JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Social Sci., 2017, Vol. 62, No. 2, pp. 110-117<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0016<br />
<br />
SO SÁNH QUY ĐỊNH VỀ XỬ PHẠT HÀNH VI THAM NHŨNG<br />
TRONG QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT VÀ ĐẠI MINH LUẬT<br />
Phan Ngọc Huyền<br />
<br />
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
Tóm tắt. Đại Minh luật và Quốc triều hình luật là hai bộ pháp điển quan trọng của vương<br />
triều Đại Minh và Đại Việt. Nghiên cứu các quy định về xử phạt hành vi tham nhũng trong<br />
bộ Đại Minh luật (thời Minh) và Quốc triều hình luật (thời Lê Sơ), có thể nhận thấy một số<br />
điểm tương đồng bên cạnh sự khác biệt về số lượng điều luật, phạm vi điều chỉnh và mức<br />
độ hình phạt. Bài viết này tập trung khảo cứu và so sánh các quy định về xử phạt hành vi<br />
tham nhũng của quan lại trong bộ Đại Minh luật và Quốc triều hình luật, thông qua đó góp<br />
phần nghiên cứu so sánh chính sách phòng chống tham nhũng trong lịch sử của các triều<br />
đại Việt Nam và Trung Quốc thời trung đại.<br />
Từ khóa: Tham nhũng, Quốc triều hình luật, Đại Minh luật, Xử phạt.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Phòng chống tham nhũng, giữ gìn sự trong sạch của chốn quan trường từ xưa đến nay luôn<br />
là một trong những vấn đề trăn trở của mỗi chính quyền nhà nước. Thời nào cũng vậy, muốn chống<br />
được tham nhũng thì trước hết phải có chế tài pháp luật. Trong bộ Quốc triều hình luật thời Lê Sơ,<br />
các quy định về xử phạt hành vi tham nhũng chiếm số lượng không ít. Điều này nếu so sánh với<br />
nội dung các quy định trong bộ Đại Minh luật thì thấy có nhiều điểm tương đồng bên cạnh những<br />
khác biệt về vị trí các điều luật và mức độ hình phạt.<br />
Cho đến nay, những nghiên cứu về quy định phòng chống tham nhũng qua từng bộ luật mới<br />
chỉ được đề cập đến qua một vài bài viết, tham luận khoa học. Chẳng hạn, khảo cứu về các quy<br />
định xử phạt hành vi tham nhũng trong Quốc triều hình luật mới có một số bài viết của Nguyễn<br />
Văn Thanh (2008) về Các quy định về phòng, chống tham nhũng trong bộ Quốc triều hình luật và<br />
những bài học cho công cuộc phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay; Phan Văn Báu (2013)<br />
về Quốc triều hình luật với việc đấu tranh phòng chống các tội phạm về tham nhũng hay Phan<br />
Ngọc Huyền (2015) về Khảo cứu về quy định chống tham nhũng trong Quốc triều hình luật. . .<br />
Đặc biệt hơn, cho đến nay chưa có bài viết nào tiến hành so sánh các quy định về xử phạt hành<br />
vi tham nhũng trong hai bộ Quốc triều hình luật thời Lê Sơ và Đại Minh luật thời Minh. Thông<br />
qua bài viết này, người viết hi vọng sẽ góp một phần nhỏ trong việc nghiên cứu vấn đề lập pháp về<br />
phòng chống tham nhũng trong lịch sử hai vương triều Lê Sơ và Đại Minh.<br />
