
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến Sở giáo dục đào tạo tỉnh Ninh Bình
STT Họ và tên
Ngày
tháng
năm
sinh
Nơi công tác Chức
danh
Trình độ chuyên
môn
1 Lý Thị Phong Lan 1976 THCS
Lý Tự Trọng Giáo viên Cử nhân khoa học
Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “ Tích hợp ngữ liệu văn học trong
dạy học môn lịch sử cấp trung học cơ sở”.
Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Sáng kiến được áp dụng giảng dạy môn Lịch Sử tại
trường THCS Lý Tự Trọng – TP Ninh Bình
Thời gian áp dụng sáng kiến: Năm học 2020-2021 và 2021-2022
NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Giải pháp cũ thường làm
1.1 Mô tả giải pháp cũ:
Thứ nhất: Trong giờ học người giáo viên giữ vai trò chủ đạo, vẫn học theo lối cũ. Có
nghĩa là:
- Khi tiến hành bài học, giáo viên vẫn đọc cho học sinh ghi nội dung chủ yếu của bài
- Các sự kiện lịch sử, hiện tượng lịch sử, nhân vật lịch sử…không được trình bày một cách cụ
thể, sinh động.
- Học sinh không làm việc trực tiếp với sử liệu
- Người giáo viên không tận dụng được khả năng tạo ra sự xúc động, rung cảm của học sinh
trước các sự kiện và hiện tượng lịch sử.
Từ đó dẫn đến việc học sinh thụ động trong quá trình lĩnh hội kiến thức.
Thứ hai: Các phương tiện hỗ trợ cho việc dạy học lịch sử còn đơn điệu, sơ sài, việc
dạy trên lớp vẫn dạy chay nhiều hơn, ít hình ảnh minh họa, nếu có thì chủ yếu là hình ảnh đã
phổ biến. Từ đó dẫn đến gìờ học buồn tẻ, thiếu sức sống, không tác động đến hứng thú học
tập của học sinh.

Thứ ba: Các hình thức học tập chủ yếu diễn ra trên lớp học, bài kiểm tra giáo viên
tiến hành theo phân phân phối chương trình chủ yếu kiểm tra định kì viết và kiểm tra thường
xuyên miệng. Chưa có sự đổi mới kiểm tra, đánh giá.
2. Giải pháp mới cải tiến.
Tài liệu văn học trong quá trình dạy học lịch sử ở trường trung học cơ sở có vai trò
to lớn:
Trước hết, các tác phẩm văn học với những hình tượng cụ thể có tác động mạnh mẽ
đến tư tưởng, tình cảm của học sinh, nó giúp học sinh tiếp nhận kiến thức, khắc sâu kiến thức
một cách dễ dàng hơn.
Thứ hai, các tác phẩm văn học góp phần làm cho bài giảng thêm sinh động, hấp dẫn,
nâng cao hứng thú của học sinh.
Trong việc dạy học lịch sử ở trường trung học cơ sở tuỳ vào nội dung từng bài, từng
phần mà giáo viên có thể đưa vào bài giảng các loại tài liệu văn học khác nhau như: Văn học
dân gian; tác phẩm văn học ra đời vào thời kì xảy ra sự kiện lịch sử; tiểu thuyết lịch sử; hồi
kí cách mạng... Mỗi loại lại có ý nghĩa khoa học riêng, do đó khi sử dụng phải phù hợp với
yêu cầu bài giảng; với từng sự kiện, nhân vật lịch sử mà giáo viên lựa chọn đưa vào.
Sử dụng ngữ liệu văn học trong dạy học lịch sử ở trường trung học cơ sở giúp học sinh
có cái nhìn đa chiều đối với một sự kiện, một nhân vật, một hiện tượng lịch sử. Giáo viên sẽ
dễ dàng hơn trong việc đưa kiến thức sử đến với học sinh. Tuy vậy, theo tôi việc sử dụng
ngữ liệu văn học trong dạy học lịch sử ở trường trung học cơ sở phải đảm bảo các yêu cầu
sau:
Thứ nhất: Tài liệu văn học đó phải đảm bảo cả giá trị giáo dưỡng, giáo dục và giá trị
lịch sử.
Thứ hai: Tài liệu ấy phải là một bức tranh sinh động về những sự kiện, nhân vật lịch
sử đang học và phải phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh.
Yêu cầu đối với giáo viên:
- Trước khi sử dụng, cần có sự lựa chọn kĩ càng, phải loại bỏ những yếu tố không phù
hợp. Đặc biệt đối với tài liệu văn học dân gian như thần thoại, cổ tích, ca dao, dân ca... giáo
viên cần loại bỏ những yếu tố thần bí hoang đường, giữ lại những điểm cơ bản, khoa học
phục vụ bài giảng.
