Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014<br />
<br />
SỰ THAY ĐỔI LÂM SÀNG CỦA MÔ NHA CHU SAU CẠO VÔI-XỬ LÝ<br />
MẶT GỐC RĂNG 4, 6, 8 TUẦN<br />
Trần Yến Nga*, Đỗ Thu Hằng*, Nguyễn Thị Quỳnh Hương**<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi lâm sàng của mô nha chu sau điều trị nha chu không phẫu thuật hay điều trị<br />
sơ khởi (cạo vôi xử lý mặt gốc răng=CV-XLMGR) 4,6,8 tuần.<br />
Phương pháp nghiên cứu: Mẫu nghiên cứu gồm 9 bệnh nhân viêm nha chu mạn tính với 294 túi nha chu<br />
được trãi qua giai đoạn điều trị sơ khởi . Tình trạng mô nha chu trước và sau điều trị (4,6,8 tuần) được đánh giá<br />
qua các chỉ số lâm sàng (chỉ số mảng bám-PlI, chỉ số nướu-GI, chảy máu khi thăm khám-BOP, độ tụt nướu-GR,<br />
độ sâu túi-PD, mất bám dính lâm sàng-CAL).<br />
Kết quả: Sau CV-XLMGR, tất cả các chỉ số nha chu đều cải thiện đáng kể so với thời điểm trước điều trị. Từ<br />
4 tuần đến 6-8 tuần sau CV-XLMGR: chỉ số mảng bám giảm (p < 0,05); chỉ số nướu, chảy máu khi thăm khám và<br />
độ sâu túi khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05); độ tụt nướu và mất bám dính lâm sàng tăng có ý nghĩa<br />
(p < 0,05). Như vậy có sự cải thiện rõ ràng bám dính nha chu sau XLMGR 4 tuần nhưng sau đó lại có sự phá<br />
hủy tiếp tục mô nha chu bên dưới.<br />
Kết luận: Từ đó, nghiên cứu đề nghị người điều trị không nên tái đánh giá trể sau 6-8 tuần mà phải tiếp tục<br />
kiểm soát mảng bám chặt chẽ hơn và theo dõi để có kế hoạch điều trị tiếp theo.<br />
Từ khóa: viêm nha chu, cạo vôi-xử lý mặt gốc răng, điều trị nha chu không phẫu thuật, tái đánh giá.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
THE CLINICAL CHANGES IN PERIODONTAL TISSUES AT 4,6,8 WEEKS AFTER SCALING AND<br />
ROOT PLANING<br />
Tran Yen Nga, Do Thu Hang, Nguyen Thi Quynh Huong<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 198 - 201<br />
Objective: The objective of this study was to evaluate periodontal status at 4 weeks and 6-8 weeks after<br />
scaling-root planing (SRP)(non-surgical periodontal therapy or initial therapy).<br />
Materials and Methods: The study included nine chronic periodontitis patients with 294 periodontal<br />
pockets treated by scaling and root planing. Periodontal status was evaluated by clinical parameters (Plaque index<br />
PlI, gingival index GI, Bleeding on probing BOP, gingival recession GR, pocket depth PD, clinical attachment<br />
loss CAL) examined before SRP, 4 weeks and 6-8 weeks after SRP.<br />
Results: Clinical parameters almost improved considerably after SRP. From 4 to 8 weeks after SRP, PlI<br />
decreased remarkably (p < 0.05), GI, BOP, PD did not change significantly (p > 0.05), GR, CAL increased<br />
noticeably (p < 0.05).<br />
Conclusion: Periodontal attachment improved clearly 4 weeks after SRP, but periodontal tissues continued<br />
to be destroyed then. Therefore, clinical practitioners should carry on controlling plaque more carefully and keep<br />
track of following treatment planing instead of being optimistic early when periodontal status exhibited positively<br />
