intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

So sánh xu hướng tiêu dùng một số thực phẩm và năng lượng cung cấp từ một số thực phẩm thiết yếu tại hà nội và thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2004-2016

Chia sẻ: ViValletta2711 ViValletta2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

35
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình, cơ cấu tiêu dùng đa dạng và gặp nhiều thách thức về an ninh lương thực. Nghiên cứu tập trung vào nguồn thực phẩm sẵn có và tính ổn định - là hai trong bốn thành tố chính của an ninh lương thực theo tổ chức Nông lương của Liên hợp quốc (FAO).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: So sánh xu hướng tiêu dùng một số thực phẩm và năng lượng cung cấp từ một số thực phẩm thiết yếu tại hà nội và thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2004-2016

Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 12(97)/2018<br /> <br /> Cục Thống kê tỉnh Bình Thuận, 2018. Niên giám thống Van Der Plank, 1963. Plant Diseases. Epidemics and<br /> kê Bình Thuận 2017. Nhà xuất bản Thanh niên Bình Control. Academic Press, New York.<br /> Thuận. JiaoJiao Song, Somdej Kanokmedhakul, Kwanjai<br /> Ngô Thành Trí, Phạm Văn Kim, Trần Vũ Phến, 2013. Kanokmedhkul, Supattar Poeaim and Kasem<br /> Cơ chế sinh hóa học của tính kích Kháng lưu dẫn trong Soytong, 2018. Nano-particles constructed from<br /> cây lúa chống lại bệnh đạo ôn (Pyricularia grisea Chaetomium cochliodes CTh05 against 2 Magnaporthe<br /> (Cooke) Sacc.) do xử lý với clorua đồng, Acibenzolar- oryzae causing rice blast. https://www.biorxiv.org/<br /> S- metyl và nấm Sporothrix sp. Kỷ yếu Hội thảo Quốc content/biorxiv/early/2018/06/07/339283.full.pdf.<br /> gia bệnh cây và sinh học phân tử.<br /> <br /> Components of diseases on rice, changes of rice blast disease and effectiveness<br /> of bio-pesticides to rice blast disease in Bac Binh district, Binh Thuan province<br /> Mai Van Hao, Nguyen Van Chinh, Tran Thi Hong,<br /> Le Ba Tin, Truong Cong Kien Quoc, Phan Cong Kien<br /> Abstract<br /> The experiment was conducted on rice variety ML48 in 3 rice crop seasons of 2017 in Bac Binh district, Binh Thuan<br /> province. The results showed that there were 8 rice diseases occurred; of which blast, bacterial leaf blight, rice sheath<br /> blight and rice brown spot were common in Bac Binh district, Binh Thuan province, but blast disease was the most<br /> popular. Spraying of CuCl2.2H2O with concentration of 10 ppm, Ri zasa 3SL (Oligo - Chistosan) and Chubeca<br /> 1.8SL (Polyphenol) at 25th day after sowing and the second spraying at 7th day after the first one could inhibit the<br /> development of blast disease. And when the blast disease incidence from 5.8 to 7 %, spraying Oligo - Chistosan<br /> (Rizasa 3SL), Chatomium sp. (Abi Kentomium) and Kasugamycin + Streptomycin sulfate (Novinano 55WDG)<br /> showed the most effectiveness in reducing development of the blast disease.<br /> Keywords: Blast disease, CuCl2.2H2O, Oligo- Chistosan, Chistosan, induced resistance<br /> Ngày nhận bài: 19/11/2018 Người phản biện: TS. Hoàng Đình Đinh<br /> Ngày phản biện: 24/11/2018 Ngày duyệt đăng: 10/12/2018<br /> <br /> <br /> <br /> SO SÁNH XU HƯỚNG TIÊU DÙNG MỘT SỐ THỰC PHẨM<br /> VÀ NĂNG LƯỢNG CUNG CẤP TỪ MỘT SỐ THỰC PHẨM THIẾT YẾU<br /> TẠI HÀ NỘI VÀ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2004 - 2016<br /> Trịnh Thị Hường1,2, Đào Thế Anh3, Lê Văn Tuấn1<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình, cơ cấu tiêu dùng đa dạng và gặp nhiều thách thức về an ninh<br /> lương thực. Nghiên cứu tập trung vào nguồn thực phẩm sẵn có và tính ổn định - là hai trong bốn thành tố chính của<br /> an ninh lương thực theo tổ chức Nông lương của Liên hợp quốc (FAO). Nghiên cứu sử dụng chuỗi số liệu điều tra<br /> mức sống dân cư trong 12 năm (VHLSS - Vietnam Household Living Standard Survey) của Tổng cục Thống kê từ<br /> 2004 đến 2016 để xác định được xu hướng tiêu dùng tại hai đô thị lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Thực<br /> phẩm tiêu thụ tại hộ gia đình được tiếp cận theo nhiều thang đo khác nhau: (1) năng lượng; (2) cơ cấu các chất hữu<br /> cơ chính như tinh bột, chất đạm, chất béo; (3) các nhóm thực phẩm thiết yếu như thịt, cá, rau, quả và (4) giá thực<br /> phẩm. Nghiên cứu cho thấy từ mức sống hộ gia đình tăng cao, chi tiêu cho thực phẩm tăng cao ở cả hai thành phố.<br /> Bình quân năng lượng đầu người tăng ở cả hai thành phố và cao hơn mức toàn quốc. Xu hướng tiêu dùng quả tăng<br /> mạnh, trong khi tiêu dùng rau tương đối ổn định theo thời gian. Thịt lợn là thực phẩm có nguồn gốc động vật phổ<br /> biến nhất trong bữa ăn người Việt Nam có xu hướng giảm về lượng và tỷ lệ đóng góp năng lượng. Trái lại, các thực<br /> phẩm giàu đạm khác như hải sản và thịt gà được gia tăng, tuy nhiên giá các sản phẩm này vẫn tương đối đắt và tăng<br /> rất cao sau các năm, nhất là thủy hải sản. Một số kiến nghị chính sách về dinh dưỡng và tiêu dùng thực phẩm được<br /> đề xuất đối với hai đô thị và cấp quốc gia.<br /> Từ khóa: Tiếp cận thực phẩm, thực phẩm thiết yếu, thực phẩm bình quân đầu người, dinh dưỡng, giá thực<br /> phẩm, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh<br /> 1<br /> Đại học Thương Mại; 2 Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế; 3 Viện Khoa học Nông Nghiệp Việt Nam<br /> <br /> 49<br /> Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 12(97)/2018<br /> <br /> I. ĐẶT VẤN ĐỀ phần phức tạp hơn do phát triển kinh tế, phát triển<br /> Kinh tế Việt Nam đạt được nhiều thành tựu lớn đô thị và thực phẩm phụ thuộc vào nguồn cung của<br /> sau hơn 30 năm từ chính sách “Đổi mới” năm 1986, các thành phố lân cận. Thứ hai, tỷ trọng chi ăn uống<br /> Việt Nam đã vươn lên gia nhập nhóm các nước thu trong chi tiêu đời sống còn cao (trung bình cả nước<br /> nhập trung bình thấp. Người dân giàu hơn và khẩu là 52,6%) (Tổng cục Thống kê, 2016 - mục Chi tiêu)<br /> phần ăn cũng thay đổi, từ “ăn no - mặc ấm” sang và tiếp tục thực phẩm có thể khó khăn hơn do chi<br /> “ăn ngon - mặc đẹp” (Hoang, 2009; Mishra and Ray, phí đời sống cao ở thành thị. Thứ ba, tỉ lệ phân hóa<br /> 2009). Đồng thời, người Việt Nam cũng đối mặt với giàu nghèo ở các thành phố lớn ngày càng ngoãng<br /> sự gia tăng nhiều các bệnh không lây nhiễm như ra và “người nghèo đô thị” phải đối mặt với các vấn<br /> thừa cân, béo phì, suy dinh dưỡng. Để khắc phục các đề về an ninh lương thực và dinh dưỡng nhiều hơn.<br /> vấn đề dinh dưỡng, Chính phủ đã ban hành “Chiến Hiện nay, chưa có báo cáo nào về tình trạng tiêu thụ<br /> lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011 - 2020 thực phẩm tại hai thành phố này theo chuỗi thời<br /> và tầm nhìn đến năm 2030” để phát triển toàn diện gian dài. Nghiên cứu này có hai đóng góp chính: Thứ<br /> về tầm vóc, thể chất, trí tuệ của người Việt Nam và nhất, tính sẵn có và tính ổn định của an ninh lương<br /> nâng cao chất lượng cuộc sống (Bộ Y tế, 2012; Thủ thực được đề xuất và minh họa thông qua hai thành<br /> tướng Chính Phủ, 2012). phố lớn của Việt Nam. Thứ hai, nghiên cứu này so<br /> sánh thực trạng và xu hướng tiêu dùng thực phẩm<br /> Theo tổ chức Nông lương của Liên hợp quốc<br /> tại hai thành phố, từ năm 2004 đến 2016 . Nghiên<br /> (FAO), an ninh lương thực trong bối cảnh hiện<br /> cứu này phù hợp với giải pháp đẩy mạnh các nghiên<br /> tại là tổng hợp của 4 nhân tố chính: Tính sẵn có<br /> cứu về tiêu thụ thực phẩm, dinh dưỡng trong Kế<br /> (availability), tính tiếp cận (Access), tính sử dụng<br /> hoạch hành động quốc gia về Dinh dưỡng đến năm<br /> (Utilization) và tính ổn định (Stability) (FAO, 2008). 2020 (Bộ Y tế, 2018) và áp dụng khoa học dữ liệu<br /> Trong đó, tính ổn định của an ninh lương thực được để hỗ trợ các chính sách về an ninh lương thực của<br /> cấu thành từ tính ổn định của ba nhân tố trước đó. Chương trình hành động quốc gia “Không còn nạn<br /> Tính sẵn có (Availability) thường được đo ở cấp độ đói” ở Việt nam đến năm 2025 (Chính phủ, 2018).<br /> quốc gia và thể hiện mức độ cung cấp lương thực<br /> thực phẩm của toàn nền kinh tế trên tổng dân số. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> Tính tiếp cận (Access) được xem xét ở mức độ hộ<br /> 2.1. Đối tượng nghiên cứu<br /> gia đình, tức là lương thực sẵn có trong gia đình, và<br /> tiếp cận lương thực của hộ gia đình phụ thuộc vào Thứ nhất, nghiên cứu này tập trung vào phương<br /> đặc điểm kinh tế xã hội, thu nhập, chi tiêu của hộ pháp đo lường hai nhân tố của an ninh lương thực<br /> gia đình và thị trường giá cả của thực phẩm. Trong của Việt Nam: tính sẵn có và tính ổn định. Thứ hai,<br /> bài báo này, tiếp cận an ninh lương thực tập trung nghiên cứu này tập trung vào mức sống, chi tiêu cho<br /> thực phẩm và năng lượng tiêu dùng bình quân đầu<br /> theo khía cạnh tính sử dụng và tính ổn định, tức là<br /> người của hộ gia đình tại hai đô thị lớn là Hà Nội và<br /> tiếp cận lương thực sẵn có ở mức độ hộ gia đình<br /> Thành phố Hồ Chí Minh.<br /> và giá cả thực phẩm - chi tiêu thực phẩm tại hộ gia<br /> đình theo chuối thời gian. Tính tiếp cận sẽ khác với 2.2. Phương pháp nghiên cứu<br /> tính sử dụng - thường được khuyến nghị từ các nhà Nghiên cứu được dựa trên bộ số liệu khảo sát<br /> dinh dưỡng khi quan tâm đến nguyên tố đa lượng mức sống dân cư (VHLSS), được thu thập với chu kỳ<br /> và vi lượng của thực phẩm. Trong bài báo này, thuật hai năm của Tổng cục Thống kê Việt Nam (Tổng cục<br /> ngữ “năng lượng sẵn có bình quân” được sử dụng để thống kê, 2015). Bộ số liệu mang tính đại diện toàn<br /> miêu tả mức độ tiếp cận năng lượng tại hộ gia đình quốc, thu thập ở đủ 63 tỉnh thành và trên khoảng<br /> và có xem xét đến các đặc điểm nhân khẩu của hộ 9.000 hộ gia đình. Cuộc khảo sát thu thập thông tin<br /> gia đình để tính bình quân. bằng phương pháp điều tra viên phỏng vấn trực tiếp<br /> Tại hai thành phố lớn nhất Việt Nam là Hà Nội chủ hộ Tổng cục Thống kê, 2016).<br /> và thành phố Hồ Chí Minh, người dân cũng thay Các câu hỏi điều tra về tiêu dùng thực phẩm<br /> đổi khẩu phần ăn vì nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, thường xuyên của cả hộ gia đình bao gồm cả thực<br /> các vấn đề thực phẩm tại hai thành phố lớn này có phẩm mua, tự cung cấp, hoặc thực phẩm được cho,<br /> <br /> 50<br /> Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 12(97)/2018<br /> <br /> biếu bao gồm 56 loại thực phẩm chính theo Phiếu số 2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu<br /> 1B-PVH/KSMS16 (Tổng cục Thống kê, 2015). Nghiên cứu tập trung vào các năm: 2004, 2006,<br /> Thứ nhất, thực phẩm tiêu thụ được quy đổi về 2008, 2010, 2012, 2014 và 2016 và tại hai thành phố<br /> thành phần dinh dưỡng từ số liệu thu thập thực lớn: Hà Nội và thành phố Hồ Chí minh. Nghiên<br /> phẩm về khối lượng dựa vào bảng thành phần chất cứu sử dụng số liệu điều tra mức sống dân cư của<br /> dinh dưỡng (Bộ Y tế - Viện Dinh dưỡng Quốc gia, các năm tương ứng. Nghiên cứu tập trung từ năm<br /> 2013). Đặc biệt, nhiều thang đo thành phần được 2004 trở lại đây vì từ trước năm 2002 trở về trước,<br /> sử dụng như: (1) năng lượng sẵn có bình quân đầu số lượng các loại thực phẩm trong câu hỏi rất ít, chỉ<br /> người; (2) hàm lượng gluxit, protein, lipit tiêu thụ 12 thực phẩm so với 56 loại thực phẩm trong các<br /> trong năng lượng sẵn có bình quân; (3) hàm lượng<br /> năm 2004 trở lại đây. Bộ số liệu điều tra mức sống<br /> dinh dưỡng của các thực phẩm chính (không tính<br /> dân cư được tiến hành ở cả 63 tỉnh thành và đại diện<br /> gạo vì giả sử gạo được tiếp cận đầy đủ ở thành thị)<br /> cho cả nước, các vùng, khu vực thành thị, nông thôn<br /> và (4) giá thực phẩm chính.<br /> và tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương (Tổng cục<br /> Thứ hai, phương pháp tính bình quân lương thực Thống kê, 2016). Ở Thành phố Hồ Chí Minh, mỗi<br /> đầu người từ tổng tiêu thụ năng lượng của hộ gia<br /> năm có khoảng 200 tới 330 hộ gia đình tham gia điều<br /> đình. Từ thực tế câu hỏi điều tra là về mức tiêu dùng<br /> tra. Tương tự, ở Hà Nội, mỗi năm có khoảng 230 tới<br /> thực phẩm thường xuyên cho cả hộ gia đình, nên<br /> 400 hộ tham gia chuỗi số liệu về điều tra mức sống<br /> chúng tôi cần áp dụng cách tính xấp xỉ để tính năng<br /> dân cư. Cụ thể, tại thành phố Hồ Chí Minh, có 202,<br /> lượng tiêu dùng bình quân của 1 hộ gia đình. Có<br /> 236, 249, 280, 245, 305 và 333 hộ gia đình đươc điều<br /> nhiều phương pháp tính xấp xỉ: (1) phương pháp chia<br /> tổng số thành viên - tức là coi mọi thành viên, không tra ở các năm 2004, 2006, 2008, 2010, 2012, 2014 và<br /> phân biệt giới tính và tuổi, tiêu thụ năng lượng giống 2016. Tại Hà Nội, có tương ứng 224, 228, 224, 383,<br /> nhau giữa trẻ em-người trưởng thành-người già; 381, 385 và 406 ở các năm tương ứng.<br /> (2) phương pháp tính bình quân của Tổ chức Hợp tác<br /> III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br /> và phát triển Kinh tế (OECD, 2013) có chia theo ba<br /> nhóm tuổi và chủ hộ gia đình; (3) phương pháp lấy 3.1 Mức chi tiêu cho thực phẩm tiêu thụ thường xuyên<br /> trọng số theo phụ nữ/nam giới trưởng thành (adult Hình 1 thể hiện lượng chi tiêu thường xuyên cho<br /> female equivalent, AFE hoặc adult male equivalent, thực phẩm cấp hộ gia đình qua các năm ở hai thành<br /> AME). Ở đây, chúng tôi sử dụng phương pháp ước phố. Nhìn chung, chi tiêu cho thực phẩm bình quân<br /> lượng mới trong đó bình quân thực phẩm được ước<br /> hàng tháng tăng dần qua các năm, từ 2004 đến 2016.<br /> lượng cho từng hộ gia đình và có tính đến cấu trúc<br /> Mức chi tiêu cho thực phẩm ở thành phố Hồ Chí<br /> hộ gia đình đó, tức là số lượng thành viên, giới tính<br /> Minh cao hơn ở Hà Nội ở các năm 2004, 2006, 2008<br /> và nhiều nhóm tuổi của các thành viên (Aguiar and<br /> và 2016. Các năm còn lại, mức chi tiêu cho thực<br /> Hurst, 2013). Phương pháp này được Trịnh và cộng<br /> phẩm của hai thành phố tương đương nhau. Sử dụng<br /> tác viên (2018a) chứng minh có ưu điểm là đo mức<br /> bình quân lương thực đa dạng hơn và phù hợp hơn giá cố định năm 2016, trung bình tại mỗi thành phố<br /> với Việt Nam. và từng năm, mỗi hộ dân ở hai thành phố chi tiêu<br /> trung bình khoảng 2 đến 6 triệu đồng mỗi tháng.<br /> Thứ ba, giá thực phẩm được quy đổi để so sánh<br /> Tuy nhiên, chi tiêu thực phẩm cũng rất đa dạng giữa<br /> được theo thời gian. Các công bố về giá trong nghiên<br /> cứu là giá cố định năm 2016, tức là toàn bộ giá thực các hộ gia đình trong từng năm, trung bình từ 500<br /> đã được điều chỉnh lạm phát theo chỉ số CP (World nghìn đồng đến 12 triệu đồng. Hơn nữa, giá trị phổ<br /> Bank, 2018) cụ thể là, 1 đồng năm 2016 tương ứng biến (tức là từ mức phân vị 25% tới 75%) giao động<br /> 0,4336549; 0,5782339; 0,6738347; 0,8724759 và trong khoảng 2,5 triệu đồng đến 7 triệu đồng. Tác<br /> 0,9679903 đồng năm 2004, 2006, 2008, 2010, 2012 giả Trinh và cộng tác viên (2018b) thống kê chi tiêu<br /> và 2014). Từ đó cho phép so sánh xu hướng giá cả trung bình cho thực phẩm trong toàn quốc năm<br /> thực phẩm qua các năm. Đồng thời, sự thay đổi giá 2014 là gấp đôi năm 2004. Như vậy, mức tăng ở hai<br /> theo thời gian và so sánh giữa hai thành phố cũng thành phố lớn này là thấp hơn so với mức tăng trung<br /> được xem xét. bình toàn quốc.<br /> <br /> 51<br /> Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 12(97)/2018<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 1. Chi tiêu hàng tháng cho thực phẩm của hộ gia đình<br /> Ghi chú: Đơn vị: nghìn đồng/hộ. Mỗi ô hình hộp thể hiện 5 giá trị thống kê của phân phối (từ thấp đến cao): giá trị nhỏ<br /> nhất, mức phân vị thứ nhất (25%), giá trị phổ biến (median), mức phân vị thứ ba (75%) và giá trị lớn nhất.<br /> <br /> 3.2. Mức bình quân năng lượng và các chất dinh Viện Dinh Dưỡng Quốc gia là từ điều tra khẩu phần<br /> dưỡng chính sẵn có hàng ngày của hộ gia đình ăn 24 giờ. Mặc dù bộ số liệu điều tra mức sống dân<br /> Bảng 1 thống kê mức bình quân năng lượng hàng cư có thể đưa ra các kết quả chênh lệch như trên, bộ<br /> ngày trên đầu người ở hai thành phố và so sánh với số liệu này vẫn được sử dụng để đánh giá mức độ an<br /> số liệu tương đương của toàn quốc qua các năm. Đầu ninh lương thực tại các nước đang phát triển, trong<br /> tiên, mức năng lượng bình quân sẵn có hàng ngày tại đó có Việt Nam (Deaton, 1997).<br /> hộ gia đình cao hơn các mức bình quân tiêu thụ năng Nghiên cứu này sử dụng phương pháp tính năng<br /> lượng của Viện Dinh dưỡng Quốc gia và Tổ chức Y lượng bình quân tương tự Trinh và cộng tác viên<br /> tế Thế giới và các cơ quan về lương thực thế giới như (2018a) ở mức độ toàn quốc. Nhìn chung, mức trung<br /> FAO, IFAD và WFP (FAO, IFAD, WFP (2015). Có bình năng lượng tiêu thụ ở cả hai thành phố đều<br /> hai nguyên nhân lý giải cho số liệu trong báo cáo này tăng dần trong khoảng thời gian 12 năm qua. Mức<br /> cao hơn: một là phương pháp thu thập số liệu và hai năng lượng tiêu thụ của thành phố Hồ Chí Minh<br /> là phương pháp tính bình quân. Tổ chức lương thực luôn cao hơn của Hà Nội, trừ năm 2010. Từ năm<br /> thế giới (FAO) tính toàn bộ thực phẩm sẵn có trong 2004 đến năm 2016, so sánh với mức Trinh và cộng<br /> toàn quốc gia chia cho dân số của toàn quốc gia đó. tác viên (2018a), năng lượng tiêu thụ bình quân ở<br /> Mức năng lượng tiêu thụ trong chuỗi số liệu điều tra cả hai thành phố đều cao hơn mức trung bình toàn<br /> mức sống dân cư là mức năng lượng sẵn có tại các hộ quốc từ 1,2% đến 4% ( trừ năm 2010 và Hà Nội có<br /> gia đình. Trong khi đó, mức tiêu thụ năng lượng từ mức trung bình thấp hơn toàn quốc) .<br /> <br /> Bảng 1. Bình quân năng lượng hàng ngày /đầu người<br /> ĐVT: Kcalo<br /> Năm<br /> 2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016<br /> Quy mô<br /> Thành phố Hồ Chí Minh 3.571 3.349 2.852 3.443 3.813 3.905 4.588<br /> Thành phố Hà Nội 3.348 3.326 2.841 3.835 3.639 3.793 3.999<br /> Toàn quốc<br /> Nguyen and Winters., 2011 3.144 3.074<br /> Trinh và cộng tác viên (2018a) 3.291 3.272 2.818 3.632 3.611 3.651<br /> FAO, IFAD, WFP (2015) 2.478 2.483 2.615 2.678 2.713<br /> <br /> Hình 2 biểu thị trung bình tiêu thụ nguyên tố ăn ở cả hai thành phố. Xu hướng này cũng giống<br /> đa lượng bình quân đầu người ở hai thành phố qua xu hướng chung của toàn bộ người dân Việt Nam<br /> các năm. Nói chung, năng lượng có nguồn gốc tinh (Trinh et al., 2018b). Các xu hướng chung ở cả hai<br /> bột đóng vai trò quan trọng nhất trong khẩu phần thành phố là:<br /> <br /> 52<br /> Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 12(97)/2018<br /> <br /> - Trung bình ba chất dinh dưỡng chính (tinh bột, cao nhất năm 2012.<br /> chất đạm và chất béo) trên đầu người tăng dần qua Về so sánh giữa hai thành phố, nhìn chung, tiêu<br /> các năm từ 2004 đến 2016. thụ ba nguyên tố đa lượng ở Thành phố Hồ Chí Minh<br /> - Năm 2008, cùng xu hướng với năng lượng bình đều lớn hơn thành phố Hà Nội ở tất cả các năm. Tuy<br /> quân đầu người giảm, năng lượng từ cả ba chất dinh nhiên, sự khác biệt về năng lượng có nguồn gốc từ<br /> dưỡng chính cũng giảm. chất béo và chất đạm của hai thành phố thì không<br /> - Năng lượng có nguồn gốc chất đạm chiếm phần có nhiều sự khác biệt. Thành phố Hồ Chí Minh có<br /> nhỏ nhất trong cả ba chất dinh dưỡng chính Ngoài xu hướng tiêu thụ tinh bột nhiều hơn Hà Nội trong<br /> ra, năng lượng có nguồn gốc từ chất béo đạt đỉnh thời gian gần đây.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 2. Bình quân tiêu dung năng lượng đầu người và các chất dinh dưỡng chính<br /> <br /> 3.3. Tiêu dùng và mức giá của các nhóm thực phẩm thịt gia cầm tăng trong khi năng lượng có nguồn gốc<br /> chính: Rau, quả tươi, thịt và thủy sản từ thịt giảm. Cụ thể, năng lượng có nguồn gốc từ quả<br /> Phần này xem xét hiện trạng lượng tiêu dùng thực tăng mạnh từ 1,9% lên 3,44%. Năng lượng có nguồn<br /> phẩm, về bình quân đầu người và giá thực phẩm của gốc từ rau tăng nhẹ. Đặc biệt, năng lượng có nguồn<br /> hai thành phố lớn. Từ các loại thực phẩm khác nhau, gốc từ thịt lợn đã giảm đáng kể từ năm 2004 đến<br /> tập trung vào các nhóm thực phẩm chính sau: 2016. Năng lượng có nguồn gốc từ thịt lợn giảm từ<br /> - Rau bao gồm đỗ hạt các loại, các loại rau lá (rau 5,65% năm 2004 xuống còn 4,65% năm 2016, trong<br /> muống, mùng tơi,…), cải bắp, su hào, cà chua và các khi đó năng lượng có nguồn gốc từ các loại gia cầm<br /> loại rau khác. tăng từ 1,64% năm 2004 lên 3,25% năm 2016.<br /> - Quả gồm cam, chuối, xoài và các hoa quả khác Về lượng chi tiêu cho các nhóm thực phẩm chính,<br /> (chôm chôm, dưa, đu đủ, vải, ổi, nho,…). thịt lợn và hải sản chiếm phần lớn nhất trong lượng<br /> chi tiêu của các hộ gia đình ở tất cả các năm. Tuy<br /> - Thịt lợn (gồm tất cả các loại thịt lợn và tính quy<br /> đổi về thịt nạc). nhiên, chi tiêu cho thịt lợn giảm mạnh gần một nửa,<br /> từ 13,8% năm 2004 xuống 8,56% năm 2016. Lượng<br /> - Thịt gia cầm, gồm có gà, vịt và các loại gia cầm chi tiêu lớn nhất cho thịt lợn tương ứng với năng<br /> khác.<br /> lượng có nguồn gốc lớn nhất từ thịt lợn. Mặt khác,<br /> - Thủy hải sản: Tôm cá tươi, tôm cá khô chế biến năng lượng có nguồn gốc thủy hải sản chiếm phần<br /> và các loại thủy hải sản khác. nhỏ nhất trong các nguồn năng lượng chính (trừ<br /> Gạo không được xem xét trong nghiên cứu này vì năm 2008), điều đó cho thấy thủy hải sản là đắt đỏ<br /> đây là thực phẩm sẵn có ở thành thị. Các thực phẩm nhất ở hai thành phố chính của Việt Nam - nguồn<br /> không có nhiều chất dinh dưỡng như chè, cà phê, năng lượng nhiều đạm nhất trong quan niệm của<br /> bánh kẹo cũng không được nghiên cứu. người Việt Nam. Chi tiêu cho nhóm quả và thịt gia<br /> Hình 3 thể hiện phần trăm của các thực phẩm cầm cũng tăng tương đối nhiều từ năm 2004 đến<br /> chính trong khẩu phần ăn, về mức năng lượng và 2016. Điều này cho thấy chi tiêu cho các nhóm thực<br /> tiêu dùng, từ 2004 đến 2016. Về mức năng lượng, phẩm chính đa dạng hơn và cân đối hơn. Chi tiêu<br /> nhìn chung, năng lượng có nguồn gốc từ rau quả và cho các loại rau giữ tương đối ổn định.<br /> <br /> 53<br /> Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 12(97)/2018<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 3. Phần trăm của một số thực phẩm chính, theo năng lượng và theo chi tiêu<br /> qua các năm (gộp cả hai thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội)<br /> <br /> Cuối cùng, giá của 100 g của các nhóm thực các loại thịt lợn và thị gia cầm có giá trị trung bình<br /> phẩm chính (Hình 4) được tính. Sử dụng đơn vị đo và cũng tăng gấp hơn 2 lần trong khoảng 12 năm.<br /> theo gram hoặc kg là hợp lý với tâm lý mua - bán Giá của 100 gam rau và hoa quả chỉ tăng rất nhẹ và<br /> hàng của người dân Việt Nam là theo kg hoặc grams tương đối ổn định.<br /> mà chưa chú ý nhiều đến hàm lượng dinh dưỡng<br /> Năm 2004, giá thủy hải sản ở hai thành phố<br /> trong các loại thực phẩm. Giá thể hiện là giá cố định<br /> tương đương nhau, tuy nhiên, qua các năm, giá thủy<br /> năm 2016. Giá của thực phẩm rất quan trọng, vì nó<br /> ảnh hưởng đến việc tiếp cận nguồn thực phẩm của hải sản ở thành phố Hồ Chí Minh đắt hơn nhiều so<br /> các hộ gia đình, tức là tăng chi tiêu hoặc giữ ổn định với giá loại thực phẩm này ở Hà Nội. Đăc biệt, giá<br /> của các hộ gia đình. Giá của thủy hải sản, đo bằng cả hoa quả tại thành phố Hồ Chí Minh tăng rất ít qua<br /> hai loại đơn vị, đều đắt nhất trong các năm và cũng các năm và ít hơn so với thành phố Hà Nội. Điều này<br /> tăng nhiều nhất. Nhìn chung, ở cả hai thành phố, có có thể xuất phát từ từ việc thành phố Hồ Chí Minh<br /> sự khác biệt rõ ràng hơn của các nhóm thực phẩm. có nguồn cung quả đa dạng và dồi dào từ các tỉnh<br /> Giá của nhóm thủy hải sản là đắt đỏ nhất. Nhóm miền Tây.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 4. Giá của rau, quả, thịt lợn, thịt gà và thủy hải sản tại Hà Nội<br /> và thành phố Hồ Chí Minh (đơn vị: nghìn đồng/100 gam)<br /> <br /> 54<br /> Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 12(97)/2018<br /> <br /> IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ - Người dân có xu hướng chi tiêu thực phẩm<br /> tăng, vì thế, cần tiếp tục các chương trình giáo dục<br /> 4.1. Kết luận<br /> người nội trợ về bữa ăn đa dạng và đầy đủ, đồng thời<br /> Thực trạng xu hướng tiêu dùng một số thực phẩm lựa chọn thực phẩm tốt cho sức khỏe trong điều kiện<br /> thiết yếu và giá trị dinh dưỡng tại hai thành phố lớn kinh tế của từng hộ gia đình. Đặc biệt, phương thức<br /> của Việt Nam: Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, truyền thông cần đổi mới trong thời đại số 4.0.<br /> từ năm 2004 - 2016, dựa trên bộ số liệu Điều tra<br /> - Người dân ở hai thành phố có xu hướng đa<br /> mức sống hộ dân cư cho thấy: Thực phẩm tiêu dùng<br /> dạng các thực phẩm có nguồn gốc từ động vật như<br /> thường xuyên của hộ gia đình thể hiện hai nhân tố<br /> thuỷ sản và gà để thay thế thịt lợn. Các nhà hoạch<br /> của an ninh lương thực: tính tiếp cận và tính bền<br /> định chính sách có thể có các chương trình hỗ trợ<br /> vững. Nghiên cứu sử dụng phương pháp tính năng<br /> người sản xuất đa dạng hóa nguồn cung thực phẩm<br /> lượng bình quân đầu người, có xem xét cấu trúc tuổi có nguồn gốc từ động vật và thủy sản.<br /> và giới tính hộ gia đình từ mức tiêu thụ năng lượng<br /> - Người dân có xu hướng tăng tiêu dùng quả,<br /> của cả hộ gia đình được áp dụng<br /> trong khi tiêu dùng rau khá ổn định. Tuy nhiên, bảo<br /> Nghiên cứu cho thấy từ mức sống hộ gia đình quản các thực phẩm này khó hơn trong điều kiện vệ<br /> tăng cao, chi tiêu cho thực phẩm tăng cao ở cả hai sinh an toàn thực phẩm đang là thách thức với các<br /> thành phố. Bình quân năng lượng sẵn có đầu người hộ sản xuất nhỏ. Vì thế, cần có các giám sát về bảo<br /> tăng ở cả hai thành phố và nguồn cung từ các nguyên quản, nguồn gốc của thực vật và các chương trình<br /> tố đa lượng đều tăng. Nghiên cứu cũng tập trung vào để tăng niềm tin của người tiêu dùng về nguồn gốc<br /> phân tích xu hướng tiêu dùng 5 nhóm thực phẩm rau quả sạch.<br /> chính, bao gồm rau, quả, thịt lợn, thịt gà và huỷ hải<br /> sản. Thịt lợn là thực phẩm có nguồn gốc động vật TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> phổ biến nhất trong bữa ăn người Việt Nam giảm Bộ Y tế, 2012. Chiến lược dinh dưỡng quốc gia 2011 -<br /> về chi tiêu và tỷ lệ đóng góp năng lượng. Trái lại, 2020, tầm nhìn 2030. Hà Nội.<br /> các thực phẩm giàu chất đạm khác như hải sản và Bộ Y tế - Viện Dinh Dưỡng, 2013. Bảng thành phần<br /> thịt gà được tăng thêm. Đối với nhóm rau quả thì thực phẩm Việt Nam. Nhà xuất bản Y học.<br /> xu hướng tiêu dùng quả tăng lên mạnh, trong khi Bộ Y tế, 2018. Quyết định số 718/QD-BYT về việc Phê<br /> tiêu dùng rau khá ổn định theo thời gian. Tuy nhiên, duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về Dinh dưỡng<br /> giá thực phẩm có nguồn gốc động vật và thủy hải đến năm 2020, Hà Nội. Truy cập ngày 30/10/2018.<br /> sản vẫn tương đối đắt và tăng rất cao qua các năm, Địa chỉ: http://vaac.gov.vn/vanban_detail/Detail/<br /> Quyet-dinh-so-718-QD-BYT-ve-viec-Phe-duyet-<br /> nhất là thủy hải sản. Giá hải sản ở thành phố Hồ Chí<br /> Ke-hoach-hanh-dong-quoc-gia-ve-Dinh-duong-<br /> Minh tăng cao hơn Hà Nội, trong khi đó giá quả có den-nam-2020.<br /> xu hướng trái chiều.<br /> Thủ tướng Chính phủ, 2012. Quyết định số 226/QĐ-<br /> Nghiên cứu cho thấy lượng Kcal tiêu thụ bình TTg, ngày 22/02/2012 về việc “Phê duyệt chiến lược<br /> quân và các nguyên tố đa lượng ở hai thành phố quốc gia về dinh dưỡng gia đoạn 2011 - 2020 và tầm<br /> đang thay đổi theo đúng Kế hoạch hành động quốc nhìn đến năm 2030”. Truy cập ngày 18/08/2018.<br /> gia về Dinh dưỡng đến năm 2020 (Bộ Y tế, 2018). Từ Địa chỉ: http://vanban.chinhphu.vn/portal/<br /> page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_<br /> đó, sự cải thiện khẩu phần ăn của người dân đóng<br /> id=2&mode=detail&document_id=155431<br /> góp vào sự thành công của Mục tiêu Phát triển Bền<br /> Thủ tướng Chính phủ, 2018. Quyết định số 712/QĐ-<br /> vững (cụ thể mục tiêu 1, 2 và 3) của Liên Hợp Quốc<br /> TTg về việc Ban hành Chương trình hành động<br /> (Sustainable Development Goals - SDGs). Hơn nữa, Quốc gia “Không còn nạn đói” ở Việt Nam đến năm<br /> kết quả nghiên cứu là tư liệu khoa học khi xây dựng 2025.<br /> Chương trình hành động quốc gia “Không còn nạn Tổng cục Thống kê, 2015. Quyết định số 1095/QĐ-<br /> đói” ở Việt nam đến năm 2025 (Chính phủ, 2018). TCTK, ngày ngày  18  tháng  11  năm  2015 về việc<br /> 4.2. Đề nghị tiến hành Khảo sát mức sống dân cư 2016. Truy<br /> cập internet ngày 21/11/2018. Địa chỉ: https://<br /> Xu hướng tiêu dùng thực phẩm của người dân ở thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/<br /> hai thành phố đã thay đổi theo hướng tích cực. Trên Quyet-dinh-1095-QD-TCTK-khao-sat-muc-song-<br /> cơ sở đó, bài báo đưa ra một số kiến nghị sau: dan-cu-2016-2015-304223.aspx.<br /> <br /> 55<br /> Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 12(97)/2018<br /> <br /> Tổng cục Thống kê, 2016. Kết quả khảo sát mức sống of Vietnam. Food policy, 36 (1), pp.71-87.<br /> dân cư 2016. Nhà xuất bản Thống kê. Mishra, V. and Ray, R., 2009. Dietary diversity, food<br /> Aguiar, M., & Hurst, E., 2013. Deconstructing life cycle security and undernourishment: the Vietnamese<br /> expenditure. Journal of Political Economy, 121(3), evidence. Asian Economic Journal, 23 (2), pp.225-247.<br /> 437-492. OECD, 2013. OECD framework for statistics on the<br /> Deaton, A., 1997. The analysis of household surveys: a distribution of household income. Consumption<br /> microeconometric approach to development policy. and wealth. Paris: OECD Publishing.<br /> The World Bank. Trinh, H.T., Simioni, M. and Thomas-Agnan, C.,<br /> FAO, 2008. An Introduction to the Basic Concepts of 2018a. Assessing the nonlinearity of the calorie-<br /> Food Security, Published by the EC - FAO Food income relationship: An estimation strategy–With<br /> Security Programme new insights on nutritional transition in Vietnam.<br /> FAO, IFAD and WFP, 2015. The State of Food Insecurity World Development, 110, pp.192-204.<br /> in the World 2015. Meeting the 2015 international Trinh, H.T., Morais, J., Thomas-Agnan, C. and<br /> hunger targets: taking stock of uneven progress. Simioni, M., 2018b. Relations between socio-<br /> Rome, FAO. economic factors and nutritional diet in Vietnam<br /> Hoang, L. V., 2009. Analysis of calorie and micronutrient from 2004 to 2014: New insights using compositional<br /> consumption in Vietnam, Technical report, data analysis. Statistical methods in medical research,<br /> DEPOCEN working paper 2009/14. p.0962280218770223.<br /> Nguyen, M.C. and Winters, P., 2011. The impact of World Bank, 2018. http://data.worldbank.org/indicator/<br /> migration on food consumption patterns: The case PA.NUS.FCRF?page=1.<br /> <br /> Comparison of food consumption behaviour and sourced macronutrients<br /> of perishable foods between Hanoi and Ho Chi Minh city from 2004 to 2016<br /> Trinh Thi Huong, Dao The Anh, Le Van Tuan<br /> Abstract<br /> Vietnam is a lower middle-income country and is undergoing a nutritional transition with a more diverse diet<br /> and challenges of food security. This study focuses on two of four dimensions of food security as FAO’s guideline:<br /> food access and food utilization. The analysis is based on 7 waves of Vietnamese Living Standard Survey (VHLSS)<br /> from 2004 to 2016, conducted by the General Statistics Office of Vietnam (GSO) to compare food consumption<br /> behaviour of the two biggest cities in Vietnam: Hanoi and Ho Chi Minh city. Food consumption at household levels<br /> are measured by several scales: (1) per capita calorie intake; (2) sourced macronutrients (carbohydrate, protein and<br /> fat); (3) perishable foods (such as pork, meat, fish, vegetable, fruits) and (4) food prices. Results showed that both<br /> household welfare and total food expenditures increased over the considered period in two cities. Per capita calorie<br /> intakes had increase in over the period and these values of the two cities were higher than the national average<br /> values in the same years. Fruits consumption increased while vegetable consumption stayed stable over years. The<br /> proportion in both macronutrient and food expenditure of pork, the most common meat in Vietnam, has decreased.<br /> In contrast, other rich protein food items, such as poultry and seafood, have seen increasing their contribution to<br /> the diet in both big cites. The price of meat and aquatic products are still quite expensive, especially seafood. Several<br /> key recommendations for improving nutrition and food consumption are suggested for the two biggest cities and for<br /> the national levels.<br /> Keywords: Food access, perishable foods, per capita calorie intake, macronutrients, food prices, Hanoi, Ho Chi<br /> Minh city<br /> <br /> Ngày nhận bài: 12/11/2018 Người phản biện: PGS. TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy<br /> Ngày phản biện: 17/11/2018 Ngày duyệt đăng: 10/12/2018<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 56<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0