intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh thông qua việc tổ chức hoạt động tự làm một số thí nghiệm đơn giản sau khi học bài Các dạng cân bằng - cân bằng của một vật có mặt chân đế (SGK Vật lí 10 THPT)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:26

28
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu "Phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh thông qua việc tổ chức hoạt động tự làm một số thí nghiệm đơn giản sau khi học bài Các dạng cân bằng - cân bằng của một vật có mặt chân đế (SGK Vật lí 10 THPT)" nhằm củng cố, đào sâu, mở rộng các kiến thức đã học, phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh thông qua việc tổ chức hoạt động tự làm một số thí nghiệm đơn giản sau khi học bài Các dạng cân bằng - cân bằng của một vật có mặt chân đế (SGK Vật lí 10 THPT)

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ  TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH 3 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC  VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH THÔNG QUA VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG  TỰ LÀM MỘT SỐ THÍ NGHIỆM ĐƠN GIẢN  SAU KHI HỌC BÀI “CÁC DẠNG CÂN BẰNG. CÂN BẰNG  CỦA MỘT VẬT CÓ MẶT CHÂN ĐẾ” (SGK VẬT LÍ 10 THPT) Người thực hiện:  Nguyễn Thị Hoàng Thanh Chức vụ:  Giáo viên, tổ trưởng chuyên môn SKKN thuộc lĩnh vực (môn):  Vật lí 1
  2. MỤC LỤC Trang 1. MỞ ĐẦU 1 1.1 Lí do chọn đề tài…………............…...…….………………… 1 1.2 Mục đích nghiên cứu…………………...................………… 2 1.3 Đối tượng nghiên cứu………………………………………… 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu…………….….......……………… 2 2. NỘI DUNG 3 2.1 Cơ sở lí luận .................................................................................. 3 2.1.1 Chế tạo và sử dụng các dụng cụ thí nghiệm đơn giản trong dạy   3 học Vật lí ở trường phổ thông................................................................ 2.1.1.1  Các   yêu   cầu   đối   với  việc   chế   tạo    các  dụng   cụ   thí   nghiệm  đơn   3 giản......................................................................................... 2.1.1.2 Sự cần thiết của việc sử dụng các dụng cụ  thí nghiệm   3 đơn  giản trong dạy học Vật lí....................................................... 2.1.1.3 Thí nghiệm Vật lí ở nhà là một loại bài tập mà giáo viên   giao   cho   từng   học   sinh   hoặc   nhóm   học   sinh   thực   hiện   ở   4 nhà....... 2.1.2 Tính tích cực và năng lực sáng tạo của học sinh trong học tập .. 5          2.1.2.1 Tính tích cực trong học tập của học sinh.......................... 5          2.1.2.2. Năng lực sáng tạo của học sinh trong hoạt động học tập 5 2.2 Thực trạng vấn đề ………………………………….............. 6 2.2.1 Tình hình giảng dạy của giáo viên................................................. 6 2.2.2 Tình hình học tập của học sinh...................................................... 6 2.2.3 Tình hình thiết bị thí nghiệm.......................................................... 6 2.2.4     Nguyên   nhân   về   thực   trạng   học   tập   của   học   6 sinh ................................ 2.3   Các   giải   pháp   đã   sử   dụng   để   giải   quyết   vấn   7 đề............................ 2.3.1 Quy trình thực hiện........................................................................ 7 2.3.2 Các nhiệm vụ học tập mà giáo viên đã giao cho học sinh thực  hiện và một số sản phẩm của học  7 sinh....................................................       2.3.2.1 Thí nghiệm nghiên cứu về trọng tâm vật rắn............ 7       2.3.2.2 Thí nghiệm nghiên cứu các dạng cân bằng của vật rắn... 9       2.3.2.3  Thí nghiệm nghiên cứu mức vững vàng của vật có mặt  10
  3. chân  đế.......................................................................................... 2.3.3 Tổ chức cho các nhóm báo cáo sản phẩm, tiến hành thí nghiệm  12 với thiết bị đã chế tạo............................................................................ 2.4 Hiệu quả của giải pháp................................................................... 12 2.4.1 Đối với học sinh............................................................................ 12 2.4.2 Đối với bản thân giáo viên............................................................ 13 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 13 3.1 Kết luận........................................................................................... 13 3.2 Kiến nghị......................................................................................... 13 TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