4 weeks after SRP.<br />
* Bộ môn Nha chu- Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM<br />
** BS RHM 2007-2013- Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM<br />
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Thị Quỳnh Hương<br />
ĐT: 0168 363 5615<br />
<br />
198<br />
<br />
Email: nguyen_huong@yahoo.com<br />
<br />
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Keywords: periodontitis, scaling –root planing, non-surgical periodontal therapy, reevaluation<br />
<br />
MỞ ĐẦU<br />
Sự tích tụ mảng bám vi khuẩn ở bề mặt răng<br />
và trong túi nha chu là nguyên nhân chính gây<br />
bệnh nha chu. Cạo vôi-xử lý mặt gốc răng (CVXLMGR) được xem là phương pháp cơ bản để<br />
điều trị viêm nha chu và là tiêu chuẩn vàng được<br />
dùng để so sánh với các phương pháp điều trị<br />
khác (Drisko và cs, 1995)(2).<br />
Việc tái đánh giá sau CV-XLMGR thực sự<br />
cần thiết vì giúp xem xét khả năng tự kiểm soát<br />
mảng bám của bệnh nhân, xác định hiệu quả<br />
điều trị (McGuire và cs, 1992), cũng như quyết<br />
định nhu cầu điều trị tiếp theo (Perry và cs,<br />
2002). Thời điểm để tái đánh giá có ý nghĩa quan<br />
trọng (Stuart và Mea, 2006). Theo Thomas và<br />
Mealey (2004), nên tái đánh giá trong khoảng<br />
thời gian 6-8 tuần sau CV-XLMGR. Trong khi đó<br />
Plemons và Eden (2004) lại báo cáo rằng nên tái<br />
đánh giá ở 4-6 tuần(6). Để tìm hiểu thêm về vấn<br />
đề này, chúng tôi thực hiện đề tài “Sự thay đổi<br />
lâm sàng của mô nha chu sau cạo vôi-xử lý mặt<br />
gốc răng 4, 6, 8 tuần” với mục tiêu đánh giá tình<br />
trạng nha chu về mặt lâm sàng vào các thời điểm<br />
4 tuần và 6-8 tuần sau CV-XLMGR.<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNGPHÁP NGHIÊNCỨU<br />
Thiết kế nghiên cứu<br />
Nghiên cứu lâm sàng<br />
<br />
Đối tượng nghiên cứu<br />
Bệnh nhân viêm nha chu mạn tính được<br />
điều trị tại khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y dược<br />
TPHCM từ tháng 2/2013 đến tháng 6/2013.<br />
Bệnh nhân không sử dụng kháng sinh trong<br />
3 tháng trước khi tham gia nghiên cứu và trong<br />
thời gian tham gia nghiên cứu.<br />
Bệnh nhân được giải thích và đồng ý tự<br />
nguyện tham gia nghiên cứu.<br />
<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
Phương tiện nghiên cứu<br />
Bộ đồ khám, cây đo túi.<br />
Phiếu đánh giá các chỉ số nha chu.<br />
<br />
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt<br />
<br />
Các bước tiến hành<br />
9 bệnh nhân viêm nha chu mạn tính<br />
<br />
Hướng dẫn vệ sinh răng miệng<br />
Cạo vôi trêan nướu<br />
<br />
Đánh giá các chỉ số lâm sàng trước XLMGR.<br />
Cạo vôi dưới nướu.<br />
<br />
XLMGR.<br />
<br />
Đánh giá các chỉ số lâm sàng<br />
ở thời điểm sau XLMGR 4 tuần<br />
<br />
Đánh giá các chỉ số lâm sàng<br />
ở thời điểm sau XLMGR 6-8 tuần<br />
<br />
Các thông số lâm sàng dùng đánh giá<br />
Chỉ số mảng bám (PlI) của Loe và Silness (1967)<br />
0: không hiện diện mảng bám<br />
1: Mắt thường không thấy mảng bám nhưng<br />
