intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một

Chia sẻ: Mucnang999 Mucnang999 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:30

21
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm đánh giá thực trạng trong việc rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một ở trường tôi đang dạy. Từ đó, đề ra những giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng nói và phát triển nhân cách cho học sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một

  1. Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU        “ Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp Một  ”      I. Lý do chọn đề tài        Không biết từ bao giờ, trải qua hàng ngàn năm tiến hóa của loài người,  ngôn ngữ  ­ tiếng nói từ  tác dụng sơ  khai là trao đổi thông tin đã đóng vai trò   biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lý và là một yếu tố quan trọng biểu lộ văn   hoá, tính cách con người. Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi trọng:   “Học ăn, học nói, học gói, học mở”, “Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời   mà nói cho vừa lòng nhau”        Để đánh giá một con người, chúng ta cũng phải có sự thử thách qua giao  tiếp hàng ngày với họ: “Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời”. Mặt khác việc giao tiếp,  ứng xử  khéo léo cũng giúp chúng ta thành công về  nhiều lĩnh vực: “Khéo bán, khéo mua cũng thua người khéo nói”. Với trẻ  em, lứa tuổi đang hình thành nhân cách, ngay từ  khi các em còn rất  nhỏ, chúng ta đã rất chú trọng: “Trẻ lên ba, cả nhà học nói”.         Ngành giáo dục đào tạo nói chung và ngành giáo dục tiểu học nói riêng  đã được xã hội trao cho trọng trách đáng tự  hào là giáo dục trẻ  em ngay từ  những ngày đầu bước chân tới trường. Từ  bao đời nay, việc giáo dục ở  nhà  trường đã áp dụng phương châm: “Tiên học lễ, hậu học văn”.          Trước mục tiêu lớn của nền giáo dục Việt Nam, hệ thống giáo dục nói   chung và giáo dục Tiểu học nói riêng đã được toàn xã hội quan tâm. Đảng và  nhà nước ta khẳng định: " Giáo dục là quốc sách hàng đầu". Vậy muốn có hệ  thống giáo dục quốc dân phát triển mạnh trong bối cảnh hội nhập kinh tế  quốc tế và xu thế toàn cầu hoá, chúng ta cần có một nền tảng vững chắc đó   là bậc Tiểu học, cho nên nhà nước ta đã chỉ đạo xây dựng chương trình Tiểu   học mới (Chương trình Tiểu học 2000) trong đó bộ môn Tiếng Việt Tiểu học   có thể  nói là môn học "công cụ" có tính chất chủ  công mà thứ  công cụ  này   học sinh chỉ bắt đầu được học ngay từ lớp 1.         Thật vậy chương trình Tiếng Việt lớp 1 chiếm tỷ trọng 50% thời lượng   dạy và học (11/ 22 tiết trong 1 tuần).                Chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 1 mới có nhiều  ưu việt tập   trung rèn luyện 4 kỹ  năng: Nghe ­ Nói ­ Đọc ­ Viết. Kiến thức được hình   1/27
  2. Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một thành và cung cấp qua hoạt động giao tiếp tự  nhiên của chính các em trong   môi trường học tập và sinh hoạt hàng ngày trên lớp cũng như   ở  nhà. Muốn  giao tiếp tốt cần rèn luyện kỹ  năng nghe, nói cho học sinh. Bởi vậy chương   trình Tiếng Việt  1 đã đưa phần luyện nói cho học sinh vào các bài học âm,  vần trong khoảng thời gian 5­ 7 phút. Đây là điểm  ưu việt nổi trội nhất và  cũng là nội dung hoàn toàn mới đối với giáo viên, học sinh.         Qua các năm chỉ đạo thực hiện chương trình mới ở phần luyện nói bước  đầu có những khó khăn nhất định song với sự cố gắng của đội ngũ giáo viên  và tính  ưu việt của chương trình mới đã "mở" các hướng để   học sinh được  luyện nói nhiều trong giờ học với các hình thức theo phương châm: "Tích cực   hoá hoạt động học tập của học sinh". Học sinh thao tác, trao đổi, tranh luận   và đánh giá nhận xét về  một đơn vị  kiến thức của bài. Các em được nghe  nhau nói, nói cho nhau nghe. Dạy luyện nói tốt là rèn đức tự tin, mạnh dạn và  tự nhiên đồng thời bồi dưỡng tâm hồn vui tươi, dí dỏm và ứng xử có văn hoá,  lịch sự, tạo nên môi trường thân thiện trong các mối quan hệ với bạn bè, thầy   cô và mọi người trong cộng đồng.          