YOMEDIA
ADSENSE
Ruộng bậc thang, một phương thức canh tác đặc trưng tại huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái
66
lượt xem 5
download
lượt xem 5
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Với diện tích đất nơi đây đa phần là đồi núi, có độ dốc cao. Bà con huyện Mù Cang Chải (hầu hết là bà con dân tộc Mông) canh tác chủ yếu một loại cây trồng đem lại hiệu quả thiết thực đó là lúa nƣớc ruộng bậc thang. Hiện nay Mù Cang Chải đã có 2.276 ha lúa ruộng, trong đó có gần 600 ha lúa cấy 2 vụ/năm. Nguồn thu từ lúa bậc thang của hộ nơi đây trung bình là 7,5 triệu đồng/hộ/năm.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Ruộng bậc thang, một phương thức canh tác đặc trưng tại huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái
Trần Lê Duy và cs<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
63(1): 56 - 60<br />
<br />
RUỘNG BẬC THANG, MỘT PHƢƠNG THỨC CANH TÁC ĐẶC TRƢNG<br />
TẠI HUYỆN MÙ CANG CHẢI, TỈNH YÊN BÁI<br />
Trần Lê Duy *, Dƣơng Thu Phƣơng<br />
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật - ĐH Thái Nguyên.<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Với diện tích đất nơi đây đa phần là đồi núi, có độ dốc cao. Bà con huyện Mù Cang Chải (hầu hết<br />
là bà con dân tộc Mông) canh tác chủ yếu một loại cây trồng đem lại hiệu quả thiết thực đó là lúa<br />
nƣớc ruộng bậc thang. Hiện nay Mù Cang Chải đã có 2.276 ha lúa ruộng, trong đó có gần 600 ha lúa<br />
cấy 2 vụ/năm. Nguồn thu từ lúa bậc thang của hộ nơi đây trung bình là 7,5 triệu đồng/hộ/năm. Bình<br />
quân mỗi hộ có số vốn từ 7.300.000 đến 9.700.000 đồng/hộ. Với diện tích canh tác của các hộ có<br />
dƣới 1 ha thì bình quân giá trị sản xuất tạo ra là 341.252,584 đồng/sào và với các hộ có diện tích trên<br />
1 ha thì giá trị sản xuất tạo ra là 418.445 đồng/sào. Lúa ruộng bậc thang mang lại nguồn thu cao nhất<br />
so với các loại cây trồng khác trên đất dốc. Vì vậy, việc canh tác lúa nƣớc trên ruộng bậc thang tại<br />
Mù Cang Chải nên giữ gìn, phát triển và nhân rộng kết hợp với nâng cao trình độ canh tác.<br />
Từ khóa: Ruộng bậc thang, đất dốc, phương thức canh tác, Mù Cang Chải, Yên bái.<br />
<br />
<br />
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU<br />
Việt Nam với ¾ diện tích đất tự nhiên là đồi<br />
núi, việc sử dụng đất đồi núi, đặc biệt là đất<br />
dốc phục vụ cho sản xuất nông nghiệp là một<br />
việc không thể thiếu đƣợc trong hoạt động sản<br />
xuất nông nghiệp hiện nay ở nƣớc ta. Do thiếu<br />
đất sản xuất nên nông dân miền núi vẫn phải<br />
canh tác trên đất có độ dốc cao, dẫn đến việc<br />
đất bị xói mòn rất mạnh, đất bị thoái hóa, năng<br />
suất cây trồng giảm làm cho cuộc sống của<br />
nông dân trở nên bấp bênh.<br />
Là một huyện miền núi khó khăn, hẻo lánh của<br />
tỉnh Yên Bái, với đại bộ phận dân chúng là<br />
ngƣời Mông, Mù Cang Chải là huyện đi đầu<br />
trong trong khu vực về phát triển ruộng bậc<br />
thang và có nhiều kinh nghiệm phát triển trong<br />