phát hiện được khi dùng cây thăm dò cạo trên<br />
mặt răng ở khe nướu.<br />
2: Mảng bám thấy được bằng mắt thường<br />
(mỏng đến trung bình).<br />
3: Mảng bám, vụn thức ăn tích tụ nhiều.<br />
Chỉ số nướu (GI) của Loe và Silness (1963)<br />
0: Nướu bình thường.<br />
1: Nướu viêm nhẹ: đổi màu, hơi phù, không<br />
chảy máu khi thăm khám.<br />
2: Nướu viêm trung bình: nướu đỏ, phù,<br />
chảy máu khi thăm khám.<br />
3: Nướu viêm nặng: nướu đỏ, phù, lở loét,<br />
chảy máu tự phát.<br />
<br />
199<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
Chảy máu khi thăm khám (BOP)<br />
<br />
Đưa cây đo túi vào đến đáy túi nha chu, sau<br />
đó rút ra. Đợi 30 giây và xác định có hay không<br />
có chảy máu.<br />
Độ tụt nướu (GR)<br />
<br />
Là khoảng cách từ bờ nướu viền đến đáy túi<br />
nha chu, tính bằng mm.<br />
Mất bám dính lâm sàng (CAL)<br />
Là khoảng cách từ đường nối men-xê măng<br />
đến đáy túi nha chu, tính bằng mm.<br />
<br />
Xử lý số liệu<br />
Thống kê mô tả<br />
- Đối với các chỉ số PlI, GI, GR, PD, CAL:<br />
tính giá trị trung bình, độ lệch chuẩn.<br />
- Đối với chỉ số BOP: tính phần trăm.<br />
Thống kê phân tích:<br />
- Đối với các chỉ số PlI, GI, GR, PD, CAL: sử<br />
dụng phép kiểm t bắt cặp để so sánh các chỉ số<br />
trước và sau XLMGR; sử dụng phép kiểm t độc<br />
lập so sánh giữa các nhóm.<br />
- Đối với chỉ số BOP: sử dụng phép kiểm χ2<br />
để so sánh trước và sau XLMGR.<br />
<br />
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN<br />
9 bệnh nhân viêm nha chu mạn tính với 294<br />
vị trí túi nha chu.<br />
Bảng 1: Trung bình các chỉ số lâm sàng trước và sau<br />
XLMGR<br />
Sau 4 tuần p1-2<br />
0,49 ± 0,75<br />
1,42 ± 0,50<br />
1,26 ± 1,57<br />
3,50 ± 1,38<br />
4,76 ± 2,02<br />
<br />
*<br />
NS<br />
*<br />
NS<br />
*<br />
<br />
Sau 6-8<br />
p0-2<br />
tuần<br />
0,23 ± 0,44 *<br />
1,38 ± 0,53 *<br />
1,61 ± 1,78 *<br />
3,61 ± 1,72 *<br />
5,22 ± 2,43 *<br />
<br />
p0-1: phép kiểm t bắt cặp so sánh giữa trước XLMGR và sau<br />
XLMGR 4 tuần. p1-2: phép kiểm t bắt cặp so sánh giữa sau<br />
XLMGR 4 tuần và sau 6-8 tuần. p0-2: phép kiểm t bắt cặp<br />
so sánh giữa trước XLMGR và sau XLMGR 6-8 tuần. *:<br />
<br />
200<br />
<br />
Không chảy máu<br />
Tổng<br />
<br />
Độ sâu túi (PD)<br />
<br />
PlI<br />
GI<br />
GR<br />
PD<br />
CAL<br />
<br />
Bảng 2: Sự thay đổi BOP trước và sau XLMGR<br />
<br />
Chảy máu<br />
<br />
Là khoảng cách từ đường nối men- xê măng<br />
đến bờ nướu viền, tính bằng mm.<br />
<br />
Trước<br />
p0-1<br />
XLMGR<br />
0,53 ± 0,82 NS<br />
1,68 ± 0,56<br />
*<br />
1,16 ± 1,49 NS<br />
4,96 ± 1,05<br />
*<br />
6,12 ± 1,92<br />
*<br />
<br />
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. NS: Sự khác<br />
biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.<br />
Trước<br />
XLMGR<br />
208 vị trí<br />
(70,8%)<br />
86 vị trí<br />
(29,2%)<br />
100%<br />
<br />
Sau 4 tuần Sau 6-8 tuần<br />
123 vị trí<br />
(41,8%)<br />
171 vị trí<br />
(58,2%)<br />
100%<br />
<br />
128 vị trí<br />