Như chúng ta đã biết, môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ  hết sức quan trọng trong việc hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ  cho   học sinh trong suốt quá trình các em ngồi trên ghế nhà trường, cũng như cuộc  sống sau này ­ năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong 4 dạng hoạt   động tương ứng với chúng là 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Trong đó nói  là  kỹ  năng có vai trò   đặc biệt quan trọng trong chương trình Tiếng Việt bậc   Tiểu học. Trong khi đó ở Trường Tiểu học hiện nay việc dạy  nói,  bên cạnh  những thành công còn nhiều hạn chế. Học sinh của chúng ta chưa nói được  như  mong muốn. Kỹ  năng  nói  của các em chưa đáp  ứng được yêu cầu của  việc hình thành kĩ năng diễn đạt. Các em chưa nắm chắc được kỹ năng diễn   đạt thì việc thể  hiện tư  tưởng, tình cảm và mong muốn   của mình sẽ  gặp   nhiều khó khăn. Tuy nhiên trong thực tế ở các vùng nông thôn như  chúng tôi,  trong giảng dạy, qua dự giờ thăm lớp tôi thấy có không ít giáo viên lúng túng,  2/27
  3. Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một lo lắng và thậm chí ngại dạy tiết 2 của môn tiếng việt lớp Một vì tiết 2 có   phần luyện nói, sợ tiết dạy không thành công.         Hiện nay,  nhiều giáo viên tiểu học vẫn còn lúng túng khi dạy nói. Cần   rèn kỹ  năng nói như  thế  nào, làm thế  nào để  chữa lỗi cho học sinh khi diễn  đạt, để  từ  đó giúp các em nói lưu loát hơn, rõ ý hơn làm tiền đề  để  các em   hiểu văn bản được đọc, giúp các em trình bày tốt nhất trong khi viết và tất cả  những cái đó sẽ được tác động chính vào cuộc sống của các em.         Chính vì vậy, tôi đã tìm hiểu và học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp   để nghiên cứu để tài “Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp   Một”. Góp phần giúp học sinh lớp Một có kĩ năng nói một cách tốt nhất.  II. Mục đích nghiên cứu:          Đánh giá thực trạng trong việc rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một  ở  trường tôi đang dạy. Từ đó, đề ra những giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất   lượng nói và phát triển nhân cách cho học sinh. III. Khách thể, đối tượng nghiên cứu: ­ Khách thể nghiên cứu: Phương pháp dạy học tích cực ở tiểu học ­ Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh   lớp Một. IV. Nhiệm vụ nghiên cứu: ­ Nghiên cứu vai trò và tầm quan trọng của kĩ năng nói. ­ Nghiên cứu thực trạng công tác rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một ở  trường tôi trong điều kiện giáo dục hiện nay. ­ Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng rèn kĩ năng nói. V. Phạm vi nghiên cứu: ­ Lĩnh vực nghiên cứu: Lí luận dạy học tiểu học ­ Địa bàn nghiên cứu: trường Tiểu học tôi đang dạy. ­ Đối tượng khảo sát, thực nghiệm: Giáo viên và học sinh lớp Một  trường Tiểu học tôi đang dạy. ­ Thời gian nghiên cứu: Năm học 2017­ 2018 IV. Phương pháp nghiên cứu: * Phương pháp nghiên cứu lí luận * Phương pháp nghiên cứu thực tiễn ­ Phương pháp quan sát. 3/27
  4. Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một ­ Phương pháp phân tích ­ tổng hợp. ­ Phương pháp thực hành luyện tập. * Phương pháp thử nghiệm                                             PHẦN II: NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Căn cứ vào các văn bản chỉ đạo đổi mới phuơng pháp dạy học: Ngày 4/11/2014, Tổng Bí thư  Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành nghị  quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương khóa XI (nghị quyết số  29­NQ/TW) về  đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ:   Đối với giáo dục phổ  thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành   phẩm  chất, năng  lực công  dân,  phát hiện  và  bồi  dưỡng  năng khiếu,  định  hướng nghề  nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,  chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin  học, năng lực và kỹ  năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát   triển khả  năng sáng tạo, tự  học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn thành   việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015. Bảo  đảm cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông  nền tảng, đáp  ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ  sở; trung học  phổ  thông phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị  cho giai đoạn học sau phổ  thông có chất lượng. Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, thực hiện giáo  dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020. Phấn đấu đến năm 2020, có 80% thanh  niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung học phổ thông và tương đương.                  ­ Đ ố i vớ i giáo d ụ c ngh ề  nghi ệp, t ập trung đào t ạ o nhân lự c có   ki ế n th ứ c, k ỹ  năng và trách nhi ệ m ngh ề  nghi ệp. Hình thành h ệ  th ố ng  giáo  d ụ c  ngh ề   nghi ệp  v ới   nhi ều  ph ươ ng  th ức  và  trình  độ  đào  t ạ o  k ỹ  năng ngh ề  nghi ệp theo h ướ ng  ứng d ụng, th ực hành, b ả o đả m đáp  ứ ng  nhu   c ầ u   nhân   l ự c   k ỹ   thu ậ t   công   ngh ệ   c ủ a   th ị   tr ườ ng   lao   độ ng   trong  4/27
  5. Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một n ướ c   và   quố c   tế.           ­ Đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi  dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức,   sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ  cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực   quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và  quốc tế. Đa dạng hóa các cơ  sở  đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển công  nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội   nhập   quốc   tế.         ­ Đối với giáo dục thường xuyên, bảo đảm cơ hội cho mọi người, nhất   là  ở  vùng nông thôn, vùng khó khăn, các đối tượng chính sách được học tập  nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ  năng chuyên môn nghiệp vụ  và chất lượng  cuộc sống; tạo điều kiện thuận lợi để người lao động chuyển đổi nghề; bảo   đảm xóa mù chữ  bền vững. Hoàn thiện mạng lưới cơ  sở  giáo dục thường   xuyên và các hình thức học tập, thực hành phong phú, linh hoạt, coi trọng tự  học   và   giáo   d ục   từ   xa.          ­ Đối với việc dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người   Việt Nam  ở  nước ngoài, có chương trình hỗ  trợ  tích cực việc giảng dạy  Tiếng việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho cộng đồng người Việt Nam  ở  nước ngoài, góp phần phát huy sức mạnh của văn hóa Việt Nam, gắn bó với   quê hương, đồng thời xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị  với nhân dân các  nước.         Để  thực hiện đổi mới phương pháp dạy học  ở  tiểu học đạt hiệu quả  chúng ta cần lưu ý tiến hành đổi mới một cách đồng bộ các vấn đề sau: 2. Căn cứ vào đặc điểm tư duy của học sinh Tiểu học          Theo Tâm lý học, tư duy của trẻ tiểu học mang tính đột biến, chuyển từ  tư  duy tiền thao tác sang tư  duy thao tác. Sở  dĩ có nhận định như  vậy là bởi   trẻ  trong giai đoạn mẫu giáo và đầu tiểu học tư  duy chủ  yếu trong diễn ra  trong trường hành động: tức những hành động trên các đồ vật và hành động tri  giác (phối hợp hoạt động của các giác quan). Thực chất của loại tư duy này là   trẻ  tiến hành các hành động để  phân tích, so sánh, đối chiếu các sự  vật, các  hình ảnh về sự vật. Về bản chất, trẻ chưa có các thao tác tư duy ­ với tư cách  là các thao tác trí óc bên trong.         Trong giai đoạn tiếp theo, trẻ đã chuyển được các hành động phân tích,   khái quát, so sánh... từ  bên ngoài thành các thao tác trí óc bên trong, mặc dù  tiến hành các thao tác này vẫn phải dựa vào các hành động với đối tượng  5/27
  6. Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một thực, chưa thoát ly khỏi chúng. Đó là các thao tác cụ  thể. Biểu hiện rõ nhất  của bước phát triển này trong tư  duy của nhi đồng là các em đã có khả  năng  đảo ngược các hình ảnh tri giác, khả  năng bảo tồn sự  vật khi có sự  thay đổi  các hình ảnh tri giác về chúng. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:  1. Rèn nói một cách có ý nghĩa. Là nói với sự  hiểu biết của chúng ta về một  kinh nghiệm hay về một  sự kiện nào đó mà người nghe hiểu được điều chúng ta muốn nói. 2.  Rèn học sinh nói có hiệu quả.         