phƣơng thức canh tác này.<br />
Phƣơng thức ruộng bậc thang<br />
Là phƣơng thức canh tác xây dựng đồng ruộng<br />
trồng lúa nƣớc vùng đồi núi, đất ở sƣờn đồi,<br />
núi đƣợc san ủi thành các vạt đất có cùng độ<br />
dốc theo đƣờng đồng mức, tiếp nối nhau từ<br />
trên xuống theo kiểu bậc thang. Mỗi ruộng bậc<br />
thang (RBT) có bờ giữ nƣớc và chắn đất khỏi<br />
bị xói mòn, bờ giữ làm bằng đất, xếp bằng đá<br />
hộc hoặc trồng bằng cây cỏ. RBT thƣờng đƣợc<br />
làm để trồng lúa vì khả năng giữ nƣớc của<br />
ruộng khá tốt. Ở các tỉnh đồi núi phía bắc Việt<br />
Nam, RBT thƣờng đƣợc xây dựng ở chân đồi<br />
<br />
<br />
Tel: 0912 710 017, Email:<br />
<br />
núi với độ dốc < 10o, tuy nhiên ở vùng đồi núi<br />
cao, ngƣời Mông làm RMT trồng lúa trên cả<br />
sƣờn núi cao dốc > 25o và trên độ cao 1.500 m.<br />
Đồng thời với việc khai ruộng là làm mƣơng<br />
để “dẫn thuỷ nhập điền”. Hầu hết các dân tộc ở<br />
miền núi đều biết khai phá và làm RBT. Đặc<br />
biệt có những dân tộc nhƣ Hà Nhì, một số<br />
nhóm Nùng và Mông... có truyền thống khai<br />
phá và làm RBT rất giỏi trong những điều kiện<br />
địa hình cực kì khó khăn.[4]<br />
Kinh nghiệm canh tác trên ruộng bậc<br />
thang tại các quốc gia trên thế giới<br />
Qua nghiên cứu về hệ thống nông nghiệp trên<br />
đất dốc, các nhà nghiên cứu cho biết: du canh<br />
vẫn còn là hệ thống canh tác cạn chiếm ƣu thế<br />
ở nhiều vùng nhiệt đới Châu Á, Châu Phi,<br />
Châu Mỹ (RAPA, 1991). Đây là biện pháp sử<br />
dụng đất có thể chấp nhận đƣợc khi mật độ dân<br />
số không lớn vì thời gian bỏ hoá có thể kéo dài<br />
từ 10 đến 30 năm.<br />
Theo nhiều công trình nghiên cứu về hệ thống<br />
canh tác trên đất dốc của Intosh J.L.Mc.(1980),<br />
ở Indonesia và nhiều nơi khác những vùng đất<br />
nông nghiệp rộng lớn chỉ thích hợp cho hoa<br />
màu cạn, tài nguyên đất dốc chƣa đƣợc sử<br />
dụng đúng mức và trong nhiều trƣờng hợp còn<br />
bị lãng phí. Ở Indonesia có khoảng 15 - 20<br />
triệu ha đất dốc địa hình lƣợn sóng nhẹ có thể<br />
trồng hoa màu nhƣng chƣa đƣợc khai thác sử<br />
dụng có hiệu quả.<br />
Intosh J.L.Mc (1980) [7] cũng đã chỉ ra những<br />
nhân tố kiềm chế sự phát triển sản xuất hoa<br />
<br />
56<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Trần Lê Duy và cs<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
màu trên đất dốc. Đất dốc Đông Nam Á khác<br />
nhau rất nhiều về địa hình, độ phì tự nhiên,<br />
tính chất lý hoá và sinh học. Sự mất độ phì<br />
nhanh chóng là biểu hiện rõ nhất, thƣờng đất<br />
khai hoang đƣa vào sản xuất sau 2 - 3 năm thì<br />
mất độ phì vốn có và khả năng sản xuất.<br />
“ Sử dụng, quản lý đất dốc Châu Á” là tên gọi<br />
một mạng lƣới của Tổ chức quốc tế về nghiên<br />
cứu và quản lý đất dốc (IBSRAM) (Bell L.C<br />
and Edwards D.G 1986) [6]. Tổ chức này đã<br />
thực hiện nghiên cứu, quản lý đất dốc để phát<br />
triển nông nghiệp ở 7 nƣớc Châu Á:<br />
Indonesia, Malaisia, Philippines, Thái Lan,<br />
Trung Quốc và Việt Nam. Thực trạng chung<br />
của các nƣớc này là canh tác trên đất dốc<br />
không hợp lý làm cho đất bị xói mòn rửa trôi<br />
dẫn đến thoái hoá. Các nƣớc Anh, Pháp, Bỉ,<br />
Hà Lan (Chu Đình Hoàng, 1962) [2] đã đƣa<br />
cây cỏ 3 lá vào cơ cấu cây trồng mở ra một<br />
cuộc cách mạng xanh vào thế kỉ 18 và đã làm<br />
năng suất của lúa mì tăng lên<br />
hầu hết các nghiên cứu của các tác giả trên<br />
thế giới về hệ thống nông nghiệp trên đất dốc<br />
đều hƣớng vào đánh giá lợi ích kinh tế của<br />
mô hình cây trồng mang lại, kết hợp với đánh<br />
giá lợi ích về môi trƣờng do hệ thống cây<br />
trồng đó tác động nhƣ: chống xói mòn, bảo vệ<br />
và cải thiện độ phì đất; bảo vệ và duy trì<br />
nguồn nƣớc; lợi dụng tối đa điều kiện tự<br />
nhiên nhƣ ánh sáng, nhiệt độ, lƣợng mƣa…<br />
Canh tác trên RBT tại Việt Nam<br />
Diện tích đất dốc ở nƣớc ta là 25,265 triệu ha<br />
chiếm 76,6% diện tích đất tự nhiên. Trong đó<br />
đất có độ dốc dƣới 150 (chiếm 21,9%) đã<br />
đƣợc sử dụng cho sản xuất nông nghiệp hoặc<br />
nông lâm kết hợp, diện tích đất có độ dốc từ<br />
150 đến 250 chiếm khoảng 16,4%, còn lại là<br />
đất có độ dốc > 250 (chiếm 61,7%) [3].<br />
Theo Lê Thái Bạt (1996) [1] đất nông nghiệp<br />
vùng Tây Bắc có nhiều hạn chế và sử dụng<br />
chƣa hiệu quả, cây hàng năm chiếm đến<br />
67,4% trong cơ cấu cây trồng nên lƣợng đất<br />
bị xói mòn, rửa trôi rất lớn. Theo các nhà thổ<br />
nhƣỡng, hàng năm trên đất rẫy trồng lúa và<br />
ngô lƣợng đất mất đi từ 119 – 276 tấn/ha;<br />
Canh tác trên đất dốc có nhiều hạn chế, mà<br />
hầu hết những hạn chế này là kết quả của quá<br />
trình canh tác bất hợp lý. Bùi Quang Toản<br />
<br />
63(1): 56 - 60<br />
<br />
(1991) [5] đã chỉ ra hạn chế lớn là: xói mòn<br />
rửa trôi, cỏ dại và khô hạn đất.<br />
Ruộng bậc thang tại huyện Mù Cang Chải<br />
Huyện Mù Cang Chải với diện tích đất canh<br />
tác đa phần là đất dốc. Trên đất dốc này bà<br />
con (hầu hết là bà con dân tộc Mông) canh tác<br />
chủ yếu một số loại cây trồng đem lại hiệu<br />
quả thiết thực cho bà con, đó là: Lúa nƣớc<br />
ruộng bậc thang, Lúa nƣơng và Ngô nƣơng.<br />
Diện tích lúa nói chung năm 2005 là 3943 ha,<br />
năm 2006 tăng lên là 4085 ha, mức tăng 142<br />
ha, tốc độ tăng tƣơng ứng 3,6%. Năm 2007<br />
diện tích cây lúa tăng lên 4267,3 ha. Hiện nay<br />
Mù Cang Chải đã có 2.276 ha lúa RBT, trong<br />
đó có gần 600 ha lúa cấy 2 vụ/năm.<br />
Tại huyện vùng cao Mù Cang Chải bà con<br />
nông dân sản xuất nông nghiệp phần lớn vẫn<br />
dựa vào các kinh nghiệm từ xƣa để lại, hầu<br />
hết bà con không đƣợc học qua các lớp đào<br />
tạo, các kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp.<br />
Sản xuất nông nghiệp mang tính tự cấp tự túc<br />
là chủ yếu, bà con chƣa biết áp dụng các tiến<br />
bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, do đó hiệu<br />
quả sản xuất, năng suất lao động thấp.<br />
Một vài năm gần đây bà con Huyện Mù Cang<br />
Chải cũng đã áp dụng một số công nghệ sử<br />
dụng đất dốc bền vững của nƣớc ngoài theo<br />
hƣớng nông lâm và lâm – nông kết hợp đã<br />
bƣớc đầu áp dụng thành công ở nƣớc ta. Đó là<br />
kỹ thuật canh tác nông nghiệp đất dốc viết tắt<br />
là SALT.<br />
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Câu hỏi nghiên cứu<br />
Tại sao nghiên cứu canh tác trên RBT?<br />
RBT có ý nghĩa thế nào đối với những vùng<br />
canh tác trên đất dốc?<br />
Hiệu quả canh tác trên lRBT tại huyện Mù<br />
Cang Chải – tỉnh Yên Bái nhƣ thế nào?<br />
Các giải pháp để nâng cao hiệu quả canh tác<br />
trên trên RBT tại huyện Mù Cang Chải – tỉnh<br />
Yên Bái là gì?<br />
Phƣơng pháp nghiên cứu<br />
Áp dụng các phƣơng pháp thu thập thông tin<br />
sơ cấp và thứ cấp, phƣơng pháp đánh giá<br />
nhanh nông thôn (PRA), phƣơng pháp<br />
SWOT, phƣơng pháp điều tra chọn mẫu,<br />
Phƣơng pháp xử lý số liệu và phƣơng pháp<br />
phân tích số liệu thống kê (nhƣ phân tích<br />
tƣơng quan, phân tích hồi quy).<br />
<br />
57<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Trần Lê Duy và cs<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
Tình hình chung của các hộ canh tác trên<br />
đất dốc theo phƣơng thức ruộng bậc thang<br />
tại huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái<br />
Theo kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả<br />
cho thấy nhƣng điều kiện chung của các hộ<br />
canh tác trên ruộng bậc thang huyện Mù Cang<br />
Chải nhƣ sau:<br />
Đối với cây lúa ruộng bậc thang: Đây là cây<br />
trồng chính của các đồng bào dân tộc huyện<br />
MCC, với đặc điểm canh tác trên đất dốc và<br />
phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên.<br />
Nguồn thu từ lúa bậc thang của nhóm hộ<br />
trung bình 7.793.750 đồng/hộ/năm.<br />
Về vốn: Bình quân mỗi hộ nghèo1 có số vốn<br />
là 7.288.846 đồng/hộ, còn nhóm hộ trung<br />
bình2 có số vốn bình quân là 9.709.804<br />
đồng/hộ. Nhƣ vậy lƣợng vốn bình quân của<br />
nhóm hộ trung bình cao gấp 1.33 lần lƣợng<br />
vốn bình quân của nhóm hộ nghèo. Với lƣợng<br />
vốn lớn hơn thì khả năng đầu tƣ cho sản xuất<br />
của nhóm hộ trung bình cũng sẽ cao hơn so<br />
với nhóm hộ nghèo. Tỷ lệ vốn tự có bình<br />
quân của hộ trung bình là 3.133.333<br />
đồng/hộ/năm, tỷ lệ vốn tự có bình quân của<br />
hộ nghèo là 2.415.000 đồng/hộ/năm. Tỷ lệ<br />
vốn tự có của hộ trung bình cao gấp 1,3 lần so<br />
với hộ nghèo, điều này chứng tỏ khả năng<br />
tích luỹ của hộ trung bình cao hơn.<br />
Về thu nhập của các hộ: Kết quả nghiên cứu<br />
cho thấy có khoảng cách lớn giữa tổng thu<br />
trung bình cuả 2 nhóm hộ: tổng thu trung bình<br />
của nhóm hộ trung bình lớn hơn gấp đôi tổng<br />
thu của nhóm hộ nghèo. Thu bình quân/ngƣời<br />
của nhóm hộ trung bình cao gấp 2,44 lần so<br />
với nhóm hộ nghèo.Thu bình quân/lao động<br />
của nhóm hộ nghèo nhỏ hơn 2,18 lần so với<br />