- Khi sử dụng ngữ liệu văn học, giáo viên chỉ đưa vào những nội dung phù hợp,
tránh việc lạm dụng đưa vào quá nhiều, làm loãng nội dung bài học lịch sử, biến giờ học
sử thành giờ giới thiệu các tác phẩm văn học, ảnh hưởng tới sự tập trung nhận thức của
học sinh vào những vấn đề đang học. Đồng thời, giáo viên cần sử dụng ngữ điệu phù hợp
với tài liệu văn học, với nội dung sự kiện lịch sử cần minh hoạ phải đưa vào bài giảng
một cách hợp lí, lôgíc... làm được điều đó thì tính thuyết phục, hấp dẫn sẽ tăng lên rất
nhiều.
Nói tóm lại, việc sử dụng ngữ liệu văn học trong dạy học lịch sử ở trường trung học cơ
sở là một trong những cách thức để giáo viên đưa tài liệu tham khảo vào trong giờ dạy, thực
hiện theo sơ đồ dạy học của Đairi, qua đó hoàn thành mục tiêu bài học, kế hoạch dạy học và
nâng cao chất lượng bộ môn trong trường trung học cơ sở.
Để sử dụng ngữ liệu văn học trong dạy học lịch sử ở trường trung học cơ sở, có thể
tiến hành theo những giải pháp sau:
2.1. Giải Pháp thứ nhất: Đưa vào bài giảng một đoạn thơ, đoạn văn ngắn nhằm minh
hoạ những sự kiện đang học làm cho nội dung bài học được phong phú và giờ học thêm sinh
động.
2

Ở Bài 14 (Lịch sử 9): Việt Nam sau chiến tranh Thế giới thứ nhất. (Mục II: Các chính
sách chính trị, văn hóa, giáo dục).
Khi giảng về các chính sách chính trị, văn hóa, giáo dục của thực dân Pháp đối với
nhân dân ta, giáo viên có thể trích dẫn một đoạn trong “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí
Minh để minh họa cho sự kiện đang học, qua đó giáo dục lòng yêu nước, lòng căm thù giặc
cho học sinh:
“Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học, chúng thẳng tay chém giết những người
yêu nước, thương nòi của ta, chúng tắm những cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn
để làm cho nòi giống ta suy nhược…”
(Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn độc lập)
Giáo viên giảng, học sinh cảm thụ: Đây là dẫn chứng, chứng tỏ chính sách cai trị thâm
độc và dã man của thực dân Pháp đối với nhân dân ta, bác bỏ luận điệu “Khai phá văn
minh” của mẫu quốc Pháp.
2.2. Giải Pháp thứ hai: Dùng một đoạn trích (văn hoặc thơ) để cụ thể hoá sự kiện, nêu
ra kết luận khái quát giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn một thời kì, một sự kiện lịch sử.
Trong Bài 14 (Lịch sử 6: Nhà nước Văn Lang- Âu Lạc. Sách Kết nối tri thức ). (Mục
2:Sự ra đời nước Âu Lạc) khi tìm hiểu về sơ đồ thành Cổ Loa giáo viên dẫn hai câu ca dao:
“ Ai về qua huyện Đông Anh
Ghé xem phong cảnh Loa thành Thục vương”
(Sơ đồ thành Cổ Loa, Sách giáo khoa Lịch sử 6 trang 62)
Giáo viên phát vấn để học sinh suy nghĩ trả lời: Em hãy cho biết thành Cổ Loa được
xây dựng ở đâu? Tại sao lại gọi là Loa thành?
Dựa vào câu ca dao và sách giáo khoa học sinh sẽ trả lời được là thành Cổ Loa được
xây dựng tại huyện Đông Anh Hà Nội ngày nay. Nó có các vòng thành xoắn chôn ốc nên
3

được gọi là Loa thành.
Đông thời giáo viên cũng kết hợp gợi cho học sinh về câu chuyện truyền thuyết “ Mỵ
Châu, Trọng Thuỷ” , về việc thần Kim Quy giúp nhà vua xây thành.Từ đó giúp học sinh dễ
dàng nhớ về sự kiện lịch sử đó.
Hay ở Bài 19 (Lịch sử 7): Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
Trong không khí chiến thắng quân Thanh xâm lược, nghĩa quân tiến thẳng vào Thăng
Long trong không khí vui mừng của nhân dân, giáo viên dẫn câu thơ của Ngô Ngọc Du:
“Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến
Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh...”