Trong thực tế hai kĩ năng nghe nói đi liền với nhau. Làm thế  nào để  HS  tự  tin hơn và đạt hiệu quả  cao hơn trong sự  trình bày, phát biểu suy nghĩ, ý  tưởng của mình trước người khác? ­ Luyện cho học sinh kĩ năng nghe và đáp lời, nói những câu rõ ràng,  mạch lạc trong giao tiếp, khi trả lời câu hỏi trong bài học. ­ Luyện cho học sinh cách hỏi bằng những câu hỏi để có thể hiểu chính  xác hơn nội dung khi nghe chưa rõ. ­ Luyện cho học sinh nghe và hiểu được theo nội dung lời nói. Tăng  dần mức độ đến mức hiểu và theo kịp những chỉ dẫn và lời nói. ­ Luyện cho học sinh chia sẻ và trao đổi những thông tin, ý tưởng với  bạn bè, thể hiện ra bằng câu nói hoàn chỉnh và mạch lạc, diễn đạt  chính các  để người nghe hiểu đúng suy nghĩ của mình. ­ Luyện cho học sinh biết kể  một câu chuyện đã trải qua, đã nghe kể  hoặc đã đọc theo kết cấu cơ bản và kết nối các sự kiện của câu chuyện bằng  cách trả lời câu hỏi về Ai? Cái gì? Khi nào? Tại sao? Như thế nào? Chú ý đến  trường độ của âm thanh, sự lên xuống giọng, tốc độ, điệu bộ, cử chỉ… ­ Luyện cho học sinh kể  lại một sự  kiện quan trọng trong  đời sống  hoặc một kinh nghiệm cá nhân bằng cốt truyện đơn giản. ­ Luyện cho học sinh trình bày những kinh nghiệm, sở  thích cá nhân  bằng những đoạn trình bày ngắn gọn và có chủ  đề  rõ ràng, bám sát chủ  đề  khi nói, có mở và kết thúc hợp lí. ­ Mô tả/ trình bày lại công việc đã làm của bản thân trước nhóm/ cả  lớp( các bước, thứ tự thực hiện, kĩ thuật thực hiện, kết quả…); trình bày kết  quả thảo luận của nhóm trước lớp… 6/27
  7. Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một ­ Luyện cho học sinh biết cách đề  xuất ý riêng của cá nhân khi thảo   luận nhóm, khi tranh luận về một vấn đề  trong nhóm hoặc tập thể lớp hoặc  đề xuất ý kiến riêng với giáo viên. ­ Luyện cho học sinh có thói quen và biết cách nói để  đề  nghị  người   khác và giúp đỡ khi cần. ­ Luyện cho học sinh biết cách nêu câu hỏi cho giáo viên về  bài học.   Đôi khi học sinh muốn hỏi giáo viên nhưng các em không biết cách diễn đạt   câu hỏi hoặc nội dung câu hỏi lại không phù hợp với điều các em muốn hỏi.  Giáo viên cần chú ý giúp học sinh hiểu rõ mục đích hỏi là ai? Nội dung gì?   Biết cách diễn đạt câu hỏi cũng như  sử  dụng những từ  để  hỏi trong Tiếng  việt như Ai? Cái gì? Ở đâu? Tại sao? Như thế nào? Để làm gì?... III. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC NÂNG CAO KĨ NĂNG NÓI CHO HỌC  SINH LỚP MỘT TRONG CÁC GIỜ HỌC TIẾNG VIỆT 1. Thuận lợi: 1.1.Giáo viên:   Được sự quan tâm và chỉ đạo tốt của các cấp lãnh đạo về chuyên môn.   Tổ  chức bồi dưỡng giáo viên, tổ chức những buổi học chuẩn kiến thức kỹ năng  cho học sinh tiểu học… cung cấp đủ tài liệu, phương tiện để nghiên cứu, học  hỏi, giảng dạy. Được sự giúp đỡ của Ban Giám Hiệu trường: tổ chức thao giảng, dự giờ  hàng tháng, tổ chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút  ra những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng  dạy. Đội ngũ giáo viên trường có tay nghề  vững lâu năm trong công tác, có  nhiều kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm người giáo viên và sẵn sàng  giúp đỡ  đồng nghiệp về  chuyên môn cũng như  giúp nhau tháo gỡ  những khó   7/27
  8. Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một khăn hay xử lý các trường hợp học sinh cá biệt về học tập cũng như năng lực  và phẩm chất. 1.2.Học sinh: Ở độ  tuổi 6 ­ 7 của học sinh lớp Một. Các em đa số  còn rất ngoan, dễ  vâng lời, nghe lời cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ  khích lệ  động viên khen thưởng vv…. Có được sự quan tâm về việc học tập của con em mình của một số phụ  huynh có ý thức trách nhiệm không khoán trắng cho nhà trường cho giáo viên,  mà tích cực phối hợp với giáo viên trong việc học tập của con em mình như:  Chuẩn bị  đầy đủ  sách vở, đồ  dùng học tập, thường xuyên nhắc nhở  và tạo  điều kiện tốt cho con em mình đến lớp cũng như học tập ở nhà. 2. Khó khăn     Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi trên, bản thân tôi vẫn còn gặp một số  khó khăn sau: 2.1. Giáo viên:          Tranh ảnh minh họa có sẵn cho môn Tiếng Việt còn hạn chế. Giáo viên  còn tự làm thêm đồ  dùng dạy học để  tạo sinh động cho tiết dạy, nên còn mất   thời gian đầu tư. Xét về nguyên nhân chủ quan đầu tiên cần phải kể đến là quan niệm của   giáo viên, một số giáo viên còn xem nhẹ hoạt động nói của học sinh trước lớp, chỉ  chú trọng đến kĩ năng đọc, viết nên trong giờ học Tiếng Việt thời lượng dành cho  hoạt động nói của học sinh quá ít. Chính vì thời lượng ít nên số lượng học sinh   tham gia nói về nội dung bài không được nhiều mà chỉ qua loa một vài em mà thôi.           2.2. Học sinh: ­ Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát  triển, học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn  so với các bạn bình thường kèm theo phát triển chậm về  trí nhớ, học trước   quên sau, chậm tiến. ­ Chưa chú ý lắng nghe một cách tích cực khi giáo viên nêu yêu cầu đến   lúc trình bày thường câu trả  lời không đúng mục đích hoặc chưa hết ý. Một  số trường hợp chỉ trả lời một tiếng là “có” hoặc “không” chứ chưa giải thích  được theo ý mình là vì sao có, vì sao không ? ­ Còn một số phụ  huynh  không và chưa quan tâm đúng mức đến việc   học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để  con em mình đến lớp  cũng như nhắc nhở các em học bài, đọc bài ở nhà. 8/27
  9. Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một II. Thực trạng của việc luyện nói cho học sinh lớp Một ở trường tôi 1. Về phía giáo viên: ­ Đầu tiên cần phải kể  đến là quan niệm của giáo viên, một số  giáo  viên còn xem nhẹ hoạt động nói của học sinh trước lớp, chỉ chú trọng đến kĩ  năng đọc, viết nên trong giờ học Tiếng Việt thời lượng dành cho hoạt động   nói của học sinh quá ít. Chính vì thời lượng ít nên số lượng học sinh tham gia  nói về nội dung bài không được nhiều mà chỉ qua loa một vài em mà thôi.  Giáo viên chưa tập trung tìm hiểu chi tiết về đặc điểm tâm sinh lý, môi   trường sống của học sinh, chưa thật sự thông cảm với những khó khăn mà học  sinh gặp phải nên khi tiến hành hỏi đáp chỉ yêu cầu những học sinh nói hay hoặc   hay nói trả lời. Không mấy quan tâm đến những học sinh ít nói, nghèo nàn về  ngôn ngữ, vì sợ gọi những em này trả lời sẽ làm mất nhiều thời gian. Vấn đề  này vô tình giáo viên đã làm cho những học sinh rụt rè ngày càng trở  nên nhút   nhát   hơn.        ­ Nêu câu hỏi chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp, câu hỏi   dễ lại dành cho học sinh khá, câu hỏi khó đôi khi muốn học sinh yếu trả lời,…   Một số giáo viên đặt câu hỏi chung chung khiến học sinh suy nghĩ tìm câu trả lời   khó.        ­ Có sửa sai nhưng chưa kiên trì, uốn nắn trong mọi tình huống, mọi hoạt  động của bài cũng như ở những giờ học khác. 2. Về phía học sinh: ­ Học sinh lớp Một có khả năng tự trả lời các câu hỏi đơn giản và phát   triển lời ­ nói thành một câu, một đoạn văn theo cảm xúc, suy nghĩ của mình.   Đồ  dùng dạy học đầy đủ, tranh  ảnh đẹp kích thích học sinh nói, ham học,   ham tìm hiểu. Đa số các chủ đề luyện nói gần gũi với thực tế cuộc sống của   học sinh  (Chủ đề về bản thân bé, bạn bè xung quanh, ba mẹ, ông bà, những sinh  hoạt thông thường của các em : phim hoạt hình, đọc truyện, nhà trẻ, chuối, bưởi,   vú sữa …) ­ Một số em đã biết trả lời câu hỏi một cách đầy đủ, nhưng đó mới là một số ít   em.           ­ Chưa chú ý lắng nghe một cách tích cực khi giáo viên nêu yêu cầu đến   lúc trình bày thường câu trả  lời không đúng mục đích hoặc chưa hết ý. Một  số trường hợp chỉ trả lời một tiếng là “có” hoặc “không” chứ chưa giải thích  được theo ý mình là vì sao có, vì sao không ? 9/27
  10. Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một            ­ Còn ỷ lại hoặc nói theo các bạn chứ chưa chịu khó tự tìm ra câu trả  lời hay cho chính mình.           ­ Một số em đến lớp chưa chú ý nghe giảng, chưa tập trung trong các   giờ để việc tiếp thu bài đạt hiệu quả.           ­ Một số phụ huynh chưa thực sự sát sao trong quá trình học tập của con   em mình. Khi học sinh  ở nhà các bậc phụ huynh không uốn nắn cho các em kĩ  năng nói, kĩ năng trả lời câu hỏi. Học sinh ở vùng nông thôn ít được tiếp cận với  môi   trường   xã   hội   hiện   đại   nên   vốn   ngôn   ngữ   có   được   cũng   hạn   chế.             Trước những vấn đề đó tôi tiến hành khảo sát chất lượng học sinh tại   lớp tôi  đầu năm học 2017 ­ 2018 và thu được kết quả như sau: * Bài tập khảo sát:  Bài 1: Phần luyện nói bài  17: u – ư. Chủ đề Thủ đô Yêu cầu học sinh quan sát tranh và trả lời câu hỏi: Câu hỏi: Em biết thủ đô của nước mình tên là gì? Ở thủ đô có những gì? Hãy   kể cho cô và các bạn nghe. Bài 2: Phần luyện nói bài 80: iêc, ươc. Chủ đề Xiếc, múa rối, ca nhạc Yêu cầu học sinh quan sát tranh và trả lời câu hỏi: 10/27