thu bình quân của nhóm hộ trung bình.<br />
Bảng thu nhập bình quân<br />
ĐVT: đồng<br />
<br />
Chỉ tiêu<br />
Bình<br />
khẩu/năm<br />
<br />
1<br />
<br />
Nhóm<br />
nghèo<br />
quân/nhân<br />
1.653.362<br />
<br />
hộNhóm<br />
hộ<br />
trung bình<br />
4.029.387<br />
<br />
Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân dƣới<br />
200.000đ/tháng (theo QĐ 170/2005/QĐ-TTg)<br />
2<br />
Hộ trung bình là hộ có thu nhập bình quân trên<br />
200.000đ/tháng (theo QĐ 170/2005/QĐ-TTg)<br />
<br />
63(1): 56 - 60<br />
<br />
Bình<br />
quân/nhân<br />
137.780<br />
335.782<br />
khẩu/tháng<br />
Bình<br />
quân/lao<br />
4.223.818<br />
9.207.540<br />
động/năm<br />
Bình<br />
quân/lao<br />
351.985<br />
767.295<br />
động/tháng<br />
( Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2008)<br />
<br />
Kết quả sản xuất canh tác trên đất dốc của<br />
nhóm hộ.<br />
Trong 3 loại cây trồng lúa nƣơng, ngô nƣơng<br />
và lúa nƣớc thì lúa nƣớc ruộng bậc thang là<br />
mang lại hiệu quả nhất khi năng suất, sản<br />
lƣợng và số tiền đem lại của lúa ruộng bậc<br />
thang cao hơn nhiều so với các loại cây trồng<br />
còn lại. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy mức<br />
độ chênh lệch khi so sánh bằng tiền các loại<br />
cây trồng trên đất dốc của hai nhóm hộ, rõ<br />
ràng đối với nhóm hộ trung bình thì thu bằng<br />
tiền cao hơn so với nhóm hộ nghèo.<br />
Đa phần bà con nơi đây vẫn tận dụng những<br />
giống lúa có sẵn tại địa phƣơng nên chi phí<br />
bình quân của một hộ về giống là tƣơng đối<br />
nhỏ so với tổng chi phí. Trung bình 1 sào Bắc<br />
Bộ canh tác sẽ cần từ 4-5kg giống. Bình quân<br />
mỗi hộ ở nhóm hộ trung bình sử dụng<br />
620.000đ giống trong khi nhóm hộ nghèo chỉ<br />
sử dụng có 391.000đ.<br />
Lúa ruộng bậc thang mang lại nguồn thu cao<br />
nhất so với các loại cây trồng khác trên đất<br />
dốc. Vì vậy, việc canh tác lúa nƣớc trên ruộng<br />
bậc thang ở Mù Cang Chải nên giữ gìn, phát<br />
triển và nhân rộng kết hợp với nâng cao trình<br />
độ canh tác, thâm canh để cây trồng này ngày<br />
càng mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn, trở<br />
thành cây trồng chủ lực với bà con nơi đây.<br />
Hiệu quả kinh tế trên RBT của nhóm hộ<br />
phân theo diện tích canh tác (tính cho một<br />
sào canh tác)<br />
Hầu hết số diện tích canh tác đều đƣợc sử dụng<br />
để canh tác RBT. Nhóm hộ có diện tích canh<br />
tác dƣới 1ha thì bình quân mỗi hộ có diện tích<br />
lúa ruộng bậc thang là 12,19 sào/hộ; giá trị sản<br />
xuất tạo ra là 341.252,584 đồng/sào, với chi<br />
phí sản xuất là 38.919,002 đồng/sào và giá trị<br />
gia tăng tạo ra đƣợc là 302.233,582 đồng/sào<br />
Chỉ<br />
tiêu<br />
<br />
ĐVT<br />
<br />
GO<br />
<br />
Đồng<br />
<br />
Nhóm hộ có diện Nhóm hộ có diện<br />
tích dƣới 1ha đất tích trên 1ha đất<br />
canh tác<br />
canh tác<br />
341.252,584<br />
418.445,085<br />
<br />