Ngày nhận bài: 15/10/2016. Ngày nhận đăng: 20/3/2017<br />
Liên hệ: Phan Ngọc Huyền, e-mail: huyenpn@hnue.edu.vn<br />
<br />
110<br />
<br />
So sánh quy định về xử phạt hành vi tham nhũng trong Quốc triều hình luật và Đại minh luật<br />
<br />
2.<br />
2.1.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
Quy định về xử phạt hành vi tham nhũng trong Đại Minh luật<br />
<br />
Đại Minh luật (tên gọi đầy đủ là Đại Minh luật tập giải phụ lệ) là bộ pháp điển quan trọng<br />
của vương triều Đại Minh được ban hành dưới thời Minh Thái Tổ (Chu Nguyên Chương). Bộ luật<br />
được biên soạn từ năm Ngô nguyên niên (1364) và trải qua 3 lần hiệu chỉnh vào các năm Hồng Vũ<br />
thứ 7 (1374), Hồng Vũ thứ 22 (1389) và Hồng Vũ thứ 30 (1397) mới hoàn thành. Đại Minh luật<br />
bao gồm 30 quyển, phân thành Danh lệ 01 quyển, Lại luật 02 quyển, Hộ luật 7 quyển, Lễ luật 02<br />
quyển, Binh luật 05 quyển, Hình luật 11 quyển và Công luật 02 quyển, tổng cộng có 460 điều.<br />
Các điều luật về tội tham nhũng và xử phạt hành vi tham nhũng trong Đại Minh luật khá<br />
nhiều. Luật thời Minh có kế thừa danh mục Lục tang (chỉ các quy định về 6 loại hành vi phạm tội<br />
liên quan đến tham nhũng) của luật thời Đường song đã có sự cải biến. Đường luật quy tội thụ tang<br />
(tham ô, nhận tiền của trái pháp luật) bằng 6 hình thức phạm tội như sau: thụ tài uổng pháp (nhận<br />
tiền/của làm trái pháp luật), thụ tài bất uổng pháp (nhận tiền/của nhưng không làm trái pháp luật<br />
khi xét xử), thụ sở giám lâm (nhận tiền của của quan dân ở nơi đến công tác), cường đạo (cưỡng<br />
ép người khác để lấy tiền của), thiết đạo (ngầm chiếm đoạt của công), tọa tang (tham ô của công).<br />
Đại Minh luật lại phân Lục tang ra làm 6 loại: Giám thủ tang (quan giám lâm chủ thủ tham<br />
ô, ăn trộm của công do mình quản lí), thường nhân tang (quan lại cấp thấp hoặc người thường ăn<br />
trộm/chiếm đoạt của công), thiết đạo (ngầm tham ô, chiếm đoạt của công), uổng pháp tang (tham<br />
ô, nhận tiền của làm trái pháp luật), bất uổng pháp tang (tham ô, nhận tiền của làm trái pháp luật<br />
nhưng không làm trái pháp luật), tọa tang (tham ô của công). Đáng lưu ý là Đại Minh luật đã đặt<br />
hành vi tham ô, nhận hối lộ, ăn trộm của công của các giám thủ đạo/giám lâm chủ thủ (tức các<br />
quan viên nắm chức trách quản lí ở các châu huyện) lên hàng đầu trong số Lục tang.<br />
Điều này cho thấy các quy định về phòng chống quan lại tham nhũng trong luật thời Minh<br />
rất được xem trọng với mức xử phạt nghiêm minh. Ví dụ, trong điều luật Giám thủ tự đạo thương<br />
khố tiền lương quy định: “Phàm quan giám lâm chủ thủ lấy trộm tiền lương, đồ vật của kho khố,<br />
không phân thủ tòng, đều luận tội tham tang. . . Từ 1 quan đến 2 quan 500 văn, đánh 90 trượng; 5<br />
quan, đánh 100 trượng. . . ;25 quan, đánh 100 trượng, lưu 3000 dặm; 40 quan, xử trảm” [2;37].<br />