  4. 1. MỞ ĐẦU 1.1 Lí do chọn đề tài Cùng với sự  phát triển nhanh chóng của thế  giới trên mọi lĩnh vực và  để  đạt được mục tiêu xây dựng thành công Chủ  nghĩa Xã hội, Đảng và nhà  nước ta luôn coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu” và đang thực hiện quá trình   đổi mới giáo dục một cách toàn diện nhằm mục tiêu“ đào tạo con người Việt  Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ  và nghề  nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ  nghĩa xã hội; hình  thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng  yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và  bảo vệ Tổ quốc” [1] . Luật GD đã nêu “ Phương pháp giáo dục phổ  thông phải phát huy tính  tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của  từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự  học, khả  năng làm việc   theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến  tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.” Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm vì vậy một trong những khâu  quan trọng của quá trình đổi mới phương pháp dạy học Vật lí là phải tăng   cường các hoạt động thực nghiệm của học sinh trong quá trình học tập. Học   sinh không những  cần được làm quen và tiến hành thí nghiệm trong giờ học  chính khóa mà còn ở các giờ học tự chọn, không những trên lớp học mà còn ở  ngoài lớp, ở nhà.  Việc đưa thí nghiệm vào dạy học làm cho học sinh tiếp cận   với con đường nghiên cứu khoa học của các nhà khoa học và tiếp thu các kiến   thức một cách dễ dàng và sâu sắc hơn. Thông qua hoạt động thực nghiệm vật  lý, học sinh sẽ  được  củng cố, mở  rộng kiến thức, rèn luyện khả  năng vận  dụng kiến thức vào thực tiễn; rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo; giáo dục tổng hợp và  tinh thần làm việc tập thể; kích thích sự  hứng thú, phát huy cao độ  tính tích  cực và phát triển năng lực sáng tạo. Đặc biệt, hình thức tố chức cho học sinh tự thiết kế, chế tạo dụng cụ và   tiến hành các thí nghiệm đơn giản sẽ đem lại hiệu quả dạy học rất cao vì nó  phù hợp với đặc thù bộ  môn, đáp  ứng được yêu cầu đổi mới dạy học hiện   nay là lấy người học làm trung tâm. Lúc này học sinh tiến hành thí nghiệm   Vật lí  trong điều kiện không có sự  giúp đỡ, kiểm tra trực tiếp của giáo viên  vì vậy đòi hỏi cao độ tính tự giác, tự lực, tích cực của học sinh trong học tập.   Cũng khác với các loại thí nghiệm khác, thí nghiệm Vật lí  ở  nhà chỉ  đòi hỏi   học sinh sử dụng các dụng cụ thông dụng trong đời sống, những vật liệu dễ  kiếm, rẻ tiền hoặc các dụng cụ  thí nghiệm đơn giản được học sinh chế  tạo  từ  những vật liệu này. Chính đặc điểm này tạo nhiều cơ hội phát triển năng  lực sáng tạo của học sinh trong việc thiết kế, chế tạo và sử  dụng các dụng   cụ nhằm hoàn thành nhiệm vụ được giao. [3] 1
  5. Qua quá trình dạy học bài “Các dạng cân bằng. Cân bằng của một vật  có mặt chân đế” (SGK Vật lí 10 THPT), tôi nhận thấy bài học này không có  thí nghiệm theo yêu cầu của SGK, tuy nhiên kiến thức bài học có sự  liên hệ  thực tiễn rất phong phú, rất gần gũi và có nhiều ứng dụng trong đời sống và kĩ  thuật. Có thể sử  dụng rất nhiều dụng cụ và thí nghiệm đơn giản, dễ  kiếm từ  cuộc sống để minh họa cho bài học. Chính vì vậy tôi đã giao nhiệm vụ về nhà  cho học sinh tự thiết kế, chế tạo và tiến hành một số thí nghiệm đơn giản liên  quan đến nội dung bài học và nhận thấy hiệu quả rất tốt của hoạt động này. Vì  vậy tôi xin trao đổi kinh nghiệm với các bạn đồng nghiệp qua   đề  tài SKKN  năm 2017 của tôi là: “PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG  LỰC SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH THÔNG QUA VIỆC TỔ  CHỨC HOẠT   ĐỘNG TỰ  LÀM MỘT SỐ  THÍ NGHIỆM ĐƠN GIẢN SAU KHI HỌC BÀI   “CÁC DẠNG CÂN BẰNG. CÂN BẰNG CỦA MỘT VẬT CÓ MẶT CHÂN ĐẾ”  (SGK VẬT LÍ 10 THPT). 1.2 Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu việc tổ  chức hoạt động cho học sinh thiết kế, chế  tạo và  tiến hành các thí nghiệm đơn giản sau khi học bài “Các dạng cân bằng. Cân   bằng của một vật có mặt chân đế” (SGK Vật lí 10 THPT) nhằm củng cố, đào  sâu, mở  rộng các kiến thức đã học, phát huy tính tích cực và phát triển năng  lực sáng tạo của học sinh. 1.3 Đối tượng nghiên cứu Hoạt động thiết kế, chế tạo và tiến hành các thí nghiệm đơn giản liên  quan đến nội dung bài học “Các dạng cân bằng. Cân bằng của một vật có   mặt chân đế” (SGK Vật lí 10). 1.4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết. Phương pháp thực hành thí nghiệm. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 2