58<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Trần Lê Duy và cs<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
IC<br />
<br />
Đồng<br />
<br />
38.919,002<br />
<br />
43.940,798<br />
<br />
VA<br />
<br />
Đồng<br />
<br />
302.333,582<br />
<br />
374.504,287<br />
<br />
TGO/IC<br />
<br />
Lần<br />
<br />
8,768<br />
<br />
9,523<br />
<br />
TVA/IC<br />
<br />
Lần<br />
<br />
7,768<br />
<br />
8,523<br />
<br />
( Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2008)<br />
<br />
Còn nhóm hộ có diện tích canh đất dốc trên<br />
1ha thì bình quân mỗi hộ có diện tích ruộng<br />
bậc thang là 34,818 sào; giá trị sản xuất đƣợc<br />
tạo ra cao hơn nhóm hộ có diện tích dƣới 1ha<br />
22,62% tức là ở mức 418.445 đồng/sào với<br />
mức chi phí đầu tƣ cho canh tác cũng lớn hơn<br />
ở mức 43.940 đồng/sào.<br />
Những thách thức đối với canh tác trên<br />
ruộng bậc thang.<br />
Nguồn nƣớc khan hiếm, độ xói mòn đất cao,<br />
Trình độ canh tác lạc hậu, sự manh mún đặc<br />
trƣng của canh tác trên ruộng bậc thang.<br />
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ<br />
Kết luận rút ra từ thực tế<br />
Qua số liệu phân tích ta thấy phƣơng thức<br />
canh tác của ngƣời dân còn lạc hậu, sự ảnh<br />
hƣởng của các yếu tố nhƣ năng suất, chi phí,<br />
học vấn, lao động, mức vay, lãi suất vay tới<br />
hiệu quả canh tác trên RBT còn chƣa nhiều.<br />
Nhƣ vậy với mức tổng thu trung bình của hộ<br />
trên RBT là 7,8 triệu đồng/năm cho thấy mức<br />
sống của ngƣời dân nơi đây là quá thấp, hiệu<br />
quả canh tác kém. Sản lƣợng quy<br />
thóc/ngƣời/năm của<br />
hộ<br />
là:<br />
378,63<br />
kg/ngƣời/năm trong khi sản lƣợng này của cả<br />
nƣớc là 465 kg/ngƣời/năm. Nhƣ vậy sản<br />
lƣợng quy thóc bình quân của các hộ ở đây<br />
cũng thấp hơn của cả nuớc. Dự kiến mức tiêu<br />
thụ gạo làm lƣơng thực cho ngƣời đến năm<br />
2010 của cả nƣớc khoảng 130 kg<br />
gạo/ngƣời/năm (tƣơng đƣơng 220 kg thóc),<br />
đến năm 2015 khoảng 120 kg gạo/ngƣời/năm<br />
(tƣơng đƣơng 200 kg thóc). Khi mức thu nhập<br />
tăng lên, nhu cầu về các loại lƣơng thực thực<br />
phẩm khác ngoài lúa gạo tăng cao, do đó<br />
lƣợng thóc trên ngƣời trên năm giảm. Với<br />
mức thu nhập nhƣ vậy thì cuộc sống ngƣời<br />
dân nơi đây chƣa đƣợc đảm bảo. Cần có<br />
những giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả<br />
canh tác trên RBT, nâng cao năng suất, mở<br />
rộng diện tích .v.v… từ đó nâng cao thu<br />
nhập cho ngƣời dân, cải thiện đời sống vật<br />
chất lẫn tinh thần.<br />
<br />
63(1): 56 - 60<br />
<br />
Các giải pháp đề xuất<br />
Nâng cao chất lượng sản phẩm<br />
Thực hiện các biện pháp khoa học công nghệ để<br />
bảo vệ đất tốt nhất; Đa dạng hoá hệ canh tác<br />
trên đất dốc, phát triển lúa nƣớc ruộng bậc<br />
thang; Lựa chọn cây trồng, sử dụng đất có hiệu<br />
quả, phát huy các hệ thống canh tác truyền<br />
thống, kiến thức bản địa. Xây dựng các mô hình<br />
