BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
**********
TRẦN VIỆT TÂN
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ
CHẤT LƯỢNG “VỐN CON NGƯỜI” ĐẾN QUY MÔ
KINH TẾ NGẦM Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP.HCM, Năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
**********
TRẦN VIỆT TÂN
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ
CHẤT LƯỢNG “VỐN CON NGƯỜI” ĐẾN QUY MÔ
KINH TẾ NGẦM Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính- Ngân hàng
Mã ngành: 8340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGYỄN HỒNG THẮNG
TP.HCM, Năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn “Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
và chất lượng “vốn con người” đến quy mô kinh tế ngầm ở Việt Nam” là công
trình nghiên cứu của riêng tôi và thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS.Nguyễn
Hồng Thắng.
Cơ sở lý luận tham khảo từ các tài liệu được nêu trong phần tài liệu tham khảo,
số liệu và kết quả được trình bày trong luận văn là trung thực, không sao chép bất cứ
công trình nghiên cứu nào trước đây.
TP.Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2019
Người thực hiện luận văn
TRẦN VIỆT TÂN
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
TÓM TẮT
ABSTRACT
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
1.1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................. 2
1.3. Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................... 3
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 3
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................... 3
1.4.2. Phạm vi về không gian ................................................................................. 3
1.4.3. Phạm vi về thời gian ..................................................................................... 3
1.5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 4
1.6. Ý nghĩa thực tiễn ................................................................................................... 5
1.7. Kết cấu luận văn ................................................................................................... 5
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ LƯỢC KHẢO NGHIÊN CỨU
TRƯỚC
2.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài .............................................................. 7
2.2. Khái niệm thể chế ................................................................................................. 9
2.3. Khái niệm kinh tế ngầm, phân loại, cách đo lường, nguyên nhân ................. 12
2.3.1. Khái niệm ................................................................................................... 12
2.3.2. Cách đo lường quy mô kinh tế ngầm ......................................................... 14
2.3.3. Phân loại kinh tế ngầm ............................................................................... 15
2.3.4. Nguyên nhân dẫn đến hoạt động kinh tế ngầm .......................................... 15
2.3.5. Mối quan hệ giữa kinh tế ngầm và kinh tế chính thức ............................... 18
2.4. Khái niệm “vốn con người” và đo lường chất lượng “vốn con người” ......... 19
2.5. Một số nghiên cứu thực nghiệm về tác động của FDI, chất lượng thể
chế và quy mô kinh tế ngầm ........................................................................................ 22
2.5.1. Mối quan hệ giữa FDI và chất lượng thể chế ............................................. 22
2.5.2. Mối quan hệ giữa FDI và quy mô kinh tế ngầm ........................................ 25
2.5.3. Mối quan hệ giữa chất lượng thể chế và quy mô kinh tế ngầm ................. 26
CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Quy trình nghiên cứu ......................................................................................... 30
3.2. Mô hình nghiên cứu ............................................................................................ 31
3.3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 34
3.3.1. Hồi quy theo phương pháp bình phương tối thiểu OLS và kiểm định
các giả thiết của mô hình OLS. .................................................................................. 35
3.3.2. Kiểm định tính dừng của các biến .............................................................. 35
3.3.3. Xác định độ trễ tối ưu của mô hình ............................................................ 36
3.3.4. Kiểm định đồng liên kết bằng phương pháp kiểm định đường bao ........... 36
3.3.5. Mô hình sai số hiệu chỉnh ECM ................................................................. 37
3.3.6. Kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa các biến số của mô hình ............... 38
3.3.7. Các kiểm định bổ sung ............................................................................... 38
3.3.8. Kiểm định tính ổn định của mô hình .......................................................... 40
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Tổng quan về tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ 1986-nay .............................. 41
4.2. Thực trạng thu hút, quản lý FDI của Việt Nam thời gian qua....................... 42
4.3. Thực trạng về thể chế và chất lượng thể chế của Việt Nam ........................... 49
4.4. Thực trạng quy mô kinh tế ngầm ở Việt Nam ................................................. 51
4.5. Thống kê mô tả ................................................................................................... 52
4.6. Kết quả thực nghiệm .......................................................................................... 52
4.6.1. Kiểm định tính dừng ................................................................................... 52
4.6.2. Kết quả ước lượng bằng phương pháp bình phương tối thiểu OLS ........... 53
4.6.3. Kiểm định các giả thuyết của mô hình OLS .............................................. 54
4.6.4. Xác định độ trễ tối ưu của mô hình ............................................................ 56
4.6.5. Kiểm định đồng liên kết bằng phương pháp kiểm định đường bao. .......... 57
4.6.6. Một số kiểm định bổ sung cho phương pháp ARDL ................................. 58
4.6.7. Kết quả tác động trong ngắn hạn ................................................................ 59
4.6.8. Kết quả tác động trong dài hạn ................................................................... 60
4.6.9. Kiểm đinh mối quan hệ nhân quả Granger giữa các biến số ...................... 61
4.7. Thảo luận kết quả ............................................................................................... 62
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
5.1. Kết luận và hàm ý chính sách rút ra từ nghiên cứu ........................................ 64
5.1.1. Kết luận ...................................................................................................... 64
5.1.2. Hàm ý chính sách ....................................................................................... 64
5.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng thể chế phi chính thức ....................... 65
5.3. Một số giải pháp cải thiện chất lượng thể chế chính thức .............................. 68
5.4. Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo ................................ 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT Từ viết tắt Giải thích
1 UNCTAD Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển
Đầu tư trực tiếp nước ngoài 2 FDI
Tổng thu nhập quốc gia 3 GDP
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế 4 OECD
5 IMF International Monetary Fund (Quỹ tiền tệ Quốc tế)
World bank (Ngân hàng Thế Giới) 6 WB
Việt Nam 7 VN
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Mối quan hệ giữa quy mô kinh tế ngầm và quy mô kinh tế chính thức...19
Bảng 3.1: Quy trình nghiên cứu ................................................................................ 30
Bảng 3.2: Diễn giải các biến trong mô hình .............................................................. 33
Bảng 4.1: Phân loại FDI vào Việt Nam theo quốc gia và vùng lãnh thổ .................. 43
Bảng 4.2: FDI vào Việt Nam phân theo địa phương ................................................ 44
Bảng 4.3: Các hình thức FDI tính đến tháng 11/2018 .............................................. 47
Bảng 4.4: FDI vào Việt Nam phân theo ngành nghề ................................................ 48
Bảng 4.5: Thống kê mô tả các biến trong mô hình ................................................... 52
Bảng 4.6: Kết quả kiểm định tính dừng .................................................................... 53
Bảng 4.7: Kết quả ước lượng bằng phương pháp OLS ............................................. 54
Bảng 4.8: Kết quả nhân tử phóng đại phương sai VIF .............................................. 54
Bảng 4.9: Kết quả kiểm định White .......................................................................... 55
Bảng 4.10: Kết quả kiểm định Breusch-Godfrey ...................................................... 55
Bảng 4.11: Kết quả kiểm định Jarque-Bera .............................................................. 56
Bảng 4.12: Kết quả xác định độ trễ tối ưu ................................................................ 57
Bảng 4.13: Kết quả kiểm định đồng liên kết ............................................................. 58
Bảng 4.14: Kết quả kiểm định bổ sung cho phương pháp ARDL ............................ 59
Bảng 4.15: Hệ số tác động trong ngắn hạn ............................................................... 60
Bảng 4.16: Kết quả tác động trong dài hạn ............................................................... 61
Bảng 4.17: Kiểm định nhân quả Granger giữa các biến ........................................... 62
DANH MỤC HÌNH
Hình 4.1: Diễn biến tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986-2015 ................. 42
Hình 4.2: Diễn biến của vốn FDI đăng ký và FDI thực hiện tại Việt Nam ............. 46
Hình 4.3: Diễn biến quy mô kinh tế ngầm của Việt Nam giai đoạn 1991-2015 ....... 51
Hình 4.4: Kiểm định tính ổn định của mô hình ARDL ............................................. 59
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Môi trường thể chế đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển và tăng trưởng
kinh tế của một quốc gia. So với các nước phát triển, chất lượng thể chế ở các nước
đang phát triển còn nhiều khiếm khuyết và hạn chế, đây là một trong những nguyên
nhân dẫn đến kinh tế ngầm ở các nước đang phát triển luôn tồn tại và tồn tại ở quy mô
khá lớn. Ở Việt Nam vì nhiều lý do khác nhau mà kinh tế ngầm vẫn tồn tại, và tác động
của thể chế phi chính thức (đo lường bằng chất lượng “vốn con người”) là hướng
nghiên cứu còn khá ít các nghiên cứu trước đây đề cập đến.
Tác giả kết hợp sử dụng cả phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp
nghiên cứu định lượng: sử dụng phương pháp bình phương tối thiểu OLS, phương pháp
tự hồi quy phân phối trễ ARDL, phương pháp kiểm định nhân quả Granger để ước
lượng kết quả hồi quy và kiểm chứng mô hình, dựa trên những số liệu được các tổ chức
có uy tín công bố để làm rõ chiều tác động và mức độ tác động của đầu tư trực tiếp
nước ngoài, của chất lượng thể chế phi chính thức đến quy mô kinh tế ngầm ở Việt Nam
cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Từ kết quả nghiên cứu đề xuất những khuyến nghị với các cơ quan quản lý trong
việc hoạch định chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, các biện pháp hạn chế
hoạt động kinh tế ngầm để thúc đẩy khu vực kinh tế chính thức của Việt Nam phát triển
theo hướng bền vững.
Từ khóa: Kinh tế ngầm, Thể chế phi chính thức, chất lượng vốn con người, FDI.
Abstract
The institutional environment plays an important role in a country's economic
growth and development. Compared with developed countries, the institutional
quality in developing countries has many shortcomings and limitations, this is one
of the reasons for the shadow economy in developing countries to exist and exist in
fairly large scale. In Vietnam for many reasons, the shadow economy still exists,
and the impact of the informal economy (measured by the quality of "human
capital") is that the research direction is quite few previous studies mention.
The author combines using both qualitative and quantitative research methods:
using OLS least squares method, ARDL delay distribution regression method,
Granger causality test method to estimate amount of regression results and model
verification, based on data published by reputable organizations to clarify the
impact and degree of impact of foreign direct investment, of non-institutional
quality Officially to the shadow economy scale in Vietnam both in short and
longterm.
Based on the results of the study, recommendations are made to the authorities in
the making of foreign direct investment policies, measures to restrict shadow
economy activities to promote the formal economic sector. Vietnam's
Keyword: Shadow economy, informal economy, quality of human capital, FDI.
development towards sustainability.
1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Môi trường thể chế đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển và tăng trưởng
kinh tế của một quốc gia. Sự khác biệt về môi trường thể chế là nguyên nhân căn
bản dẫn đến khác biệt về tăng trưởng kinh tế, lâu dài hình thành nên các quốc gia
phát triển, đang phát triển và kém phát triển (Acemoglu & Robinson, 2008). So với
các nước phát triển, chất lượng thể chế ở các nước đang phát triển còn nhiều khiếm
khuyết và hạn chế, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến kinh tế ngầm ở các
nước đang phát triển luôn tồn tại và tồn tại ở quy mô khá lớn. Kinh tế ngầm phát
triển liệu có kìm hãm kinh tế chính thức? Theo Alm & Embaye (2013) sự gia tăng
quy mô của nền kinh tế ngầm sẽ bóp méo việc phân bổ nguồn lực, làm thay đổi
phân phối thu nhập và giảm nguồn thu thuế cho Chính phủ. Theo số liệu của Quỹ
tiền tệ thế giới IMF năm 2015 thì kinh tế ngầm vẫn tồn tại ở hầu hết các quốc gia
trên thế giới. Ngoài yếu tố chất lượng thể chế, Schneider và cộng sự (2010),
Schneider (2012) còn cho rằng không thể bỏ qua sự đa dạng của các thành phần
kinh tế (gồm doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài)
cũng như chất lượng “vốn con người” khi nghiên cứu sự phát triển của khu vực
kinh tế ngầm. Bởi vì, doanh nghiệp là nơi diễn ra các hoạt động kinh tế (bao gồm cả
kinh tế ngầm), còn chất lượng “vốn con người” sẽ quyết định đến cơ hội và động cơ
của người lao động khi tham gia vào thị trường lao động.
Khác với doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài
có ít động lực hơn để gắn bó lâu dài với quốc gia họ đầu tư. Sự khác biệt về tập
quán kinh doanh, ý thức tôn trọng pháp luật, kinh nghiệm quản lý…của các doanh
nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài vừa là cơ hội vừa thách thức đối với các nước
tiếp nhận đầu tư. Xét ở khía cạnh tích cực, thông qua nhiều nghiên cứu thực nghiệm
(Nguyễn Thị Tuệ Anh và cộng sự, 2006; Lê Thanh Thúy, 2007; Lê Việt Anh, 2009;
Phạm Đình Long và cộng sự, 2018) đã chỉ ra đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
(Foreign Direct Investment) đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế của Việt
2
Nam như: Tạo việc làm, cải thiện thu nhập và lan tỏa công nghệ… Theo số liệu của
Tổng cục thống kê thì ngoại trừ hai năm 1996 và 2008 có tính chất đột biến thì nhìn
chung Việt Nam vẫn đang điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài với số
lượng vốn FDI đăng ký và FDI thực hiện luôn nằm trong xu hướng năm sau cao
hơn năm trước. Xét ở khía cạnh tiêu cực, khu vực FDI cũng đặt ra nhiều thách thức
trong quản lý và mục tiêu phát triển kinh tế của Việt Nam như: Gây ra tình trạng
cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu. Đứng trên góc độ tiếp
cận của kinh tế ngầm thì việc chuyển giá, khai báo xuất xứ hàng hóa, gia công giữa
công ty mẹ và công ty con… của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài nếu
khai báo không trung thực sẽ gây thất thu thuế rất lớn cho ngân sách, tạo ra lợi thế
cạnh tranh vượt trội cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài so với doanh
nghiệp trong nước. Lâu dần sẽ làm hạn chế khả năng phát triển của doanh nghiệp
trong nước, gián tiếp làm giảm quy mô của khu vực kinh tế chính thức.
Theo North (1990) thể chế được chia thành 2 dạng chính là thể chế chính
thức (đại diện cho khả năng lập pháp, hành pháp của cơ quan quản lý Nhà nước) và
thể chế phi chính thức (văn hóa, tập quán, ý thức dân tộc, chất lượng “vốn con
người”). Mối quan hệ giữa chất lượng thể chế, đầu tư trực tiếp nước ngoài và quy
mô kinh tế ngầm là đề tài đã thu hút được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới
(Larrain và Tavares, 2004; Kwok và Tadesse, 2006; Dang, 2013; Dreher &
Schneider, 2010; Singh và cộng sự, 2012; Razmi và cộng sự, 2013, và Hassan &
Schneider, 2016) nhưng theo tìm hiểu của tác giả thì còn rất ít ở Việt Nam. Các
nghiên cứu trước thường nhấn mạnh vào tác động/vai trò của thể chế chính thức đối
với kinh tế ngầm. Tuy nhiên thực tế tại các quốc gia đang phát triển cho thấy nếu
chỉ hạn chế kinh tế ngầm bằng thể chế chính thức sẽ không hiệu quả (Johnson và
cộng sự, 1998; của Hassan & Schneider, 2016) do chất lượng “vốn con người” của
người dân chưa được nâng lên thì họ vẫn phải tham gia vào kinh tế ngầm, lý do là
cơ hội để tham gia vào khu vực kinh tế chính thức bị hạn chế. Thậm chí ngay cả khi
chất lượng “vốn con người” được cải thiện, vẫn có khả năng họ tham gia vào kinh
tế ngầm vì lợi ích của khu vực kinh tế ngầm thường lớn hơn khu vực chính thức,
3
thủ tục tham gia đơn giản. Acemoglu & Robinson (2008) cho rằng, hạn chế kinh tế
ngầm bằng cả thể chế chính thức và thể chế phi chính thức là lựa chọn đúng đắn và
mang lại hiệu quả lâu dài.
Ở Việt Nam vì nhiều lý do khác nhau mà kinh tế ngầm vẫn tồn tại, và tác
động của FDI cùng chất lượng “vốn con người” là hướng nghiên cứu còn ít các
nghiên cứu trước đây đề cập đến. Chính vì những lý do trên và yêu cầu của thực tiễn
phải kiểm soát tốt khu vực kinh tế ngầm mà tác giả lựa chọn đề tài “Tác động của
đầu tư trực tiếp nước ngoài và chất lượng “vốn con người” đến quy mô kinh tế
ngầm ở Việt Nam” làm đề tài luận văn của mình.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài được xác định như sau:
(i) Xác định được chiều tác động và mức độ tác động của đầu tư trực tiếp
nước ngoài, của chất lượng “vốn con người” đến quy mô kinh tế ngầm
ở Việt Nam cả trong ngắn hạn và dài hạn.
(ii) Dựa trên kết quả nghiên cứu đề xuất những khuyến nghị với các cơ
quan quản lý trong việc hoạch định chính sách thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài, các biện pháp hạn chế hoạt động kinh tế ngầm để thúc đẩy
khu vực kinh tế chính thức của Việt Nam phát triển theo hướng bền
vững.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào trả lời một số câu hỏi nghiên cứu sau:
(i) Đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động đến quy mô kinh tế ngầm ở
Việt Nam hay không? Nếu có, thì tác động theo hướng tích cực hay tiêu
cực?
(ii) Chất lượng “vốn con người” có tác động đến quy mô kinh tế ngầm ở
Việt Nam hay không? Nếu có, thì tác động theo hướng tích cực hay tiêu
cực?
4
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước
ngoài, chất lượng “vốn con người” và quy mô kinh tế ngầm của Việt Nam.
1.4.2. Phạm vi về không gian
Nghiên cứu này được thực hiện cho dữ liệu kinh tế của Việt Nam, cho nên
các lý giải của tác giả về kết quả nghiên cứu cũng lấy từ thực tiễn hoạt động sản
xuất kinh doanh tại Việt Nam.
1.4.3. Phạm vi về thời gian
Các dữ liệu phản ánh đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn con người và quy mô
kinh tế ngầm được thu thập từ năm 1991 đến năm 2015, vì năm 1991 các số liệu về
quy mô kinh tế ngầm mới được công bố lần đầu tiên. Những dữ liệu sau năm 2015
cần có thêm thời gian để thẩm định nên chưa được công bố chính thức.
Nguồn dữ liệu: Ngân hàng thế giới WB, Quỹ tiền tệ thế giới IMF, Diễn đàn
của Liên Hiệp Quốc về thương mại và phát triển UNCTAD, Cục dự trữ liên bang
Mỹ FRED.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Trước hết, tác giả lược khảo các quan điểm về kinh tế ngầm, phân loại các
hoạt động kinh tế ngầm, định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài, thể chế và chất
lượng thể chế … Sau đó là lược khảo lý thuyết về mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp
nước ngoài, chất lượng thể chế và quy mô kinh tế ngầm để xây dựng được khung lý
thuyết phân tích. Từ đó chọn ra mô hình nghiên cứu, chọn biến đại diện cho các yếu
tố để phân tích tác động của chúng đến quy mô kinh tế ngầm của Việt Nam. Sau đó,
thu thập dữ liệu từ các nguồn tin cậy như Ngân hàng thế giới WB (World Bank),
Diễn đàn Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển UNCTAD (United Nations
Conference on Trade and Development), Quỹ tiền tệ thế giới IMF (International
Monetary Fund), Cục dữ trữ liên bang Mỹ FRED (Federal Reserve Bank of
5
St.Louis) tác giả tiến hành chạy hồi quy và cuối cùng là kiểm chứng tính hợp lý của
mô hình.
Với tập dữ liệu thu về, sau khi hoàn tất việc gạn lọc, kiểm tra, tổng hợp, mã
hóa và làm sạch, sẽ tiến hành xử lý và phân tích số liệu bằng phần mềm Eviews. Để
thực hiện luận văn này tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
+ Phương pháp nghiên cứu định tính: Để tổng kết lý thuyết nền về đầu tư trực
tiếp nước ngoài, tăng trưởng kinh tế và lược khảo các nghiên cứu trước về mối quan
hệ nhân quả giữa FDI, chất lượng “vốn con người” và quy mô kinh tế ngầm của các
quốc gia/khu vực trên thế giới.
+ Phương pháp nghiên cứu định lượng: Đầu tiên, tác giả sẽ ước lượng bằng
phương pháp bình phương tối thiểu OLS để cung cấp kết quả hồi quy sơ bộ và kiểm
định các giả thiết của mô hình OLS theo các tiêu chí của Gauss & Markov. Tiếp
theo tác giả sử dụng phương pháp tự hồi quy phân phối trễ ARDL (Autoregressive
Distributed Lag) do Pesaran và cộng sự đề xuất năm 2001, phương pháp kiểm định
nhân quả Granger để ước lượng kết quả hồi quy và kiểm chứng mô hình, dựa trên
những số liệu được các tổ chức có uy tín công bố. Tác giả sẽ so sánh kết quả của 2
phương pháp ước lượng và lý giải sự hợp lý của phương pháp ước lượng tự hồi quy
phân phối trễ ARDL.
1.6. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu về hoạt động kinh tế ngầm và các nguyên nhân dẫn đến hoạt
động kinh tế ngầm còn rất ít ở Việt Nam. Tác giả sử dụng phương pháp tự hồi quy
phân phối trễ ARDL để phân tích tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài, của chất
lượng “vốn con người” đến quy mô kinh tế ngầm ở Việt Nam cả trong ngắn hạn và
dài hạn, vì vậy nghiên cứu này sẽ có ý nghĩa cả về lý luận lẫn thực tiễn:
(i) Bổ sung một bằng chứng thực nghiệm về sự tồn tại của kinh tế ngầm
tại Việt Nam và mối quan hệ của khu vực kinh tế ngầm với khu vực kinh tế chính
thức.
(ii) Xác định và lượng hóa mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài,
chất lượng “vốn con người” và quy mô kinh tế ngầm tại Việt Nam.
6
(iii) Gợi ý một số hàm ý chính sách về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
và các biện pháp để quản lý và hạn chế các hoạt động kinh tế ngầm tại Việt Nam.
1.7. Kết cấu luận văn
Cấu trúc luận văn gồm 5 chương, không tính phụ lục và tài liệu tham khảo
Chương 1: Tổng quan về nghiên cứu
Chương 1 trình bày tổng quan chung về nội dung, mục đích của nghiên cứu,
bao gồm: đặt vấn đề nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, phạm vi
đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, ý nghĩa của nghiên cứu và kết cấu
của nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
Chương 2 trình bày cơ sở lý thuyết liên quan đến các khái niệm về kinh tế
ngầm, đầu tư trực tiếp nước ngoài, thể chế, chất lượng “vốn con người” và cách đo
lường. Tác giả sẽ lược khảo các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về mối quan
hệ nhân quả giữa FDI, chất lượng “vốn con người” và quy mô kinh tế ngầm.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và nguồn dữ liệu
Chương 3 tác giả giới thiệu về khung phân tích, nguồn dữ liệu và quy trình
nghiên cứu được tác giả thực hiện trong quá trình nghiên cứu. Qua đó sẽ chỉ ra cách
mà tác giả xây dựng mô hình, kỳ vọng hướng tác động, lập luận sự hợp lý của các
biến đưa vào mô hình, bao gồm: Thiết kế nghiên cứu, khung phân tích, nguồn và
cách thu thập dữ liệu, các công cụ nghiên cứu cơ bản, các biến được sử dụng trong
nghiên cứu…
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 4 tác giả trình bày kết quả thống kê mô tả mối quan hệ giữa biến phụ
thuộc với từng biến độc lập, ước lượng tác động của FDI và chất lượng “vốn con
người” đến quy mô kinh tế ngầm của Việt Nam cả trong ngắn hạn và dài hạn. Giải
thích ý nghĩa thực tiễn rút ra từ kết quả của nghiên cứu.
Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách
Chương 5 tác giả trình bày các kết luận được rút ra từ nghiên cứu và khuyến
nghị/hàm ý một số chính sách để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, các biện pháp
7
quản lý và hạn chế hoạt động kinh tế ngầm, đồng thời chỉ ra những hạn chế của
nghiên cứu và gợi ý hướng nghiên cứu tiếp theo.
8
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ LƯỢC KHẢO NGHIÊN CỨU
TRƯỚC
2.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài và cách đo lường
a. Khái niệm
Theo tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), đầu tư trực tiếp nước
ngoài phản ánh những lợi ích khách quan lâu dài mà một thực thể kinh tế tại một
nước (nhà đầu tư) đạt được thông qua một cơ sở kinh tế tại một nền kinh tế khác.
Lợi ích lâu dài thể hiện ở chỗ sự tồn tại một mối quan hệ dài hạn giữa nhà đầu tư
với doanh nghiệp được đầu tư. Nhà đầu tư có được ảnh hưởng quan trọng và hiệu
quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó. Đầu tư trực tiếp bao gồm việc thực hiện
những giao dịch từ đầu và tất cả những giao dịch vốn tiếp theo giữa hai thực thể và
các doanh nghiệp được liên kết một cách chặt chẽ. Như vậy, FDI là đầu tư vốn nước
ngoài có gắn liền với việc quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh đối với dự án,
doanh nghiệp tiếp nhận phần vốn đó và có thời hạn lâu dài.
Theo Uỷ ban Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), đầu
tư trực tiếp nước ngoài là một khoản đầu tư bao gồm mối quan hệ trong dài hạn,
phản ánh lợi ích và quyền kiểm soát lâu dài của một thực thể thường trú ở một nền
kinh tế (nhà đầu tư nước ngoài hay công ty mẹ nước ngoài) trong một doanh nghiệp
thường trú ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư nước ngoài (doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài trực tiếp, doanh nghiệp liên doanh hoặc chi nhánh nước
ngoài).
Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc đầu tư
vốn được thực hiện ở các doanh nghiệp hoạt động ở nước ngoài nhằm thu về những
lợi ích lâu dài cho nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là giành được tiếng nói có
hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó. Đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi
nhà đầu tư nước ngoài mở rộng một mối quan hệ lâu dài với một doanh nghiệp của
nước tiếp nhận đầu tư và có cổ phần trong doanh nghiệp đủ để duy trì một mức ảnh
hưởng quan trọng trong việc quản lý doanh nghiệp này.
9
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), đầu tư trực tiếp nước ngoài là dòng đầu tư
vốn chủ sở hữu đầu tư trực tiếp trong nền kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài bao
gồm: vốn cổ phần, lợi nhuận giữ lại và nguồn vốn khác. Đầu tư trực tiếp là một loại
đầu tư xuyên biên giới có liên quan đến một chủ thể trong một nền kinh tế có mức
độ kiểm soát hay ảnh hưởng đáng kể đến quản lý của một doanh nghiệp ở một nền
kinh tế khác. Ví dụ, đầu tư ròng (thuần) vào một quốc gia để nhà đầu tư có được
quyền quản lý lâu dài (nếu nắm được ít nhất 10% cổ phần thường) trong một doanh
nghiệp hoạt động trong một nền kinh tế khác (đối với chủ đầu tư).
Theo Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ban hành vào ngày 26/11/2014: Luật này
không nêu khái niệm Đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng trong Điều 3 có đề cập đến
Đầu tư kinh doanh và nhà Đầu tư nước ngoài như sau: Đầu tư kinh doanh “là việc
nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành
lập tổ chức kinh tế; Đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh
tế; Đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án Đầu tư” và Nhà Đầu tư
nước ngoài “là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật
nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam”.
Từ những liệt kê trên, có thể nhận thấy rằng định nghĩa về dòng vốn đầu tư
nước ngoài bao gồm 2 đặc điểm sau: (1) Đầu tư từ quốc gia này đến quốc gia khác,
(2) Chủ thể của quốc gia đầu tư có ảnh hưởng lớn đến chủ thể của quốc gia được
đầu tư. Chính vì vậy, các định nghĩa trên hầu như không có mâu thuẫn. Vì vậy, để
đồng nhất trong diễn đạt, luận văn sẽ sử dụng định nghĩa của UNCTAD, bởi nó có
nhiều sự tương đồng với những điều Luật Đầu tư được nêu ra. Đồng thời, trong hầu
hết tất cả các nghiên cứu trước đây, cả trong và ngoài nước, thì UNCTAD luôn là
nguồn tài liệu tham khảo và số liệu thống kê để xem xét. Chính vì thế, định nghĩa
của UNCTAD sẽ tạo ra sự thống nhất với các chuỗi nghiên cứu trước đây về đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
b. Cách đo lường
Trong các nghiên cứu thực nghiệm, đầu tư trực tiếp nước ngoài được đo
lường theo hai cách:
10
Cách 1: Tính theo tổng dòng vốn FDI mà một quốc gia thu hút được trong
một thời gian (năm, quý hoặc tháng). Tổng dòng vốn FDI có thể đo lường theo FDI
đăng ký hoặc FDI thực hiện.
Cách 2: Tính theo tổng vốn FDI bình quân đầu người.
Mỗi cách tính đều có ưu điểm và nhược điểm riêng, chủ yếu phụ thuộc vào
mục đích của người nghiên cứu.
2.2. Khái niệm thể chế và phân loại thể chế
a. Khái niệm
Lý luận về thể chế nói chung và thể chế kinh tế nói riêng đã được nghiên cứu
từ đầu thế kỷ 20 và hiện nay vẫn đang được hoàn thiện. Do đó, vẫn tồn tại những
cách hiểu khác nhau về thể chế.
Cách 1: Thể chế là tập hợp những quy tắc chính thức, các quy định không
chính thức hay những nhận thức chung có tác động kìm hãm, định hướng hoặc chi
phối sự tương tác của các cá nhân/tổ chức với nhau trong những lĩnh vực nhất định.
Các thể chế được tạo ra và đảm bảo thực hiện bởi cả nhà nước và các tác nhân phi
nhà nước (như các tổ chức nghề nghiệp hoặc các cơ quan kiểm định).
Cách 2: Thể chế là một cơ quan, tổ chức công với các cơ cấu và chức năng
được định sẵn một cách chính thức nhằm điều chỉnh các lĩnh vực hoạt động nhất
định áp dụng chung cho toàn bộ dân cư. Đối với quốc gia, các thể chế chính trị bao
gồm Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan tư pháp. Mối quan hệ giữa các thể chế
này được quy định bởi Hiến pháp.
Theo Thorstein Veblen (1914) “Thể chế là tính qui chuẩn của hành vi hoặc
các quy tắc xác định hành vi trong những tình huống cụ thể, được các thành viên
của một nhóm xã hội chấp nhận về cơ bản, và sự tuân thủ các quy tắc đó là do bản
thân tự kiểm soát hoặc do quyền lực bên ngoài khống chế”. Từ điển Việt Nam
(1992) cũng đưa ra định nghĩa “Thể chế là những quy định, luật lệ của một chế độ
xã hội buộc mọi người phải tuân theo”. Tuy nhiên đến nay định nghĩa của North
(1990) về thể chế vẫn là định nghĩa được nhiều nhà quản lý và nhà nghiên cứu sử
dụng nhất. North định nghĩa “Thể chế là các luật lệ của trò chơi trong một xã hội,
11
hoặc chuẩn mực hơn, là các ràng buộc do con người đặt ra nhằm định hình sự
tương tác giữa con người với nhau”.
Như vậy, dù có những khác biệt nhất định, song nhìn chung các định nghĩa
về thể chế đều đề cập đến ba khía cạnh quan trọng nhất đó là:
(i) “Luật chơi”: Thể hiện dưới góc độ chính thức (được đưa vào các văn
bản quy phạm pháp luật), hay phi chính thức (thể hiện trong văn hóa hay
phong tục tập quán).
(ii) “Cách chơi”: Biểu hiện cho cơ chế hay chế tài để điều chỉnh các hành
vi giữa con người với con người.
(iii) “Người chơi”: Là chủ thể gây ra hành vi/sự tương tác (cá nhân, tổ
chức) và cũng là đối tượng cần phải điều chỉnh.
b. Phân loại thể chế
North (1990) chia thể chế thành hai dạng:
Thể chế chính thức (Formal Institutions): Thể chế chính thức là những ràng
buộc giữa con người với con người trong xã hội sẽ được nâng lên thành các
văn bản pháp luật. Tức là bắt buộc con người “phải thực hiện” hoặc “không
được thực hiện” một số hành vi nhất định. Thể chế chính thức được biểu hiện
trong thực tế thông qua: Hiệu quả điều hành của các cơ quan quản lý nhà
nước, kiểm soát tham nhũng, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho người
dân, số lượng và chất lượng của các văn bản pháp luật…
Thể chế phi chính thức (Informal Institutions): là hệ thống bền vững các quan
niệm chung và sự hiểu biết mang tính tập thể nhưng không được hệ thống
hóa thành những quy tắc và chuẩn mực, qua đó tạo nên sự gắn kết và phối
hợp giữa các cá nhân trong một xã hội và phản ánh cấu trúc thực sự của xã
hội đó (Scott, 2005). Những hành vi không bắt buộc phải thực hiện giữa con
người với con người trong xã hội sẽ được điều chỉnh bằng thể chế phi chính
thức. Thay bằng quy định trong các văn bản pháp luật, giờ đây các hành vi
của con người với nhau sẽ được điều chỉnh thông qua các yếu tố như: Truyền
12
thống dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo, tinh thần khởi nghiệp, thái độ lạc quan
với tương lai...và đặc biệt là chất lượng “vốn con người”.
2.3. Khái niệm “vốn con người” và cách đo lường chất lượng “vốn con
người”
Đến hiện nay, các nhà kinh tế đều nhìn nhận “vốn con người” như một dạng
nguồn lực phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, nhưng cách diễn đạt và cách đo lường
“vốn con người” vẫn khá phong phú. Theo trường phái kinh tế học cổ điển thì sự
gia tăng trong chất lượng nguồn nhân lực là một trong 4 nguồn vốn tạo ra tăng
trưởng kinh tế bên cạnh vốn tài nguyên thiên nhiên, vốn tư bản và vốn tri thức công
nghệ. Khái niệm “vốn con người” được đề cập lần đầu tiên bởi Petty (1690) nhưng
chỉ trở nên phổ biến vào những năm 1960 với các nghiên cứu của Mincer (1958),
Schultz (1961) và Machlup (1962). Theo đó, “vốn con người” được nhìn nhận dưới
góc độ của từng cá nhân và được xem như một loại tài sản. Nếu được đưa vào trong
quá trình sản xuất thì Schultz (1961) còn cho rằng năng lực sản xuất của con người
lớn hơn rất nhiều so với tất cả các hình thức của cải khác kết hợp lại. Gần đây,
Sheffin (2003) định nghĩa nguồn “vốn con người” là mức độ kỹ năng và kiến thức
thể hiện trong khả năng lao động để tạo ra giá trị kinh tế. Rodiguez & Loomis
(2007) mở rộng hơn khi cho rằng nguồn “vốn con người” là kiến thức, kỹ năng,
năng lực và đặc điểm của cá nhân tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra phúc lợi cá
nhân, xã hội và tổng thể nền kinh tế.Trong luận văn này, khái niệm “vốn con người”
được tác giả lấy từ định nghĩa của Mankiw (2002) theo đó “Vốn con người là toàn
bộ kiến thức và kỹ năng mà một cá nhân có thể thu được, sử dụng được thông qua
giáo dục đào tạo và tự tích lũy kinh nghiệm”.
Chất lượng “vốn con người” được các nhà nghiên cứu thực nghiệm tiếp cận
dựa trên 2 hướng: (i) Biểu hiện thông qua số lượng các kiến thức và kỹ năng mà
một cá nhân có thể tiếp thu được; (ii) Thông qua các giá trị mà lượng kiến thức hay
kỹ năng đó tạo ra trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Theo Woessmann
(2003), Le và cộng sự (2005) có 4 cách tiếp cận chính để đo lường chất lượng “vốn
con người” gồm:
13
Tiếp cận dựa trên chi phí: Tức là “vốn con người” được tiếp cận thông qua
tổng chi phí đầu tư phải bỏ ra, như chi phí cho việc học tập, chi phí cho bảo
vệ sức khỏe …
Tiếp cận dựa trên thu nhập: Tức là thu nhập mà một cá nhân nhận lại được từ
thị trường lao động là thước đo cho chính chất lượng “vốn con người” mà cá
nhân đó có.
Tiếp cận dựa trên trình độ học vấn: Phương pháp tiếp cận dựa trên chi phí và
dựa trên thu nhập thì có cơ sở lý thuyết về kinh tế vững chắc, nhưng rất khó
để thống kê được trong thực tế. Do vậy, để đơn giản hơn thì Romer (1990)
hay Barro (2001) sử dụng luôn các thống kê về tỉ lệ người lớn biết độc biết
viết trên tổng dân số, số năm đi học trung bình, tỉ lệ dân số hoàn thành các
cấp học như trung học, cao đẳng, đại học v.v.. làm đại diện luôn cho chất
lượng “vốn con người”.
Tiếp cận sử dụng các chỉ số và điểm chuẩn: Để thống nhất cách đo lường thì
gần đây chương trình phát triển của Liên hiệp quốc UNDP đã nghiên cứu và
xây dựng nên bộ chỉ số phát triển con người HDI (Human Development
Index) dựa trên 3 trụ cột chính là: Chỉ số giáo dục, chỉ số tuổi thọ và chỉ số
thu nhập để minh họa cho chất lượng “vốn con người”. Thang điểm từ 0 cho
đến 100 điểm, quốc gia nào có điểm số càng cao thì được hiểu là chất lượng
“vốn con người” ở quốc gia đó càng tốt.
2.4. Khái niệm kinh tế ngầm, phân loại, cách đo lường, nguyên nhân
2.4.1. Khái niệm
Hoạt động kinh tế ngầm tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, nên tùy
thuộc vào đặc điểm của mỗi quốc gia đặc biệt là phụ thuộc vào thể chế và chất
lượng thể chế mà tên gọi và cách phân loại của các hoạt động này không đồng nhất
giữa các quốc gia trên thế giới. Thuật ngữ “kinh tế ngầm” (shadow economy) còn
được gọi với nhiều tên gọi thay thế khác như kinh tế phi chính thức (informal
economy), kinh tế không khai báo (undeclared economy), kinh tế bất hợp pháp
(irregular economy), kinh tế bóng/ẩn (hidden economy). Hiện tại, mặc dù nhiều nhà
14
nghiên cứu và cơ quan quản lý đã đưa ra một số định nghĩa tuy nhiên chưa có định
nghĩa nào được thống nhất áp dụng cho tất cả các quốc gia, nên cách đo lường và
phân loại kinh tế ngầm chỉ mang tính chất tương đối, và chỉ có giá trị trong phạm vi
của từng quốc gia.
Theo phân loại của Tổ chức Lao động quốc tế ILO (2003) thì khu vực kinh tế
phi chính thức bao gồm một nhóm các doanh nghiệp/hộ gia đình có hoạt động sản
xuất ra của cải vật chất nhưng không đăng ký tư cách pháp nhân, sử dụng lao động
trong gia đình, quy mô nhỏ, chủ yếu là tự sản xuất tự tiêu dùng. Mirus & Smith
(1997) cho rằng hoạt động kinh tế ngầm bao gồm các hoạt động tạo ra các khoản
thu nhập từ việc mua bán, sản xuất hàng hóa/dịch vụ hợp pháp nhưng không báo
cáo; và các khoản thu nhập không thể kiểm soát từ việc mua bán, sản xuất các hàng
hóa/dịch vụ phi pháp (ma túy, mại dâm, cờ bạc, buôn bán đồ đánh cắp...) kể cả có
phát sinh giao dịch bằng tiền mặt hay không dùng tiền mặt.
Theo Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế OECD (Organization for
Economic Cooperation and Development) (2002) thì hoạt động kinh tế ngầm bao
gồm tất cả các hoạt động về nguyên tắc được tính vào GDP nhưng thực tế lại không
được tính do không được khai báo hoặc cố tình giấu giếm. Đó là các hoạt động sản
xuất hàng hóa dịch vụ hợp pháp nhưng không khai báo, sản xuất hàng hóa dịch vụ
phi pháp và thu nhập vô hình. Alm và cộng sự (2004), Greenidge và cộng sự (2009)
đưa ra một định nghĩa rộng hơn, theo đó bất kỳ hoạt động kinh tế nào không được
ghi nhận trong các số liệu thống kê của tài khoản thu nhập quốc gia và GDP thì
được xem là một thành phần của khu vực kinh tế ngầm.
Để thống nhất, trong luận văn này tác giả sử dụng định nghĩa kinh tế ngầm
của Schneider (2005) được Quỹ tiền tệ thế giới IMF khuyến khích sử dụng, theo đó
“Kinh tế ngầm bao gồm tất cả các hoạt động kinh tế bị pháp luật của quốc gia đó
coi là phi pháp; các hoạt động kinh tế hợp pháp nhưng không được báo cáo, hoặc
được che dấu khỏi sự quản lý của các cơ quan quản lý Nhà nước nhằm: (i) trốn
tránh các nghĩa vụ thuế; (ii) trốn tránh các khoản đóng góp an sinh xã hội, tránh
15
các quy định của pháp luật lao động như lương tối thiểu, giờ làm tối đa, tiêu chuẩn
an toàn lao động…; (iii) tránh các rắc rối liên quan đến thủ tục hành chính”.
2.4.2. Cách đo lường quy mô kinh tế ngầm
Do định nghĩa kinh tế ngầm chưa thống nhất, nên cách đo lường cũng chưa
đồng thuận. Tuy nhiên tổng kết các nghiên cứu thực nghiệm về kinh tế ngầm thì có
ba phương pháp đo lường quy mô kinh tế ngầm được sử dụng rộng rãi, đó là: (i)
Phương pháp theo mô hình; (ii) phương pháp trực tiếp; (iii) phương pháp gián tiếp.
Phương pháp theo mô hình: Phương pháp này dựa trên mô hình DYMIMIC
(Dynamic Multiple-Indicators Multiple-Causes) bao gồm hai mô hình: Mô
hình đo lường được sử dụng nhằm liên kết các chỉ số quan sát được với các
chỉ số không quan sát được; và mô hình cấu trúc được sử dụng nhằm xác
định mối quan hệ nhân quả giữa các chỉ số không quan sát được. Trong
trường hợp này, quy mô kinh tế ngầm là biến không quan sát được, và được
giả định bị ảnh hưởng bởi tập hợp các chỉ số có thể quan sát được.
Phương pháp trực tiếp: Phương pháp này dựa trên cách tiếp cận vi mô
thông qua các cuộc điều tra, bao gồm: (i) Phương pháp điều tra khảo sát; và
(ii) Phương pháp kiểm toán thuế. Ưu điểm chính của phương pháp này là thu
được những thông tin chi tiết về cấu trúc nền kinh tế ngầm. Tuy nhiên, độ
chính xác và kết quả đo lường thường phụ thuộc rất nhiều vào cách thức xây
dựng bảng câu hỏi và sự sẵn lòng hợp tác của đối tượng được điều tra. Hầu
hết các đối tượng được điều tra thường giấu thông tin. Bất lợi của phương
pháp này là chỉ cung cấp được các ước tính ngắn hạn, không thể cung cấp sự
đo lường quy mô khu vực kinh tế ngầm trong một khoảng thời gian dài.
Phương pháp gián tiếp: Phương pháp này dựa trên cách tiếp cận vĩ mô, sử
dụng các chỉ tiêu kinh tế và các chỉ tiêu khác để trích xuất thông tin thể hiện
xu hướng quy mô nền kinh tế ngầm. Trong cách tiếp cận này, có 5 phương
pháp (cách thức) để ước lượng quy mô kinh tế ngầm, bao gồm: (1) Chênh
lệch giữa thống kê tài khoản quốc gia và chi tiêu quốc gia; (2) Chênh lệch
16
giữa lực lượng lao động chính thức và thực tế; (3) Phương pháp tiêu thụ điện
năng; (4) Phương pháp giao dịch; và (5) Phương pháp cầu tiền.
2.4.3. Phân loại kinh tế ngầm
Phân loại hoạt động kinh tế ngầm là cách gián tiếp để định nghĩa kinh tế
ngầm, tuy nhiên việc phân loại các hoạt động kinh tế ngầm cũng có sự khác nhau
giữa các nhà nghiên cứu. Feige (1990), Rolf & Roger (1997) chia kinh tế ngầm
thành hai loại: (i) Thứ nhất, là các hoạt động không vi phạm pháp luật; (ii) Thứ hai,
là các hoạt động vi phạm pháp luật.
Những hoạt động bất hợp pháp như mua bán hàng hóa đánh cắp, sản xuất và
mua bán ma túy, mại dâm, cờ bạc, buôn lậu, gian lận…
Những hoạt động hợp pháp như trốn thuế (không báo cáo thu nhập các khoản
thu nhập riêng liên quan đến các công việc hoặc hàng hóa/dịch vụ hợp
pháp…), tránh thuế (giảm giá cho nhân viên, hoặc tăng các phúc lợi xã hội
cho nhân viên quá mức quy định…)
OECD (2002), Anno (2003) đều sử dụng khái niệm “nền kinh tế không quan
sát được” (Non-observed economy) để phân loại kinh tế ngầm. Theo đó, kinh tế
ngầm được phân thành ba lĩnh vực:
Sản xuất ngầm vì lý do thống kê và kinh tế: Vì lý do thống kê đó là các hoạt
động sản xuất ở quy mô hộ gia đình, sử dụng quan hệ họ hàng hoặc các mối
quan hệ cá nhân gần gũi. Vì lý do kinh tế là các hoạt động kinh tế báo cáo số
liệu dưới mức thực tế.
Sản xuất phi chính thức: là các hoạt động sản xuất hoặc kinh doanh những
sản phẩm/dịch vụ hợp pháp nhưng hoàn toàn không báo cáo và không đăng
ký.
Sản xuất bất hợp pháp: là tất cả các hoạt động nhằm hướng đến sản xuất hay
phân phối những sản phẩm hay dịch vụ mà việc bán, phân phối hoặc sở hữu
chúng bị pháp luật cấm.
17
2.4.4. Nguyên nhân dẫn đến hoạt động kinh tế ngầm
Sự tồn tại của hoạt động kinh tế ngầm đã trở thành một hiện tượng phổ biến ở
hầu hết các nước trên thế giới, không chỉ ở các quốc gia chậm phát triển mà ngay tại
các quốc gia phát triển thì quy mô của các hoạt động kinh tế ngầm vẫn có dấu hiệu
của sự tăng trưởng. Một số nhà nghiên cứu cho rằng kinh tế ngầm làm biến dạng sự
phân bổ nguồn lực, phân phối thu nhập mà Chính phủ lại không thu được thuế, do
vậy cần phải loại bỏ dần dần khỏi nền kinh tế khi đất nước phát triển. Theo kết quả
nghiên cứu của Alm & Embaye (2013) thì quy mô kinh tế ngầm ở nhóm nước có
thu nhập thấp và trung bình chiếm khoảng 37% GDP của các quốc gia đó. Võ Hồng
Đức & Lý Hưng Thịnh (2014) nghiên cứu cho 8 quốc gia đang phát triển của khu
vực Asean cũng cho thấy quy mô kinh tế ngầm chiếm khoảng 20% GDP của các
quốc gia này. Vậy câu hỏi là tại sao và do nguyên nhân gì?
Theo Hirschman (1970) sự gia tăng của hoạt động kinh tế ngầm được xem là
phản ứng của người dân đối với sự quá tải của gánh nặng thuế, an sinh xã hội và sự
cứng nhắc của thể chế. Thay vì phải lên tiếng đòi hỏi các thay đổi từ chính trị và
chính sách thì người dân thường chọn cách “an toàn hơn” để thoát khỏi những
“ràng buộc” này bằng việc gia nhập vào khu vực kinh tế ngầm. Điều này đồng
nghĩa với việc quy mô kinh tế ngầm là một trong những thước đo phản ánh chất
lượng thể chế của chính quốc gia đó. Tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm trên thế
giới có thể rút ra bốn nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tồn tại và phát triển tế ngầm
gồm: (1) Chính sách kinh tế hiện hành; (2) Thể chế và chất lượng thể chế; (3) Hệ
thống phúc lợi xã hội; (4) Sự thay đổi từ thị trường sức lao động.
Nguyên nhân từ chính sách kinh tế hiện hành: Hệ thống thuế là vấn đề tập
trung được hầu hết các nhà nghiên cứu nhấn mạnh về vai trò của nó đối với
sự tồn tại và phát triển của các hoạt động kinh tế ngầm (Trandel, 1994;
Schneider & Neck, 1993; Loayza, 1996 và Feige, 2007). Quá nhiều loại thuế
và mức thuế suất cao là 2 nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các hành vi trốn
thuế, tránh thuế của các chủ doanh nghiệp. Schneider & Neck (1993) khi
nghiên cứu các hoạt động kinh tế ngầm tại Áo đã tìm được mối tương quan
18
dương giữa hệ thống thuế và quy mô kinh tế ngầm. Theo đó hệ thống thuế
càng cao và phức tạp sẽ khuyến khích sự mở rộng của hoạt động kinh tế
ngầm. Hai tác giả lập luận rằng các cá nhân và hộ gia đình sẽ luôn so sánh
lợi ích khi trốn thuế và hậu quả trốn thuế để đưa ra quyết định. Kết luận này
nhận được sự ủng hộ trong các nghiên cứu của Kirchgaessner (1983), Jan
Klovland (1984).
Thể chế và chất lượng thể chế: Theo Hirschman (1970) sự xuất hiện của
hoạt động kinh tế ngầm là phản ứng của các cá nhân/tổ chức trước thể chế và
chất lượng thể chế của mỗi quốc gia. Về nguyên tắc, các thể chế chính thức
(hệ thống các văn bản pháp quy) là khuôn khổ để định hình hành vi/cách ứng
xử đối với mỗi cá nhân, tổ chức để tạo sự ổn định xã hội, thúc đẩy phát triển
kinh tế. Như vậy, nếu các quy định này lỏng lẻo sẽ tạo điều kiện cho hoạt
động kinh tế ngầm phát triển. Điều không may theo phát hiện của Johnson và
công sự (1998) là nếu một thể chế chính thức quá phức tạp với nhiều cấm
đoán cũng sẽ thúc đẩy các hoạt động kinh tế ngầm của các cá nhân/tổ chức.
Hệ thống phúc lợi, an sinh xã hội: Các nghiên cứu của Volker Riebel
(1984), Schneider & Enste (2000) cho thấy với hệ thống chi phí dịch chuyển
cho hệ thống phúc lợi xã hội đã thúc đẩy các cá nhân lựa chọn làm việc ở
khu vực kinh tế ngầm hơn là làm việc trong khu vực chính thức. Điều này là
phù hợp với các nguyên lý của kinh tế học, theo các tác giả mỗi cá nhân khi
quyết định khu vực làm việc thì luôn phải đánh đổi/cân nhắc giữa chi phí và
lợi ích. Do vậy, nếu việc tham gia vào khu vực chính thức khó khăn hơn,
phải đáp ứng nhiều tiêu chuẩn lao động hơn (bằng cấp, sức khỏe, ngoại
hình…) hoặc thu được lợi ích ít hơn thì người lao động sẵn sàng chuyển sang
khu vực phi chính thức.
Sự thay đổi của thị trường sức lao động: Khu vực kinh tế chính thức luôn
đứng trước các “cú sốc” về kinh tế (thiên tai, khủng hoảng kinh tế, chiến
tranh…). Nên sự thay đổi trên thị trường sức lao động cũng là một nguyên
nhân làm gia tăng các hoạt động kinh tế ngầm. Sự thay đổi này nằm ở ba góc
19
độ: Thứ nhất, độ tuổi lao động ngày nay ngày càng được rút ngắn tương đối
ngắn so với tuổi thọ và sức khỏe của người lao động. Điều này dẫn đến nhiều
người ở độ tuổi nghỉ hưu nhưng vẫn đủ sức khỏe và có mong muốn tiếp tục
làm việc thì không được khu vực kinh tế chính thức tuyển dụng, buộc họ
phải chuyển sang khu vực phi chính thức. Thứ hai, thời gian làm việc linh
hoạt, đánh giá công việc theo kết quả cuối cùng nên khuyến khích nhiều lao
động có thể đảm nhiệm cùng lúc nhiều công việc cả ở khu vực chính thức và
khu vực phi chính thức. Thứ ba, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật sẽ đưa máy
móc làm thay cho công việc của con người với năng suất và chất lượng cao
hơn. Điều này, làm cho một bộ phận không nhỏ lực lượng lao động không đủ
trình độ sử dụng máy móc hoặc không cạnh tranh được về năng suất lao
động sẽ thất nghiệp. Trong khi các hoạt động kinh tế ngầm thì ít đòi hỏi tiêu
chuẩn về lao động, thủ tục ra nhập hoặc rút khỏi đơn giản hơn, dẫn đến hoạt
động kinh tế ngầm gia tăng và quản lý cũng như xử lý sẽ phức tạp hơn nhiều.
2.4.5. Mối quan hệ giữa kinh tế ngầm và kinh tế chính thức
Theo tìm hiểu của tác giả thì mối quan hệ giữa kinh tế ngầm và kinh tế chính
thức được thực hiện khá nhiều ở các quốc gia phát triển, nhưng ở các quốc gia đang
phát triển thì số lượng công trình nghiên cứu về hoạt động kinh tế ngầm còn khiêm
tốn. Kết quả nghiên cứu định lượng về mối quan hệ này cũng khá mơ hồ, không
đồng nhất và chia thành hai nhóm:
Nhóm kết luận cùng chiều: Một số nghiên cứu trước kết luận rằng kinh tế
ngầm có mối quan hệ cùng chiều với kinh tế chính thức. Điều này có nghĩa là quy
mô kinh tế ngầm có khuynh hướng tăng lên cùng với quy mô của khu vực kinh tế
chính thức. Nghiên cứu của Adam & Ginsburgh (1985) cho kinh tế Bỉ, nghiên cứu
của Schneider & Bajada (2003) cho kinh tế Canada đều cho kết luận như vậy. Các
tác giả lập luận rằng khi Chính Phủ thực hiện nới lỏng các điều kiện kinh doanh để
tạo điều kiện cho kinh tế của khu vực chính thức phát triển thì cũng là điều kiện để
kinh tế ngầm phát triển theo. Dưới góc độ quản lý nhà nước thì khu vực kinh tế
ngầm tồn tại vì muốn tránh các khoản thuế, nhưng dưới góc độ hoạt động sản xuất
20
vật chất thì khu vực kinh tế ngầm cũng phải sử dụng các loại nguyên, nhiên vật liệu,
điện năng, vận chuyển v.v… do vậy khi quy mô kinh tế ngầm phát triển cũng đóng
góp gián tiếp khuyến khích khu vực kinh tế chính thức phát triển (mặc dù điều này
không được hạch toán trong ngân sách nhà nước).
Nhóm kết luận ngược chiều: Cũng nhiều nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ
ngược chiều giữa quy mô kinh tế ngầm với quy mô kinh tế chính thức. Tức là, khi
kinh tế chính thức càng phát triển thì quy mô kinh tế ngầm càng bị thu hẹp. Các
nghiên cứu này tập trung vào ước lượng quan hệ một chiều. Fichtenbaum (1989) kết
luận sự tăng trưởng nhanh hơn của hoạt động kinh tế ngầm đã tác động tiêu cức đến
kinh tế chính thức của Mỹ trong suốt giai đoạn từ 1970-1989. Kaufmann &
Kaliberda (1996) nghiên cứu cho các quốc gia chuyển đổi từ các nước xã hội chủ
nghĩa sang tư bản chủ nghĩa cho kết luận là hoạt động kinh tế ngầm làm giảm nhẹ
tăng trưởng GDP của khu vực chính thức. Cụ thể là 10% tích lũy sự suy giảm của
khu vực kinh tế chính thức, là do có sự tăng lên 4% của khu vực kinh tế bất hợp
pháp.
Tác giả lược khảo một số nghiên cứu trước về mối quan hệ giữa hoạt động
kinh tế ngầm với quy mô khu vực kinh tế chính thức thông qua bảng 1.
Bảng 1: Mối quan hệ giữa kinh tế ngầm và kinh tế chính thức
Tác giả Quốc gia Tác động Kết luận
Adam & Ginsburgh (1985) Bỉ Quan hệ dương SE GDP
Tedds (1998, 2005) Canada Quan hệ dương GDP SE
Schneider (1999) Đức & Áo Quan hệ dương SE GDP
Fichtenbaum (1989) Mỹ Quan hệ âm SE GDP
Loyaza (1996) 14 nước Mỹ Latin Quan hệ âm SE GDP
Anno (2003) Ý Quan hệ âm SE GDP
Dobre và cộng sự., (2009) Tây Ban Nha Quan hệ âm GDP SE
Schneider (2013) 39 nước OECD Quan hệ âm SE GDP
Phạm Minh Tiến (2014) 08 nước Asean Quan hệ âm SE GDP
21
Ghi chú: SE (Shadow economy) là quy mô của khu vực kinh tế ngầm, GDP là
quy mô của khu vực kinh tế chính thức.
2.5. Một số nghiên cứu thực nghiệm về tác động của FDI, chất lượng “vốn
con người” và quy mô kinh tế ngầm
2.5.1. Mối quan hệ giữa FDI và quy mô kinh tế ngầm
Việc lý giải bằng thực tế kênh tác động của FDI đến kinh tế ngầm tại các
quốc gia tiếp nhận đầu tư đã được nghiên cứu nhưng khá rời rạc, và vẫn là thách
thức đối với các nhà nghiên cứu. Theo giải thích của Nikopour và cộng sự (2009)
thì thu hút FDI cao hơn sẽ thúc đẩy GDP, tức là khu vực chính thức phát triển điều
này gián tiếp làm giảm quy mô khu vực kinh tế ngầm giảm đi. Tương tự như vậy,
Davidescu & Strat (2015) tìm thấy một quan hệ nhân quả ngắn hạn một chiều tiêu
cực chỉ chạy từ FDI đến nền kinh tế ngầm trong trường hợp của Romania, nhưng
cũng không giải thích cụ thể là tác động đó bằng kênh truyền dẫn nào.
Christensen and Kapoor, (2004) cho rằng kênh truyền dẫn đầu tiên đó là
“gánh nặng thuế”, các MNC và các công ty con của MNC hoạt động trên nhiều
quốc gia nên họ có kinh nghiệm để so sánh khả năng “trốn thuế” ở các quốc gia.
Thực tế này đã được chứng minh là ở những quốc gia/vùng kinh tế có mức thuế suất
rất thấp (được gọi là các thiên đường thuế - Tax haven) thì số lượng thu hút FDI
luôn rất lớn (Killian, 2006). Kết luận này cũng được nghiên cứu của Ali & Bohara
(2017) xác nhận, theo đó kinh tế ngầm cao hơn làm tăng dòng vốn FDI vì các MNC
tận dụng lợi thế trốn thuế ở các nước chủ nhà với quy mô nền kinh tế cao hơn.
Theo tìm hiểu của tác giả thì chỉ có nghiên cứu của Hesam Nikopour và cộng
sự (2009) là đề cập trực tiếp đến mối quan hệ giữa FDI và kinh tế ngầm. Nhóm tác
giả sử dụng dữ liệu của 145 quốc gia trên thế giới từ 2000-2005, bằng phương pháp
ước lượng momen tổng quát (system GMM) tìm thấy bằng chứng thống kê là FDI
và kinh tế ngầm có mối quan hệ nhân quả Granger hai chiều. Theo đó, thu hút FDI
càng tăng thì quy mô kinh tế ngầm giảm, còn quy mô kinh tế ngầm tăng lại thu hút
FDI tốt hơn.