Trong phần Hình luật, Đại Minh luật đã đặt một mục riêng gọi là thụ tang (nhận tiền của<br />
hối lộ, chiếm dụng của công trái phép) với tổng số 11 điều, bao gồm: Quan lại thụ tài (Quan lại<br />
nhận tiền của), Tọa tang chí tội (Vướng vào tang vật đưa đến tội), Sự hậu thụ tài (Nhận tiền của sau<br />
khi xong việc), Hữu sự dĩ tài thỉnh cầu (Có việc đem tiền của thỉnh cầu), Tại quan cầu sách tá hóa<br />
nhân tài vật (Quan buộc mượn hàng hóa, tài vật của người); Gia nhân cầu sách (Để người nhà sách<br />
nhiễu tiền của), Phong hiến quan lại phạm tang (Phong hiến quan lại phạm tội ăn hối lộ), Nhân<br />
công thiện khoa liễm (Nhân việc công mà tự ý bắt dân đóng góp), Tư thu công hầu tài vật (Tư ý<br />
thu lấy tài vật của công hầu), Khắc lưu đạo tang (Giữ lại tang vật ăn trộm) và Quan lại thính hứa<br />
tài vật (Quan lại hứa nhận tài vật). Trong đó, riêng quy định về Quan lại thụ tài (Quan lại nhận tiền<br />
của) đã phân biệt chế tài giữa những “người có lộc” (chỉ những người có lương tháng không được<br />
đến 01 thạch) với những người “không có lộc” (chỉ những người có lương mỗi tháng 01 thạch trở<br />
lên) như sau: “Phàm quan lại nhận tiền của thì (căn cứ) tính theo tang vật mà xử tội. Người không<br />
có lộc thì đều được giảm một bậc. Quan thì bị truy thu bằng sắc, bãi bỏ các chức danh trong quan<br />
tịch; lại thì bị bãi dịch không kể thứ bậc nào. Trường hợp nhân có việc mà mang tiền đi hối lộ thì<br />
người đó, nếu có lộc thì tội được giảm nhẹ hơn người nhận tiền một bậc, người không có lộc thì tội<br />
được giảm nhẹ (hơn người nhận tiền) hai bậc. Tội chỉ phạt 100 trượng, bắt di chuyển đi nơi khác.<br />
Trường hợp là người nhận hối lộ thì tùy theo tang vật mà xử phạt nặng” [2;83].<br />
111<br />
<br />
Phan Ngọc Huyền<br />
<br />
Ngoài 11 điều trong mục thụ tang như trên, trong nhiều chương, phần khác của Đại Minh<br />
luật cũng còn rất nhiều điều luật liên quan đến việc xử phạt các hành vi tham ô, nhận hối lộ.<br />
Theo thống kê của người viết, Đại Minh luật có đến 95 điều luật liên quan đến vấn đề này:<br />
<br />
Quyển/<br />
Phần<br />
<br />
Bảng 1. Tổng số điều luật về hình thức xử phạt<br />
các hành vi tham nhũng của quan lại trong “Đại Minh luật”<br />
<br />
Danh<br />
lệ luật<br />
<br />
Lại luật<br />
Chức<br />
chế<br />
1<br />
<br />
Hộ luật<br />
<br />
Công<br />
thức<br />
1<br />
<br />
Hộ<br />
dịch<br />
6<br />
<br />
Điền<br />
trạch<br />
6<br />
<br />
Thương Khóa<br />
Tiền<br />
Thị<br />
khố<br />
trình<br />
triền<br />
trái<br />
Số điều<br />
6<br />
20<br />
6<br />
1<br />
2<br />
3<br />
Tổng<br />
2<br />
41<br />
Công luật<br />
Binh luật<br />
Hình luật<br />
Quân Quan<br />
Cứu<br />
Bưu<br />
Đạo<br />
Thụ<br />
Trá<br />
Tạp<br />
Bộ<br />
Đoán<br />
Doanh<br />
chính<br />
tân<br />
mục<br />
dịch<br />
tặc<br />
tang<br />
ngụy phạm vong ngục<br />
tạo<br />
2<br />
2<br />
3<br />
7<br />
11<br />
1<br />
1<br />
3<br />
9<br />
3<br />
4<br />
3<br />
11<br />
35<br />
(Nguồn: “Đại Minh luật”, Hoài Hiệu Phong biên tập, Liêu Thẩm thư xã xuất bản, năm 1990)<br />
<br />
Bảng thống kê với tổng số 95 điều luật liên quan đến việc xử phạt quan lại tham nhũng cho<br />
thấy phạm vi điều chỉnh của Đại Minh luật tính toàn diện, thể hiện trên nhiều phương diện (nhân<br />
khẩu, quản lí đất đai, thuế dịch, hình ngục. . . ) và góc độ (hành chính, dân sự, quân sự) cùng với<br />
chế tài xử phạt khá nghiêm khắc. Những điều luật này trong Đại Minh luật đã trở thành văn bản<br />
có tính pháp quy rất quan trọng của triều Minh về phòng chống tham nhũng.<br />
<br />
2.2.<br />
<br />
Quy định về xử phạt hành vi tham nhũng trong Quốc triều hình luật<br />
<br />
Thi hành chính sách chống tham nhũng, nhất định phải có luật pháp về chống tham nhũng.<br />
Xuất phát từ nhận thức đó, Lê Thánh Tông đã nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật, chế định rất<br />
nhiều các điều luật về phòng chống tham nhũng. Đầu thời Lê Sơ, để củng cố chế độ và quản lí xã<br />
hội, hoàng đế Lê Thánh Tông đã hạ lệnh biên soạn bộ pháp điển của triều đại mình. Năm Hồng<br />
Đức thứ 14 (1483), Lê Thánh Tông đã phê chuẩn việc ban hành bộ Quốc triều hình luật (còn gọi<br />
là Lê triều hình luật hay Luật Hồng Đức). Bộ luật này gồm 6 quyển, 13 chương, 722 điều bao gồm<br />
nhiều lĩnh vực như hình pháp, dân sự, hôn nhân, gia đình. . .<br />
Trong số 13 chương của Quốc triều hình luật, có không ít điều luật có nội dung liên quan<br />
đến phòng chống tham nhũng. Trừ các chương Thông gian, Đấu tụng, Bộ vong, 10 chương còn lại<br />
đều có các quy định xử phạt các hành vi tham ô, chiếm đoạt của công. Theo thống kê của người<br />
viết, trong Quốc triều hình luật có tất cả 76 điều luật có liên quan đến chế tài xử phạt các hành vi<br />
tham ô, nhận hối lộ của quan lại. Cụ thể như sau:<br />
<br />
Chương<br />
<br />
Danh<br />
lệ<br />
<br />
Điều<br />
luật liên<br />
quan<br />
<br />
1<br />
<br />
Bảng 2. Thống kê các điều luật có nội dung liên quan đến<br />
phòng chống tham ô trong “Quốc triều hình luật”<br />
Vệ<br />
cấm<br />
<br />
Vi<br />
chế<br />
<br />
Quân<br />
chính<br />
<br />
Hộ<br />
hôn<br />
<br />
Điền<br />
sản<br />
<br />
Đạo<br />
tặc<br />
<br />
Trá<br />
ngụy<br />
<br />
Tạp<br />
luật<br />
<br />
Đoán<br />
ngục<br />
<br />
Tổng<br />
<br />
5<br />
<br />
23<br />
<br />
8<br />
<br />
9<br />
<br />
4<br />
<br />
3<br />
<br />
3<br />
<br />
11<br />
<br />
9<br />
<br />
76<br />
<br />
(Nguồn: “Quốc triều hình luật” (bản dịch), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995)<br />
<br />
112<br />
<br />
So sánh quy định về xử phạt hành vi tham nhũng trong Quốc triều hình luật và Đại minh luật<br />
<br />
Trong số hơn 70 điều luật nói trên, nội dung phản ánh về các hành vi tham nhũng của quan<br />
lại khá đa dạng, như: tổng quan về việc trừng phạt tội người nhận hối lộ, người đưa hối lộ; thượng<br />
cấp nhận hối lộ mà bao che, dung túng cho cấp dưới; hoành hành nhũng nhiễu lương dân để lấy<br />
tiền của; nhận hối lộ mà dung túng tội phạm; nhận tiền đút lót mà miễn binh dịch cho người; ăn<br />
cắp tài vật của công; vơ vét hoặc ăn bớt của công. . .<br />
Nghiên cứu cụ thể cho thấy, các điều luật liên quan đến xử phạt hành vi tham nhũng của<br />
quan lại trong Quốc triều hình luật tập trung nhiều nhất ở chương Vi chế, tiếp đến là các chương<br />
Tạp luật, Hộ hôn và Đoán ngục. Tuy không đặt riêng thành lục Thụ tang (như Đại Minh luật) song<br />
nội dung phòng chống tham ô khá phong phú, cụ thể được biểu hiện qua những khía cạnh dưới<br />
đây:<br />
Một là, xử phạt hành vi nhận hối lộ và đưa hối lộ: hình phạt nặng nhẹ tùy thuộc vào mức<br />
độ phạm tội. Đối với người nhận hối lộ, Quốc triều hình luật quy định xử phạt như sau. Điều thứ<br />
42, chương Vi chế viết: “Quan ty làm trái pháp luật mà ăn hối lộ từ 1 quan đến 9 quan thì xử tội<br />
biếm hay bãi chức, từ 10 quan đến 19 quan thì xử tội đồ hay lưu, từ 20 quan trở lên thì xử tội chém.<br />
Những bậc công thần quý thần cùng những người có tài được dự vào hàng bát nghị mà ăn hối lộ từ<br />
1 quan trở lên đến 9 quan thì xử phạt tiền 50 quan, từ 10 quan đến 19 quan thì xử phạt tiền từ 60<br />
quan đến 100 quan, từ 20 quan trở lên thì xử tội đồ, những tiền ăn hối lộ xử phạt gấp đôi nộp vào<br />
kho” [4;74].<br />
Không chỉ người nhận hối lộ bị xử phạt, kẻ đưa hối lộ nếu dùng tiền bạc để nhờ vả quan<br />
trên, cố ý làm trái pháp luật cũng phải chịu tội. Nếu do oan uổng thật mà vẫn phải đi hối lộ người<br />
ta thì sẽ được xem xét giảm tội. Điều thứ 44, chương Vi chế quy định: “Những người đưa hối lộ mà<br />
xét ra việc của họ trái lẽ thì theo việc của họ mà định tội. Còn người nào thật oan khổ vì muốn cho<br />
khỏi tội mà hối lộ thì được giảm tội. Người không phải việc mình mà đi hối lộ thay người khác thì<br />
xử tội nhẹ hơn người ăn hối lộ hai bậc. Những người thuộc hạ mà xúc xiểm quan trên thì cũng xử<br />
tội như thế. Của hối lộ phải nộp vào kho” [4;75].<br />
Hai là, xử phạt việc lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu, mưu đoạt lợi lộc: Đây là nội dung<br />
được phản ánh nhiều nhất trong số các điều luật liên quan đến các hành vi tham nhũng của quan<br />
lại, chiếm khoảng hơn 20 điều trong số 76 điều luật có liên quan. Quốc triều hình luật quy định<br />
rất rõ, đối với mọi biểu hiện lợi dụng uy quyền, cưỡng chiếm tài sản công của quan lại đều xử phạt<br />
không dung túng. Chẳng hạn, điều thứ 80, chương Tạp luật viết: “Các quan cai quản quân dân các<br />
hạt, vô cớ mà đi đến những làng, xã trong hạt, hay là cho vợ cả, vợ lẽ, người nhà đi lại, mượn việc<br />
mua bán làm cớ để quấy nhiễu quân dân, lấy của biếu xén thì xử tội biếm hay bãi chức. Người tố<br />
cáo đúng sự thật thì được thưởng tùy theo việc nặng nhẹ” [4;215]. Điều thứ 86 chương Tạp luật<br />
cũng viết: “Các quan cai quản quân dân cùng những nhà quyền quý mà sách nhiễu vay mượn của<br />
cải đồ vật của dân trong hạt thì khép vào tội làm trái pháp luật và phải trả lại tài vật cho dân”<br />
[4;217].<br />
Ba là, xử phạt các hành vi lợi dụng việc công để làm việc tư, chiếm đoạt/ăn bớt/ăn cắp của<br />
công: Với những hành vi này, Quốc triều hình luật thời Lê Sơ có những quy định xử phạt khá cụ<br />
thể. Với các quan viên giữ kho khố (thường hay phạm phải tội kiểu này nhất), điều thứ 11 chương<br />
Tạp luật viết: “Những quan giữ việc thu phát của công mà trái luật (trái luật như là thu vào nhiều<br />
mà phát ra ít, đáng phát thứ cũ lại phát thứ mới, đáng nhận thứ tốt lại nhận thứ xấu) thì xử biếm<br />
một tư và tính số thừa thiếu ấy bồi thường nộp vào của công. Quan chủ ti giấu không phát giác ra<br />
thì xử phạt 50 roi, quá nữa thì xử tội biếm hay phạt. Người giữ kho bắt người đến lĩnh vật gì làm<br />
giấy biên nhận, trong giấy biên nhiều mà phát cho ít thì xử tội đồ và phải bồi thường như luật”<br />
[4;199].<br />
Riêng các lại viên khi đi trưng thu thuế lương ở các địa phương xã, thôn, nếu tâu báo số<br />
113<br />
<br />
Phan Ngọc Huyền<br />
<br />
lượng sai để ăn bớt thì lộ, huyện, xã quan đều phải căn cứ vào các tình tiết nặng nhẹ để luận tội:<br />
“Những sổ thuế tâu lên về thuế má, đầm ao đất bãi mà tâu nhiều làm ít, đất quan làm đất hoang,<br />
hạng trên làm hạng dưới, thêm bớt thay đổi để hụt của công và tổn hại cho dân thì lộ, huyện, xã<br />
quan đều phải theo việc nặng nhẹ mà trị tội và ghép vào tội giấu giếm của cải nhà nước” [4;136].<br />
Ngoài ra, trong Quốc triều hình luật, tội ăn trộm tiền của, lợi dụng chức quyền để chiếm<br />
đoạt của công cũng bị xem là hành vi tham nhũng. Bộ luật này quy định, nếu như viên quan quản<br />
kho mà ăn trộm/lấy cắp tiền của thì cũng xếp vào tội ăn cắp của công: “Quan giám lâm, người coi<br />
kho mà tự lấy trộm thì xử như tội ăn trộm thường và phải bồi thường tang vật gấp hai lần” [4;161].<br />
Đặc biệt với hành vi ăn trộm quốc khố, quân lương, luật có quy định xử phạt rất nghiêm khắc. Chỉ<br />
cần mắc tội ăn trộm quân lương, khiến cho việc quân bị ảnh hưởng thì đều xử tử theo quân pháp.<br />
Điều thứ 30 chương Quân chính quy định rất rõ ràng: “Khi hành quân mà coi việc vận lương sai<br />
kỳ hạn, để đến nỗi hết lương, thì phải xử tội theo quân pháp. Đi đường để mất lương thực hay vật<br />
dụng thì phải đền số tổn thất; ăn trộm hay giấu giếm lương thực hay vật dụng thì phải chém và<br />
phải bồi thường gấp hai. . . ” [4;109].<br />
Các quan viên trưng thu lương thuế, nếu trưng thu mãn kì mà không nhập kho, cố ý xâm<br />
hại của công, sẽ bị xử tội đồ hay lưu. Các chương Vi chế, Hộ hôn, Điền sản đều có các quy định xử<br />
phạt tội ăn trộm lương thuế của công. Chẳng hạn, điều 44 chương Hộ hôn viết: “Nếu những quan<br />
thu tiền thuế và những đồ phải thu đã thu được mà để quá kỳ không nộp vào kho, nếu quá 2 tháng,<br />
3 tháng, cho là tội giấu giếm, quá 4 tháng trở lên cho là tội ăn trộm; tội giấu giếm thì một quan xử<br />
biếm một tư, 10 quan biếm hai tư, 30 quan biếm ba tư, 50 quan xử đồ làm khao đinh, 100 quan đồ<br />
làm tượng phường binh, 200 quan đồ làm chủng điền binh, 300 quan trở lên thì xử lưu đi châu gần,<br />
tội ăn trộm thì xử tội theo luật ăn trộm và bồi thường gấp hai” [4; 124-125].<br />
Những dẫn chứng liên quan đến các chế tài xử phạt hành vi tham ô của quan lại ở trên cho<br />
thấy, phạm vi điều chỉnh và chế tài xử phạt tội tham ô và các hành vi liên quan khá rộng. Đây là cơ<br />
sở để xem Quốc triều hình luật như một bộ luật có giá trị về phòng chống tham ô đầu tiên trong<br />
lịch sử lập pháp Việt Nam.<br />
<br />
2.3.<br />
<br />
So sánh các quy định xử phạt hành vi tham nhũng thể hiện trong hai bộ<br />
luật<br />
<br />
Nhìn chung, Đại Minh luật với 460 điều và Quốc triều hình luật với 722 điều đều thể hiện<br />
phạm vi điều chỉnh khá rộng đối với nhiều lĩnh vực của xã hội từ hình luật, dân sự đến tố tụng. . . với<br />
đại bộ phận là các quy định liên quan đến hình luật.<br />
Tuy nhiên, về mặt kết cấu và phân loại, dễ nhận thấy Đại Minh luật có sự hoàn thiện hơn<br />
Quốc triều hình luật. Nếu so với Đường luật, việc bộ Đại Minh luật kết cấu thành Lại luật, Hộ<br />
luật, Lễ luật, Hình luật... đã thể hiện rõ tính cụ thể và sự hoàn thiện hơn một bước về trình độ lập<br />
pháp. Bộ Quốc triều hình luật của nhà Lê sơ có tham khảo “tinh thần lập pháp” của luật Đường,<br />
luật Minh nhưng chủ yếu tham khảo kết cấu luật của nhà Đường, phân làm các chương Danh lệ,<br />
Vệ cấm, Vi chế, Quân chính, Đạo tặc, Đấu tụng, Đoán ngục. Vì vậy, tính hoàn thiện về kết cấu của<br />
Quốc triều hình luật không thể ngang bằng với Đại Minh luật, đó cũng là điều dễ hiểu.<br />
Nếu so sánh về nội dung các tội danh liên quan đến hành vi tham nhũng, nhận hối lộ, có thể<br />
thấy Đại Minh luật quy định các tội danh Lục tang khá cụ thể. Trong phần Hình luật, Đại Minh<br />
luật đặt Thụ tang (nhận tang vật hối lộ) thành một phần riêng với tổng số 11 điều quy định mức xử<br />
phạt khác nhau đối với các hành vi khác nhau. Biên mục này trong Quốc triều hình luật không có.<br />
Về số điều luật xử phạt các hành vi tham nhũng của quan lại, cả hai bộ luật đều có khá<br />
không ít quy định liên quan. Tuy nhiên, theo con số thống kê tương quan thì tỉ lệ số điều luật về<br />
114<br />
<br />