canh tác bền vững trên đất dốc kiểu SALT1,<br />
SALT2 và các mô hình nông lâm kết hợp, phát<br />
triển các mô hình kinh tế hộ theo kiểu VCR,<br />
VACR, VAC phù hợp với điều kiện từng vùng.<br />
Đào tạo nguồn lực<br />
Đối với ngƣời dân ở đây, việc học tập và<br />
đƣợc đào tạo về các phƣơng thức sản xuất<br />
tiên tiến là chƣa từng có. Việc đào tạo nguồn<br />
lực phát triển nông nghiệp ở huyện Mù<br />
Cang Chải là điều hết sức cần thiết, đặc biệt<br />
là đối với cán bộ khuyến nông của huyện.<br />
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn<br />
Cần chú trọng phát triển chăn nuôi, nhất là<br />
chăn nuôi đại gia súc nhƣ trâu, bò, dê. Bởi vì<br />
đây là khu vực có ít diện tích đất sản xuất<br />
nông nghiệp trong khi diện tích đất đồi núi,<br />
đất rừng còn nhiều là điều kiện thuận lợi về<br />
diện tích chăn thả; Cần xây dựng các chính<br />
sách cho phát triển nghề rừng. Rừng là tài<br />
nguyên quan trọng đối với quốc gia nói chung<br />
và Mù Cang Chải nói riêng.<br />
Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng<br />
nông thôn<br />
Cơ sở hạ tầng nông thôn nhƣ giao thông, thuỷ<br />
lợi, điện, thông tin liên lạc… có vai trò rất to<br />
lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế nông<br />
thôn và đảm bảo an toàn lƣơng thực tại huyện.<br />
Quy hoạch và hoàn thiện vùng chuyên canh<br />
trên ruộng bậc thang<br />
Tiếp tục công tác giao quyền sử dụng đất lâu<br />
dài cho ngƣời dân để họ yên tâm sản xuất.<br />
Cần có chính sách hỗ trợ khai phá, đảm bảo<br />
ngƣời có công khi phá đƣợc khai thác mảnh<br />
đất đó trong một thời gian nhất định<br />
Là một huyện miền núi thuộc tỉnh Yên Bái,<br />
Mù Cang Chải còn gặp nhiều khó khăn trong<br />
việc phát triển kinh tế xã hội của huyện. Do<br />
địa hình núi cao và bị chia cắt, đất đai canh<br />
tác của huyện chủ yếu là đất dốc, có độ dốc<br />
tƣơng đối cao. Việc này dẫn đến những khó<br />
khăn trong lựa cọn phƣơng thức canh tác phù<br />
<br />
59<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Trần Lê Duy và cs<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
hợp và phát triển kinh tế cho đồng bào dân<br />
tộc của huyện. Với mục đích nghiên cứu là<br />
tìm ra phƣơng thức canh tác trên đất dốc có<br />
hiệu quả nhất nhằm giúp cho và con dân tộc<br />
thiểu sổ của huyện nâng cao cuộc sống cũng<br />
nhƣ các điều kiện kinh tế xã hội khác của<br />
vùng, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu này<br />
để có đƣợc những kết luận, cũng nhƣ các kiến<br />
nghị với các cơ quan chức năng liên quan<br />
khắc phục những hạn chế khó khăn cũng nhƣ<br />
tìm ra mô hình phù hợp để nhân rộng ra<br />
những nơi có điều kiện tƣơng tự.<br />
Từ nghiên cứu điều tra thực tiễn, cây trồng<br />
chính đƣợc canh tác trên đất dốc tại địa bàn<br />
nghiên cứu là lúa nƣớc ruộng bậc thang, ngô<br />
nƣớc và lúa nƣơng. Với điều kiện về khí hậu,<br />
nguồn nƣớc, tập quán canh tác của bà con dân<br />