  11. Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một Trong 3 loại hình nghệ thuật trên, em thích xem loại hình nào? Vì sao? * Kết quả khảo sát: Hoàn thành  Chưa hoàn thành Sĩ số Lớp SL % SL % 1A4 35 13 37,1 22 62.9 * Kết luận: Qua phần khảo sát về thực trạng luyện nói cho học sinh ở  lớp tôi. Tôi nhận thấy rõ việc cần thiết phải có các biện pháp để rèn kĩ năng  nói cho học sinh lớp Một. Với các em điều đó là rất quan trọng    vì các em  đang là học sinh lớp Một, là những chồi non mà bạn có thể uốn nắn dễ dàng.  Nhưng nếu cái chồi non đó mà bạn uốn nắn không tốt thì có thể  sẽ  gây ra  hậu quả  xấu. Với sự  cần thiết như  vậy tôi đã nghiên cứu và học hỏi kinh  nghiệm của đồng nghiệp để tìm ra những biện pháp đúng đắn giúp các em có  một kĩ năng nói tốt nhất. 11/27
  12. Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một IV. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: Để giúp học sinh trong lớp mình dạy rèn luyện kĩ năng nói và phát triển  khả năng diễn đạt ý phong phú, tôi đã mạnh dạn đưa ra những giải pháp sau:   1. Xác định và nắm rõ mục tiêu chính của chủ đề luyện nói. Muốn luyện nói và diễn đạt ý được tốt thì trước tiên phải xác định rõ   chủ  đề  luyện nói trong bài ngày hôm nay là cái gì ? học sinh phải nắm chắc  được tên bài luyện nói để dựa vào đó để có được sự định hướng tốt nhất cho   phần hướng dẫn mà giáo viên đưa ra. Đó chính là những gợi ý thiết thực nhất   phục vụ cho quá trình luyện nói và diễn đạt ý của học sinh. Để từng học sinh   có thể được cùng luyện nói và không đi lạc với chủ đề. ­Với phân môn Học vần  ở  tập 1,  ở  tiết 2 có phần luyện nói giáo viên  nên chia khoảng thời gian là 10 phút.  Ví dụ bài 55, tiết 120 eng, iêng. Có thể chia: Hoạt động 1: Luyện đọc – 10 phút Hoạt động 2: luyện nói – 8 phút Hoạt động 3: luyện viết – 12 phút Ví dụ: Trong chủ đề Nói lời xin lỗi   Nếu giáo viên khai thác quá sâu sẽ  dẫn sang việc dạy Đạo đức chứ  không phải phần luyện nói trong bài. Giáo viên cần đưa ra những câu hỏi phù hợp như:  + Em chỉ kể cho cô và các bạn trong nhóm nghe về những lần mình đã   cảm ơn ai đó và về điều gì?  12/27
  13. Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một + Em cần nói cảm ơn trong những trường hợp nào? Hoặc trong chủ đề  Gió, mây, mưa, bão, lũ sẽ dẫn đến nhầm lẫn sang  dạy Tự nhiên và xã hội. 2. GV nắm bắt thực tế về khả năng nói của từng em để đưa ra phương   pháp,hình thức dạy luyện nói phù hợp với đối tượng. Trong một năm học có nhiều sự đổi mới trong việc thực hiện Thông tư  30 của bộ  Giáo dục và đào tạo. Về  nhận xét và đánh giá học sinh hoàn toàn  thay đổi, từ sự nhận xét chi tiết về mọi mặt của học sinh mà giáo viên có thể  nắm bắt được khả năng nói của từng em học sinh trong lớp mình đang dạy.  Để phù hợp với việc thực hiện thông tư  việc đưa ra các phương pháp,   hình thức để giúp học sinh có khả năng diễn đạt nói là rất cần thiết. Tôi đưa ra một số gợi ý sau: Trong khi soạn bài cần chú trọng đến sử  dụng hệ  thống câu hỏi phù   hợp với chủ đề và phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp. Ví dụ : Chủ điểm  :  Mẹ Con. Đối với học sinh  ở địa phương chúng tôi có thể  tổ  chức luyện nói với   nội dung như sau : Hỏi Đáp( Dự kiến) ­ Trong tranh gồm có những ai ?  ­ Có bà mẹ và em bé .  ­ Họ đang làm gì ?   ­  Mẹ đang bế em bé.  ­ Em bé đáng yêu như thế nào ?  ­  Em bé bụ bẫm, kháu khỉnh và đáng  ­ Bạn hãy nói về  sự  chăm sóc, nuôi  yêu. 13/27
  14. Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một dưỡng của mẹ đối với bé ?  ­  H/S khá, giỏi: Mẹ  chăm sóc em bé  ­   Tình   cảm   của   mẹ   đối   với   em   bé  chu đáo, yêu thương. như thế nào ?  ­ Mẹ rất yêu thương em bé. ... ...            Khi đặt câu hỏi phải hướng cho các em vào trọng tâm của bài luyện  nói. Dựa vào từng đối tượng học sinh đã nắm bắt được trong lớp của mình,  giáo viên đưa ra các câu hỏi gợi ý nhỏ, chi tiết với những học sinh nhận thức   chậm. Và đưa  ra các câu hỏi tổng quát với những học sinh nhận thức nhanh   và tốt trở lên.          Bài 71:   Chủ đề :  Chợ tết. (Tổ chức luyện nói cặp đôi hoặc ba người) ­ Bức tranh trong bài vẽ cảnh gì ?      ( Vẽ cảnh chợ tết.) ­ Vì sao bạn biết ?  ( Có bánh, mứt, kẹo, hoa đào, có người đi mua sắm đồ  tết, câu đối…) ­ Trong tranh bạn nhỏ đi chợ tết với ai? (Bạn nhỏ đi chợ tết với mẹ hoặc  chị gái.)  ­ Bạn đã được đi chợ tết bao giờ chưa?   ( Đã được đi hoặc chưa.) 14/27