Vua Quang Trung vào Thăng Long (Nguồn: Bảo tàng Quang Trung)
Giáo viên đặt câu hỏi để học sinh trả lời: Qua 2 câu thơ trên em hãy cho biết thái độ
của nhân dân Đàng Ngoài khi nghĩa quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long?
Học sinh suy nghĩ trả lời: Nhân dân ta ở Đàng Ngoài đã quá chán ghét chế độ vua Lê
chúa Trịnh, họ coi Quang Trung như một anh hùng dân tộc, họ đổ ra đường hồ hởi chào đón
người anh hùng vừa chiến thắng ngoại xâm, theo sau là một đội quân kỉ luật nghiêm minh
“chỉnh tề tiến”.
Ở Bài 24 (Lịch sử 8): Cuộc kháng chiến chống Pháp từ năm 1858 đến năm 1873. Khi
nói đến tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược thì chế độ phong kiến nhà
Nguyễn khủng hoảng trầm trọng kéo theo khủng hoảng về kinh tế, xã hội như nông nghiệp
sa sút, đất đai khai khẩn được lại rơi vào tay địa chủ, dân phiêu tán khắp nơi. Giáo viên có
thể trích một bài vè nói về tình cảnh của nhân dân ở giai đoạn này:
“Cơm thì chẳng có
Rau cháo cũng không
Đất trắng xóa ngoài đồng
Nhà giàu niêm kín cổng
Còn một bộ xương sống
4

Vơ vất đi ăn mày”
Giáo viên đặt câu hỏi để học sinh trả lời: Qua bài vè, em có nhận xét gì về xã hội nước
ta giữa thế kỉ XIX?
Học sinh dựa vào bài vè và sách giáo khoa có thể trả lời được tình trạng nước ta là
quan lại tham ô đục khoét. Hào cường, địa chủ hung tàn bạo ngược, ngang nhiên chiếm đoạt
ruộng đất. Nạn dịch xảy ra khắp nơi, khởi nghĩa nổi nên từ Nam chí Bắc. Nguy cơ mất nước
cho giặc Tây ngày càng lớn. Quan coi dân như kẻ thù, dân sợ quan như cọp, ngày ngày đục
tháng khoét của dân cho đầy túi riêng. Đời sống nhân dân vô cùng cực khổ.
Đến Mục 2: Chiến sự ở Gia Định 1959. Ngày 17/2/1859, Pháp nổ súng đánh thành
Gia Định, quân triều đình nhanh chóng tan rã, Nguyễn Đình Chiểu đã ghi lại sự kiện bi thảm
này qua bài thơ “Chạy Tây”. Giáo viên dẫn bài thơ và bình cho học sinh cảm nhận tình cảnh
nước ta lúc bấy giờ:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dát bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
(Nguyễn Đình Chiểu – NXB Văn học, Hà Nội 1963)
Giáo viên giảng để khắc sâu sự kiện: Tả chạy giặc, một cuộc chạy vội vã, đột ngột
không hề được chuẩn bị. Một cảnh tượng bối rối, hốt hoảng, lộn xộn của lũ trẻ và bầy chim
là sự mất mát, thiệt hại của cả một vùng quê rộng lớn. Cuối bài không phải chỉ là một câu hỏi
gay gắt mà còn là lời phê phán nghiêm khắc những trang dẹp loạn của triều đình nhà
Nguyễn. Sau Hiệp ước Giáp Tuất 1874, nhân dân phản đối mạnh mẽ, nhân dân không chỉ
đánh Tây mà chống cả triều đình:
“Dập dìu trống đánh cờ xiêu
Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây”
2.3. Giải Pháp thứ ba: Tài liệu văn học được sử dụng để tổ chức những buổi ngoại
khoá. (Dạ hội lịch sử).
Việc tổ chức hoạt động ngoại khoá môn Lịch sử là một trong những biện pháp hữu
hiệu để nâng cao chất lượng dạy học của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông hiện nay. Qua
các hoạt động ngoại khoá, tôi nhận thấy hầu hết học sinh đều hứng thú tham gia, không khí
của buổi sinh hoạt trở nên sinh động. Qua đó góp phần rèn luyện cho học sinh phát huy tối
đa tư duy độc lập, sáng tạo của các em khi làm việc. Đây là cơ sở để sau này học sinh có
phương pháp hoạt động thực tế năng động trong cuộc sống.
Chương trình bộ môn Lịch sử có nhiều địa danh rất gần gũi với học sinh Ninh Bình
nói chung và học sinh Trường trung học cơ sở Lý Tự Trọng thành phố Ninh Bình nói riêng
như : Núi Thúy, đền thờ Trương Hán Siêu, Đền Vua Đinh vua Lê, Nhưng đặc biệt hơn cả đó
5