(43,5%)<br />
166 vị trí<br />
(56,5%)<br />
100%<br />
<br />
Chỉ số mảng bám giảm dần, tuy nhiên đến<br />
sau XLMGR 6-8 tuần mới giảm có ý nghĩa (p <<br />
0,05). Trong nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy<br />
ở nhiều bệnh nhân, trong một thời gian ngắn<br />
(vài tuần sau CV-XLMGR), vôi răng xuất hiện<br />
lại ở cổ răng, trong khi mảng bám không hiện<br />
diện. Điều này có thể giải thích là do bệnh<br />
nhân có xu hướng chải răng trước khi đến<br />
khám răng, trong khi bình thường tại nhà thì<br />
không hoặc ít chú ý. Do vậy, dường như việc<br />
kiểm soát mảng bám không thực sự cải thiện<br />
như kết quả thu thập được.<br />
Chỉ số nướu và chảy máu khi thăm khám<br />
sau XLMGR giảm có ý nghĩa (p < 0,05) so với<br />
trước XLMGR nhưng không có sự khác biệt có<br />
ý nghĩa (p > 0,05) giữa 2 thời điểm sau XLMGR<br />
4 tuần và 6-8 tuần. Sau XLMGR, tình trạng<br />
nướu được cải thiện đáng kể. Sự thay đổi này<br />
phù hợp với các nghiên cứu của Nguyễn Thị<br />
Ngọc Diễm (2004)(3) và của Lê Nguyễn Vương<br />
Anh (2004)(2). Sau 4 tuần, tình trạng nướu<br />
không được cải thiện thêm.<br />
Trước XLMGR, có những vị trí túi nha chu<br />
không chảy máu khi thăm khám (CMKTK), và<br />
xảy ra chủ yếu ở bệnh nhân hút thuốc lá (phần<br />
trăm CMKTK ở bệnh nhân hút thuốc là 54%,<br />
trong khi ở bệnh nhân không hút thuốc là 94%.<br />
Kết quả này cũng phù hợp với kết luận của<br />
Preber và Bergstrom (1986): bệnh nhân hút thuốc<br />
ít CMKTK hơn bệnh nhân không hút thuốc mặc<br />
dù họ có cùng tình trạng nhiễm khuẩn(4).<br />
Độ tụt nướu tăng dần từ trước XLMGR đến<br />
sau XLMGR 4 tuần và 6-8 tuần. Sự khác biệt giữa<br />
2 thời điểm sau XLMGR này có ý nghĩa thống kê<br />
(p < 0,05). Tụt nướu tăng dần từ 4 đến 8 tuần<br />
<br />
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014<br />
trong nghiên cứu này cũng phù hợp với sự thay<br />
đổi độ tụt nướu kéo dài theo thời gian của<br />
Badersten (1981)(1), Proye M (1982)(5).<br />
Độ sâu túi nha chu giảm có ý nghĩa thống kê<br />
(p < 0,05) giữa trước và sau XLMGR. Độ sâu túi<br />
sau XLMGR 4 tuần và 6-8 tuần khác biệt không<br />
có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Từ 4-8 tuần, độ tụt<br />
nướu tăng có ý nghĩa trong khi độ sâu túi lại<br />
tăng nhẹ. Từ đó cho thấy có sự phá hủy tiếp tục<br />
của mô nha chu ở phía đáy túi. Kết quả này cũng<br />
phù hợp với sự tăng có ý nghĩa của mất bám<br />
dính lâm sàng. Để làm rõ hơn về sự tăng mất<br />
bám dính lâm sàng này, chúng tôi phân tích sự<br />
thay đổi mất bám dính lâm sàng ở nhóm hút<br />
thuốc và nhóm không hút thuốc. Bảng 3 cho thấy<br />
mất bám dính ở nhóm không hút thuốc tăng<br />
không có ý nghĩa trong khi ở nhóm hút thuốc<br />
tăng có ý nghĩa. Vậy mất bám dính lâm sàng<br />
tăng chủ yếu ở nhóm hút thuốc. Tuy nhiên, mất<br />
bám dính lâm sàng ở cả 2 nhóm nhìn chung đều<br />
tăng và cho thấy có sự phá hủy của mô nha chu.<br />
Bảng 3: Sự thay đổi mất bám dính lâm sàng của 2<br />
nhóm hút thuốc lá và không hút thuốc lá<br />
Trước<br />
p<br />
XLMGR 0-1<br />
Nhóm<br />
không hút<br />
thuốc lá<br />
Nhóm hút<br />
thuốc lá<br />
<br />
Sau<br />
XLMGR<br />
4 tuần<br />
<br />
p1-2<br />
<br />
Sau<br />
XLMGR p0-2<br />
6-8 tuần<br />
<br />
5,71<br />
<br />
*<br />
<br />
4,36<br />
<br />
NS<br />
<br />
4,47<br />
<br />
*<br />
<br />
6,41<br />
<br />
*<br />
<br />
5,05<br />
<br />
*<br />
<br />
5,76<br />
<br />
*<br />
<br />
không đáng kể (p > 0,05), độ tụt nướu và mất<br />
bám dính lâm sàng tăng đáng kể (p < 0,05).<br />
<br />
ĐỀ NGHỊ<br />
Sau XLMGR 4 tuần, bám dính nha chu cải<br />
thiện rõ ràng nhưng sau đó có sự phá hủy tiếp<br />
tục mô nha chu bên dưới. Từ đó, nghiên cứu đề<br />
nghị người điều trị chưa nên lạc quan sớm khi<br />
tình trạng nha chu thay đổi tích cực sau 4 tuần,<br />
mà phải tiếp tục kiểm soát mảng bám chặt chẽ<br />
hơn, theo dõi để có kế hoạch điều trị tiếp theo,<br />
cũng như không nên tái đánh giá quá trễ sau<br />
hơn 6-8 tuần, mặc dù kết quả tái đánh giá tại thời<br />
điểm này có thể tốt hơn có ý nghĩa so với thời<br />
điểm ban đầu nhưng thực ra bệnh đã tiến triển<br />
trở lại.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1.<br />
<br />
2.<br />
<br />
3.<br />
<br />
4.<br />
<br />
5.<br />
<br />
KẾT LUẬN<br />
Nghiên cứu lâm sàng tiến hành trên 294 túi<br />
nha chu của 9 bệnh nhân viêm nha chu mạn tính<br />
cho thấy sau XLMGR từ 4 đến 8 tuần: chỉ số<br />
mảng bám giảm có ý nghĩa (p < 0,05), chỉ số<br />
nướu và chảy máu khi thăm khám khác biệt<br />
không có ý nghĩa (p > 0,05), độ sâu túi tăng<br />
<br />
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
6.<br />
<br />
Badersten A, Nilveus R, Egelberg J (1981). Effect of<br />
nonsurgical periodontal therapy. Journal of Clinical<br />
Periodontology, Vol 8: 57-72.<br />
Lê Nguyễn Vương Anh, Hà Thị Bảo Đan, Nguyễn Bích Vân<br />
(2004). So sánh hiệu quả điều trị túi nha chu của đầu siêu âm<br />
thế hệ mới với dụng cụ tay. Tuyển tập các công trình nghiên<br />
cứu khoa học răng hàm mặt năm 2004, Nhà xuất bản y học,<br />
tr.166-173.<br />
Nguyễn Thị Ngọc Diễm, Trần Giao Hòa, Đỗ Thu Hằng (2004).<br />
Hiệu quả lâm sàng và vi sinh của xử lý mặt gốc răng bằng<br />
siêu âm với nguồn nước bơm rửa là Betadine 0,5%. Tuyển tập<br />
các công trình nghiên cứu khoa học răng hàm mặt năm 2004,<br />
Nhà xuất bản y học, tr.174-180.<br />
Preber H, Bergstrom J (1986). Cigarette smoking in patients<br />
referred for periodontal treatment. Scand J Dent Res., Vol 94:<br />
102-108.<br />
Proye M, Caton J, Polson A (1982). Initial healing of<br />
periodontal pockets after a single episode of root planing<br />
monitored by controlled probing forces. J Periodontol, Vol 53:<br />
296-301.<br />
Segelnick SL, Weinberg MA (2006). Reevaluation of initial<br />
therapy: when is the appropriate time? J Periodontol: 15981601.<br />
<br />
Ngày nhận bài báo:<br />
<br />
05/01/2014<br />
<br />
Ngày phản biện nhận xét bài báo:<br />
<br />
18/02/2014<br />
<br />
Ngày bài báo được đăng:<br />
<br />
20/03/2014<br />
<br />
201<br />
<br />