tộc Mông nơi đây thì chủ yếu tập trung vào<br />
cây lúa nƣớc ruộng bậc thang vẫn là một<br />
hƣớng đi đúng đắn.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. Lê Thái Bạt (1996), “Đánh giá và đề xuất sử<br />
dụng đất trên quan điểm sinh thái và phát triển lâu<br />
bền vùng Tây Bắc”, Hội thảo "Đánh giá và quy<br />
<br />
63(1): 56 - 60<br />
<br />
hoạch sử dụng đất", Viện Quy hoạch và Thiết kế<br />
nông nghiệp<br />
[2]. Chu Đình Hoàng (1962), “Chống xói mòn<br />
bằng biện pháp canh tác”, Tạp chí Khoa học và Kỹ<br />
thuật số 18, Hà Nội<br />
[3]. Thái Phiên, Nguyễn Tử Siêm (1998), Canh<br />
tác bền vững trên đất dốc ở Việt Nam<br />
[4]. Chu Thị Thơm, Phan Thị Lài, Nguyễn Văn Tó<br />
(2006)- Hiện tượng xói mòn đất và biện pháp<br />
phòng chống - Nxb Lao động<br />
[5]. Bùi Quang Toản (1991). Một số vấn đề về đất<br />
nương rẫy ở Tây Bắc và phương hướng sử dụng.<br />
Viện KHKT Nông nghiệp Việt Nam<br />
[6]. Bell L.C and Edwards D.G (1986), The role of<br />
aluminum in acid soil infertility, Soil management<br />
under humid conditions in Asia and Pacific,<br />
IBSRAM proceedings, No 5<br />
[7]. Itosh I.L.Mc (1990), Croping systems and soil<br />
classification for Agrotechnology development<br />
and transfer, Bogo, Indonesia<br />
[8]. Trần Lê Duy (2009) Luận văn tốt nghiệp thạc<br />
sỹ kinh tế nông nghiệp “Đánh giá hiệu quả canh<br />
tác trên ruộng bậc thang tại Huyện Mù Cang Chải,<br />
Tỉnh Yên Bái”, Trƣờng Đại học Kinh tế và Quản trị<br />
kinh doanh – Đại học Thái Nguyên.<br />
<br />
SUMMARY<br />
TERRACED FIELD, A TYPICAL MODE OF CULTIVATION AT<br />
MU CANG CHAI DISTRICT, YEN BAI PROVINCE<br />
Tran Le Duy , Duong Thu Phuong<br />
College of Economics and Technology - Thai Nguyen University<br />
<br />
Most of area under cultivation are hills and mountains, has high slope. People in Mu Cang Chai,<br />
almost ethnic Mong, cultivate a good crop plant is rice on the terraced field. At present Mu Cang<br />
Chai has 2.276 ha of rice on the terraced fields, 600 ha among them are field grown with two rice<br />
crops a year. Average yield from terraced fields is about 7.500.000 VNĐ/household/year. Capital<br />
of household is from 7.300.000 VNĐ to 9.700.000 VNĐ. Households who have below 1ha of rice<br />
on the terraced field, the gross output (GO) is 341.252,584 VNĐ/sao (1 Sao = 360m2) and<br />
households who have over 1ha of rice on the terraced field, the gross operate is 418.445 VNĐ/sao.<br />
Rice on the terraced field bring the highest income in crop of plants at Mu Cang Chai, so<br />
Administration of Mu Cang Chai district and people should conserve, develop and spread this<br />
mode of cultivation out.<br />
Key words:Terrace field, sloping land, Cropping method, Mu Cang Chai, Yen Bai<br />
<br />
<br />
<br />
Tel:0912710017 , Email:<br />
<br />
60<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
ADSENSE
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn