SỬ LIỆU NGHIÊN CỨU VỀ TRẦN NHÂN TÔNG 2
lượt xem 8
download
SỬ LIỆU NGHIÊN CỨU VỀ TRẦN NHÂN TÔNG 2 Bản Việt âm thi tập này sau đó đã được dùng làm nguồn tư liệu cho các tác phẩm có ghi chép về thơ văn của các vua quan đời Trần. Điển hình là bộ sách đồ sộ Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn và Trần triều thế phả hành trạng của một tác giả vô danh đời Nguyễn. Về phần Trần Nhân Tông, Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn, sau khi loại bài thơ Hạnh Thiên Trường phủ, cũng chỉ giới hạn trong số 26 bài thơ,...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: SỬ LIỆU NGHIÊN CỨU VỀ TRẦN NHÂN TÔNG 2
- SỬ LIỆU NGHIÊN CỨU VỀ TRẦN NHÂN TÔNG 2 Bản Việt âm thi tập này sau đó đã được dùng làm nguồn tư liệu cho các tác phẩm có ghi chép về thơ văn của các vua quan đời Trần. Điển hình là bộ sách đồ sộ Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn và Trần triều thế phả hành trạng của một tác giả vô danh đời Nguyễn. Về phần Trần Nhân Tông, Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn, sau khi loại bài thơ Hạnh Thiên Trường phủ, cũng chỉ giới hạn trong số 26 bài thơ, mà Việt âm thi tập đã có, chứ không bổ sung thêm được bài nào. Thánh đăng ngữ lục đươc thiền sư Chân Nguyên in vào năm 1705 và bản in do Tính Quảng đề tựa vào năm 1750 đã không đến tay Lê Quý Đôn. Vì vậy, ông đã không thể khai thác số thơ văn có ghi chép trong tác phẩm đó. Trần triều thế phả hành trạng càng giới hạn hơn, chỉ ghi lại được hơn 18 bài. Còn về nguồn tư liệu Trung Quốc, thì Nguyên sử, đặc biệt là phần viết về đất nước ta biết dưới mục An Nam truyện, cung cấp một phần lớn các thông tin li ên hệ đến hai cuộc chiến tranh Mông - Việt vào những năm 1285 và 1288 và những quan hệ ngoại giao trước và sau hai cuộc chiến tranh này. Để bổ sung, ta có An Nam chí lược của Lê Thực, Thiên nam hành ký của Từ Minh Thiện và Trần Cương Trung thi tập của Trần Phu. Các tác giả của ba tác phẩm n ày đều là những người cùng thời với vua Trần Nhân Tông, đã đứng về phía kẻ thù của dân tộc và tham gia trực tiếp vào các hoạt động chính trị, quân sự liên hệ với nước ta dưới dạng này hay dạng khác. Cho nên, dù nhìn những hoạt động ấy dưới lăng kính đối lập với quyền
- lợi của dân tộc, họ vẫn cho ta một số thông tin chính trị và quân sự có quan hệ với vua Trần Nhân Tông. Đặc biệt, họ đã giữ lại cho ta 22 văn kiện ngoại giao, mà vua Trần Nhân Tông đã gửi cho vua quan nhà Nguyên. Đây là một mảng tư liệu, phía nước ta trong bảy trăm năm qua tuy có biết đến, nhưng chưa bao giờ khai thác có hệ thống và công bố đầy đủ, nhằm làm cơ sở cho sự nhận thức về cuộc đấu tranh ngoại giao đầy cam go trước và sau hai cuộc chiến tranh vừa nói. Chẳng hạn, Lê Quí Đôn có nhắc tới Thiên nam hành ký và Sứ Giao tập của Trần Cương Trung thi tập, song chỉ nhặt được một bài thơ của Trần Phu trong Kiến văn tiểu lục. Ngoài ra, một bức họa do Trần Giám Như vẽ mang tên Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ vào năm Chí Chính thứ 23 (1363) đã được Trần Quang Chỉ đề từ vào năm Vĩnh Lạc thứ 18 (1420) ghi lại tóm tắt cuộc đời Trần Nhân Tông tương đối tổng quát, có một số chi tiết khá lôi cuốn. Tuy nhiên, khi sử dụng các nguồn tư liệu Trung Quốc, ta gặp một số vấn đề cần phải giải quyết dứt điểm. Thứ nhất, về vấn đề lịch pháp thì những người nghiên cứu cho đến ngày nay đã thống nhất là hệ thống lịch pháp nước ta thời bấy giờ hoàn toàn phù hợp với hệ thống lịch pháp của Trung Quốc đời Nguyên. Cho nên những năm tháng ghi ra các sử kiện giữa những sử liệu Việt Nam và Trung Quốc không có sai lệch gì nhiều. Nếu về cùng một sự kiện mà có những sai lệch thì, hoặc do những thông tin khác nhau, hoặc do những truyền bản ghi chép bị nhầm lẫn. Trong Toàn tập này, chúng tôi chủ yếu sử dụng hệ thống ngày tháng của lịch pháp ta, và chỉ đổi ra ngày tháng dương lịch ở những nơi cần thiết để tránh sự rối
- rắm không đáng có. Chỉ riêng đối với những năm Giáp Tý thì chúng tôi có chua ở trong ngoặc đơn năm dương lịch để cho tiện bề theo dõi. Thứ hai, vấn đề tên tuổi của các nhân vật lịch sử thời đó. Đối với tên các nhân vật lịch sử Trung Quốc, nhất là tên những người thuộc tộc Mông Cổ, chúng tôi cơ bản vẫn chấp nhận cách phiên âm của Nguyên sử, trừ những trường hợp bị chép sai khi so với một số sử liệu khác. Trường hợp này chúng tôi cho đính chính lại và có ghi chú rõ ràng. Nói thế có nghĩa chúng tôi cũng tái dựng lại tên của những nhân vật này trong tiếng Mông Cổ và để trong ngoặc đơn, chứ không thay thế tên đã được lưu hành trong sử sách Trung Quốc như một số nhà nghiên cứu đã làm trước đây. Trong liên hệ này cần nói một chút về chữ Thực của t ên Việt gian Lê Thực. Trong tiếng Hán tên này được viết () và các sử sách viết bằng tiếng quốc ngữ trước nay thường phiên âm là Tắc hoặc Trắc. Tuy nhiên, ĐVSKTT 5 tờ 46b5-6, dưới chữ () ấy được chua là “thổ lực thiết”. Điều này có nghĩa, ta phải đọc chữ ( ) là Thực thay vì Trắc hoặc Tắc. Thứ ba, về tên các nhà lãnh đạo Việt Nam, cụ thể là các vị vua nhà Trần, do sử liệu Trung Quốc ghi lại. Đây là một vấn đề khó khăn. Khi nghiên cứu về cuộc kháng chiến chốn g Nguyên Mông của nhà Trần trong Annam shi kenkyu, Yamamoto đã dành hẳn một chương để nghiên cứu vấn đề này, tức Chinchõ no omei ni kansuru kenkyu.1 Dẫu thế, những kết luận của Yamamoto theo chúng tôi vẫn chưa thỏa đáng lắm. Vì vậy, cần phải làm những nghiên cứu mới. Đây là một yêu cầu, mà ta phải thỏa mãn để việc trình bày các sử kiện cũng
- như các tác phẩm liên hệ đến vua Trần Nhân Tông mới rõ ràng và có tính thuyết phục cao. Theo các sử liệu Trung Quốc, cụ thể là An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 1a8 và 1b4, thì vị vua đầu tiên của nhà Trần là Trần Nhật Cảnh, “đến tháng hai năm Mậu Ngọ thì Nhật Cảnh truyền nước cho con trưởng là Quang Bính, cải nguyên là Thiệu Long... ”. Điều này hoàn toàn phù hợp với những gì do Ngô Sĩ Liên chép lại trong ĐVSKTT. ĐVSKTT quyển 5 tờ 24a4-6 viết: “Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ, vua nhường ngôi cho Hoàng Thái tử, rút lui về ở Bắc cung. Thái tử lên ngôi Hoàng đế cải nguyên là Thiệu Long”. Vậy rõ ràng Quang Bính của Nguyên sử là một tên khác của vua Trần Thánh Tông trong ĐVSKTT. Tiếp đến, An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 3b13 viết: “Năm (Chí Nguyên) 14, Quang Bính chết, người trong nước lập thế tử Nhật Huyên, sai trung thị đại phu Châu Trọng Ngạn, trung lượng đại phu Ngô Đức Thiệu đến chầu”. Năm Chí Nguyên thứ 14 tức năm 1277. Đây đúng là năm vua Trần Thái Tông Nhật Cảnh mất, như ĐVSKTT 5 tờ 59a6-7 đã ghi. Chính dựa vào năm mất này của Quang Bính, mà Yamamoto đã đi đến kết luận Quang Bính chính là một tên khác của vua Trần Thái Tông và Trần Nhật Huyên là tên của vua Trần Thánh Tông. Tuy nhiên, Bản kỷ của Nguyên sử 10 tờ 4a12 lại chép: “Năm (Chí Nguyên) 15, tháng sáu ngày Tân Tỡ, vua nước An Nam là Trần Quang Bính sai sứ dâng biểu đến cống”. Rõ ràng nếu Quang Bính chết vào năm Chí Nguyên thứ 14 (1277) thì tất nhiên đến năm Chí Nguyên thứ 15 không thể nào gửi sứ đến cống được.
- Yamamoto cho là An Nam truyện chép nhầm 14 thành 15. Song một đề xuất như thế tỏ ra không thuyết phục lắm, vì nếu Quang Bính là một tên khác của vua Trần Thánh Tông, thì năm Chí Nguyên 15 vẫn còn gửi sứ qua Nguyên. Dù với trường hợp nào đi nữa, trong Nguyên sử ta có hai thông tin khác nhau về Quang Bính. Một nói Quang Bính chết năm 1277, và một nói Quang Bính năm 1278 còn gửi sứ qua cống. Vậy không thể đơn giản chỉ dựa vào năm mất của Quang Bính ở An Nam truyện của Nguyên sử để kết luận Quang Bính là tên vua Trần Thánh Tông, như Yamamoto đã làm. Ngoài ra, Bản kỷ của Nguyên sử 10 tờ 13b3-4 chép: “Ngày Nhâm Tý tháng 11 năm Chí Nguyên 16 (1279) sai Lễ bộ thượng thư Sài Thung cùng đi với sứ nước An Nam là Đỗ trung tán đem chiếu đến dụ thế tử An Nam là Trần Nhật Huyên vào chầu”. Điều này xác định tên Nhật Huyên chỉ xuất hiện trong sử sách Trung Quốc vào thời điểm, khi vua Trần Nhân Tông đã lên ngôi, tức tháng 10 năm Mậu Dần (1278), như ĐVSKTT 5 tờ 37b9 - 38a1 đã ghi cùng với việc vua Trần Nhân Tông sau đó đã tiếp phái bộ của Sài Thung. Thêm vào đó, tên Trần Nhật Huyên còn xuất hiện một năm sau khi vua Trần Thánh Tông đã mất, tức năm Chí Nguyên thứ 28 (1291). Bản kỷ của Nguyên sử 16 tờ 11b8-9 chép: “Năm (Chí Nguyên) thứ 28 tháng 9 ngày Tân Hợi, vua An Nam là Trần Nhật Huyên sai sứ dâng biểu cống phương vật, vừa để tạ tội không đến chầu”.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Quảng Ngãi - Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn: (Phần 1)
104 p | 178 | 45
-
Tư liệu Trần Trọng Kim: Phần 1
55 p | 85 | 14
-
NGHIÊN CỨU VỀ TRẦN NHÂN TÔNG 1
6 p | 156 | 13
-
Mô tả các công cụ nghiên cứu trong Xã hội học
11 p | 213 | 12
-
SỬ LIỆU NGHIÊN CỨU VỀ TRẦN NHÂN TÔNG 3
6 p | 106 | 12
-
NGHIÊN CỨU VỀ TRẦN NHÂN TÔNG 3
6 p | 108 | 12
-
NGHIÊN CỨU VỀ TRẦN NHÂN TÔNG 4
6 p | 137 | 11
-
NGHIÊN CỨU VỀ TRẦN NHÂN TÔNG 2
5 p | 139 | 11
-
SỬ LIỆU NGHIÊN CỨU VỀ TRẦN NHÂN TÔNG 1
5 p | 123 | 9
-
Căn cước lịch sử của Thánh Mẫu: Phát hiện và luận giải đạo sắc phong cổ nhất mang niên đại 1683 cho Liễu Hạnh công chúa hiện còn nguyên tại phủ Giầy ở Nam Định
32 p | 59 | 6
-
Gốm hoa nâu thời Trần trang trí văn “mây như ý” tại Hoàng thành Thăng Long: Nhận thức từ nghiên cứu so sánh
12 p | 12 | 4
-
Nghiên cứu địa danh từ phương diện văn hóa dân tộc và trường hợp lai lịch địa danh “Kinh Môn” (Hải Dương)
10 p | 12 | 4
-
Sự thay đổi về hệ hình văn học: Trường hợp phú Nôm Phật giáo dòng Trúc Lâm Yên Tử
15 p | 50 | 4
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Trần Phú (1981-2010)
169 p | 8 | 3
-
Trận Kỷ Dậu từ tài liệu gốc của nhà Thanh
11 p | 55 | 3
-
Tìm hiểu lịch sử xứ Quảng: Phần 1
63 p | 12 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Thị trấn Đồng Văn (1945-2015)
153 p | 11 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn