intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tác động của âm nhạc lên hành vi người tiêu dùng

Chia sẻ: Bautroibinhyen17 Bautroibinhyen17 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

352
lượt xem
31
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá và kiểm định mô hình tác động của âm nhạc lên hành vi người tiêu dùng. Nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để đánh giá, kiểm định các thang đo lường và mô hình nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tác động của âm nhạc lên hành vi người tiêu dùng

Journal of Science – 2016, Vol. 10 (2), 40 – 51<br /> <br /> Part B: Political Sciences, Economics and Law<br /> <br /> TÁC ĐỘNG CỦA ÂM NHẠC LÊN HÀNH VI NGƯỜI TIÊU DÙNG<br /> Nguyễn Thị Minh Hải<br /> Trường Đại học An Giang<br /> Thông tin chung:<br /> Ngày nhận bài: 10/05/2016<br /> Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br /> 04/06/2016<br /> Ngày chấp nhận đăng: 06/2016<br /> Title:<br /> The impact of music on<br /> consumers’ behaviour<br /> Từ khóa:<br /> Âm nhạc, hành vi, người tiêu<br /> dùng, cảm xúc<br /> Keywords:<br /> Music, behauviour, consumer,<br /> mood<br /> <br /> ABSTRACT<br /> The study aimed to assess and test the influence of music on consumer behavior<br /> model. This study was employed the quantitative research method to assess, and<br /> test the scale, and the research model. The sample size was 366, and the quota<br /> sampling was applied by equaling observations for each age group 22 – 35, 36<br /> – 45, 46 - 60. In the structural model test, the findings showed music affects<br /> positively on the pleasure, the pleasure affects positively on approach behavior.<br /> Bootstrap test confirmed that the estimates in the model were significantly<br /> reliable. Although, there were no difference about model level among three age<br /> groups (22 – 35, 36 – 45, 46 – 60), path estimates differed.<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá và kiểm định mô hình tác động<br /> của âm nhạc lên hành vi người tiêu dùng. Nghiên cứu sử dụng phương pháp<br /> nghiên cứu định lượng để đánh giá, kiểm định các thang đo lường và mô hình<br /> nghiên cứu. Cỡ mẫu của nghiên cứu này là 366 và sử dụng phương pháp chọn<br /> mẫu hạn mức đều nhau theo 3 nhóm tuổi 22 - 35, 36 – 45, 46 - 60. Kết quả kiểm<br /> định mô hình bằng phân tích cấu trúc tuyến tính (SEM) cho thấy âm nhạc tác<br /> động lên niềm vui thích và sau đó niềm vui thích tác động dương lên hành vi hồi<br /> đáp. Kết quả phân tích bootstrap khẳng định các ước lượng trong mô hình đáng<br /> tin cậy. Mô hình giống nhau cho 3 nhóm tuổi nhưng khác nhau về mức độ tác<br /> động trong đường path.<br /> <br /> mái, niềm vui thích) trong tiêu dùng (Kellaris &<br /> Kent, 1994), cũng như nghiên cứu sự tác động của<br /> âm nhạc đến nhận thức của người tiêu dùng về<br /> chất lượng dịch vụ và chất lượng hàng hóa<br /> (Sweeney Wyber, 2002). Ngoài ra, Caldwell và<br /> Hibbert (2002) cho thấy rằng sở thích âm nhạc tác<br /> động đến thời gian thực sự ăn uống ở nhà hàng<br /> nhiều hơn là nhịp độ âm nhạc, mà thời gian lưu lại<br /> ở nhà hàng lâu đồng nghĩa với việc sẽ tiêu tiền<br /> nhiều hơn ở nhà hàng. Còn Srinivasan và<br /> Mukherjee (2012) chứng minh một lần nữa âm<br /> nhạc làm cho khách hàng lưu lại các cửa hàng lâu<br /> hơn, khách hàng cảm thấy thoải mái và chi tiêu<br /> <br /> 1. GIỚI THIỆU<br /> Âm nhạc đóng một vai trò quan trọng trong cuộc<br /> sống của con người. Âm nhạc không chỉ mang lại<br /> lợi ích tinh thần mà còn mang lại lợi ích sức khỏe<br /> rất lớn trong đời sống hàng ngày. Theo Lê Đức<br /> Nga (2000), âm nhạc khiến cho con người sung<br /> sướng, khiến cuộc đời luôn tràn đầy niềm vui của<br /> lao động sáng tạo.<br /> Đã có nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới<br /> chứng minh âm nhạc có ảnh hưởng đến hành vi<br /> của người tiêu dùng, đặc biệt là hành vi người đi<br /> mua hàng (Milliman,1982), hay cảm xúc (sự thoải<br /> <br /> 40<br /> <br /> Journal of Science – 2016, Vol. 10 (2), 40 – 51<br /> <br /> Part B: Political Sciences, Economics and Law<br /> <br /> nhiều hơn cho việc mua sắm của mình. Tác động<br /> của âm nhạc còn được mở rộng sang lĩnh vực<br /> marketing thể thao, (Ballouli & Bennet, 2014) đã<br /> cho thấy sự phù hợp của âm nhạc (nhạc hiệu) sẽ<br /> tác động tích cực lên sự đánh giá môi trường của<br /> cửa hàng, hài lòng với trải nghiệm mua sắm, và<br /> thái độ đối với thương hiệu.<br /> <br /> hay các yếu tố diễn tả âm nhạc bao gồm giai điệu,<br /> hòa âm, tiết tấu - tiết luật, nhịp độ, âm sắc - âm<br /> khu, cường độ, cách tạo bè (Nguyễn Thị Nhung,<br /> 1997; Lê Đức Nga, 2000; Vũ Minh Vỹ, 2008).<br /> Âm nhạc được chia thành nhiều thể loại tùy theo<br /> chức năng, đối tượng, xuất xứ, phân bố địa lý, lịch<br /> sử, những đặc trưng về kỹ thuật…. Một cách tổng<br /> quát, âm nhạc gồm âm nhạc có lời (tức thanh<br /> nhạc) và âm nhạc không lời (tức khí nhạc)<br /> (Nguyễn Minh Toàn và cs., 1995) hoặc nhạc cổ<br /> điển và nhạc đương đại.<br /> Khi nghiên cứu tác động của âm nhạc lên hành vi<br /> tiêu dùng, bên cạnh một số nghiên cứu về nhạc<br /> nền nói chung (Srinivasan & Mukherjee, 2012;<br /> Chebat & Cs., 2001), thì có những nghiên cứu chỉ<br /> tập trung vào một hoặc một vài thành phần của<br /> âm nhạc như Millian (1982), Caldwell và Hibbert<br /> (1999), Sweeney và Wyber (2002) nghiên cứu về<br /> nhịp độ của nhạc nền trong siêu thị và cửa hàng<br /> bán lẻ, hay âm nhạc là một thành phần của môi<br /> trường cửa hàng bên cạnh thiết kế cửa hàng, ánh<br /> sáng, và nhân viên (Mohan, Sivakumaran, &<br /> Sharma, 2013). Ngoài ra, thể loại âm nhạc cũng<br /> được các nhà nghiên cứu tiến hành thực nghiệm<br /> để đánh giá sự tác động của nó lên hành vi tiêu<br /> dùng. Một số thể loại nhạc được nghiên cứu là<br /> nhạc thương hiệu ứng dụng trong marketing thể<br /> thao (Ballouli & Bennett, 2014), nhạc dùng trong<br /> quảng cáo (Gorn, 1982), nhạc pop và nhạc cổ điển<br /> (Kellaris & Kent, 1994; Sweeney & Wyber,<br /> 2002), chương trình âm nhạc trên tivi tác động lên<br /> hành vi người tiêu dùng (Kalyoncu, 2011).<br /> <br /> Từ các nghiên cứu trên cho thấy âm nhạc có tác<br /> động rất tích cực lên hành vi của người tiêu dùng.<br /> Tuy nhiên, các nghiên cứu trên được thực hiện tại<br /> các nước có nền kinh tế và văn hóa tiêu dùng phát<br /> triển. Ngoài ra hành vi cảm thụ âm nhạc của các<br /> nước khác nhau nên có thể sẽ tác động khác nhau<br /> lên hành vi của người tiêu dùng. Chính vì những<br /> lý do trên nên hình thành đề tài “Khảo sát tác<br /> động của âm nhạc lên hành vi người tiêu dùng ở<br /> Long Xuyên, tỉnh An Giang” để xem xét âm nhạc<br /> có tác động lên hành vi người tiêu dùng tại An<br /> Giang không, và nếu có thì mức độ tác động như<br /> thế nào.<br /> Mục tiêu của nghiên cứu này là (1) đánh giá tác<br /> động của âm nhạc lên cảm xúc (niềm vui thích, sự<br /> phấn khích) của người tiêu dùng, (2) đánh giá tác<br /> động của các nhân tố niềm vui thích và sự phấn<br /> khích lên hành vi của người tiêu dùng, (3) kiểm<br /> định mô hình tác động của âm nhạc lên hành vi<br /> người tiêu dùng, (4) kiểm định sự khác biệt theo<br /> nhóm tuổi của mô hình tác động của âm nhạc lên<br /> hành vi người tiêu dùng. Kết quả nghiên cứu có<br /> thể giúp các nhà quản trị trong lĩnh vực bán lẻ<br /> nhận thức sự quan trọng của âm nhạc trong quá<br /> trình bán hàng và có thể ứng dụng âm nhạc để<br /> kích thích mua sắm, đồng thời nghiên cứu cũng<br /> đóng góp về kiến thức hành vi tiêu dùng cho các<br /> nhà nghiên cứu.<br /> <br /> Có rất nhiều yếu tố diễn tả âm nhạc được liệt kê ở<br /> trên cũng như sự đa dạng của các thể loại âm nhạc<br /> như nhạc cổ điển hay nhạc đương đại; nhạc có lời<br /> hay nhạc không lời…Âm nhạc trong nghiên cứu<br /> này bao gồm tất cả các yếu tố diễn tả âm nhạc và<br /> tất cả các thể loại âm nhạc của nó (bao gồm nhạc<br /> có lời hay không lời, nhạc cổ điển hay đương<br /> đại,…). Ngoài ra, do hình thức đặc thù của các<br /> siêu thị ở Việt Nam, âm nhạc có thể được kết hợp<br /> xen kẽ với hình thức thông báo và quảng cáo sản<br /> phẩm, đôi khi kết hợp cả thông tin cuộc sống, nên<br /> <br /> 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT – PHƯƠNG PHÁP<br /> NGHIÊN CỨU<br /> 2.1 Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu<br /> Âm nhạc<br /> “Ngôn ngữ âm nhạc” bao gồm những thành phần<br /> biểu hiện chỉ có trong nghệ thuật âm nhạc (Lê<br /> Đức Nga, 2000). Các thành phần của âm nhạc<br /> 41<br /> <br /> Journal of Science – 2016, Vol. 10 (2), 40 – 51<br /> <br /> Part B: Political Sciences, Economics and Law<br /> <br /> âm nhạc còn được bao gồm cả các thành phần<br /> này.<br /> <br /> người tiêu dùng. Vì vậy, đánh giá tác động của âm<br /> nhạc lên cảm xúc của người tiêu dùng trong<br /> nghiên cứu này được thực hiện thông qua tác<br /> động của âm nhạc lên niềm vui thích và sự phấn<br /> khích.<br /> Hành vi người tiêu dùng<br /> <br /> Tác động của âm nhạc lên phản ứng cảm xúc<br /> Mô hình được sử dụng phổ biến trong các nghiên<br /> cứu thực nghiệm về tác động của môi trường<br /> được bắt nguồn từ mô hình SOR (Tác nhân môi<br /> trường – Tổ chức – Phản hồi) của Mehrabian và<br /> Russell (1974). Mô hình SOR của Mehrabian và<br /> Russell phát biểu rằng những tác nhân kích thích<br /> thuộc môi trường sẽ ảnh hưởng lên trạng thái cảm<br /> xúc và từ trạng thái cảm xúc này sẽ ảnh hưởng lên<br /> hành vi con người trong môi trường đó. Các tác<br /> nhân kích thích thuộc môi trường bao gồm không<br /> khí (nhiệt độ, chất lượng không khí, âm nhạc,<br /> tiếng ồn, mùi thơm….), không gian (thiết kế,<br /> trang thiết bị, nội thất…), và ký hiệu, biểu tượng<br /> (sử dụng biểu tượng, đồ tạo tác, phong cách trang<br /> trí…). Trạng thái cảm xúc gồm niềm vui thích, sự<br /> phấn khích, và sự khống chế (PAD). Hành vi hồi<br /> đáp gồm hành vi né tránh hay tiếp cận.<br /> Trong khi nhiều nghiên cứu khác nhau được thực<br /> hiện ở lĩnh vực bán lẻ xác nhận rằng đa số hành vi<br /> của người đi mua sắm được liên kết với thang đo<br /> niềm vui thích và sự phấn khích, thì chỉ một số ít<br /> liên kết sự khống chế. Niềm vui thích liên quan<br /> đến việc người tiêu dùng cảm thấy tốt, hạnh phúc<br /> và thỏa mãn như thế nào; sự phấn khích liên quan<br /> đến mức độ mà người tiêu dùng cảm thấy kích<br /> động, tỉnh táo, hoặc hành động hướng về các tình<br /> huống đã xảy ra; còn sự khống chế liên quan đến<br /> việc cá nhân cảm giác bị chế ngự hoặc tự do để<br /> hành động hướng về tình huống (Mehrabian &<br /> Russell, 1974). Mô hình của Mebrabian và<br /> Russell được Donovan và Rossiter (1982) thẩm<br /> định lại trong môi trường bán lẻ và chứng thực<br /> rằng nhân tố niềm vui thích và sự phấn khích là<br /> những chỉ báo quan trọng giữa tác nhân khích<br /> thích thuộc về môi trường và hành vi hồi đáp của<br /> <br /> Hành vi của người tiêu dùng là kết quả của sự tác<br /> động âm nhạc thông qua phản ứng cảm xúc. Mặc<br /> dù hành vi người tiêu dùng bao gồm hành vi tiếp<br /> cận và hành vi né tránh (Mehrabian &<br /> Russell,1974), nhưng các nghiên cứu về tác động<br /> của âm nhạc lên hành vi của người tiêu dùng cho<br /> thấy rằng hành vi bị tác động bởi âm nhạc đa phần<br /> là hành vi tiếp cận. Hành vi tiếp cận bao gồm<br /> mong muốn đi vào và khám phá cửa hàng, chi tiêu<br /> nhiều hơn dự định, giới thiệu cửa hàng cho người<br /> khác, mua sắm tại cửa hàng lâu hơn, thích cửa<br /> hàng, sẵn sàng chi trả, sẵn sàng liên kết với người<br /> khác (Sweeney & Wyber, 2002), mua sắm tùy<br /> hứng (Mohan, Sivakumaram, & Sharma, 2013).<br /> 2.2 Mô hình nghiên cứu<br /> Mô hình đề xuất cho nghiên cứu này sẽ dựa trên<br /> mô hình của Mehrabian và Russell (1974) và<br /> Sweeney, Jillian A., và Wyber Fiona (2002).<br /> Giả thuyết H1: Âm nhạc có tác động dương lên<br /> niềm vui thích.<br /> Giả thuyết H2: Âm nhạc có tác động dương lên sự<br /> phấn khích.<br /> Giả thuyết H3: Niềm vui thích có tác động dương<br /> lên hành vi tiêu dùng.<br /> Giả thuyết H4: Sự phấn khích có tác động dương<br /> lên hành vi tiêu dùng.<br /> Giả thuyết H5: Có sự khác biệt theo nhóm tuổi<br /> của mô hình tác động của âm nhạc lên hành vi<br /> người tiêu dùng.<br /> <br /> 42<br /> <br /> Journal of Science – 2016, Vol. 10 (2), 40 – 51<br /> <br /> Âm<br /> nhạc<br /> <br /> H1<br /> <br /> H2<br /> <br /> Niềm vui thích<br /> <br /> Sự phấn khích<br /> <br /> Part B: Political Sciences, Economics and Law<br /> <br /> Hành vi tiêu dùng<br /> <br /> H3<br /> <br /> H4<br /> <br /> Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất<br /> <br /> Phương pháp phân tích dữ liệu: Dữ liệu sau khi<br /> thu thập sẽ được làm sạch và tiến hành đánh giá<br /> độ tin cậy thang đo thông qua phân tích<br /> Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá<br /> (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA), phân<br /> tích cấu trúc tuyến tính (SEM), phân tích<br /> Bootstrap. Một số điều kiện cần quan tâm:<br /> <br /> 2.3 Phương pháp nghiên cứu<br /> Nghiên cứu được tiến hành thông qua hai bước:<br /> nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu chính thức.<br /> Nghiên cứu sơ bộ được thực hiện bằng phương<br /> pháp nghiên cứu định tính với kỹ thuật phỏng vấn<br /> sâu. Kết quả của phỏng vấn sâu sẽ dùng để bổ<br /> sung, hiệu chỉnh thang đo cho bảng câu hỏi<br /> nghiên cứu chính thức. Nghiên cứu chính thức<br /> được thực hiện bằng phương pháp nghiên cứu<br /> định lượng với kỹ thuật khảo sát trực tiếp khách<br /> hàng sau khi họ kết thúc quá trình mua sắm và<br /> thanh toán tại siêu thị bách hóa tổng hợp như<br /> Co.opmart và Metro tại địa bàn thành phố Long<br /> Xuyên.<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> Thang đo được sử dụng trong nghiên cứu này là<br /> thang đo Likert 5 điểm (1 là hoàn toàn không<br /> đồng ý đến 5 là hoàn toàn đồng ý) để đo lường tác<br /> động của âm nhạc lên trạng thái cảm xúc rồi từ đó<br /> cảm xúc sẽ tác động lên hành vi người tiêu dùng<br /> thông qua 31 biến quan sát.<br /> Cỡ mẫu là 366 vì để đảm bảo điều kiện cỡ mẫu tối<br /> thiểu 350 nếu chọn hệ số tải nhân tố > 0,3 (Hair &<br /> cs., 2006) và điều kiện để phân tích mô hình cấu<br /> trúc tuyến tính đòi hỏi kích thước mẫu lớn<br /> (Raykov & Widaman,1995).<br /> Phương pháp chọn mẫu: định mức với thuộc tính<br /> kiểm soát là tuổi. Đối tượng khảo sát là nữ từ 22 60 tuổi vì nữ thường là người mua sắm chính<br /> trong gia đình đối với hàng hóa tiêu dùng, và độ<br /> tuổi từ 22 - 60 là độ tuổi lao động nên có thu nhập<br /> và có khả năng tự quyết định trong quá trình mua<br /> sắm. Như vậy, 122 quan sát cho mỗi nhóm tuổi<br /> gồm 22- 35, 36 – 45, 46 – 60.<br /> <br /> -<br /> <br /> 43<br /> <br /> Thang đo đạt tin cậy khi hệ số Cronbach’s<br /> Alpha ≥ 0,6 và hệ số tương quan biến tổng ≥<br /> 0,3 (Nunally và Bernstein, 1994 trích trong<br /> Nguyễn Đình Thọ, 2011).<br /> Phân tích nhân tố khám phá (EFA) bằng sử<br /> dụng phương pháp trích Principal Axis<br /> Factoring với phép xoay Promax. Điều kiện để<br /> EFA đạt yêu cầu: hệ số tải nhân tố bé nhất của<br /> mỗi item 0,3; tại mỗi item, chênh lệch hệ số tải<br /> nhân tố lớn nhất và hệ số tải nhân tố bất kỳ<br /> phải ≥ 0,3 (Jabnoun & Al-Tamimi, 2003 (dẫn<br /> theo Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai<br /> Trang, 2007); tổng phương sai trích ≥ 50%<br /> (Gerbing & Anderson, 1988 dẫn theo Nguyễn<br /> Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang, 2007);<br /> kiểm định Bartlett có ý nghĩa thống kê khi Sig<br /> < 0,05, hệ số KMO nằm trong khoảng 0,5 <<br /> KMO < 1, hệ số eigenvalue > 1 thì chứng tỏ là<br /> phân tích nhân tố đạt yêu cầu (Nguyễn Đình<br /> Thọ, 2011).<br /> Phân tích nhân tố khẳng định (CFA): để đạt<br /> được yêu cầu thì hệ số tin cậy tổng hợp và<br /> tổng phương sai trích phải từ 0,5 trở lên; thang<br /> đo đạt được giá trị hội tụ khi các trọng số<br /> chuẩn hóa của thang đo đều cao (> 0,5) và có ý<br /> nghĩa thống kê (Sig < 0,05). Mô hình được coi<br /> là phù hợp với dữ liệu thị trường khi các giá trị<br /> <br /> Journal of Science – 2016, Vol. 10 (2), 40 – 51<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> Part B: Political Sciences, Economics and Law<br /> <br /> GFI, TLI, CFI từ 0,9 – 1, CMIN/df ≤ 2, một số<br /> trường hợp có thể ≤ 3; RMSEA ≤ 0,08<br /> (Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang,<br /> 2007).<br /> Phương pháp Bootstrap: là phương pháp lấy<br /> mẫu lặp lại có thay thế, trong đó mẫu ban đầu<br /> đóng vai trò là đám đông để đánh giá độ tin<br /> cậy của các ước lượng trong các phương pháp<br /> nghiên cứu định lượng<br /> Phương pháp phân tích cấu trúc đa nhóm để so<br /> sánh mô hình nghiên cứu theo các nhóm nào<br /> đó của một biến định tính. Kiểm định Chisquare được sử dụng để so sánh giữa 2 mô<br /> hình khả biến và bất biến. Nếu kiểm định Chi<br /> –square cho thấy mô hình bất biến từng phần<br /> và khả biến không có sự khác biệt (p-value ><br /> 0,05) thì mô hình bất biến từng phần sẽ được<br /> chọn (có bậc tự do cao hơn). Ngược lại, nếu sự<br /> khác biệt Chi-square là có ý nghĩa giữa hai mô<br /> hình (p-value < 0,05) thì chọn mô hình khả<br /> biến vì có độ tương thích cao hơn (Nguyễn<br /> Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang, 2007).<br /> <br /> thu nhập từ 20 triệu đồng trở lên chiếm tỉ lệ 3,6%,<br /> còn lại 7,9% thuộc về các đáp viên có thu nhập từ<br /> 10 đến dưới 20 triệu đồng.<br /> 3.2 Kết quả kiểm định độ tin cậy của thang đo<br /> Sau 2 lần phân tích Cronbach’s Alpha, kết quả<br /> cho thấy các biến đều đạt yêu cầu và có hệ số<br /> Cronbach’s Alpha cao. Cụ thể Cronbach’s Alpha<br /> của thang đo âm nhạc là 0,818; của thang đo niềm<br /> vui thích là 0,836; của thang đo sự phấn khích là<br /> 0,825; và của hành vi là 0,822. Sau khi 3 biến<br /> quan sát bị loại là AN8, PK6, và HV12 do có hệ<br /> số tương quan biến tổng nhỏ hơn 0,3, 28 biến<br /> quan sát còn lại đạt yêu cầu sẽ tiến hành phân tích<br /> EFA.<br /> 3.3 Kết quả phân tích nhân tố khám phá<br /> (EFA)<br /> Phân tích KMO lần 3 cho thấy sig = 0,000 và hệ<br /> số KMO = 0,835 nằm trong khoảng 0,5 – 1 nên<br /> phân tích nhân tố là phù hợp với dữ liệu thị<br /> trường. Sau 3 lần phân tích nhân tố khám phá<br /> (EFA), có 5 nhân tố được trích tại eigenvalue là<br /> 1,110 với tổng phương sai 58,669%. Các biến đã<br /> đạt được giá trị phân biệt và giá trị hội tụ (Phụ lục<br /> 1). Các nhân tố được đặt tên như sau:<br /> <br /> 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br /> 3.1 Thông tin mẫu nghiên cứu<br /> Về nghề nghiệp: Tỉ lệ đáp viên là nội trợ chiếm tỉ<br /> lệ cao nhất (23,5%), kế đến là buôn bán (19,7%)<br /> và nhân viên văn phòng (15%). Nhóm nghề<br /> nghiệp có tỉ lệ thấp nhất lần lượt là giám đốc<br /> chiếm tỉ lệ 0,8%, bác sĩ chiếm tỉ lệ 2,2%, và kỹ sư<br /> có tỉ lệ 2,5%. Các nhóm nghề khác có tỉ lệ trung<br /> bình là giáo viên, nghề tự do, và nghề khác lần<br /> lượt chiếm tỉ lệ 10,1%, 12,3%, và 13,9%. Nghề<br /> khác gồm các nghề như thợ may, thợ uốn tóc, thợ<br /> massage, công nhân, và sinh viên.<br /> <br /> -<br /> <br /> Nhóm 1: được đặt tên là âm nhạc.<br /> Nhóm 2: được đặt tên là hành vi hồi đáp.<br /> Nhóm 3: được đặt tên là hành vi liên kết.<br /> Nhóm 4: được đặt tên là sự phấn khích.<br /> Nhóm 5: được đặt tên là niềm vui thích.<br /> <br /> Như vậy, mô hình nghiên cứu có thể được điều<br /> chỉnh như sau:<br /> <br /> Về thu nhập: Các đáp viên có thu nhập dưới 5<br /> triệu đồng/tháng chiếm tỉ lệ cao nhất (53,5%), kế<br /> đến là mức thu nhập từ 5 đến dưới 10 triệu đồng<br /> chiếm tỉ lệ 35%, thấp nhất là các đáp viên có mức<br /> <br /> 44<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1