  6. 2. NỘI DUNG 2.1 Cơ sở lí luận  2.1.1 Chế  tạo và sử  dụng các dụng cụ  thí nghiệm đơn giản trong dạy  học            Vật lí ở trường phổ thông 2.1.1.1 Các yêu cầu đối với việc chế tạo  các dụng cụ thí nghiệm đơn giản    ­ Việc chế tạo dụng cụ thí nghiệm đòi hỏi ít vật liệu. Các vật liệu này đơn   giản, rẻ tiền, dễ kiếm. [2]      ­ Dễ  chế  tạo dụng cụ  thí nghiệm từ  việc gia công các vật liệu bằng các  công cụ thông thường như kìm, buá, kéo, cưa, giũa. Chính nhờ đặc điểm này  của các dụng cụ thí nghiệm đơn giản, trong một số trường hợp, ta có thể làm  được một số thí nghiệm mà không thể tiến hành được với các dụng cụ có sẵn  trong phòng thí nghiệm. [2]      ­ Dễ  lắp ráp, tháo rời các bộ  phận của dụng cụ  thí nghiệm. Vì vậy, với   cùng một dụng cụ thí nghiệm, trong nhiều trường hợp ta chỉ cần thay thế các  chi tiết phụ trợ là có thể làm được thí nghiệm khác. [2]     ­ Dễ  bảo quản, vận chuyển và an toàn trong chế  tạo cũng như  trong quá   trình bố trí, tiến hành thí nghiệm. [2]     ­ Việc bố  trí và tiến hành thí nghiệm với những dụng cụ  thí nghiệm cũng  đơn giản, không tốn nhiều thời gian. [2]     ­ Hiện tượng Vật lí diễn ra trong thí nghiệm với dụng cụ  thí nghiệm đơn  giản phải rõ ràng, dễ quan sát. [2] 2.1.1.2 Sự  cần thiết của việc sử  dụng các dụng cụ  thí nghiệm đơn giản   trong dạy học Vật lí    ­ Việc giao cho học sinh nhiệm vụ thiết kế, chế tạo và sử  dụng  các dụng   cụ  thí nghiệm đơn giản để  tiến hành các thí nghiệm Vật lí có tác dụng trên  nhiều mặt góp phần nâng cao chất lượng kiến thức, phát triển năng lực hoạt  động trí tuệ ­ thực  tiễn độc lập và sáng tạo của học sinh. [2]    ­ Do được tự tay chế tạo và sử dụng các dụng cụ thí nghiệm để tiến hành   các thí nghiệm, học sinh nắm vững kiến thức hơn, chính xác và bền vững  hơn. Trong nhiều trường hợp, việc tiến hành thí nghiệm, giải thích hoặc tiên  đoán kết quả thí nghiệm đòi hỏi học sinh phải huy động các kiến thức đã học  ở nhiều phần khác nhau của Vật lí. Thông qua đó, các kiến thức mà học sinh   lĩnh hội được củng cố, đào sâu, mở rộng và hệ thống hóa. [2]    ­ Việc sử dụng các thí nghiệm đơn giản trong dạy học Vật lí ở trường phổ  thông còn cần thiết, bởi vì với các thiết bị  có sẵn trong phòng   thí nghiệm,   trong nhiều trường hợp, “cái hiện đại” của các thiết bị  này che lấp mất bản   chất Vật lí của hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm mà học sinh cần nhận   thức rõ. [2]    ­ Lịch sử  phát triển của Vật lí cho thấy: Những phát minh cơ  bản thường   gắn với các dụng cụ  thí nghiệm đơn giản để  nghiên cứu nguyên tắc của  những thí nghiệm do các nhà bác học đã tiến hành (thí nghiệm của Ga­li­lê về  3
  7. chuyển động nhanh dần đều trên máng nghiêng, thí nghiệm con lắc Huy­gen   xác định gia tốc trọng trường, thí nghiệm của Tô­ri­xe­li xác định áp suất khí  quyển, các thí nghiệm lịch sử  về  các định luật chất khí, các thí nghiệm của   Fa­ra­đây  về  cảm   ứng  điện  từ...)  góp  phần  chỉ   ra  cho  học  sinh  thấy  con   đường hình thành và phát triển các kiến thức Vật lí, bồi dưỡng cho học sinh  các phương pháp nhận thức Vật lí, đặc biệt là phương pháp thực nghiệm. [2]      ­   Nhiệm vụ  thiết kế, chế  tạo các dụng cụ  thí nghiệm đơn giản và tiến   hành các thí nghiệm với chúng làm tăng hứng thú học tập, tạo niềm vui vủa   sự thành công trong học tập, phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng  tạo của học sinh. [2]    ­ Ngoài ra, dụng cụ thí nghiệm đơn giản tự làm còn có ưu điểm là phục vụ  rất kịp thời và đắc lực cho việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học,  nâng cao hiệu quả dạy học, thậm chí của từng giờ học. [2] 2.1.1.3 Thí nghiệm Vật lí  ở  nhà là một loại bài tập mà giáo viên giao cho   từng học sinh hoặc nhóm học sinh thực hiện ở nhà       ­ Khác với các loại thí nghiệm khác, học sinh tiến hành thí nghiệm Vật lí   trong điều kiện không có sự giúp đỡ, kiểm tra trực tiếp của giáo viên.Vì vậy,   loại thí nghiệm này đòi hỏi cao độ tự giác, tự lực của học sinh trong học tập.  [3]       ­ Cũng khác với các loại thí nghiệm khác, thí nghiệm Vật lí ở nhà chỉ  đòi  hỏi học sinh sử dụng các dung cụ thông dụng trong đời sống, những vật liệu   dễ  kiếm, rẻ  tiền hoặc các dụng cụ  thí nghiệm đơn giản được học sinh chế  tạo từ  những vật liệu này. Chính đặc điểm này tạo nhiều cơ  hội phát triển   năng lực sáng tạo của học sinh trong việc thiết kế, chế tạo và sử  dụng các   dụng cụ nhằm hoàn thành nhiệm vụ được giao. [3]    ­ Loại thí nghiệm này khác với các loại bài làm khác của học sinh  ở nhà ở  chỗ: Nó đòi hỏi sự  kết hợp giữa hoạt động trí óc và hoạt động chân tay của   học sinh. [3]    ­ Với những đặc điểm trên, thí nghiệm Vật lí ở nhà có tác dụng trên nhiều  mặt đối với việc phát triển nhân cách của học sinh: Quá trình tự lực thiết kế  phương án thí nghiệm, lập kế hoạch thí nghiệm, chế tạo hoặc lựa chọn dụng   cụ, bố  trí tiến hành thí nghiệm, xử  lí kết quả  thí nghiệm thu thập được góp   phần vào việc phát triển năng lực hoạt động trí tuệ  ­ thực tiễn của học sinh.   