoc
(9) Giáo trình Kinh tế Ngoại thương, GS. Bùi Xuân Lưu, ĐH Ngoại thương, 2001
(10) Niên giám thống kê 2002, NXB Thống kê, 2003
(11) Xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam, Tổng cục Thống kê, NXB Thống
kê, 2002
(12) http//khoahoc.vnn.vn/iso/ds
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Viện nghiên cứu chiến lược, Việt Nam trên đường hội nhập và thị
trường
chính sách công nghiệp, thế giới – NXB Thanh niên, 2003
Tạp chí công nghiệp
2. Trung tâm tư vấn và đào tạo Thị trường Nhật Bản - NXB Thanh niên,
kinh tế thương mại (ICTC) 1997
Tổ chức xúc tiến thương mại
Nhật Bản (JETRO)
3. G.S. Bùi Xuân Lưu Giáo trình Kinh tế Ngoại thương - ĐH
Ngoại thương, Hà Nội, 2001
4.T.S. Bùi Hữu Đạo Hệ thống rào cản môi trường trong thương
mại quốc tế và một số giải pháp đối với
hàng xuất khẩu của Việt Nam - Tạp chí
Thương mại, số 26/2003
5. Nguyễn Thanh Bình Một số vấn đề cần chú ý đối với hàng
hoánhập khẩu vào EU – Tạp chí Thương
mại, số 26/2003
6. Trần Sửu Một số điều cần biết khi xuất khẩu sản
phẩm vào Mỹ – Kỷ yếu Hội nghị khoa
học, Khoa QTKD, ĐH Ngoại thương,
2000
7. Trần Thanh Lâm Nhãn sinh thái hàng hoá và phát triển
thương mại bền vững trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam – Tạp chí
Kinh tế và phát triển, số 15/2003
8. Nguyễn Huyền Trâm ISO 9000 – Kỷ yếu hội nghị khoa học,
Khoa QTKD, ĐH Ngoại thương, 2000
9. T.S. Bùi Hữu Đạo Hệ thống quản lý chất lượng- công cụ để
nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp-
Tạp chí Thương mại, số 17/2003
10. Thanh Thuý Những biện pháp cấp bách hạn chế dư
lượng kháng sinh trong sản phẩm thuỷ sản
– Báo Doanh nghiệp thương mại, số
160/2002
11. Nguyễn Thanh Bình Thị trường Nhật Bản-Một số vấn đề cần
lưu
ý khi thâm nhập - Kỷ yếu Hội nghị khoa
học Khoa KTNT, ĐH Ngoại thương, 2000
12. PV Để xuất khẩu hải sản vào Australia – Báo
Doanh nghiệp thương mại, số 185/2003
13. T.S. Hồ Tất Thắng Hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng
với hội nhập kinh tế quốc tế – Tạp chí Tiêu
chuẩn đo lường chất lượng, số 11/2002
14. T.S. Đinh Công Tuấn Vấn đề bảo hộ đối với sản phẩm nông ,lâm,
thuỷ sản ở thị trường EU - Nghiên cứu
châu
Âu, số 3/2003
15. Các trang web www.dongnai-industry.gov.vn
www.customs.gov
www.exim-pro.com/kinhte/thitruong
www.tcvn.gov.vn/wtcvn/newsraocan
www.vneconomy.com.vn
www.cia.gov/cia/publication/factbook
www.natonmaster.com/country
www.jisc.org
www.standards.com.au
www.smenet.com.vn/tiengviet/eu