22
Mối quan hệ giữa FDI và kinh tế ngầm cũng có thể được lý giải theo cách
phản chiếu, tức là thông qua kinh tế chính thức. Bởi vì, kinh tế ngầm và kinh tế
chính thức có tính “đối lập” tương đối, khi khu vực này phát triển thì khu vực kia có
xu hướng bị thu hẹp. Kueh (1992) nghiên cứu các vùng duyên hải của Trung Quốc,
kết luận FDI đóng góp có ý nghĩa vào tổng vốn đầu tư cũng như tăng trưởng sản
lượng và xuất khẩu. Blomstrom và cộng sự (1992) và Rodriguez-Glare (1996) cũng
cho rằng FDI có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của nước sở tại thông qua chuyển
giao công nghệ và hiệu quả lan tỏa. Chuyển giao công nghệ trực tiếp từ các doanh
nghiệp đa quốc gia đối với các chi nhánh địa phương cho phép các nước chủ nhà
nâng cấp các ngành công nghiệp của họ bằng cách tiếp thu công nghệ mới trong sản
xuất. Athukorala và Menon (1995) cho thấy FDI tác động đến Malaysia về chuyển
giao công nghệ và cải thiện kỹ năng của lực lượng lao động. FDI cũng góp phần
gián tiếp đến tăng trưởng thông qua các doanh nghiệp trong nước cạnh tranh với các
chi nhánh nước ngoài và sự phổ biến của kỹ năng lao động trong nền kinh tế khi các
nhân viên di chuyển đến các công ty thuộc sở hữu trong nước.
FDI không chỉ gia tăng cung cấp vốn ở các nước tiếp nhận mà còn đưa đến
các hiệu ứng lan tỏa thông qua rất nhiều kênh như sao chép, học hỏi kỹ năng, cạnh
tranh và xuất khẩu (Gorg và Greenaway, 2004). Ramirez (2000) nghiên cứu FDI tác
động đến tăng trưởng kinh tế Mexico, giai đoạn 1960-1995 với phương pháp hiệu
chỉnh sai số. Kết quả ghi nhận tác động tích cực của FDI đến kinh tế Mexico thông
qua năng suất lao động. Bende-Nabende và Ford (1998) dùng dữ liệu của Đài Loan
giai đoạn 1959-1995 với phương pháp ước lượng 3SLS để nghiên cứu FDI, điều
chỉnh chính sách và tăng trưởng ở Đài Loan. Kết quả, FDI tác động tích cực đến
kinh tế Đài Loan.
Kim và Seo (2003) sử dụng dữ liệu ở Hàn Quốc giai đoạn 1985-1999, cho
thấy tác động tích cực mạnh mẽ từ tốc độ tăng trưởng GDP tới FDI và không tồn tại
tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế nhưng FDI góp phần tăng trưởng đầu tư
trong nước, thể hiện tác động lan tỏa của dòng vốn FDI. Akinlo (2004) dùng dữ liệu
ở Nigeria giai đoạn 1970-2001 để nghiên cứu mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng
23
kinh tế, cho thấy FDI tác động đến kinh tế Nigeria. Dritsaki và cộng sự. (2004) phát
hiện tác động một chiều từ FDI đến xuất khẩu và từ FDI đến GDP thực ở Hy Lạp
bằng cách sử dụng dữ liệu hàng năm của IMF giai đoạn 1960-2002. Fedderke và
Romm (2006) dùng dữ liệu giai đoạn 1956-2003 ở Nam Phi, cho thấy dòng vốn FDI
vào Nam Phi chủ yếu theo chiều ngang thay vì theo chiều dọc.
Gần đây, Mihai Daniel Roman và Andrei Padureanu (2012) đề xuất mô hình
cho mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế trong quá trình chuyển đổi ở
Romania, luận văn sử dụng mô hình tân cổ điển với chức năng sản xuất Cobb-
Douglas để phân tích tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế. Kết quả, kinh tế
Romania tăng trưởng từ ảnh hưởng tích cực của chính sách tài khóa, FDI và từ mức
độ hòa nhập vào EU.
Ở Việt Nam, Nguyễn Thị Tuệ Anh và cộng sự (2006) sử dụng dữ liệu chuỗi
thời gian giai đoạn 1988-2003, cho thấy tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế
qua kênh đầu tư. Le Thanh Thuy (2007) nhận định FDI vừa tác động trực tiếp vừa
tác động lan tỏa gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Le Viet Anh (2009)
nghiên cứu mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam cho thấy đóng
góp tích cực của dòng vốn FDI đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn
1988-2002.
2.5.2. Mối quan hệ giữa chất lượng “vốn con người” và quy mô kinh tế ngầm
Số lượng các nghiên cứu trước đề cập trực tiếp vào mối quan hệ giữa chất
lượng “vốn con người” và quy mô kinh tế ngầm còn khá ít. Giles và Tedds (2002)
cho rằng tác động của chất lượng “vốn con người” đến quy mô kinh tế ngầm là khá
mơ hồ, và có liên quan chặt chẽ đến các quy định của pháp luật về lao động và quản
lý thị trường lao động. Theo Giles và Tedds (2002) ở các quốc gia có chất lượng
“vốn con người” cao thì quy mô khu vực kinh tế ngầm sẽ giảm do người dân nhận
thức tốt về pháp luật nên họ sẽ tuân thủ pháp luật. Bên cạnh đó, nhờ trình độ học
vấn cao họ có thể dễ dàng tìm kiếm việc làm ở khu vực kinh tế chính thức. Tại các
quốc gia có chất lượng “vốn con người” cao, hoạt động kinh tế ngầm chủ yếu vì
động cơ trốn/né thuế của các chủ doanh nghiệp chứ không tìm thấy động cơ từ phía
24
người lao động. Tuy nhiên ở các quốc gia chậm hoặc đang phát triển thì vấn đề lại
hoàn toàn khác. Do chất lượng “vốn con người” thấp nên các quốc gia chậm/đang
phát triển luôn phải đối mặt với một tỉ lệ thất nghiệp cao.
Dell’Anno và Solomon (2006) tìm được hệ số tương quan dương tỉ lệ thất
nghiệp và quy mô kinh tế ngầm. Phân tích sâu hơn mối quan hệ này, hai tác giả
nhận thấy tỉ lệ thất nghiệp sẽ dẫn đến hai tác động cho nền kinh tế, đó là: (i) Tác
động trực tiếp là làm giảm tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế chính thức (tuân
theo định luật Okun) và (ii) Tác động gián tiếp làm tăng các hoạt động kinh tế ngầm
(do áp lực về thu nhập để đảm bảo đời sống). Nói cách khác, khu vực kinh tế ngầm
hoạt động như “vùng đệm” hay “cứu cánh” cho người dân khi mà khu vực kinh tế
chính thức gặp các trục trặc.
Nghiên cứu của Mutascu (2008) cho kinh tế Romania giai đoạn 1990-2007
và nghiên cứu của Bajda và Schneider (2009) cho các nước OECD cung cấp thêm
bằng chứng thực nghiệm về tính chất “vùng đệm” này. Bajda và Schneider (2009)
cho rằng vấn đề việc làm sẽ sôi động hơn ở khu vực kinh tế ngầm bất chấp chất
lượng “vốn con người” cao hay thấp khi tỉ lệ thất nghiệp có xu hướng tăng lên trong
nền kinh tế. Mặc dù Chính phủ có cố gắng bù đắp một phần thu nhập cho lực lượng
lao động thông qua các chính sách về trợ cấp thất nghiệp hoặc bảo hiểm thất nghiệp,
nhưng áp lực về thu nhập để duy trì cuộc sống buộc người dân phải tham gia vào
kinh tế ngầm vì hầu như họ không có lựa chọn nào đáng tin cậy hơn trong hoàn
cảnh thất nghiệp. Một ngạc nhiên khác là không chỉ người thất nghiệp tham gia vào
kinh tế ngầm mà ngay cả người đang có việc làm toàn thời gian hay bán thời gian
cũng có thể tham gia vào kinh tế ngầm theo phương thức không chính thống hoặc
bán thời gian (ví dụ: bán hàng cá nhân thông qua các mạng xã hội).
Bajda và Schneider (2009) chọn ra 12 quốc gia thuộc OECD (đây là các nước
có chất lượng “vốn con người” cao theo xếp hạng của Tổ chức Lao động quốc tế)
có quy mô kinh tế ngầm tăng để nghiên cứu thì kết quả lại cho thấy quy mô kinh tế
ngầm vẫn tăng mặc dù tỉ lệ thấp nghiệp giảm. Lý giải cho điều này, hai tác giả cho
rằng tỉ lệ thất nghiệp có ảnh hưởng tạm thời chứ không phải vĩnh viễn. Theo đó,
25
kinh tế ngầm sẽ là nơi trú ẩn tạm thời khi tình trạng thất nghiệp gia tăng, chứ trong
một quốc gia pháp trị thì hầu hết lực lượng lao động đều muốn tham gia ở khu vực
kinh tế chính thức. Nói cách khác, tỉ lệ thất nghiệp sẽ tác động trong ngắn hạn còn
chất lượng “vốn con người” sẽ tác động đến quy mô kinh tế ngầm trong dài hạn.
Mối quan hệ này có thể được giải thích rõ hơn thông qua 2 tác động sau:
Tác động thu nhập: Theo đó, khi thu nhập giảm sẽ dẫn đến sự suy giảm về
tổng cầu trong toàn nền kinh tế. Tức là sẽ làm giảm cả quy mô của khu vực
chính thức lẫn khu vực kinh tế ngầm.
Tác động thay thế: Theo đó, khi khu vực kinh tế chính thức gặp các “trục
trặc” sẽ làm gia tăng tỉ lệ thất nghiệp. Lực lượng lao động bị thất nghiệp sẽ
tìm kiếm cơ hội thay thế ở khu vực kinh tế ngầm, điều này làm quy mô kinh
tế ngầm phát triển.
Trong nghiên cứu của Maloney (2004) thì chất lượng “vốn con người” lại là
nguyên nhân cổ vũ cho sự gia tăng của khu vực kinh tế ngầm. Theo giải thích của
Maloney thì người lao động có chất lượng “vốn con người” cao thường đòi hỏi điều
kiện làm việc, thu nhập và chế độ phúc lợi xã hội tương xứng. Điều này là chính
đáng nhưng tạo ra áp lực chi phí lớn cho doanh nghiệp, và làm giảm lợi nhuận của
doanh nghiệp. Trong ngắn hạn, chủ doanh nghiệp có thể sẽ chấp nhận, nhưng trong
dài hạn họ luôn tìm kiếm các giải pháp thay thế rẻ tiền hơn như sử dụng lao động trẻ
em, người yếu thế trong xã hội… Ngoài ra chính sách bảo trợ xã hội cũng góp phần
không nhỏ, do áp lực phải tuân thủ các quy định về bảo trợ xã hội cao của Chính
Phủ mà người lao động và người sử dụng lao động xuất hiện nhu cầu thỏa thuận để
cùng trốn/né các trách nhiệm này. Theo Kucera và Roncolato (2008) thì việc trốn
tránh này diễn ra phổ biến ở lực lượng lao động có thu nhập thấp và quốc gia chậm
phát triển.
Chất lượng “vốn con người” còn ảnh hưởng đến quy mô kinh tế ngầm thông
qua quy định về số giờ làm việc và độ tuổi nghỉ hưu. Cùng với tiến bộ về khoa học
kỹ thuật, khi người lao động có chất lượng “vốn con người” tốt họ có năng suất lao
động cao hơn, hoàn thành công việc nhanh hơn. Nếu doanh nghiệp cứng nhắc áp
26
dụng quản lý thời gian làm việc hoặc chế độ đãi ngộ không thỏa đáng thì người lao
động sẽ lảnh tránh/trì hoãn công việc chính thức và tìm kiếm công việc bán thời
gian ngay trong chính thời gian làm việc. Các giao dịch trực tiếp khó được thực
hiện thì người lao động có trình độ cao thường tìm kiếm cơ hội hoặc vô tình tham
gia vào khu vực kinh tế ngầm thông qua các giao dịch tận dụng ưu thế của mạng
internet. Điều này chỉ được thực hiện nếu có chất lượng “vốn con người” tốt. Như
vậy, chất lượng “vốn con người” tăng thì quy mô kinh tế ngầm có xu hướng tăng
lên. Bên cạnh đó, việc quy định độ tuổi nghỉ hưu cũng có ảnh hưởng tương tự.
Người có chất lượng “vốn con người” cao mà phải nghỉ hưu sớm thì không khác gì
cổ vũ họ tham gia làm gia tăng hoạt động của khu vực kinh tế ngầm.
Đến nay, quan điểm về khu vực kinh tế ngầm còn nhiều khoảng cách, những
người theo thuyết nhị nguyên thì coi khu vực kinh tế ngầm là “sản phẩm phụ” của
khu vực kinh tế chính thức và cần phải loại bỏ càng nhiều càng tốt. Nhưng những
người ủng hộ trường phái pháp lý thì quan niệm rằng khu vực kinh tế ngầm là “một
lựa chọn thay thế cần thiết” và tồn tại một bộ phận trong lực lượng lao động sẽ
tham gia vào khu vực kinh tế ngầm một cách tự nguyện vì khu vực này không đòi
hỏi điều kiện gia nhập, tránh đóng thuế và đóng góp an sinh xã hội (Tanzi, 1982;
Schneider, 1997; Maloney, 2004). Trường phái pháp lý ủng hộ cho quan điểm kinh
tế ngầm là kết quả của chất lượng thể chế và chất lượng “vốn con người” thấp.
Tóm lại, mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài, chất lượng “vốn con
người” và quy mô của khu vực kinh tế ngầm vẫn cho các kết luận không đồng nhất.
Theo cách giải thích của Hirschman (1970) nó bắt nguồn từ truyền thống, văn hóa,
tôn giáo, ý thức, niềm tin xã hội, chuẩn mực đạo đức của người dân ở từng quốc
gia. Khi gặp những khó khăn/rào cản ở khu vực kinh tế chính thức thì người dân
thường lựa chọn cách “thoát ra” khỏi nền kinh tế chính thức, hơn là “lên tiếng” đòi
hỏi sự thay đổi hoặc các chính sách kinh tế - xã hội phù hợp hơn. Đứng trên góc độ
của những người yếu thế trong xã hội như trẻ em, người khuyết tật, người bị suy
giảm khả năng lao động... thì sự tồn tại của khu vực kinh tế ngầm có thể được coi là
“cơ hội việc làm mới” đối với họ. Theo tìm hiểu của tác giả thì các nghiên cứu
27
trước cho trường hợp kinh tế Việt Nam thường sử dụng chỉ số “kiểm soát tham
nhũng” làm đại diện cho chất lượng thể chế. Trong khi chất lượng “vốn con người”
của người dân và chất lượng điều hành của Chính Phủ thực sự là mối quan hệ tương
hỗ, hai chiều. Điều này kết hợp với sự không đồng nhất trong tác động của đầu tư
trực tiếp nước ngoài đã tự minh chứng cần có thêm các nghiên cứu thực nghiệm
khác để phân tích sâu hơn tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài và chất lượng
“vốn con người” đến sự thay đổi quy mô khu vực kinh tế ngầm ở Việt Nam.
Tiểu kết chương 2
Trong chương này, tác giả đã đưa ra các khái niệm/định nghĩa về kinh tế
ngầm, đầu tư trực tiếp nước ngoài, và chất lượng “vốn con người”. Đồng thời tác
giả cũng lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm của các tác giả trong và ngoài nước
về mối quan hệ giữa 3 biến số kinh tế này. Kết quả thực nghiệm giúp tác giả xây
dựng được mô hình nghiên cứu, lựa chọn biến, và phương pháp ước lượng. Những
vấn đề này sẽ được tiếp tục trình bày trong chương 3.
28
CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Quy trình nghiên cứu
Trên cơ sở quy trình nghiên cứu của John W.Creswell (2014) tác giả xây
dựng quy trình nghiên cứu cho đề tài như sau:
Bảng 3.1: Quy trình nghiên cứu
Lý thuyết
Thu thập dữ liệu
nghiên cứu nền
từ các nguồn
Mục tiêu Lý thuyết Phân tích Kết quả Thảo luận
Phân tích
Tổng hợp lý thuyết nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Kiểm định độ phù hợp và kiểm chứng mô hình lý thuyết
Tổng hợp và xử
Phân tích mối quan hệ nhân quả, tác động ngắn hạn, tác động dài hạn giữa các biến trong mô hình.
Các nghiên
lý dữ liệu trước
cứu trước
khi phân tích
liên quan
Xây dựng mô
Phân tích thống
hình nghiên cứu
kê mô tả các
lý thuyết
biến nghiên cứu
Bước 1: Tác giả trích dẫn một số đánh giá, số liệu về mối quan hệ nhân quả
giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài, chất lượng thể chế và hoạt động kinh tế ngầm. Từ
đó tìm ra khe hổng nghiên cứu, xác định mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu
và phương pháp nghiên cứu.
Bước 2: Tác giả khảo lược các lý thuyết về kinh tế ngầm, cách đo lường quy
mô kinh tế ngầm, các yếu tố tác động đến hoạt động kinh tế ngầm. Đồng thời sưu
tầm và tổng hợp các kết quả của các nghiên cứu trước có liên quan để xây dựng
29
khung lý thuyết, lựa chọn mô hình, lựa chọn biến đại diện cho phù hợp với điều
kiện của số liệu và đặc thù của kinh tế Việt Nam.
Bước 3: Tác giả tiến hành thu thập dữ liệu từ các nguồn đáng tin cậy, so sánh
dữ liệu giữa các nguồn để tìm kiếm sai biệt (nếu có), đồng nhất dữ liệu về cùng một
phương pháp đo lường, xử lý các dữ liệu chưa phù hợp, rồi thực hiện các bước
nghiên cứu định lượng về phương pháp ước lượng, kiểm định giả thuyết, tính toán
các chỉ số, tính toán quy mô kinh tế ngầm, phân tích ở dạng thống kê mô tả.
Bước 4: Tác giả dùng phần mềm kinh tế lượng để phân tích dữ liệu, ước
lượng và kiểm định tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài, chất lượng thể chế phi
chính thức đến quy mô khu vực kinh tế ngầm ở Việt Nam. Từ kết quả thu được, căn
cứ vào thực tế về những điều kiện kinh tế xã hội giai đoạn 1986-2015 để tác giả lý
giải kết quả nghiên cứu và ý nghĩa thực tế của kết quả nghiên cứu.
Bước 5: Tác giả tiến hành của kiểm định bổ sung để kiểm chứng mô hình lý
thuyết và kết luận về tính chính xác, mức độ tin cậy của kết quả nghiên cứu theo
phạm vi nghiên cứu của đề tài. Cuối cùng, tác giả đề xuất một số hàm ý chính sách
và lưu ý khi vận dụng kết quả của nghiên cứu vào thực tiễn cho kinh tế Việt Nam.
3.2. Mô hình nghiên cứu
Xuất phát từ quy trình nghiên cứu và lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường
phái cổ điển tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu về tác động của đầu tư trực tiếp
nước ngoài, chất lượng thể chế phi chính thức đến quy mô khu vực kinh tế ngầm
cho kinh tế Việt Nam xuất phát từ hàm sản xuất Cobb-Douglas như sau:
(Phương trình 1)
Trong đó: Y là sản lượng thực tế (GDP), A là các yếu tố năng suất tổng hợp,
K là quy mô vốn của nền kinh tế (vốn trong nước và vốn FDI), L là tổng lực lượng
lao động. α, β là tỉ trọng đóng góp của các yếu tố vào sản lượng. Do không xét đến
yếu tố quy mô vốn trong nước, Anis Omri và cộng sự (2014) đề xuất K có thể được
biểu diễn tuyến tính dưới dạng hàm của FDI, tức là K = f(FDI) hay K = c * FDI.