Việc thực hiện và hoàn thành các công việc trên sẽ  làm tăng rõ rệt hứng thú  học tập, tạo niềm vui của sự  thành công trong học tập của học sinh. Việc   thiết kế  phương  án thí nghiệm, tiên đoán hoặc giải thích các kết quả  thí  nghiệm đòi hỏi học sinh phải huy động các kiến thức đã học, mà nhiều khi ở  các phần khác nhau của Vật lí. Nhờ  vậy, chất lượng kiến thức của học sinh   được nâng cao. Thí nghiệm Vật lí ở  nhà có tác dụng làm phát triển những kĩ   năng, kĩ xảo thí nghiệm, các thói quen của người làm thực nghiệm mà học  sinh đã thu được trong các loại thí nghiệm khác. [3] 4
  8.    ­ Loại thí nghiệm này cũng tạo điều kiện cho giáo viên cá thể hóa quá trình  học tập của học sinh bằng cách giao cho các đối tượng học sinh khác nhau   nhiệm vụ chế tạo dụng cụ thí nghiệm, tiến hành thí nghiệm với mức độ khó  dễ  khác nhau, nông sâu khác nhau và mức độ  hướng dẫn khác nhau về  cách  chế  tạo, lựa chọn dụng cụ, tiến hành thí nghiệm... được thể  hiện trong đề  bài. [3]    ­ Khi sử dụng loại thí nghiệm này trong dạy học Vật lí, giáo viên cần bố trí  thời gian để  học sinh báo cáo trước toàn lớp các kết quả  đã đạt được, giới   thiệu những sản phẩm của mình, nhận được sự đánh giá của giáo viên và tập  thể cũng như động viên và khen thưởng kịp thời. [3]     ­ Thí nghiệm Vật lí  ở  nhà  không những nhằm đào sâu, mở  rộng các kiến   thức đã học mà trong nhiều trường hợp các kết quả mà học sinh thu được sẽ  là cứ liệu thực nghiệm cho việc nghiên cứu kiến thức mới ở các bài học sau   trên lớp. Nội dung của các thí nghiệm Vật lí  ở nhà không phải là sự  lặp lại   nguyên xi các thí nghiệm đã làm  ở  trên lớp mà phải có nét mới, không đơn  thuần chỉ là sự tiến hành thí nghiệm với những hướng dẫn chi tiết. [3]    ­ Nội dung các loại bài làm  ở  nhà này rất phong phú, có thể  ra nhiều dạng  khác  nhau:  Mô   tả  phương  án  thí   nghiệm,  yêu  cầu  học  sinh  tiến  hành  thí   nghiệm, tiên đoán hoặc giải thích kết quả thí nghiệm; cho trước các dụng cụ,  yêu cầu học sinh thiết kế phương án thí nghiệm để  đạt được một mục đích   nhất định (quan sát thấy một hiện tượng, xác định được một đại lượng Vật  lí); yêu cầu học sinh chế  tạo một dụng cụ  thí nghiệm đơn giản từ  các vật   liệu cần thiết cho trước, rồi tiến hành thí nghiệm với những dụng cụ  này  nhằm đạt được một mục đích nào đó... Nội dung của các thí nghiệm Vật lí ở  nhà có thể mang tính chất định tính hoặc định lượng. [3]  2.1.2 Tính tích cực và năng lực sáng tạo của học sinh trong học tập  2.1.2.1 Tính tích cực trong học tập của học sinh a) Khái niệm tính tích cực trong học tập Tính tích cực trong học tập là một hiện tượng sư phạm biểu hiện ở sự  cố  gắng cao về  nhiều mặt trong học tập. Học tập là một trường hợp riêng  của nhận thức “một sự nhận thức làm cho dễ dàng đi và được thực hiện dưới  sự chỉ đạo của giáo viên” (P.N.Erddơniev, 1974). Vì vậy, nói tới tích cực học   tập thực chất là nói đến tích cực nhận thức. Tính tích cực nhận thức là trạng  thái hoạt động nhận thức của học sinh, đặc trưng  ở  khát vọng học tập, cố  gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức. [7] b) Các biểu hiện của tính tích cực trong học tập Tính tích cực của học sinh trong học tập biểu hiện qua các hành động   cụ thể như: tự nguyện tham gia vào các hoạt động học tập; sẵn sàng, hồ  hởi   đón nhận các nhiệm vụ; tự  giác thực hiện các nhiệm vụ; mong muốn được  đóng góp ý kiến với giáo viên, với bạn bè; cố  gắng hoàn thành công việc  bằng mọi cách; thường xuyên trao đổi với bạn bè;… 5
  9. 2.1.2.2. Năng lực sáng tạo của học sinh trong hoạt động học tập a) Khái niệm năng lực sáng tạo Năng lực sáng tạo có thể hiểu là khả năng tạo ra những giá trị  mới về  vật chất hoặc tinh thần, tìm ra các mới, giải pháp mới, công cụ  mới, vận  dụng thành công những hiểu biết đã có vào hoàn cảnh mới. [7] b) Các biểu hiện của sự sáng tạo trong nghiên cứu vật lí Những hành động của học sinh trong học tập có mang tính sáng tạo  như: đưa ra được các phương án thiết kế, chế  tạo dụng cụ; đề  xuất được  những sáng kiến kĩ thuật để thí nghiệm chính xác hơn, dụng cụ bền đẹp hơn;   đưa ra dự   đoán kết quả  các thí nghiệm; so sánh được các phương án thí   nghiệm; vận dụng kiến thức  để  giải thích hiện tượng vật lí, kết quả  thí   nghiệm hoặc các ứng dụng trong kĩ thuật;... 2.2 Thực trạng vấn đề  Trên cơ sở  thực tế dạy học bộ môn Vật lí ở  trường THPT Yên Định 3,  huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, tôi nhận thấy một số thực trạng sau: 2.2.1 Tình hình giảng dạy của giáo viên ­  Ở  nhiều bài học, giáo viên vẫn mang nặng phương pháp truyền thụ,  thuyết trình, thông báo.  ­ Giáo viên gần như chỉ tiến hành thí nghiệm biểu diễn trong các bài có   yêu   cầu   sử   dụng   thí   nghiệm   tối   thiểu;   ít   chế   tạo   thêm   các   dụng   cụ   thí  nghiệm;  ­ Các giáo viên rất ít tổ chức hướng dẫn cho học sinh tự thiết kế, chế  tạo  và tiến hành các thí nghiệm vật lí. ­ Đối với bài học “Các dạng cân bằng. Cân bằng của một vật có mặt   chân đế”  (SGK Vật lí 10) không có thí nghiệm được cấp vì vậy giáo viên  giảng dạy chủ yếu sử dụng phương pháp thuyết trình, chưa có giáo viên nào   tổ  chức hoạt động cho học sinh tự  thiết kế, chế  tạo và tiến hành các thí  nghiệm đơn giản liên quan đến nội dung bài học. 2.2.2 Tình hình học tập của học sinh ­ Kết quả  học tập của rất nhiều học sinh chỉ  ở mức độ  nhớ  các khái  niệm, hiện tượng, công thức và vận dụng được các công thức để giải các bài  tập.  ­ HS chưa vận dụng được kiến thức để giải thích các hiện tượng vật lí  trong thực tế, không biết về các ứng dụng của kiến thức vật lí trong đời sống  và kĩ thuật. ­ Học sinh chưa hứng thú, chưa phát huy được tính tích cực trong học   tập. ­ Các kĩ năng thực nghiệm còn rất yếu. ­ Học sinh chưa từng được thiết kế, chế tạo các thí nghiệm đơn giản;  ­ Khả năng diễn đạt, thuyết trình của học sinh về một vấn đề  còn rất   kém, thường lúng túng khi diễn đạt ý tưởng của mình hoặc điều muốn hỏi. 6
  10. 2.2.3 Tình hình thiết bị thí nghiệm của nhà trường ­ Nhà trường được trang bị  khá đầy đủ  các dụng cụ  thí nghiệm tối  thiểu cho dạy học nội khóa theo yêu cầu SGK và các thiết bị  thí nghiệm sử  dụng tốt và hiệu quả. ­ Tuy nhiên các thí nghiệm không có trong danh mục thiết bị thí nghiệm   tối thiểu thì không được cấp vì vậy nhiều bài học trong SGK có  nêu thí   nghiệm nhưng không có dụng cụ để tiến hành, trong đó có bài “Các dạng cân   bằng. Cân bằng của một vật có mặt chân đế” (SGK Vật lí 10) ­ Các thiết bị thí nghiệm đơn giản tự làm rất ít. 2.2.4  Nguyên nhân về thực trạng học tập của học sinh  Việc dạy và học theo chương trình nội khoá vẫn còn rất nặng nề  do   điều kiện thời gian hạn hẹp, trang thiết bị thí nghiệm chưa đầy đủ để tất cả  các học sinh đều được tham gia tiến hành thí nghiệm, việc dạy học trên lớp  chưa tăng cường hoạt động, phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng   tạo của học sinh; các em ít được trực tiếp tiến hành các thí nghiệm và ít có  điều kiện để vận dụng kiến thức vào thực tiễn, nhiều em còn cảm thấy chưa  yêu thích môn học và không tích cực trong học tập.  Trong dạy học nội khóa đã được trang bị một số thiết bị thí nghiệm tối   thiểu tuy nhiên những thiết bị  chế tạo sẵn đó đôi khi không gần gũi và quen   thuộc với thực tiễn nên các em khó liên hệ và vận dụng vào cuộc sống.  Đa số  các dụng cụ thí nghiệm được cấp đều là thí nghiệm định lượng phục vụ mục   đích nghiên cứu khảo sát các định luật vật lí, ít thí nghiệm định tính về  các  hiện tượng vật lí.  Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc thay đổi phương pháp dạy học  nhưng vẫn chưa thực sự  hiệu quả đối với mọi đối tượng học sinh và tất cả  các nội dung kiến thức. 2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề Trước thực trạng đó, tôi thấy một trong những giải pháp để khắc phục  là đối với những bài học, những chương trong SGK có nội dung phù hợp, giáo  viên có thể  tổ  chức hoạt động cho HS tự  thiết kế, chế  tạo các dụng cụ  thí  nghiệm đơn giản và sử dụng các dụng cụ đó để tiến hành các thí nghiệm để  HS được vận dụng kiến thức bài học giải thích các hiện tượng Vật lí có liên   quan nhằm củng cố, mở rộng các kiến thức trong chương trình nội khóa; rèn  luyện khả năng vận dụng kiến thức để giải thích các hiện tượng Vật lí trong  thực tiễn; rèn luyện kĩ năng thực hành; kích thích sự hứng thú, tính tích cực và  phát triển năng lực sáng tạo của HS.  Và bài “Các dạng cân bằng. Cân bằng của một vật có mặt chân đế”   (SGK Vật lí 10 THPT) là một bài rất phù hợp để  áp dụng hình thức tổ  chức   trên vì bài này không có thí nghiệm theo yêu cầu của SGK, tuy nhiên kiến  thức bài học có sự  liên hệ  thực tiễn rất phong phú, rất gần gũi và có nhiều  7
  11. ứng dụng trong đời sống và kĩ thuật. Có thể sử dụng rất nhiều dụng cụ và thí  nghiệm đơn giản, dễ kiếm từ cuộc sống để minh họa cho bài học. 2.3.1 Quy trình thực hiện ­ Bước thứ nhất: giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm học sinh. Giáo  viên định hướng và giúp đỡ trong quá trình học sinh tham gia thiết kế, chế tạo   các dụng cụ thí nghiệm và tiến hành các thí nghiệm về  “Các dạng cân bằng.   Cân bằng của một vật có mặt chân đế”.  ­ Bước thứ hai: Tổ chức cho học sinh một tiết để các nhóm ra mắt sản  phẩm, trình bày và thuyết trình về các thí nghiệm mà nhóm mình đã chế tạo.  2.3.2 Các nhiệm vụ học tập mà giáo viên đã giao cho học sinh thực hiện  và một số sản phẩm của học sinh Tôi sẽ giao cho học sinh các nhiệm vụ học tập gồm: 03 nhiệm vụ chế  tạo dụng cụ thí nghiệm về trọng tâm của các vật rắn; 03 nhiệm vụ chế tạo   dụng cụ  thí nghiệm để  nghiên cứu sự  cân bằng của vật có mặt chân đế; 05  nhiệm vụ nghiên cứu các dạng cân bằng của vật rắn;  8
  12. 2.3.2.1 Thí nghiệm nghiên cứu về trọng tâm vật rắn *  Thí nghiệm 1:  Thí nghiệm nghiên cứu trọng tâm của các vật rắn mỏng,  phẳng có hình dạng khác nhau + Mục đích:  Xác định trọng tâm của các vật rắn mỏng, phẳng và có   hình dạng khác nhau. Nhận xét về vị trí trọng tâm của các vật. +  Chế  tạo vật mỏng, phẳng: Dùng tấm bìa giấy cứng (cắt từ  các vỏ  hộp các tông) hoặc từ một miếng tôn sắt cắt thành các vật có hình dạng khác  nhau như sau: .  Hình3. Các vật rắn mỏng phẳng có hình dạng khác nhau Có   các  phương  án   sau   để  xác  định  trọng  tâm của  các vật  rắn   mỏng,   phẳng: Phương án 1: Xác định trọng tâm bằng cách dùng dây dọi Phương án 2: Xác định trọng tâm bằng cách dịch vật dần ra ngoài mép bàn Phương án 3: Xác định trọng tâm bằng cách đặt vật tựa trên đầu nhọn  Các dụng cụ  cần thiết và bố  trí thí nghiệm cho các phương án như  các hình   sau:              9
  13. Hình 4.  Xác định  Hình 5. Xác định trọng  Hình 6. Xác định trọng  trọng tâm bằng cách  tâm vật rắn bằng cách  tâm của vật rắn bằng  dùng dây dọi dịch vật ra ngoài mép bàn cách đặt vật tựa trên  đầu nhọn +  Nhận xét: Phương án 3 cho kết quả  chính xác nhất và dễ  tiến hành  nhất, nhưng không sử  dụng để  xác  định trọng tâm của những vật mỏng,  phẳng có dạng hình vành khăn hoặc đường như phương án 1 và 2. + Kết quả: Trọng tâm có thể nằm trên vật hoặc ở ngoài vật.  *Thí nghiệm 2: Thí nghiệm xác định trọng tâm của vật hình khối (củ khoai tây) + Mục đích: Vận dụng đặc điểm của trạng thái cân bằng của vật được  treo để xác định trọng tâm của vật hình khối (củ khoai tây) + Các dụng cụ cần thiết và bố trí thí nghiệm như hình 7. + Tiến hành: Treo củ khoai lên, xuyên 1 que thẳng dọc theo phương dây treo.  Làm như vậy với các vị trí khác trên củ khoai.  Hình 8. Hệ vật cân bằng   trên điểm tựa * Thí nghiệm 3: Thí nghiệm nghiên cứu xem cần gắn kết các vật như  thế  nào để được một hệ cân bằng trên điểm tựa (ý nghĩa của việc xác định trọng  tâm) +Mục đích: Tìm hiểu ý nghĩa của việc xác định trọng tâm vật rắn. + Các dụng cụ cần thiết và bố trí như hình 8. + Tiến hành: Đặt viên đất nặn tại các vị trí khác nhau trên thước để tìm vị  trí đặt sao cho hệ cân bằng. +  Kết quả: hệ  vật có điểm tựa cân bằng khi trọng tâm của hệ  đặt trên   điểm tựa.  2.3.2.2   Thí   nghiệm   nghiên   cứu   các   dạng   cân   bằng của vật rắn * Thí nghiệm 4: Thí nghiệm nghiên cứu các trạng  thái cân bằng của một cái thước được treo. 10
  14. + Mục đích: Minh họa và tìm đặc điểm của các trạng thái cân bằng của  cái thước có trục quay cố định. + Các dụng cụ cần thiết và bố trí như hình 9. + Tiến hành: treo thước cân bằng ở các vị trí khác nhau của trục quay rồi  xác định đặc điểm của các dạng cân bằng. + Kết quả: Trạng thái cân bằng bền (trục quay  ở trên trọng tâm) có vị trí  trọng tâm thấp nhất so với vị  trí lân cận. Trạng  thái cân bằng không bền (trục quay  ở  dưới trọng   Hình 9. Nghiên cứu các  tâm) có vị  trí trọng tâm cao nhất so với vị  trí lân  dạng cân bằng của cái  cận. Trạng thái cân bằng phiếm định có trục quay  thước có trục quay đi qua trọng tâm. * Thí nghiệm 5: Thí nghiệm nghiên cứu các  trạng thái cân bằng của quả bóng bàn khi đặt  trên các mặt nhẵn có dạng khác nhau +   Mục   đích:  Minh   họa   và   tìm   đặc   điểm  của các trạng thái cân bằng của quả bóng khi  đặt trên các mặt nhẵn có dạng khác nhau. + Các dụng cụ cần thiết như hình 10. + Tiến hành: Đặt quả  bóng nằm cân bằng  trên mặt phẳng, cong lồi, cong lõm. Nhận  xét về các vị trí cân bằng của nó và tìm đặc   Hình 10. Quả bóng ở trạng   điểm của các vị trí này. thái cân bằng không bền + Nhận xét: Nguyên nhân gây ra các dạng  cân bằng của quả bóng là do độ cao tương đối của vị trí cân bằng so với các   vị trí lân cận. *Thí nghiệm 6:  Chế  tạo một vật có thể  thay  đổi   được   vị   trí   trọng   tâm   để   nghiên   cứu   các  dạng cân bằng của vật rắn, từ đó rút ra phương  pháp xác định trọng tâm của một vật có hình  dạng bất kì. +Mục đích:   Chế  tạo một vật có thể  thay  đổi vị trí trọng tâm + Vật được chế tạo như hình 11. +   Tiến   hành:   Dịch   chuyển   hai   thanh   sắt  đồng thời để  thay đổi vị  trí trọng tâm của hệ.   Quan sát  và xác định các trạng thái cân bằng  của hệ. + Vận dụng: Muốn xác định trọng tâm của hệ ta tìm vị trí đặt được vật ở  trạng thái cân bằng phiếm định. Trọng tâm  của hệ ở vị trí điểm tựa.  Hình 11. Dụng cụ  thí nghiệm có thể thay đổi   được vị trí trọng tâm 11
  15.   * Thí  nghiệm  7:  Chế  tạo con lật  đật từ vỏ trứng + Mục đích: Chế  tạo một con lật dật  từ vỏ trứng. + Các dụng cụ cần thiết: vỏ trứng; xi   lanh; cát khô; xi măng;… +   Kết   quả:   Vỏ   trứng   có   thể   đứng  thẳng trên mặt nhẵn, nằm ngang và có  thể lắc lư mà không đổ.                             Hình 12. Những con lật   đật làm từ vỏ trứng 12
  16. * Thí nghiệm 8: Chế tạo các hệ cân bằng từ các dụng cụ như: bút chì; bút bi;   dao díp; đinh… + Mục đích: Củng cố và vận dụng đặc điểm của dạng cân bằng bền của   vật rắn có trục quay  + Các hệ cân bằng được tạo ra như trong hình 13. . . .   Hình 13.  Các hệ cân bằng bền được chế tạo từ bút chì, bút bi, dao díp, đinh, … 2.3.2.3  Thí nghiệm nghiên cứu mức vững vàng của vật có mặt chân đế * Thí nghiệm 9: Thí nghiệm nghiên cứu sự cân bằng của vật có mặt chân đế + Mục đích: Nghiên cứu xem vật có mặt chân đế  cân bằng hoặc đổ  khi  nào + Có hai phương án chế tạo dụng cụ như trong  hình 14 và hình 15: + Tiến hành: thay đổi độ nghiêng của vật, quan sát phương dây dọi so với  mặt chân đế khi vật cân bằng hoặc đổ. +  Kết quả: Vật cân bằng khi trọng lực đi qua mặt chân đế. Vật đổ  khi   trọng lực rơi ra ngoài mặt chân đế. Hình 14.  Sự cân bằng   Hình 15. Sự cân bằng của một   của vật có mặt chân đế khung hình hộp chữ nhật * Thí nghiệm 10:  Thí nghiệm nghiên cứu sự   ảnh hưởng các yếu tố: khối  lượng của vật, độ  cao trọng tâm của vật, diện tích mặt chân đế  đến mức  vững vàng cân bằng của vật rắn.    + Mục đích:  Nghiên cứu về mức vững vàng cân bằng của vật có mặt chân  đế.  13
  17. + Dụng cụ thí nghiệm và bố trí như các hình sau: + Kết quả: Vật có khối lượng càng lớn, có độ  cao trọng tâm càng thấp   hoặc có diện tích mặt chân đế càng lớn thì có mức vững vàng cân bằng càng   cao.          Hình 18. Sự phụ thuộc của   Hình 16. Hai vật chỉ có   Hình 17. Sự phụ thuộc của   . mức vững vàng vào diện tích   khối lượng khác nhau mức vững vàng vào độ cao  mặt chân đế của củ khoai * Thí nghiệm 11: Làm tăng mức vững vàng của  cây nến; bật lửa; bút chì… + Mục đích:  Vận dụng kiến thức các yếu tố  ảnh hưởng  đến mức vững vàng cân bằng của  vật có mặt chân đế  + Các dụng cụ cần thiết như trong hình 19. +  Tiến hành: Nhỏ  sáp nến nóng chảy vào các  đế  gỗ  rồi dán các vật khác vào. Đợi cho sáp nến  đông cứng lại tức là các vật đã được tăng diện tích  mặt chân đế. Tiến hành làm đổ vật và so sánh với khi chưa dán đế. +  Kết   quả:   mức   vững   vàng   của   vật   được  Hình 19.  Các vật được tăng mức   tăng lên khi vật được gắn vào đế mới. vững vàng bằng cách tăng diện   tích mặt chân đế  2.3.3   Tổ   chức   cho   các   nhóm   báo   cáo   sản   phẩm, tiến hành thí nghiệm với thiết bị đã chế tạo Thời gian: có thể  sử  dụng tiết học tự  chọn hoặc tổ  chức một buổi   ngoại khóa. 14
  18. Các nhóm báo cáo sản phẩm, tiến hành thí nghiệm với thiết bị  đã chế  tạo và trả  lời các chất vấn và thắc mắc của giáo viên và các bạn học sinh  khác. Khi báo cáo kết quả trước các thầy cô giáo một số em đại diện cho các  nhóm lúc đầu còn tỏ  ra chưa tự tin về khả năng thuyết trình của mình trước   đông người, nhưng sau đó các em đã tỏ ra rất tự tin và báo cáo rất lưu loát kết   quả mà nhóm của mình đã làm được. 2.4 Hiệu quả của giải pháp 2.4.1 Đối với học sinh a, Những biểu hiện của tính tích cực trong hoạt động của học sinh ­ Các em đều tự nguyện tham gia vào các hoạt động ngoại khóa một cách   tích cực, thoải mái, nhiệt tình. Các thành viên của mỗi nhóm đều thực hiện   nghiêm túc và hiệu quả nhiệm vụ của nhóm mình.  ­ Học sinh đều tích cực hoàn thành nhiệm vụ của mình. ­ Khi có vấn đề chưa hiểu hoặc khó khăn không giải quyết được thì các  em đã mạnh dạn nhờ giáo viên giúp đỡ. ­ Khi giáo viên hướng dẫn, các em rất chăm chú lắng nghe và suy nghĩ  rất tích cực theo hướng giáo viên gợi mở. Sau đó, đa số các nhóm đều có thể  tự tìm ra cách giải quyết cho mình. ­ Có nhiều em nghĩ ra phương án thí nghiệm để  giải quyết nhiệm vụ  được giao thì các em đã mạnh dạn trình bày ý tưởng với giáo viên và các bạn   cùng nhóm.  ­ Có nhiều thí nghiệm khó thành công, như: chế  tạo con lật đật từ  vỏ  trứng, chế tạo vật có thể thay đổi vị trí trọng tâm.…nhưng các em cũng không   nản chí. Các em biểu diễn thí nghiệm nhiều lần và cố  tìm hiểu nguyên nhân  cũng như tìm cách để thí nghiệm thành công hơn. ­ Tất cả  các nhóm đều cố  gắng để  hoàn thành nhiệm vụ  được giao.   Ngoài ra, các em còn cố  gắng để  có sản phẩm đẹp, bền và có thể  sử  dụng  trong giờ học của các em khóa sau. ­ Các em đều rất háo hức mong đợi đến buổi tổng kết để được ra mắt  các sản phẩm mà các em đã chế tạo được và giao lưu với nhóm khác.  b, Một số biểu hiện của tính sáng tạo của học sinh ­ Hầu hết các nhóm đều đưa ra được cách chế tạo dụng cụ thí nghiệm.  Ví dụ như nhóm lớn 1: các em đã tìm được cách chế tạo các vật mỏng phẳng   từ  bìa cứng; đưa ra được cách buộc dây treo vật; đưa ra được cách đánh dấu  đường đi qua trọng tâm cho trường hợp vật có dạng hình vành khăn hoặc   dạng đường,… ­ Trong khi chế  tạo dụng cụ  thí nghiệm các nhóm đều đề  xuất được  sáng kiến để dụng cụ bền, đẹp hơn. Ví dụ: Nhóm lớn 2 đã nghĩ ra cách trang  trí thêm cho vỏ trứng để được những con lật đật ngộ nghĩnh,…  15
  19. ­ Trong thí nghiệm có nhiều phương án, học sinh có thể  so sánh được  các phương án. Ví dụ  trong nhiệm vụ  1, có ba phương án để  xác định trọng   tâm của vật rắn mỏng, phẳng. Nhóm lớn 1 đã suy luận được: nếu trong  trường hợp xác định vị trí trọng tâm của các vật là các hình mà trọng tâm nằm   trên vật thì phương án vật cân bằng trên điểm tựa là chính xác nhất và có thể  dùng phương án này để kiểm tra các phương án khác. ­ Học sinh có thể  vận dụng kiến thức thu được một cách linh hoạt  trong việc giải thích các hiện tượng thực tế. Các câu hỏi trong phần thi đố vui  được dùng để kiểm nghiệm điều này. 2.4.2 Đối với bản thân giáo viên Quy trình đã lập có nội dung và phương pháp phù hợp đối với học sinh,   có tính khả thi và đạt được hiệu quả, mục đích dạy học. Đây là một bài học  kinh nghiệm và nguồn tham khảo để  bản thân và các đồng nghiệp áp dụng  vào   giảng   dạy   cũng   như   tiếp   tục   nghiên   cứu,   phát   triển   về   nội   dung   và  phương pháp hơn nữa. Tổ  chức thành công hoạt động này là một luồng gió mới về  đổi mới  phương pháp dạy học, góp phần thúc đẩy bản thân tôi và các đồng nghiệp  tích cực trau dồi, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tiếp tục hăng say đổi  mới phương pháp dạy học tích cực và hiệu quả  hơn nữa, đồng thời bồi đắp  lòng yêu nghề và sự tận tâm với học sinh. 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1 Kết luận Qua kết quả của việc tổ chức hoạt động giao các nhiệm vụ tự thiết kế,   chế  tạo các dụng cụ  thí nghiệm đơn giản và tiến hành thí nghiệm với các   dụng cụ  đó cho HS lớp 10  ở  trường THPT Yên Định 3 Thanh Hóa theo nội  dung, phương pháp và hình thức đã xây dựng, tôi thấy hoạt động này đã đạt  được hiệu quả dạy học rất cao, nó đã khắc phục được những điểm còn hạn   chế  của dạy học nội khóa, đó là HS đã được làm thí nghiệm và vận dụng  kiến thức vào thực tiễn nhiều hơn. Nhờ đó, các em củng cố, mở rộng, đào sâu   thêm các kiến thức, rèn luyện được kĩ năng, hình thành tình cảm thái độ đúng  đắn. Hình thức mới mẻ và nội dung hấp dẫn, phù hợp của hoạt động đã thu  hút HS tham gia một cách tích cực. Học tập một cách thoải mái, không gò bó  tạo điều kiện cho HS chiếm lĩnh tri thức một cách tự nhiên, kích thích sự ham  hiểu biết, tìm tòi và sáng tạo, rèn luyện cho HS thói quen học đi đôi với hành,  gắn liền kiến thức lý thuyết với thực tiễn, đem lại hiệu quả  rất rõ rệt trong   việc phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của HS.  3.2 Kiến nghị Nhà trường và giáo viên cần có sự đầu tư, khai thác và sử dụng có hiệu  quả  các thí nghiệm vật lí đã có hơn nữa; nên bổ  sung thêm các dụng cụ  thí   nghiệm cần thiết, có thể bằng cách tự chế tạo.  16
  20. Giáo viên cần đa dạng hóa các hình thức dạy học, đổi mới phương  pháp một cách hiệu quả, đặc biệt chú trọng vai trò trung tâm của học sinh   trong qua trình hình thành kiến thức và kĩ năng. Nên tận dụng các giờ  học tự  chọn để  tổ  chức các hoạt động ngoại   khóa cho học sinh.  Giáo viên cần áp dụng hình thức tổ chức hoạt động tự  làm thí nghiệm   ở nhà cho học sinh vào nhiều bài học và nội dung kiến thức khác nữa.                                                                                                                        Xác nhận của BGH   Cam   kết:  đề   tài   SKKN   do   tôi   tự  viết,   không   coppy   của   người   khác,  nếu   sai   tôi   xin   chịu   hoàn   toàn   trách  nhiệm. Ngày 16/4/2017 Tác giả: Nguyễn Thị Hoàng Thanh 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2