  15. Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một ­ Bạn thấy không khí trong những ngày gần tết thế nào?   ( Đông vui nhộn   nhịp hơn ngày bình thường, mỗi người cảm thấy bận rộn hơn, trẻ con vui vẻ,  hớn hở đón tết, cảnh vật đẹp hơn.)  Hoặc giáo viên nêu cả lớp suy nghĩ và phát biểu: ­ Tết đến em thích gì ?  Cho học sinh tự  nói, tạo không khí giao tiếp tự  nhiên thoải mái.  ( Được đi thăm chúc tết ông bà, được nhận tiền lì xì, được  mặc quần áo mới, cùng người thân đi đón người thân công tác xa về ăn tết ở  quê hương, có hoa đẹp, có bánh chưng, tranh ảnh mới và hương thơm toả ấm   trong gia đình…)  Hay cặp khác có những câu hỏi khác xoay quanh chủ  đề  chợ  tết (Bóng  bay, tranh ảnh, đĩa hát, đồ chơi, hoa tươi?) ­ Không khí trong những ngày giáp tết như thế nào?  ( Xe cộ nhiều, người  đi lại nườm nượp , đông đúc…) Học sinh nói cặp đôi:    ( An toàn giao thông, cẩn thận về  đồ  đạc, hàng hoá của mình, không  được rời người thân. ) ­ Tại sao chợ tết lại họp sớm hơn và tan muộn hơn? ( Đông người, hàng  hoá nhiều để phục vụ mọi người ăn tết.) ­ Bạn có thích tết không ?  ­ Để  đón tết vui vẻ, an toàn bạn cần làm gì ?   ( Ăn uống hợp vệ  sinh,   không chơi trò chơi nguy hiểm như: Đốt các loại pháo, súng diêm…) Cho học sinh kể một số trò chơi nguy hiểm cần tránh. ­ Sử dụng các tranh,  ảnh phù hợp với bài luyện nói để  tăng khả  năng diễn  đạt. 3. Phân các chủ đề luyện nói thành nhiều nhóm để  có thể  lựa chọn các   hình thức và phương pháp phù hợp. ­ Chẳng hạn với những chủ  đề  gần gũi với học sinh có thể  cho  học   sinh đóng vai, thông qua các hình thức học tập khác như trò chơi… ­ Với chủ  đề:  Ba má, có thể  cho học sinh sắm vai để  học sinh nhận  thấy rõ tình cảm của mình đối với ba má và ngược lại. Hoặc có thể cho học   15/27
  16. Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một sinh đóng vai về  những việc mình đã làm cho ba má để  thể  hiện tình yêu  thương. ­ Với những chủ đề xa lạ hơn, giáo viên có thể giới thiệu trực tiếp sau   khi cho học sinh quan sát tranh. Sau đó, gợi ý để  học sinh quan sát được nó  được đặt ở đâu? Và dùng để làm gì ? Ví dụ: Như chủ đề Vó bè  Giáo viên có thể cho học sinh quan sát trực tiếp tranh để tìm ra câu trả  lời hoặc giáo viên hướng dẫn để học sinh biết đó là cái vó bè. Đối với một số  em có thể hỏi tác dụng của vó bè hoặc gợi ý để học sinh đưa ra câu trả lời. 4. Sử dụng thiết bị dạy học có hiệu quả Giáo viên sưu tầm các tranh  ảnh phục vụ  cho bài luyện nói. Ngoài ra   với một số bài luyện nói có thể đưa ra các mẫu vật thật nhằm giúp học sinh   có hứng thú và diễn đạt được hay hơn. Ví dụ: Với chủ đề Áo choàng,áo len, áo sơ mi Giáo viên có thể đưa ra các loại áo như trong bài, qua đó học sinh sẽ dễ  dàng trả lời các câu hỏi ứng với mỗi loại áo hơn. 5. Các phương pháp và hình thức dạy học 5.1.Gợi ý bằng hệ thống câu hỏi qua phương pháp đàm thoại:  Bước đầu chỉ  dừng lại  ở  việc: “Thầy hỏi – trò đáp”. Dựa trên lời nói  của học sinh, giáo viên sẽ chỉnh sửa câu nói sao cho rõ, gọn, đủ ý, diễn đạt ý   theo nội dung câu hỏi xoay quanh chủ đề. Ví dụ: trong chủ đề luyện nói Bà cháu Hỏi: Đáp:   (dự kiến) Bức tranh vẽ gì ? => Bức tranh vẽ bà và cháu. Ai hay kể chuyện cho em nghe? => Bà hay kể chuyện cho em nghe.  Ở nhà em yêu ai nhất? vì sao?  => Em yêu bà nhất vì… 5.2.Sử dụng tranh ảnh, đồ dùng trực quan: 16/27
  17. Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một Học sinh quan sát tranh và diễn đạt lại những gì đã được quan sát khi  nhìn tranh. Mỗi hình vẽ  trong tranh là một tình huống thể  hiện chủ  đề  của  bài. Khi Hs đã quen với việc luyện nói, giáo viên sẽ  nâng dần hình thức   trong quá trình dạy luyện nói: ­ Chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi mở thật kỹ. Ban đầu là những câu hỏi   dễ dàng cho học sinh chọn và giúp cả lớp có được những ý chính của chủ đề  cần được nói. Sau đó câu hỏi được nâng dần cao hơn, khái quát hơn. Ví dụ: với chủ đề “Chợ tết” Giáo viên cho học sinh hát về ngày tết: các em sẽ dễ dàng hình dung và  nhận ra ngay chủ đề cần phải luyện nói về ngày tết. Gv đưa ra một số  câu hỏi mở  để  từng cá nhân có thể  trả  lời dễ  dàng   khi quan sát hình vẽ về ngày tết:  ­ Tranh vẽ cảnh gì? ­ Trong tranh con thấy có ai và có những gì? Họ đang làm gì? ­ Con đã đi chợ tết bao giờ chưa? Một số  câu hỏi khác khái quát hơn để  các nhóm cùng thảo luận, diễn   đạt ý hoàn chỉnh, thành một đoạn văn: ­ Mọi người khi đi chợ tết như thế nào? ­ Ba mẹ trong gia đình con thường mua những gì khi đi chợ tết? Hoặc khi dạy chủ đề về “ Biển cả”: 17/27
  18. Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một ­ ­ Phong cảnh biển đẹp như thế nào? ­ Biển có gì? Nước biển màu gì? ­ Âm thanh của biển ra sao? ­ Em hãy kể về những lần đi tắm biển với gia đình? ­ Tại sao em thích biển? 5.3.Tổ chức các hoạt động trò chơi, tạo hứng thú, giúp các em mạnh dạn,   tự tin, tích cực tham gia trong quá trình luyện nói. Chẳng hạn như  các chủ  đề: Nặn đồ  chơi; Áo choàng, áo len, áo sơ  mi;  Ghế đẩu, ghế xoay, ghế tựa; Phim hoạt hình; Đọc truyện tranh… Học sinh sẽ  được tham gia chơi nặn hình bằng đất, tô màu, vẽ  tranh, hay chọn các loại áo  thích hợp với thời tiết… Ví dụ: Với chủ đề  Nặn đồ  chơi giáo viên có thể  tổ  chức cho học sinh   nặn một số  đồ  chơi bằng đất nặn để  giúp học sinh hiểu rõ về  môn nặn đồ  chơi. ­ Với những bài tập Chính tả: Có thể  tạo trò chơi để  học sinh điền  đúng các vần, âm đầu nhằm giúp học sinh nói cho chính xác.  Ví dụ: => Cách tiến hành: Giáo viên lựa chọn các loại âm, vần địa phương  thường phát âm sai chuẩn trong từng bài tập đọc để  học sinh luyện phát âm  thật đúng và chính xác. Điều quan trọng  ở  đây chính là bản thân giáo viên  phải là người phát âm chuẩn và chính xác. 18/27
  19. Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một Đa số  học sinh trong lớp 1A4 do tôi làm chủ  nhiệm các em thường   phát âm sai l/ n, phát âm sai x/ s. Do đó, trong phần yêu cầu luyện đọc từ khó ở hầu hết tất cả các bài  Học vần và Tập đọc, tôi luôn quan tâm lựa chọn những từ ngữ có âm đầu l/ n  và từ ngữ có chứa x/ s. Bên cạnh đó, tuỳ theo nội dung của bài học, tôi đưa ra  những trò chơi giúp hoạt động vừa học vừa vui chơi cho thoải mái. ­ Loại bài tập kể chuyện: (Kể chuyện do giáo viên kể lại qua các tiết  học kể chuyện...) Loại bài tập này được áp dụng  ở  phân môn kể  chuyện. Cần chú ý  hướng dẫn học sinh có tư thế, có giọng kể thích hợp, biết sử dụng yếu tố phi  ngôn ngữ hỗ trợ, đặc biệt nắm vững câu chuyện định kể. Ví dụ: Phân vai dựng chuyện Chuẩn bị: Giáo viên lựa chọn bài tập ở tiết kể chuyện có yêu cầu phân vai dựng   lại câu chuyện (Trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1); có thể  dựa vào văn   bản truyện kể ở sách giáo khoa, soạn thành “Màn kịch ngắn” để học sinh tập   diễn xuất được dễ dàng và thuận lợi. Ví dụ: Câu chuyện Dê con nghe lời mẹ  (Tiếng Việt 1/Tập 2) có thể  được   dựng   lại   thành   “kịch   bản”   cho   “Màn   kịch   ngắn”   như   dưới   đây   để  hướng dẫn học sinh tham gia dựng lại câu chuyện (lời dẫn trong ngoặc đơn   nhằm gợi ý về thái độ, củ chỉ, hành động của nhân vật hoặc gợi ý tạo dựng   bài trí khung cảnh...) Dê con nghe lời mẹ Nhân vật:      ­ Dê mẹ/Sói /Dê con/Dê con/Dê con Cảnh 1: 19/27
  20. Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp Một (Dê mẹ đang chuẩn bị đi kiếm cỏ, trước khi đi Dê mẹ dặn các con trước cửa   ngôi nhà) ­ Dê mẹ (xách một các giỏ): + Mẹ  đi kiếm cỏ, các con  ở  nhà ngoan nhé. Ai lạ  gọi không được mở  cửa. Lát mẹ về cho các con bú. Mẹ về sẽ hát: Các con ngoan ngoãn/Mau mở  cửa ra/Mẹ đã về nhà/Cho các con bú. ­ Đàn Dê con( đứng khoanh tay):  + Vâng ạ. Cảnh 2: (Khung cảnh Sói đứng rình và rón rén đến trước cửa ngôi nhà, chuẩn bị  hát.   Đàn Dê con đứng trong nhà nhìn qua của sổ và thấy Sói.Giọng hát của Sói ồm   ồm):    Các con ngoan ngoãn                                                   Mau mở cửa ra                                                   Mẹ đã về nhà                                                   Cho các con bú. 20/27
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2