Xét riêng yếu tố năng suất tổng hợp, theo lý thuyết tăng trưởng vừa học vừa làm
(learning-by-doing) của Arrow (1962) thì ngay trong quá trình lao động, người lao
30
động cũng tự học tập và cải thiện năng suất lao động của chính mình từ đó nâng cao
được cả chất lượng và số lượng sản phẩm làm ra. Khi đó năng suất tổng hợp sẽ bị
tác động bởi 2 yếu tố: (i) Mức độ đầu tư/1 lao động; (ii) trình độ dân trí của người
lao động đó. Như vậy, nếu bỏ qua yếu tố mức độ đầu tư/1 lao động thì A cũng là
một hàm của trình độ người lao động. Tức là: A = d * HC, khi đó phương trình 1
được viết lại thành:
(Phương trình 2)
Giả sử nền kinh tế có quy mô không đổi (tức là α + β =1), khi đó chia cả 2 vế
của phương trình 2 cho L để tìm được năng suất bình quân đầu người, phương trình
2 sẽ chuyển thành:
(Phương trình 3)
Lấy logarit phương trình 3 ta được phương trình 4 như sau:
(Phương trình 4)
Do là hằng số, nên biểu diễn phương trình 4 cho dạng dữ liệu chuỗi thời
gian như sau:
(Phương trình 5)
Do dữ liệu về quy mô kinh tế ngầm được IMF tính toán và công bố theo tỉ lệ
% so với GDP, nên mô hình nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài,
chất lượng thể chế phi chính thức đến quy mô kinh tế ngầm ở Việt Nam được tác
giả hiệu chỉnh lại từ phương trình 5 như sau:
(Mô hình 1)
Nguồn dữ liệu, mô tả biến và cách đo lượng các biến trong mô hình
31
Dữ liệu của nghiên cứu được thu thập từ các cơ quan chính thức, cụ thể: số
liệu về quy mô kinh tế ngầm được lấy từ báo cáo của Quỹ Tiền tệ thế giới IMF, dữ
liệu về FDI được lấy từ UNCTAD, dữ liệu về chất lượng thể chế phi chính thức (đo
lường bằng chất lượng “vốn con người”) được lấy từ FRED. Cách đo lường các
biến được minh họa trong bảng 3.2
Bảng 3.2: Diễn giải các biến trong mô hình
Nguồn Ký hiệu Nội dung của biến Đơn vị biến số liệu
Là tỉ lệ phần trăm của khu vực kinh tế phi Tỉ lệ % IMF SE chính thức so với khu vực chính thức
Là lượng vốn FDI chính thức mà Việt Nam
thu hút được qua các năm. Dữ liệu được lấy Triệu USD UNCTAD LnFDI
logarit.
Chỉ số chất lượng “vốn con người” Điểm số FRED HC
Dữ liệu bị giới hạn trong khoảng thời gian từ 1991-2015 do các số liệu về
quy mô kinh tế ngầm của các quốc gia được công bố lần đầu tiên vào năm 1991,
trước đó chưa có dữ liệu. Nhưng dữ liệu sau năm 2015 cần thêm thời gian để kiểm
định, nên cũng chưa được công bố. Những giới hạn này nằm ngoài mong muốn của
tác giả.
Mô tả biến:
Biến đại diện cho quy mô kinh tế ngầm (ký hiệu là SE) là tỉ lệ % của khu
vực kinh tế phi chính thức so với khu vực kinh tế chính thức (được thể hiện bằng
tổng sản phẩm quốc nội GDP) cho kinh tế Việt Nam. Hầu hết các nghiên cứu thực
nghiệm như Smith (1994); Anno & Schneider (2004); Dreher và cộng sự (2008) đều
sử dụng trực tiếp chỉ số này trong các nghiên cứu của họ về kinh tế ngầm.
Biến đại diện cho đầu tư trực tiếp nước ngoài (ký hiệu LnFDI) là tổng số
vốn FDI mà Việt Nam thu hút được qua các năm. Khi phân tích tác động của đầu tư
trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế hay quy mô kinh tế ngầm, các nhà
32
nghiên cứu có thể sử dụng tổng số FDI thực hiện hoặc tổng số FDI đăng ký làm
biến đại diện. Tổng số FDI đăng ký sẽ thể hiện tốt hơn sự tin tưởng/kỳ vọng/đánh
giá của các nhà đầu tư nước ngoài vào chất lượng thể chế. Do vậy trong luận văn
này tác giả sử dụng tổng vốn FDI đăng ký.
Biến đại diện cho chất lượng thể chế phi chính thức (ký hiệu là HC). Theo
North (1990) thì chất lượng thể chế phi chính thức có thể được biểu hiện thông qua:
Tôn giáo, văn hóa, niềm tin xã hội hay chất lượng “vốn con người” (có thể hiểu
theo nghĩa khác là trình độ dân trí). Do vậy trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng
chỉ số chất lượng “vốn con người” được tính bình quân cho mỗi cá nhân làm biến
đại diện cho chất lượng thể chế phi chính thức. Chỉ số này được FRED công bố
hàng năm dựa trên những đánh giá từ cơ hội tiếp cận với giáo dục, y tế, bảo hiểm,
an sinh xã hội của người dân. Quốc gia nào có chỉ số này cao, chứng tỏ người dân
của quốc gia đó có nhiều cơ hội để phát triển và hoàn thiện bản thân.
Trên cơ sở các nghiên cứu thực nghiệm của Hesam Nikopour và cộng sự
(2009); Anno & Schneider (2004) kỳ vọng tác động có thể được phát biểu dưới
dạng giả thuyết như sau:
Giả thuyết 1: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI có tác động cùng chiều
với quy mô kinh tế ngầm tại Việt Nam. Tức là thu hút FDI tăng lên, sẽ làm quy mô
kinh tế ngầm của Việt Nam tăng lên.
Giả thuyết 2: Chất lượng thể chế phi chính thức có tác động ngược chiều với
quy mô kinh tế ngầm. Theo đó, chất lượng “vốn con người” của người dân càng cao
thì họ sẽ từ bỏ khu vực kinh tế ngầm và tham gia nhiều hơn vào khu vực kinh tế
chính thức.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
Trong phân tích dữ liệu dạng chuỗi thời gian có thể áp dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau như: Phương pháp bình phương tối thiểu (OLS),
phương pháp vecto tự hồi quy (Vecto Autoregressive), phương pháp VECM (Vecto
Error Correction Model). Tuy nhiên, gần đây Pesaran và cộng sự (2001) có giới
thiệu một phương pháp ước lượng mới có tên gọi là phương pháp tự hồi quy phân
33
phối trễ ARDL (Autoregressive Distributed Lag). Theo Pesaran và cộng sự (2001),
Davoud và cộng sự (2013), Nkoro & Uko (2016) phương pháp ARDL có các ưu
điểm sau:
(i) Các biến số trong mô hình chỉ cần đảm bảo dừng tối đa tại bậc 1, có thể dừng
không cùng bậc (bậc gốc I(0) hay bậc 1 I(1)).
(ii) Có thể tránh được vấn đề nội sinh và đáng tin cậy hơn đối với những mẫu
quan sát nhỏ do đã bổ sung biến trễ của biến phụ thuộc thành biến độc lập.
(iii) Các hệ số tác động ngắn hạn và dài hạn có thể ước lượng cùng một lúc, mô
hình sai số hiệu chỉnh có thể hợp nhất sự điều chỉnh ngắn hạn và cân bằng
dài hạn mà không bị bỏ sót các thông tin trong dài hạn.
(iv) Mô hình tự lựa chọn được độ trễ tối ưu, cho phép độ trễ tối ưu của các biến
có thể khác nhau do vậy cải thiện đáng kể độ phù hợp của mô hình.
Do những ưu điểm này nên đề tài sẽ ứng dụng phương pháp ARDL để phân
tích mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài, chất lượng thể chế phi chính thức
và quy mô kinh tế ngầm cho kinh tế Việt Nam giai đoạn 1991-2015. Kết quả phân
tích sẽ được thảo luận cụ thể trong chương 4, trình tự phân tích được tiến hành qua
các bước sau.
3.3.1. Hồi quy theo phương pháp bình phương tối thiểu OLS và kiểm định các
giả thiết của mô hình OLS.
Đầu tiên, tác giả sẽ sử dụng phương pháp bình phương tối thiểu OLS
(Ordinary Least Square) để phân tích hồi quy. Kết quả này sẽ cung cấp những
thông tin tổng quan đầu tiên về mặt định lượng của các biến tham gia trong mô
hình. Việc kiểm định các giả thiết của mô hình OLS giúp nghiên cứu xác định được
các “khuyết tật” của mô hình (nếu có). Từ đó, làm cơ sở để lựa chọn mô hình và
phương pháp ước lượng phù hợp.
3.3.2. Kiểm định tính dừng của các biến
Nelson & Plosser (1982) cho rằng hầu hết các chuỗi thời gian là không dừng
tại bậc gốc. Do vậy để tránh kết quả hồi quy là giả mạo, trước tiên đề tài tiến hành
34
kiểm định tính dừng của các biến trong mô hình. Kiểm định tính dừng theo phương
pháp ADF do Dickey & Fuller giới thiệu năm 1981 với mô hình như sau:
a. Mô hình không có xu thế (No trend) :
b. Mô hình có xu thế (Trend) :
Trong đó: Δ là sai phân bậc nhất (first difference), εt là sai số thỏa tính chất
nhiễu trắng (white noise) và T là biến xu thế (trend). Giả thuyết kiểm định H0: β = 0
và H1: β ≠ 0. Nếu H0 được chấp nhận thì Yt có nghiệm đơn vị và kết luận là chuỗi
không dừng và ngược lại. Phillips & Perron (1988) phát triển kiểm định của Dickey
& Fuller cho các chuỗi dữ liệu không có nhiễu trắng. Do vậy để tăng độ tin cậy, đề
tài sẽ kiểm định tính dừng của các biến theo cả 2 phương pháp. Kết quả kiểm định
tính dừng sẽ được phân tích chi tiết trong chương 4.
3.3.3. Xác định độ trễ tối ưu của mô hình
Trong phân tích dữ liệu chuỗi thời gian, việc xác định độ trễ tối ưu có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Nếu sử dụng độ trễ quá dài thì các ước lượng sẽ không
hiệu quả, ngược lại nếu độ trễ quá ngắn thì phần dư của ước lượng không thỏa mãn
tính nhiễu trắng (white noise) làm sai lệch kết quả phân tích. Căn cứ để chọn độ trễ
tối ưu đó là các tiêu chuẩn thông tin như: Tiêu chuẩn AIC (Akaike Information
Criterion), tiêu chuẩn SC (Schwart Bayesian Criterion) và tiêu chuẩn HQ (Hannan
Quinn Information Criterion). Độ trễ tối ưu của mô hình là độ trễ ứng với các tiêu
chuẩn AIC, SC và HQ có chỉ số nhỏ nhất.
3.3.4. Kiểm định đồng liên kết bằng phương pháp kiểm định đường bao
Kiểm định đồng liên kết được Engle & Granger giới thiệu năm 1987, sau đó
Johansen (1996) phát triển kiểm định của Engle & Granger cho mô hình đa biến.
Engle & Granger (1987) cho rằng những chuỗi thời gian không dừng vẫn có thể cho
kết quả hồi quy đáng tin cậy khi giữa các biến tồn tại một tổ hợp tuyến tính với
nhau trong dài hạn. Với phương pháp ước lượng ARDL, Pesaran và cộng sự (2001)
35
giới thiệu phương pháp kiểm định đồng liên kết mới được gọi là phương phương
kiểm định đường bao (Bound test). Để phân tích rõ hơn, mô hình 1 được biểu diễn
dưới dạng phương pháp ARDL như sau:
(Mô hình 2)
Trong đó: Δ: là sai phân của hạng tử
β1, β2, β3 là các hệ số hồi quy biểu hiện tác động dài hạn
β4, β5, β6 là các hệ số hồi quy biểu hiện tác động ngắn hạn
m1, m2, m3 là độ trễ tối ưu của các biến tương ứng trong mô hình
μt là sai số của mô hình
Để kiểm định sự tồn tại mối quan hệ đồng liên kết giữa các biến số, phương
pháp kiểm định đường bao được xây dựng dựa trên giả thuyết trống (không tồn tại
đồng liên kết) H0: β1 = β2 = β3 = 0, và giả thuyết đối H1: β1 ≠ β2 ≠ β3 ≠ 0. Nếu trị giá
của thống kê F được tính toán trong kiểm định đường bao (F-statistic) > giá trị giới
hạn của đường bao I(1) (Critical upper bound) thì bác bỏ giả thuyết H0, tức là giữa
các biến của mô hình có tồn tại mối quan hệ đồng liên kết trong dài hạn.
3.3.5. Mô hình sai số hiệu chỉnh ECM
Nếu giữa các biến có tồn tại mối quan hệ đồng liên kết trong dài hạn, Pesaran
và cộng sự (2001) đề xuất mô hình 2 phải áp dụng mô hình sai số hiệu chỉnh ECM
(Error Correction Model) để tránh kết quả hồi quy bị chệch. Khi đó mô hình ECM
(Mô hình 3)
được ước lượng dựa trên phương trình sau :
36
Trong đó m1, m2, m3 là độ trễ tối ưu mà mô hình ARDL tự tính toán. Nếu tồn
tại α ≠ 0 và có ý nghĩa thống kê thì hệ số của α sẽ thể hiện tốc độ điều chỉnh của quy
mô kinh tế ngầm trở về trạng thái cân bằng sau một cú sốc từ đầu tư trực tiếp nước
ngoài và chất lượng thể chế phi chính thức trong ngắn hạn.
Các hệ số biểu hiện tác động trong ngắn hạn của quy mô kinh tế
ngầm, đầu tư trực tiếp nước ngoài và chất lượng thể chế phi chính thức của các kỳ
trước đến quy mô kinh tế ngầm ở kỳ hiện tại.
3.3.6. Kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa các biến số của mô hình
Để kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa các biến số, Granger (1969) đề xuất
phương pháp kiểm định nhân quả Granger dựa trên mô hình VAR (Vector
Autoregression) cho hai biến X và Y như sau:
Trong đó t = 1,…,T là thời gian nghiên cứu. Yt và Xt là cặp biến cần xem xét
có tồn tại mối quan hệ nhân quả Granger hay không? Z là các biến đóng vai trò biến
kiểm soát. Nếu tồn tại δ11 và δ21 ≠ 0 và có ý nghĩa thống kê thì hàm ý giữa Yt và Xt
có tồn tại mối quan hệ nhân quả Granger. Trong luận văn này, các cặp biến có thể là
(SE, FDI), (SE, HC), (FDI, HC), hay một sự phối hợp nào đó giữa tất cả các biến
trong mô hình với nhau.
3.3.7. Các kiểm định bổ sung
Để tăng mức độ tin cậy của nghiên cứu, tác giả sẽ tiến hành thêm các kiểm
định bổ sung như sau :
a. Kiểm định phương sai sai số thay đổi
Kiểm định này nhằm kiểm tra các ước lượng của các hệ số hồi quy có bị
chệch hay không, nếu ước lượng của các phương sai bị chệch dẫn đến đánh giá
nhầm về chất lượng của hồi quy tuyến tính. Dẫn đến, dấu và mức độ tác động mà
các hệ số hồi quy ngắn hạn hay dài hạn là không đáng tin cậy. Có nhiều phương
37
pháp kiểm định phương sai sai số thay đổi, trong nghiên cứu này tác giả sử dụng
phương pháp kiểm định White (White test), với giả thuyết trống H0 được phát biểu
như sau:
H0: Mô hình có phương sai đồng nhất
H1: Mô hình có phương sai thay đổi (không đồng nhất)
Nếu trị thống kê n*R-square trong kiểm định White có Prob > 0.05 thì chấp
nhận giả thiết H0, bác bỏ giả thiết H1, tức là mô hình có phương sai đồng nhất.
b. Kiểm định hiện tượng tự tương quan
Có nhiều cách lý giải hiện tượng tự tương quan nhưng thường do ba nhóm
nguyên nhân: Bỏ sót biến quan trọng; lỗi sai dạng hàm; lỗi sai sót hệ thống trong
việc đo lường. Khi có hiện tượng tự tương quan xảy ra thì các ước lượng OLS
không còn tính chất ước lượng không thiên lệch tuyến tính tốt nhất; ước lượng của
phương sai bị thấp, kiểm định t và F không còn chính xác; Giá trị ước lượng của R2
cao hơn; phương sai và sai số của các giá trị dự báo không còn chính xác. Do vậy
tác giả sẽ kiểm định thêm hiện tượng này của mô hình bằng kiểm định Breusch-
Godfrey với giả thuyết :
H0: Mô hình không có hiện tượng tự tương quan
H1: Mô hình có hiện tượng tự tương quan
Nếu trị thống kê n*R-square trong kiểm định Breusch-Godfrey có Prob >
0.05 thì chấp nhận giả thiết H0, bác bỏ giả thiết H1, tức là mô hình không có hiện
tượng tự tương quan.
c. Kiểm định phân phối chuẩn của phần dư
Kết quả hồi quy của mô hình 1 được đánh giá là đáng tin cậy khi có phần dư
thỏa mãn hai điều kiện: là nhiễu trắng và có phân phối chuẩn. Do vậy tác giả sẽ
kiểm định phân phối của phần dư với giả thuyết :
H0: Mô hình có phần dư tuân theo phân phối chuẩn
H1: Mô hình có phần dư không tuân theo phân phối chuẩn
Nếu trị thống kê Jarque-Bera có Prob > 0.05 thì chấp nhận giả thiết H0, bác
bỏ giả thiết H1, tức là phần dư của mô hình tuân theo quy luật phân phối chuẩn.
38
3.3.8. Kiểm định tính ổn định của mô hình
Trong mô hình ARDL thì tính ổn định của mô hình là bắt buộc phải thỏa
mãn, vì mô hình có ổn định thì các hệ số hồi quy ngắn hạn mới phản ánh đúng biến
động trong dài hạn. Để kiểm định tính ổn định của mô hình tác giả sử dụng hai loại
kiểm định đó là: kiểm định tổng tích lũy của phần dư CUSUM (Cumulative Sum of
Recursive Residuals) và tổng tích lũy hiệu chỉnh của phần dư CUSUMSQ
(Cumulative Sum of Square Recursive Residuals).
Với giả thuyết :
H0: Mô hình có tính ổn định
H1: Mô hình không có tính ổn định
Nếu đường biểu diễn CUSUM và CUSUMSQ đều nằm trong đường bao của
đường giới hạn trên và đường giới hạn dưới thì chấp nhận giả thuyết H0, bác bỏ giả
thuyết H1, tức là mô hình có tính ổn định.
Tiểu kết chương 3
Trong chương này, tác giả đã trình bày quy trình nghiên cứu, khung lý thuyết
để từ đó xây dựng được mô hình nghiên cứu. Với xuất phát điểm từ lý thuyết về
hàm sản xuất Cobb-Douglas và kế thừa các nghiên cứu trước, tác giả đã lập luận và
lý giải cách đưa ra mô hình, cách chọn các biến đại diện, nguồn thu thập dữ liệu và
phương pháp xử lý dữ liệu. Tác giả áp dụng phương pháp tự hồi quy phân phối trễ
ARDL và kiểm định nhân quả Granger theo phương pháp của Engle & Granger,
đồng thời nêu các kiểm định bổ sung mà luận văn sẽ kiểm định để minh chứng cho
kết quả thực nghiệm của nghiên cứu này trong chương 4 là đáng tin cậy.
39
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Tổng quan về tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ 1986-nay
Trong giai đoạn 1986-2015, kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam,
nói riêng, trải qua hai cuộc khủng hoảng 1997-1998 và 2008-2009. Việt Nam, một
nền kinh tế nhỏ, đang thực hiện chiến lược mở cửa, hội nhập khu vực và thế giới
cũng chịu những tác động từ các cuộc khủng hoảng này. Có thể chia thời kỳ này
thành các giai đoạn với các đặc điểm tăng trưởng kinh tế như sau:
Giai đoạn 1986- 1997: kinh tế Việt Nam được đánh giá là một thời kỳ thành
công. Với những cải cách kinh tế, đổi mới, GDP tăng nhanh từ 6% năm 1991
lên gần 10% vào năm 1997.
Giai đoạn 1998 - 1999: xảy ra khủng hoảng kinh tế Châu Á, đã ảnh hưởng xấu
đến kinh tế Việt Nam và hậu quả là tăng trưởng GDP giảm nhanh xuống mức
là còn khoảng 4% vào năm 1999. Đây là hậu quả tất yếu của nền kinh tế nhỏ,
mới mở cửa và phụ thuộc nhiều vào các quan hệ thương mại quốc tế và khu
vực. Đối mặt với ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này, Việt Nam đã buộc
phải tái cấu trúc hệ thống tài chính, trong đó có hệ thống ngân hàng với chính
sách hỗ trợ lành mạnh hóa hệ thống tài chính. Hệ thống chính sách này cùng
với các tác nhân của nền kinh tế đã nhanh chóng phát huy hiệu quả, vực dậy
nền kinh tế và đầu những năm 2000, kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng trở lại.
Giai đoạn 2000-2007: kinh tế Việt Nam có nhiều đổi mới, GDP đạt mức tăng
từ 6,79% năm 2000 đến mức trên 7% vào năm 2007. Giai đoạn này, Việt Nam
duy trì được tốc độ tăng GDP bình quân khoảng 7%. Với việc gia nhập tổ
chức Thương mại Thế giới vào năm 2007, tốc độ tăng trưởng GDP lên tới
7,13%.
Giai đoạn 2008-2009: xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Việt Nam
rơi vào tình trạng tăng trưởng chậm khi các thị trường xuất khẩu lớn bị ảnh
hưởng, sức mua trong nước giảm. Trong giai đoạn này, tăng GDP luôn thấp
hơn 7% và ngày càng đi xuống. Lạm phát tăng đến mức kỷ lục trong năm
2008, trung bình là 22,97%.
40
Từ năm 2010, tỷ lệ GDP đã tăng trở lại nhưng ở mức không cao. Năm 2013 là
năm bản lề của kế hoạch 5 năm 2011-2015 nhưng tăng trưởng GDP chỉ đạt
5,42%, năm 2014 là 5,98%.
Hình 4.1: Diễn biến tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986-2015
[Nguồn: Tổng cục Thống kê]
4.2. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua
a. Tình hình đăng ký và thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Hiện nay Việt Nam vẫn là một trong những nơi thu hút FDI hàng đầu với
tiềm năng phát triển vẫn còn bỏ ngỏ. Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài thì
đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tính đến tháng 11/2018 đã có 126 quốc gia và vùng
lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam, trong đó đứng đầu là Hàn Quốc
với tổng vốn đăng ký 62,3 tỉ USD (chiếm 18,44% tổng vốn đầu tư). Nhật Bản đứng
thứ hai với 56,5 tỉ USD (chiếm 16,72% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là
Singapore và Đài Loan, Britishvirgin Island, Hồng Kông. Điều đặc biệt là từ sau
năm 2008 đến nay, năm nào số vốn FDI thực hiện ở Việt Nam cũng vượt 10 tỉ
USD/năm. Bảng phân loại FDI vào Việt Nam đến tháng 11/2018 phân theo đối tác
được minh họa trong bảng 4.1.
41
Bảng 4.1: Phân loại FDI vào Việt Nam theo quốc gia và vùng lãnh thổ
Tổng vốn đầu tư đăng ký STT Đối tác Số dự án (Triệu USD)
1 Hàn Quốc 7.389 62.277,636
2 Nhật Bản 3.958 56.498,914
3 Singapore 2.134 46.255,278
4 Đài Loan 2.576 31.372,502
5 BritishVirginIslands 791 20.839,861
6 Hồng Kông 1.401 19.356,083
7 Trung Quốc 2.102 13.059,350
8 Malaysia 583 12.445,434
9 Thái Lan 521 10.384,530
10 Hà Lan 318 9.327,806
[Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư]
FDI đã có mặt ở tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, song các dự án FDI
đổ vào các địa phương không đồng đều. Các tỉnh có hạ tầng giao thông chưa phát
triển, chất lượng nguồn nhân lực thấp, hoặc kinh tế chưa phát triển sẽ rất khó thuyết
phục được các nhà đầu tư nước ngoài, điển hình như Lai Châu có 1 dự án, Điện
Biên 1 dự án, Bắc Kạn thu hút được 4 dự án, Gia Lai có 5 dự án v.v… trong khi đó
thành phố Hồ Chí Minh vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút FDI với 8.009 dự
án và vốn đăng ký đạt 44,95 tỉ USD (chiếm 13,31% tổng vốn FDI đầu tư Việt
Nam), tiếp theo là Hà Nội có 5.033 dự án với tổng vốn đăng ký là 33,05 tỉ USD,
Bình Dương với 31,42 tỉ USD (chiếm 9,3% tổng vốn đầu tư), Đồng Nai với 28,54 tỉ
USD (chiếm 8,45% tổng vốn đầu tư). Bảng phân loại FDI theo địa phương tính đến
tháng 11/2018 được minh họa trong bảng 4.2.
42
Bảng 4.2: FDI vào Việt Nam phân theo địa phương
Tổng vốn đầu tư đăng ký STT Địa phương Số dự án (Triệu USD)
1 TP. Hồ Chí Minh 8.009 44.953,030
2 Hà Nội 5.033 33.045,808
3 Bình Dương 3.481 31.414,158
4 Bà Rịa - Vũng Tàu 407 29.700,804
5 Đồng Nai 1.541 28.535,037
6 Hải Phòng 689 17.514,682
7 Bắc Ninh 1.289 17.226,499
8 Thanh Hóa 116 13.852,237
9 Hà Tĩnh 70 11.714,643
10 Hải Dương 399 7.689,289
[Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư]
Diễn biến chính của thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam có thể
điểm qua các nét chính như sau:
Từ 1986 đến 1990: giai đoạn ban đầu của dòng vốn FDI vào Việt Nam nên số
lượng dự án cũng như vốn đăng ký FDI rất nhỏ, thủ tục cấp giấy phép đầu tư
cho các doanh nghiệp FDI tốn khá nhiều thời gian đã dẫn đến số lượng dự án
đăng ký thấp, chỉ đạt 37 dự án trong năm 1988. Đến năm 1990 cùng với sự mở
cửa và đổi mới nền kinh tế đã dẫn đến số dự án đăng ký tăng gấp 3 lần, lên
107 dự án. Trong suốt 3 năm, tổng cộng có 211 dự án với số vốn 1.603 triệu
USD đã được đăng ký tại Việt Nam.
Từ 1991 đến 1996: đây là những năm nền kinh tế Việt Nam đã có những
chuyển biến nổi bật, đạt được những thành tựu kinh tế bước đầu khá toàn diện.
FDI tăng trưởng nhanh và bắt đầu có nhiều đóng góp cho phát triển kinh tế -
xã hội. Thời kỳ này được xem là thời kỳ bùng nổ FDI tại Việt Nam với 1.781
dự án được cấp phép có tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn)
43
23,8 tỉ USD. Đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam
đã bắt đầu hấp dẫn các nhà đầu tư do chi phí đầu tư kinh doanh thấp so với
một số nước trong khu vực, lực lượng lao động tại Việt Nam với giá nhân
công rẻ, thị trường mới. Các thương hiệu lớn của thế giới đã xuất hiện như BP,
Shell, Total trong ngành dầu khí, Daewoo, Toyota, Ford… trong lĩnh vực ô tô
xe máy. Vốn FDI đổ vào Việt Nam liên tục tăng nhanh cả về số dự án, số vốn
đăng ký mới, có tác động lan toả tới các thành phần kinh tế khác và đóng góp
tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước. Trong
năm cuối của giai đoạn này đã thu hút được 415 dự án với số vốn Đầu tư đăng
ký 7,9 tỉ USD, tăng hơn 6 lần so với năm 1991.
Trong ba năm từ 1997-1999, do sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính
Châu Á năm 1997, vốn FDI vào Việt Nam cũng giảm sút mạnh, chỉ có 961 dự
án được cấp phép với tổng vốn đăng ký hơn 13 tỉ USD nhưng vốn đăng ký của
năm sau luôn ít hơn năm trước, năm 1998 chỉ bằng 81,8% năm 1997, năm
1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998. Các dự án đầu tư trong giai đoạn này chủ yếu
là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Trong thời kỳ này, nhiều dự án FDI được
cấp phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà
đầu tư gặp khó khăn về tài chính.
Giai đoạn từ năm 2001 đến 2005: vốn FDI cấp mới đều tăng đạt với mức năm
sau cao hơn năm trước, tỷ trọng tăng trung bình 59,5%, nhưng đa phần là các
dự án có quy mô vừa và nhỏ. Sau khi ký Hiệp định thương mại Việt Nam Hoa
Kỳ (BTA) năm 2001 và gia nhập vào Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
(AFTA) năm 2003 dòng vốn FDI đã gia tăng trở lại, phản ánh sự phục hồi
dòng chảy đầu tư sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á.
Từ 2006 đến 2010: khi Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị APEC 14, Hoa
Kỳ trao Quy chế Quan hệ Thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTN) cho
Việt Nam và ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã đánh dấu những thành quả đổi mới
của Việt Nam, tạo được sức hấp dẫn của Việt Nam trong việc thu hút các nhà
44
đầu tư quốc tế. FDI đã tăng rất nhanh chóng. Cụ thể trong năm 2006, số lượng
vốn đăng ký là hơn 12 tỉ USD; vốn thực hiện hơn 4,1 tỉ USD. Trong 3 năm từ
2007 đến 2009, vốn FDI đăng ký thực hiện tại Việt Nam có sự gia tăng rất
mạnh, vốn đăng ký tăng hơn 140% so với giai đoạn từ 1988-2006, tuy nhiên
kết quả vốn thực hiện cho giai đoạn này lại không tương xứng, vốn thực hiện
chỉ chiếm 25% so với vốn đăng ký. Năm 2010, Vốn FDI thực hiện cả năm đạt
11 tỉ USD, tăng 10% so với năm 2009, đầu tư nước ngoài đã có ở 63/63 tỉnh.
Tính từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 cho đến năm 2015 thì
dòng vốn FDI vào Việt Nam đã suy giảm do sự điều chỉnh chính sách đầu tư
của các tập đoàn đa quốc gia đã dẫn đến giảm dòng vốn đầu tư toàn cầu và
cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài càng trở nên gay gắt. Tuy nhiên trong
giai đoạn này, Việt Nam được một số đối tác đầu tư các dự án lớn tại Việt
Nam, điển hình là dự án luyện cán thép của tập đoàn Formosa - Đài Loan, hay
dự án sản xuất điện thoại thông minh của tập đoàn Samsung - Hàn Quốc. Tính
từ 01/1986 đến hết tháng 11/2018, thì số lượng dự án FDI còn hiệu lực của
Việt Nam là 27.068 dự án với số vốn đăng ký đầu tư đạt 337,82 tỉ USD.
Nhìn chung, dòng vốn FDI đăng ký có sự gia tăng qua các năm nhưng khoảng
cách giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện ngày càng gia tăng, trung bình qua 27 năm
thu hút vốn đầu tư thì tỷ lệ vốn thực hiện chỉ đạt trên 40% so với vốn đăng ký. Diễn
biến thực tế thu hút FDI và vốn FDI được giải ngân thực tế được minh họa qua hình
4.2.
Hình 4.2: Diễn biến của vốn FDI đăng ký và FDI thực hiện tại Việt Nam
Tổng lượng vốn FDI vào Việt Nam (triệu USD)
80000.00 70000.00
60000.00
50000.00
40000.00 30000.00 20000.00 10000.00 .00
1 9 9 1
2 9 9 1
3 9 9 1
4 9 9 1
5 9 9 1
6 9 9 1
7 9 9 1
8 9 9 1
9 9 9 1
0 0 0 2
1 0 0 2
2 0 0 2
3 0 0 2
4 0 0 2
5 0 0 2
6 0 0 2
7 0 0 2
8 0 0 2
9 0 0 2
0 1 0 2
1 1 0 2
2 1 0 2
3 1 0 2
4 1 0 2
5 1 0 2
Tổng vốn FDI đăng ký
Tổng số vốn FDI thực hiện
45
[Nguồn: Tổng cục Thống kê]
b. Hình thức đầu tư
FDI vào Việt Nam được thực hiện thông qua dưới nhiều hình thức khác nhau
như 100% vốn nước ngoài, liên doanh, hình thức BOT, BT, BTO, Hợp đồng hợp
tác kinh doanh, công ty cổ phần, công ty mẹ con.
Từ năm 1988 đến 1994, FDI tập trung chủ yếu vào hình thức liên doanh,
chiếm khoảng 80% tổng vốn đăng ký, 20% còn lại chia đều cho các hình thức khác.
Kể từ 1995 đến nay, FDI theo hình thức 100% vốn nước ngoài gia tăng thông qua
đầu tư mới hoặc chuyển từ liên doanh sang. Một trong những nguyên nhân khiến
cho hình thức liên doanh trong đầu tư trực tiếp nước giảm là do một số doanh
nghiệp liên doanh tạo nên tình trạng lỗ giả, lãi thật, gây thất thu ngân sách nhà
nước, làm cho bên Việt Nam phải rút khỏi liên doanh, trở thành doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài. Số lượng các dự án BOT, BT hay BTO chỉ là 18 dự án, chứng tỏ
hầu hết các doanh nghiệp FDI chú trọng vào việc tự đầu tư và tự quản lý. Như vậy,
về bản chất thì FDI cũng không khác nhiều so với đầu tư tư nhân trong nước.
Bảng 4.3: Các hình thức FDI tính đến tháng 11/2018
Tổng vốn đầu tư đăng ký STT Hình thức đầu tư Số dự án (Triệu USD)
1 100% vốn nước ngoài 22.825 242.564,522
2 Liên doanh 3.990 75.050,384
Hợp đồng BOT, BT,
3 BTO 18 14.221,238
4 Hợp đồng hợp tác KD 232 5.975,128
Tổng 27.065 337.811,272
c. Lĩnh vực ưu tiên đầu tư
Phân loại các dự án FDI vào Việt Nam tính đến tháng 04/2018 theo ngành
nghề được minh họa trong bảng 4.4.
46
Bảng 4.4: FDI vào Việt Nam phân theo ngành nghề
Số Tổng vốn đăng ký STT Chuyên ngành dự án (Triệu USD)
1 Công nghiệp chế biến, chế tạo 13.149 193.651,287
Hoạt động kinh doanh bất 2 động sản 754 57.928,328
Sản xuất, phân phối điện, khí, 3 nước, điều hòa 116 22.811,132
4 Dịch vụ lưu trú và ăn uống 727 11.963,405
5 Xây dựng 1.576 10.062,757
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa 6 ô tô, mô tô, xe máy 3.414 6.752,589
7 Khai khoáng 728 4.908,533
8 Vận tải kho bãi 108 4.903,812
9 Giáo dục và đào tạo 448 4.340,994
Nông nghiêp, lâm nghiệp và 10 thủy sản 492 3.462,107
Vốn FDI là một nhân tố quan trọng đóng góp rất lớn đến chuyển dịch cơ cấu
ngành theo hướng công nghiệp hóa ở Việt Nam và tỷ trọng công nghiệp so với GDP
tăng lên là nhờ đáng kể vào khu vực FDI. Vốn FDI đã xuất hiện ở tất cả các ngành,
trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn là lĩnh vực thu hút nhiều vốn
đầu tư nước ngoài nhất với khoảng hơn 13.149 dự án, với vốn đăng ký 193,65 tỉ
USD, chiếm 54,4% tổng vốn đăng ký. FDI vào kinh doanh bất động sản đứng thứ
hai với 754 dự án với tổng vốn đăng ký 57,93 tỉ USD, chiếm 21% tổng vốn đăng
ký. Tiếp theo là các lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống; xây dựng; sản xuất, phân
phối điện, nước, khí, điều hòa và các lĩnh vực khác.
47
4.3. Thực trạng chất lượng “vốn con người” của lực lượng lao động Việt
Nam
a. Tổng quan chung về nguồn nhân lực
Theo Bộ Lao động thương binh và xã hội nguồn nhân lực của nước ta tại thời
điểm giữa năm 2015, số người từ 15 tuổi trở lên cả nước có hơn 70,8 triệu, trong đó
có 53,7 triệu người thuộc lực lượng lao động. Nguồn lao động nông thôn vẫn được
xem là đông đảo, hiện chiếm gần 69,7 % lực lượng lao động. Tỷ lệ tham gia lực
lượng lao động là 76,2 %. Lao động nữ có khoảng 26,05 triệu người tương ứng với
48,5% tổng lực lượng lao động. Đặc điểm tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nam và
nữ cũng còn có sự chênh lệch khá lớn, tới 10,5 điểm phần trăm so với tỷ lệ tham gia
lực lượng lao động nam (81,7%). Đối với số lao động có việc làm trong tổng nguồn.
Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP) dựa vào chỉ số phát triển
nguồn nhân lực năm 2014, nhận định chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam chỉ xếp
vào loại trung bình, cụ thể chia chất lượng nguồn nhân lực thành 4 nhóm gồm:
Nhóm phát triển nguồn nhân lực cao: Singapore, Brunei.
Nhóm phát triển nguồn nhân lực trung bình cao: Malaysia, Thailand và
Philippines.
Nhóm phát triển trung bình: Indonesia, và Việt Nam.
Nhóm phát triển trung bình thấp: Cambodia, LaoPDR va Myanmar
Theo Ngân hàng thế giới, Việt Nam bắt đầu trở thành một trong những quốc
gia có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới, Cũng theo phân tích của Liên Hiệp Quốc,
thành phần dân số ở tuổi lao động của Việt Nam đã đạt đỉnh cao vào năm 2013 và
hiện nay đang giảm xuống, và đưa ra dự báo số người trên 65 tuổi sẽ tăng từ 6,3
triệu người hiện nay tới trên 18 triệu người vào năm 2040, chiếm hơn 18% số dân
và ảnh hưởng đến sự suy giảm chất lượng nguồn nhân lực vốn có của nước ta.
b. Cơ cấu lao động chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Trong năm 2015 cả nước có hơn 10,5 triệu lao động được đào tạo (tính số lao
động được đào tạo thời gian 3 tháng trở lên) trong tổng số 52,9 triệu lao động từ 15
tuổi trở lên có việc làm, chiếm 19,61%. Như vậy, có tới 80,1% tổng số lao động
48
chưa qua đào tạo. Đặc điểm này cũng dẫn đến tình trạng chất lượng lao động có sự
chênh lệch rõ nhất giữa khu vực nông thôn và thành thị. Đây là kết quả của ưu thế
hơn về cơ hội được học hành cũng như cơ hội nghề nghiệp ở thành thị. Ở thành thị
lao động đã được đào tạo chiếm 36,3%, trong khi ở nông thôn chỉ có 12,6%. Đây
chính là rào cản lớn cho việc cải thiện năng suất lao động. Cơ cấu nguồn nhân lực
theo chuyên môn kỹ thuật chưa phù hợp với nhu cầu thực tế, chưa cân đối giữa các
ngành đào tạo. Nhân lực được đào tạo trong các ngành kỹ thuật-công nghệ còn
chiếm tỉ trọng thấp. Lao động có trình độ kỹ thuật cao, công nhân lành nghề, đặc
biệt là các ngành trọng điểm như cơ khí, điện tử, kỹ thuật điện, các lĩnh vực tác
động mạnh tới tốc độ tăng trưởng cao và bền vững trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế còn thiếu hụt lớn cần thời gian dài mới đáp ứng cân đối được nhu cầu.
Bảng 8. Lao động có việc làm từ 15 tuổi trở lên chia theo trình độ chuyên môn
Danh mục Năm 2014 (Quý 4) Năm 2015 (Quý 2)
Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
(nghìn người) (%) (nghìn người) (%)
Toàn quốc 53.440,2 100 52.530,2 100
Các loại hình CMKT:
1- Không có trình độ CMKT 43.641,4 81,66 42.208,2 80,35
2- Dạy nghề từ 3 tháng trở lên 2.662,4 4,98 2.625,5 4,50
3- Trung cấp chuyên nghiệp 1.932,5 3,62 2.066,0 3,93
4- Cao đẳng chuyên nghiệp 1.105,0 2,07 1.342,4 2,56
5- Đại học trở lên 3.938,7 7,37 4.268,1 8,13
6- Không xác định 160,1 0,3 9,6 0,02
[Nguồn: Báo cáo điều tra Lao động việc làm Quý 2/2015 của Tổng cục thống kê]
49
Nếu so sánh chất lượng “vốn con người” của Việt Nam với các nước trong
Asean và Trung Quốc thông qua chỉ số về năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực
(tính theo thang điểm 10) thì chỉ số về giao dục đại học và đào tạo nguồn nhân lực
của Việt Nam đạt 3,69 điểm, chỉ số về sáng kiến sáng tạo đạt 3,07 điểm, nằm trong
5.93
Campuchia
Malysia
5.39
4.83
3.82
4.38
4.4
Việt Nam
Brunei
3.31
3.07
3.69
Singapore 6 5 4 3 3.19 2 1 0
Chỉ số về giáo dục đại học và đào tạo nguồn nhân lực
2.97
3.85
4.3
4.32
3.19
3.61
Philippines
Trung quốc
Chỉ số về sáng kiến- sáng tạo
4.17
4.35
Indonesia
Thái lan
nhóm quốc gia thấp nhất của khu vực. Hình 2 minh họa rõ nét hơn điều này.
Hình 2: So sánh chỉ số năng lực cạnh tranh của chất lượng “vốn con người”
4.4. Thực trạng quy mô kinh tế ngầm ở Việt Nam
Hình 1 cho thầy quy mô kinh tế ngầm ở Việt Nam luôn nằm trong xu hướng
giảm. Điều đó hàm ý những chính sách đổi mới kinh tế của Việt Nam mà Đảng và
Chính phủ đã và đang phát huy tác dụng kích thích khu vực kinh tế chính thức phát
triển, từ đó gián tiếp hạn chế sự phát triển của khu vực kinh tế ngầm.
025
020
015
010
005
-
1985
1990
1995
2000
2005
2010
2015
2020
Hình 4.3: Diễn biến quy mô kinh tế ngầm của Việt Nam giai đoạn 1991-2015
50
Năm 2008 khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra, quy mô kinh tế
ngầm ở Việt Nam có xu hướng tăng lên đôi chút, rồi vẫn nằm trong xu hướng giảm.
So với mức trung bình của thế giới thì năm 2015 quy mô kinh tế ngầm của Việt
Nam ở mức 14,78% so với quy mô khu vực kinh tế chính thức, thấp hơn mức
27,78% trung bình của 158 quốc gia trên toàn thế giới. Năm 2015, quy mô kinh tế
ngầm của Thái Lan ở mức 43,12 %, Singapore là 9,2%, Philippines là 28,04%,
Myanmar là 50,99%, Malaysia là 26,07%, Lao là 25%, Indonesia là 21,76%,
Campuchia là 33,85%. Như vậy, quy mô kinh tế ngầm hiện nay ở Việt Nam chỉ cao
hơn Singapore và thấp hơn hầu hết các nước trong cùng khu vực Asean. Sự tồn tại
(ở mức khá cao) của quy mô kinh tế ngầm là thách thức không nhỏ đối với Chính
phủ các quốc gia, ngay cả các nước đã phát triển như Mỹ quy mô kinh tế ngầm vẫn
chiếm 7%, Nhật Bản chiếm 8,19% thì vấn đề kìm hãm rồi tiến đến triệt tiêu hoàn
toàn khu vực kinh tế ngầm vẫn là câu hỏi chưa có lời giải đáp thỏa đáng.
4.5. Thống kê mô tả
Bảng thống kê mô tả cung cấp các thông tin tổng quan về trung bình, trung
vị, sai số, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất của các biến trong mô hình được minh
họa trong bảng 4.5.
Bảng 4.5: Thống kê mô tả các biến trong mô hình
Biến số Trung bình Lớn nhất Nhỏ nhất Sai số
18,69 22,24 14,78 2,314 SE
7,889 9,376 5,927 0,989 LnFDI
2,135 2,670 1,722 0,301 HC
4.6. Kết quả thực nghiệm
4.6.1. Kiểm định tính dừng
Trong dữ liệu chuỗi thời gian, để tránh kết quả hồi quy là giả mạo thì việc
đầu tiên là phải kiểm định tính dừng. Hơn nữa, điều kiện để áp dụng được mô hình
51
ARDL theo Pesaran et al (2001) là không có biến số nào dừng ở bậc sai phân lớn
hơn bậc 2. Kiểm định Dickey-Fuller mở rộng (ADF) là phương pháp phổ biến trong
nghiên cứu dữ liệu chuỗi thời gian, ngoài ra đề tài sử dụng thêm kiểm định PP do
Phillips & Perron đề xuất năm 1987 để đảm bảo tính chính xác. Kết quả kiểm định
tính dừng trong bảng 9 cho thấy biến SE và biến HC có dừng ở bậc gốc, biến FDI
không dừng ở bậc gốc mà dừng ở bậc 1. Như vậy thỏa mãn điều kiện không có biến
nào dừng ở bậc 2, do vậy áp dụng phương pháp tự hồi quy phân phối trễ vào mô
hình là hợp lý.
Bảng 4.6: Kết quả kiểm định tính dừng
Bậc gốc Bậc 1 Tên biến ADF test PP test ADF test PP test
-4,555*** -4,556*** -7,551*** -11,073*** SE
-1,402 -1,450 -3,278** -3,236** LnFDI
Ký hiệu ***, ** và * lần lượt biểu thị cho mức ý nghĩa 1%; 5% và 10%.
-3,106 -3,601* -3,368 -3.867* HC
4.6.2. Kết quả ước lượng bằng phương pháp bình phương tối thiểu OLS
Đầu tiên, tác giả ước lượng mối quan hệ giữa các biến trong mô hình bằng
phương pháp ước lượng bình phương tối thiểu OLS. Kết quả ước lượng được thể
hiện trong bảng 10. Theo đó, biến LnFDI mang dấu dương hàm ý thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài tăng thì quy mô kinh tế ngầm của Việt Nam cũng tăng. Tuy
nhiên kết luận này không có bằng chứng thống kê để ủng hộ. Trong khi đó biến HC
mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, hàm ý chất lượng thể chế phi chính
thức được cải thiện thì người dân sẽ từ bỏ khu vực kinh tế ngầm để chuyển sang
làm việc ở khu vực kinh tế chính thức. Hệ số chặn = 34,43 và có ý nghĩa thống kê,
điều này giải thích rằng nền kinh tế Việt Nam luôn tồn tại khu vực kinh tế ngầm,
cho dù khu vực kinh tế chính thức có hoạt động tốt hay không tốt.
52
Bảng 4.7: Kết quả ước lượng bằng phương pháp OLS
Tên biến Hệ số hồi quy Sai số t-Statistic Prob.
0,229978 0.205969 1.116568 0.2762 LnFDI
-8.217348 0.677750 -12.12445 0.0000 HC
34.42841 0.747751 46.04264 0.0000 Hệ số chặn
4.6.3. Kiểm định các giả thuyết của mô hình OLS
Theo định lý Gauss & Markov để kết quả thu được từ phương pháp bình
phương tối thiểu OLS là tối ưu thì mô hình phải không vi phạm các giả thuyết cơ
bản đó là: Đa cộng tuyến, phương sai thay đổi, tự tương quan, và phần dư có phân
phối chuẩn. Do vậy tác giả tiến hành kiểm định tiến hành các giả thiết này, kết quả
thu được như sau:
a. Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến
Tác giả sử dụng nhân tố phóng đại phương sai VIF (Variance Inflation
Factors) để phát hiện hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến độc lập trong mô
hình. Theo kết quả trong bảng 11, cả 2 biến LnFDI, HDI đều có giá trị VIF = 4,57 <
10, theo Trọng & Ngọc (2008) kết quả này có khả năng suy đoán giữa các biến độc
lập trong mô hình không tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến hoàn hảo.
Bảng 4.8: Kết quả nhân tử phóng đại phương sai VIF
Tên biến Giá trị VIF
LnFDI 4,793857
HC 4,793857
b. Kiểm định phương sai thay đổi
Để kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi, tác giả sử dụng kiểm định của
White (1980). Theo kết quả kiểm định trong bảng 12, thì trị thống kê n*R-square =
53
0,2986 có Prob = 0,8613 > 0,05. Như vậy có thể kết luận mô hình có phương sai
đồng nhất.
Bảng 4.9: Kết quả kiểm định White
Loại kiểm định: Kiểm định theo phương pháp của White
Giả thuyết trống: Mô hình có phương sai đồng nhất
F-statistic 0.132997 Prob. F(4,22) 0.8762
Obs*R-squared 0.298655 Prob. Chi-Square(2) 0.8613
Scaled explained SS 0.192745 Prob. Chi-Square(2) 0.9081
c. Kiểm định tự tương quan
Tác giả sử dụng kiểm định của Breusch-Godfrey để phát hiện mô hình có bị
hiện tượng tự tương quan hay không. Theo kết quả kiểm định trong bảng 13, thì trị
thống kê n*R-square = 1,0196 có Prob = 0,601 > 0,05. Như vậy có thể kết luận mô
hình không gặp phải hiện tượng tự tương quan bậc 2.
Bảng 4.10: Kết quả kiểm định Breusch-Godfrey
Loại kiểm định: Kiểm định của Breusch-Godfrey
Giả thuyết trống: Mô hình không bị tự tương quan bậc 2
F-statistic 0.425211 Prob. F(2,20) 0.6594
Obs*R-squared 1.019670 Prob. Chi-Square(2) 0.6006
d. Kiểm định phân phối chuẩn của phần dư
Giả thiết phần dư có phân phối chuẩn, tác giả sử dụng kiểm định của Jarque-
Bera để phát hiện. Theo kết quả trong bảng 14, thì giá trị Prob (Jarque-Bera) =
0,7129 > 0,05. Như vậy có thể kết luận phần dư của mô hình tuân theo quy luật
phân phối chuẩn.
Như vậy theo định lý của Gauss-Markov mô hình nghiên cứu chính của đề tài
thỏa mãn được bốn giả thiết là không bị đa cộng tuyến hoàn hảo, có phương sai
đồng nhất, không có tự tương quan và phần dư có phân phối chuẩn. Tuy nhiên, do
các biến trong mô hình không cùng dừng ở bậc gốc, nên kết quả ước lượng bằng
54
phương pháp OLS chưa thực sự đáng tin cậy. Tác giả sẽ trình bày lý do ở các phần
tiếp theo.
Bảng 4.11: Kết quả kiểm định Jarque-Bera
4.6.4. Xác định độ trễ tối ưu của mô hình
Theo Anno & Schneider (2003) dữ liệu về quy mô kinh tế ngầm là dữ liệu
dạng bền, tức là quy mô kinh tế ngầm năm hiện tại có tương quan mạnh với quy mô
kinh tế ngầm những năm trước đó. Do vậy việc xác định độ trế tối ưu của mô hình
là rất cần thiết. Nếu sử dụng độ trễ quá dài thì các ước lượng sẽ không hiệu quả,
ngược lại nếu độ trễ quá ngắn thì phần dư của ước lượng không thỏa mãn tính nhiễu
trắng (white noise) có thể làm sai lệch kết quả phân tích. Căn cứ để chọn độ trễ tối
ưu đó là các tiêu chuẩn như: Tiêu chuẩn AIC (Akaike Information Criterion), tiêu
chuẩn SC (Schwart Bayesian Criterion) và tiêu chuẩn HQ (Hannan Quinn
Information Criterion). Theo AIC, SC và HQ thì độ trễ tối ưu là độ trễ có chỉ số nhỏ
nhất. Kết quả xác định độ trễ tối ưu của mô hình nghiên cứu được thể hiện trong
bảng 4.12.
Bảng 4.12: Kết quả xác định độ trễ tối ưu
55
LR Lag LogL FPE AIC SC HQ
NA 0 -24.95481 0.002549 2.541346 2.690125 2.576394
1 76.62993 166.2296 5.70e-07 -5.875448 -5.280334 -5.735257
2 91.65492 20.48861* 3.49e-07* -6.423174* -5.381725* -6.177840*
3 100.0105 9.115187 4.28e-07 -6.364591 -4.876806 -6.014114
Kết quả thống kê cho thấy 3 tiêu chí AIC, SC và HQ cho biết độ trễ tối ưu
của mô hình dùng trong phân tích hồi quy là 2(năm). Theo tác giả điều này phù hợp
với thực tế bởi để chuyển đổi từ khu vực kinh tế ngầm sang khu vực kinh tế chính
thức (hoặc ngược lại) thì người lao động phải có thời gian gián đoạn để tìm được
doanh nghiệp phù hợp với mình. Hơn nữa, những điều kiện về cấp phép đầu tư, xây
dựng nhà xưởng, huấn luyện và đào tạo nhân viên của các doanh nghiệp đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam cũng phải kéo dài trong vòng từ 2 đến 3 năm.
4.6.5. Kiểm định đồng liên kết bằng phương pháp kiểm định đường bao.
Theo kết quả kiểm định tính dừng ở Bảng 9 thì các biến trong mô hình không
dừng cùng bậc với nhau. Cụ thể là biến SE và biến HC dừng ở bậc gốc, biến LnFDI
dừng ở bậc 1. Theo Engle & Granger (1987) việc các biến không dừng ở cùng bậc
vẫn có thể cho kết quả ước lượng đáng tin cậy nếu giữa các biến có tồn tại mối quan
hệ đồng liên kết trong dài hạn. Gần đây Pesaran và cộng sự (2001) khi giới thiệu
phương pháp ước lượng tự hồi quy phân phối trễ ARDL có đề xuất một phương
pháp kiểm định đồng liên kết gọi là phương pháp kiểm định đường bao (Bounds
test) với giả thiết H0 được phát biểu cho mô hình 2 như sau:
Giả thiết H0: β1 = β2 = β3 = 0
Giả thiết H1: β1 ≠ β2 ≠ β3 ≠ 0.
Nếu trị giá của thống kê F-statistic > giá trị của đường bao I(1) thì bác bỏ giả
thuyết H0, tức là giữa các biến của mô hình có tồn tại mối quan hệ đồng liên kết
trong dài hạn. Kết quả kiểm định đường bao của mô hình 2 được thể hiện trong
Bảng 4.13.
56
Bảng 4.13: Kết quả kiểm định đồng liên kết
F-Bounds test Giả thuyết trống: Không tồn tại đồng liên kết
Signif Test statistic Value I(0) I(1)
10% F-statistic 6.560662 2.63 3.35
5% k 2 3.1 3.87
2.5% 3.55 4.38
1% 4.13 5
Theo kết quả trong bảng 16, giá trị của F-statistic = 6,561 > Giới hạn trên của
đường bao I(1) = 5. Như vậy là bác bỏ giả thiết H0, chấp nhận giả thiết H1. Điều này
hàm ý giữa các biến trong mô hình 2 có tồn tại một tổ hợp tuyến tính trong dài hạn.
Kết quả này, lý giải cho sự chưa hợp lý của phương pháp ước lượng bình phương
nhỏ nhất OLS ở trong bảng 10. Việc ước lượng cần phải chuyển sang mô hình hiệu
chỉnh sai số ECM để xác định từng loại tác động: Tác động trong ngắn hạn và tác
động trong dài hạn.
4.6.6. Một số kiểm định bổ sung cho phương pháp ARDL
Để kết quả nghiên cứu là tin cậy, tác giả sẽ kiểm định các chẩn đoán bổ sung
gồm: kiểm định phương sai sai số thay đổi, kiểm định tự tương quan, kiểm định
phân phối chuẩn của phần dư, kiểm định mức độ ổn định của mô hình thông qua
kiểm định tổng tích lũy của phần dư CUSUM (Cumulative Sum of Recursive
Residuals) và tổng tích lũy hiệu chỉnh của phần dư CUSUMSQ (Cumulative Sum of
Square Recursive Residuals). Kết quả kiểm định chuẩn đoán bổ sung được minh
họa trong Bảng 4.14.
Bảng 4.14: Kết quả kiểm định bổ sung cho phương pháp ARDL
Loại kiểm định Giá trị Obs*R-squared Prob
Kiểm định phương sai thay đổi 3,631385 0,4582
Kiểm định tự tương quan 0,004073 0,9980
57
Kiểm định phân phối chuẩn của phần 0,079844 0,9609 dư
Theo kết quả kiểm định trong Bảng 17 thì mô hình nghiên cứu ứng dụng
phương pháp ARDL đều không gặp phải các khuyết tật là phương sai sai số thay
đổi, tự tương quan chuỗi và phần dư không có phân phối chuẩn. Kết quả kiểm định
CUSUM và CUSUMSQ được minh họa trong hình 4.4.
Hình 4.4: Kiểm định tính ổn định của mô hình ARDL
Theo hình 4, cả 2 kiểm định CUSUM và CUSUMSQ đều cho thấy đường hồi
quy ước lượng của mô hình (đường màu xanh) đều nằm trong dải giới hạn với mức
ý nghĩa 5% (đường màu đỏ). Điều này chứng tỏ mô hình có tính ổn định, các kết
quả hồi quy thu được từ các ước lượng trong ngắn hạn và trong dài hạn thỏa mãn
điều kiện là các ước lượng không chệch và hiệu quả nhất. Mô hình có thể dùng để
dự báo được.
4.6.7. Kết quả tác động trong ngắn hạn
Theo kết quả kiểm định đồng liên kết thì giữa các biến trong mô hình có tồn
tại đồng liên kết trong dài hạn, do vậy mô hình 2 cần được ước lượng bằng mô hình
3 (mô hình hiệu chỉnh sai số ECM). Ứng với mẫu dữ liệu, phương pháp ARDL tự
xác định được mô hình tối ưu là ARDL(1,1,0). Như vậy trong mô hình 3 giá trị của
m1 = m2 = 1, còn giá trị của m3 = 0. Kết quả ước lượng bằng mô hình sai số hiệu
58
chỉnh cũng chính là tác động trong ngắn hạn của đầu tư trực tiếp nước ngoài, của
trình độ dân trí đến quy mô kinh tế ngầm tại Việt Nam.
Bảng 4.15: Hệ số tác động trong ngắn hạn
Tên biến Hệ số β Sai số Thống kê t Prob
-0.868721 0.221410 -3.923582 0.0009 ECM(-1)
0.352756 0.234423 1.504779 0.1488 LnFDI(-1)
-7.475164 1.913411 -3.906722 0.0009 HC
0.208235 0.339874 0.612683 0.5474 ΔLnFDI
29.37223 7.646327 3.841351 0.0011 Hệ số chặn
Kết quả ước lượng trong Bảng 18 cho thấy mặc dù đầu tư trực tiếp nước
ngoài có tác động dương đến quy mô kinh tế ngầm tại Việt Nam nhưng không đủ
bằng chứng thống kê để xác nhận sự tác động này. Biến chất lượng thể chế phi
chính thức có tác động âm và có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1%, chứng tỏ nếu
chất lượng thể chế phi chính thức có chiều hướng thay đổi tích cực thì người lao
động cũng sẵn sàng từ bỏ ngay khu vực kinh tế ngầm.
Hệ số điều chỉnh ECM(-1) = -0,8687 và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, cộng
thêm với hệ số chặn = 29,37 và cũng có ý nghĩa thống kê, điều này hàm ý là xóa bỏ
ngay toàn bộ hoạt động của khu vực kinh tế ngầm ở Việt Nam trong ngắn hạn là
không khả thi. Hơn nữa, những “cú sốc” trong ngắn hạn (nếu có) đến từ đầu tư trực
tiếp nước ngoài và chất lượng thể chế phi chính thức hầu như tác động không đáng
kể đến sự thay đổi quy mô kinh tế ngầm tại Việt Nam. Cho dù có xảy ra các “cú
sốc” thì các hoạt động kinh tế ngầm vẫn có khả năng tự điều chỉnh về trạng thái cân
bằng trong dài hạn. Thời gian điều chỉnh cũng chỉ mất khoảng 1 năm (= -1/ECM).
4.6.8. Kết quả tác động trong dài hạn
Tiếp theo tác giả ước lượng kết quả tác động trong dài hạn để xác định định
được tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài, chất lượng thể chế phi chính thức
đến quy mô kinh tế ngầm tại Việt Nam sẽ như thế nào trong giai đoạn 1991-2015.
Bảng 19 sẽ minh họa tác động này.
59
Bảng 4.16: Kết quả tác động trong dài hạn
Tên biến Hệ số β Sai số Thống kê t Prob.
0.406063 0.267507 1.517952 0.1455 LnFDI
-8.604792 0.840789 -10.23419 0.0000 HC
33.81089 0.968268 34.91895 0.0000 Hệ số chặn
ECM = SE - (0.4061*LnFDI -8.6048*HDI + 33.8109 )
Kết quả phân tích tác động trong dài hạn cho thấy biến LnFDI không có ý
nghĩa thống kê. Điều này đồng nhất với kết quả của phương pháp ước lượng OLS
và cả tác động trong ngắn hạn, chứng tỏ không đủ bằng chứng thống kê để kết luận
đầu tư trực tiếp nước ngoài có mối liên hệ với quy mô kinh tế ngầm tại Việt Nam.
Trong khi biến HC mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1%, cũng
đồng nhất với kết quả của phương pháp OLS và tác động trong ngắn hạn, chứng tỏ
thực sự khi chất lượng thể chế phi chính thức được cải thiện (hay nói cách khác là
chất lượng “vốn con người” được nâng lên) thì những cơ hội được tham gia vào khu
vực kinh tế chính thức cũng mở rộng hơn, lợi ích của khu vực kinh tế chính thức
như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là quan trọng hơn với nhu cầu của chính người
lao động.
4.6.9. Kiểm đinh mối quan hệ nhân quả Granger giữa các biến số
Cuối cùng, tác giả sử dụng kiểm định của Granger (1987) để xác định mối
quan hệ giữa các biến số trong mô hình. Giả thiết kiểm định được phát biểu như
sau:
Giả thiết H0: Giữa 2 biến không tồn tại mối quan hệ nhân quả Granger
Giả thiết H1: Giữa 2 biến tồn tại mối quan hệ nhân quả Granger
Bảng 4.17: Kiểm định nhân quả Granger giữa các biến
Giả thuyết trống: Obs F-Statistic Prob
60
LnFDI không tác động nhân quả lên SE 23 0.62831 0.5448
SE không tác động nhân quả lên LnFDI 4.20484 0.0317
HC không tác động nhân quả lên SE 23 2.72397 0.0926
SE không tác động nhân quả lên HC 0.68636 0.5161
HC không tác động nhân quả lên LnFDI 23 4.42136 0.0274
LnFDI không tác động nhân quả lên HC 0.44396 0.6483
Kết quả kiểm định Granger cho thấy giữa SE và LnFDI; giữa HC và LnFDI
có Prob < 0,05, chứng tỏ có mối quan hệ nhân quả Granger một chiều giữa SE và
LnFDI; giữa HC và LnFDI. Giữa các cặp biến khác không tìm thấy bằng chứng
thống kê để kết luận.
4.7. Thảo luận kết quả
Mặc dù số lượng các nghiên cứu về tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài,
chất lượng thể chế phi chính thức đến quy mô kinh tế ngầm còn khiêm tốn, nhưng
kết luận của nghiên cứu này cũng trùng với kết luận của Võ Hồng Đức & Lý Hưng
Thịnh (2014) khi cho rằng có mối quan hệ hai chiều và đồng biến giữa quy mô kinh
tế ngầm và tham nhũng tại các quốc gia Đông Nam Á (trong đó có Việt Nam). Kết
luận của nghiên cứu này là không có mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài
và quy mô kinh tế ngầm tại Việt Nam, điều này không trùng với nghiên cứu của
Hesam Nikopour và cộng sự (2009). Theo tác giả sự khác nhau này là có thể chấp
nhận được vì nghiên cứu của Hesam Nikopour và cộng sự (2009) nghiên cứu cho
145 quốc gia trên thế giới. Ngay so với các nước Asean thì quy mô kinh tế ngầm
của Việt Nam đã thấp hơn khá nhiều, nếu so với các quốc gia như Châu Phi hay
Châu Mỹ La tinh thì khoảng cách này còn lớn hơn nữa.
Theo Acemoglu & Robinson (2008), sự khác biệt về thể chế và chất lượng
thể chế là nguyên nhân căn bản dẫn đến khác biệt về tăng trưởng kinh tế, lâu dài
hình thành nên các quốc gia phát triển, đang phát triển và kém phát triển. Kết luận
của nghiên cứu này củng cố thêm nhận định của Acemoglu & Robinson (2008)
61
rằng, sự thay đổi trong cả chất lượng thể chế chính thức hay thể chế phi chính thức
đều tác động đến tăng trưởng kinh tế, gián tiếp hạn chế các hoạt động của khu vực
kinh tế ngầm. Hạn chế quy mô kinh tế ngầm bằng cả thể chế chính thức và thể chế
phi chính thức là sự lựa chọn sáng suốt.
Tiểu kết chương 4
Trong chương 4, tác giả đã minh họa cơ bản thực trạng tăng trưởng kinh tế,
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, quy mô kinh tế ngầm của Việt Nam trong giai
đoạn từ 1991-2015. Tiếp theo, tác giả ứng dụng hai phương pháp ước lượng là
phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS và phương pháp tự hồi quy phân phối trễ
ARDL để phân tích tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài, chất lượng thể chế phi
chính thức đến quy mô kinh tế ngầm ở Việt Nam. Tác giả cũng thực hiện đầy đủ các
kiểm định bổ sung để khẳng định kết quả nghiên cứu là đáng tin cậy. Theo đó,
không đủ bằng chứng thống kê để kết luận đầu tư trực tiếp nước ngoài có mối liên
hệ với kinh tế ngầm, nhưng cải thiện chất lượng thể chế phi chính thức sẽ giúp giảm
đáng kể hoạt động kinh tế ngầm tại Việt Nam.
62
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
5.1. Kết luận và hàm ý chính sách rút ra từ nghiên cứu
5.1.1. Kết luận
Việc hạn chế tiến dần đến xóa bỏ khu vực kinh tế ngầm vẫn luôn là mong
muốn của các Chính phủ, nhưng thực tiễn cũng chỉ ra rằng xóa bỏ kinh tế ngầm là
không đơn giản. Nhiều nghiên cứu đã tìm thấy các yếu tố có thể tác động đến quy
mô kinh tế ngầm, tuy nhiên số lượng các nghiên cứu ứng dụng vào tình hình thực tế
cho kinh tế Việt Nam còn rất khiêm tốn. Với dữ liệu về quy mô kinh tế ngầm thu
thập từ Quỹ tiền tệ thế giới IMF trong giai đoạn từ 1991-2015, và ứng dụng phương
pháp tự hồi quy phân phối trễ ARDL do Pesaran và cộng sự đề xuất năm 2001,
kiểm định nhân quả Granger theo phương pháp của Engle & Granger (1987),
nghiên cứu này rút ra được các kết luận chủ yếu sau:
Thứ nhất: Bổ sung thêm một nghiên cứu thực nghiệm về tác động của
đầu tư trực tiếp nước ngoài đến quy mô kinh tế ngầm. Theo đó, không
đủ bằng chứng thống kê để kết luận đầu tư trực tiếp nước ngoài có
mối liên hệ với quy mô kinh tế ngầm tại Việt Nam.
Thứ hai: Có bằng chứng thống kê mạnh để khẳng định cải thiện chất
lượng thể chế phi chính thức (đo lường bằng chất lượng “vốn con
người”) có tác động làm giảm quy mô kinh tế ngầm ở Việt Nam.
Thứ ba: Có mối quan hệ nhân quả Granger một chiều từ quy mô kinh
tế ngầm đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ chất lượng thể chế phi
chính thức đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
5.1.2. Hàm ý chính sách
Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số lưu ý khi vận dụng kết quả này
vào thực tiễn như sau:
Thứ nhất, bên cạnh sử dụng thể chế chính thức như tính nghiêm minh của
pháp luật, hạn chế tham nhũng, tăng cường bảo vệ tính mạng và tài sản cho người
dân v.v… thì công tác tuyên truyền kiến thức pháp luật, cải thiện trình độ dân trí,
63
đầu tư cho giáo dục, dạy nghề, phát huy vai trò của truyền thống, văn hóa dân tộc
cũng giúp hạn chế quy mô kinh tế ngầm ở Việt Nam. Việc nâng cao trình độ dân trí
vừa có tác động trong ngắn hạn vừa có tác động trong dài hạn, nhưng nâng cao trình
độ dân trí là cả một quá trình. Ngay từ bây giờ và mọi lúc, mọi nơi người dân cần có
ý thức nâng cao trình độ cho chính mình thông qua lao động sản xuất, thông qua
khả năng tự học, bên cạnh các chính sách khuyến khích của Nhà nước.
Thứ hai, nghiên cứu này không tìm thấy bằng chứng là thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài có mối liên hệ với quy mô kinh tế ngầm ở Việt Nam. Điều này
không đồng nghĩa với việc Việt Nam nên thu hút càng nhiều đầu tư trực tiếp nước
ngoài càng tốt. Bên cạnh các tác động tích cực, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đã
bộc lộ nhiều hạn chế ở Việt Nam. đặc biệt là sự cạn kiệt tài nguyên và gây ô nhiễm
môi trường. Ô nhiễm dù là ít cũng không được khuyến khích, tuy nhiên đòi hỏi các
dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài không gây ô nhiễm là phi thực tế. Điều này hàm ý
các cơ quan quản lý Nhà nước cần làm tốt hơn nữa việc thẩm định và kiểm tra các
dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cả trước, trong và sau quá trình đầu tư, để tình
trạng ô nhiễm luôn ở dưới mức cho phép.
5.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng thể chế phi chính thức
Các chuyên gia kinh tế đã chỉ ra rẳng, nếu tăng trưởng chỉ dựa vào những lợi
thế không căn bản, như khai thác tài nguyên thiên nhiên, sử dụng công nghệ lạc
hậu, lao động giá rẻ... thì đến một lúc nào đó sẽ trở thành một lực cản cho quá trình
phát triển tiếp theo. Sử dụng lợi thế nhiều nhân công giá rẻ, năng suất lao động thấp,
làm cho người lao động không có thời gian để đào tạo lại và nâng cao trình độ, đến
khi cho dù có công nghệ mới, thì trình độ của nhân công cũng không thể đáp ứng
được những đòi hỏi mới của công nghệ hiện đại và như vậy nền kinh tế lại rơi vào
vòng luẩn quẩn, mất cân đối trầm trọng về các yếu tố đầu vào có chất lượng cho sản
xuất, do đó không thể phát triển được.
Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) đã thẳng thắn chỉ ra: “Chất lượng giáo dục
nhìn chung thấp, nhất là ở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp, chưa thực sự
đáp ứng yêu cầu sử dụng nhân lực và nhu cầu của người học, chưa theo kịp sự
64
chuyển biến của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế, là một trong những nguyên nhân làm hạn chế chất lượng nguồn nhân lực
của đất nước…. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng, giữa
dạy chữ với dạy người, dạy nghề,…”. Kết luận của nghiên cứu này là chất lượng thể
chế phi chính thức sẽ làm giảm quy mô kinh tế ngầm, do vậy giải pháp để nâng cao
chất lượng thể chế phi chính thức vẫn là tập trung cho các giải pháp về nâng cao
chất lượng “vốn con người”.
Theo Báo cáo lao động việc làm của Tổng cục thống kê tính đến Quý 2 năm
2018 cả nước có hơn 55,1 triệu người thuộc lực lượng lao động. Lao động ở nông
thôn vẫn chiếm 67,8%. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 76,6 %. Khác biệt về
mức độ tham gia hoạt động kinh tế giữa khu vực thành thị và nông thôn vẫn tồn tại,
khoảng 12,8 điểm phần trăm (68,4% và 81,2%). So với quý 2 năm 2017, mức độ
tham gia hoạt động kinh tế của nam và nữ gần như không có sự thay đổi đáng kể.
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nam là 82,0% trong khi tỷ lệ này ở nữ là 71,4%.
Đến Quý 2, năm 2018 cả nước có 1,1 triệu lao động thất nghiệp, nếu tính cả số lao
động không thất nghiệp nhưng thiếu việc làm thì phải cộng thêm 154,5 nghìn người.
Đây là một trong những nguyên nhan chủ yếu thúc đẩy những người thất nghiệp
tham gia vào khu vực kinh tế ngầm, bởi nhu cầu có việc làm là nhu cầu của tất cả
mọi người.
Một nguyên nhân khác dẫn đến người lao động buộc phải chọn khu vực kinh
tế ngầm đó là do họ không đủ chuyên môn. Tính đến quý 2, năm 2018 cả nước vẫn
có đến 43,08 triệu người thuộc lực lượng lao động không có trình độ chuyên môn
kỹ thuật, có chuyên môn trung cấp là 2,16 triệu, cao đẳng là 1,64 và đại học trở lên
là 5,28 triệu người. tình trạng thất nghiệp ở nông thôn cao hơn thành thị. Đây là kết
quả của ưu thế hơn về cơ hội được học hành cũng như cơ hội nghề nghiệp ở thành
thị. Nhân lực được đào tạo trong các ngành kỹ thuật-công nghệ còn chiếm tỷ trọng
thấp. Lao động có trình độ kỹ thuật cao, công nhân lành nghề, đặc biệt là các ngành
trọng điểm như cơ khí, điện tử, kỹ thuật điện, các lĩnh vực tác động mạnh tới tốc độ
65
tăng trưởng cao và bền vững trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế còn thiếu hụt
lớn cần thời gian dài mới đáp ứng cân đối được nhu cầu.
Xuất phát từ thực tế đó, tác giả xin đề xuất một số nhóm giải pháp như sau:
Thứ nhất, tiếp tục củng cố, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục
phổ thông, từ đó góp phần tạo nền tảng cho việc đào tạo nguồn nhân
lực ở những giai đoạn, thang bậc trình độ cao hơn.
Thứ hai, cần cải tiến, hiện đại hóa chương trình, nội dung và phương
pháp giảng dạy. Hướng việc học gắn với nhu cầu thực tế của thị
trường lao động nói chung và của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài nói riêng. Áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong dạy
và học.
Thứ ba, xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên, giáo viên các cấp
sao cho đảm bảo về số lượng, giỏi chuyên môn và có đạo đức, đủ khả
năng để tạo ra những chuyển biến tốt về chất lượng đào tạo.
Thứ tư, đa dạng hóa ngành nghề, hình thức giảng dạy trên cơ sở nắm
bắt nhu cầu lao động. Đẩy mạnh hợp tác giữa các trường với doanh
nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh để sinh viên, học sinh có thể tiếp xúc
thực tế qua đó cũng dễ nắm bắt được nhu cầu của các doanh nghiệp và
xây dựng chương trình đào tạo sát với thực tiễn.
Thứ năm, cần đa dạng hóa các cơ sở, ngành nghề và phương thức đào
tạo. Khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước thành lập cơ sở dạy nghề và tham gia hoạt động dạy nghề.
Thứ sáu, tăng cường công tác đào tạo lại và đào tạo mới cho người lao
động làm việc trong các doanh nghiệp bằng hình thức đào tạo tại chỗ
hoặc gửi đến các trung tâm lớn như thành phố Hồ Chí Minh hay Hà
Nội… Cuối cùng, triển khai các chương trình, dự án hỗ trợ người lao
động làm việc trong các khu công nghiệp, nhất là nhà ở và điều kiện
sinh hoạt của người lao động.
66
5.3. Một số giải pháp cải thiện chất lượng thể chế chính thức
Thể chế chính thức và thể chế phi chính thức đều là công cụ để điều chỉnh
hành vi của các cá nhân và tổ chức trong một xã hội coi trong pháp luật. Do đó, khó
mà có thể tách rời việc nâng cao chất lượng thể chế phi chính thức với chất lượng
thể chế chính thức. Căn cứ vào tổng kết thực tiễn trong nghiên cứu của Đỗ Đức
Bình (2018) trong kinh tế Việt Nam, tác giả đề xuất một số định hướng cho các giải
pháp cải thiện chất lượng thể chế chính thức như sau:
a. Kiểm soát tham nhũng
Đấu tranh chống tham nhũng đòi hỏi phải giải quyết tận gốc những nguyên
nhân gây ra nó. Đặc biệt tại những nơi tham nhũng đã lan ra trên diện rộng thì đấu
tranh chống tham nhũng thông qua hoạt động thanh tra và cưỡng chế cho từng
trường hợp thì chưa đủ. Nỗ lực này cần hướng tới mục tiêu giảm cơ hội thực hiện
hành vi tham nhũng, tăng cạnh tranh trong nền kinh tế, tăng cường minh bạch chính
trị, tăng sự tham gia của xã hội dân sự vào các quá trình hoạch định, thực thi và theo
dõi thực thi chính sách. Qua thực tiễn tại Việt Nam, tác giả đề xuất một số giải pháp
nhóm giải pháp như sau;
Thứ nhất: Thiết lập khung pháp lý để kiểm soát quyền lực và có chế
tài đủ mạnh đối với các hành vi tham nhũng.
Thứ hai: Tăng cường dân chủ ở cơ sở thông qua các cơ chế tố giác
tham nhũng, bầu cử tự do, và trao quyền tự do cho các cơ quan báo
chí.
Thứ ba: Đưa chủ đề tham nhũng vào trong môi trường giáo dục nhằm
nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm trong toàn dân trong việc
chống tham nhũng.
Thứ tư: Đưa giải trình và trách nhiệm giải trình thành chương trình
làm việc và tiêu chí để đánh giá năng lực và đề bạt/bổ nhiệm cán bộ
quản lý các cấp.
67
b. Hoàn thiện hệ thống cơ sở pháp lý
Tác giả cũng có quan điểm giống với đề xuất của Đỗ Đức Bình (2018) về
một số giải pháp để hoàn thiện thể chế luật pháp hiện nay là:
Thứ nhất: Đổi mới phương thức xây dựng Luật của Quốc Hội và xây
dựng chính sách của các cơ quan chính phủ. Muốn làm được điều này,
cần tập hợp được các chuyên gia đầu ngành có am hiểu cả về kiến
thức luật và chuyên môn, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Quốc Hội
hoặc Chính phủ (tùy từng trường hợp cụ thể). Giao quyền, trách nhiệm
và cung cấp các phương tiện để đội ngũ chuyên gia này làm việc và
hoàn thành đúng tiến độ và có chất lượng.
Thứ hai: Sớm hoàn thiện thể chế các quyền tài sản, quyền tự do kinh
doanh và quyền tự do cạnh tranh, phát triển kinh tế tư nhân, các loại
hình doanh nghiệp.
Thứ ba: hoàn thiện chính sách, công cụ điều tiết thị trường, đảm bảo
cạnh tranh và kiểm soát độc quyền; hoàn thiện thể chế phát triển hệ
thống thị trường đồng bộ, hiện đại; hoàn thiện thể chế gắn kết tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
5.4. Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo
Kinh tế ngầm đang tồn tại như một thực tế của cuộc sống trên toàn thế giới,
bất chấp quốc gia đó là nước phát triển, đang phát triển hay chậm phát triển. Sự phát
triển của khu vực kinh tế ngầm là biểu hiện rõ nét nhất cho chất lượng thể chế mà
quốc gia đó đang áp dụng. Mặc dù đã lập luận về tính hợp lý của mô hình sử dụng
cũng như kết quả nghiên cứu, nhưng tác giả vẫn nhận thấy nghiên cứu này gặp phải
một số hạn chế sau:
(i) Ngoài đầu tư trực tiếp nước ngoài, chất lượng thể chế phi chính thức còn
nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến quy mô kinh tế ngầm tại Việt Nam như số
lượng các loại thuế, mức thuế suất v.v…nhưng do độ dài của dữ liệu bị hạn
chế nên tác giả không thể đưa thêm vào mô hình.
68
(ii) Việc sử dụng biến chất lượng “vốn con người” làm đại diện cho chất lượng
thể chế phi chính thức chưa khái quát hết được nội hàm của khái niệm này.
(iii) Kinh tế ngầm có thể xảy ra ở cả nông thôn và thành thị, nghiên cứu này chưa
chỉ ra được sự khác nhau này.
Từ những hạn chế trên, tác giả cũng gợi mở một số hướng nghiên cứu tiếp theo như
sau:
Nghiên cứu cụ thể quy mô kinh tế ngầm ở thành thị và quy mô kinh tế
ngầm ở nông thôn.
Có thể áp dụng các phương pháp hồi quy khác (ví dụ như phương
pháp hồi quy không gian) để nghiên cứu tác động của đầu tư trực tiếp
nước ngoài và chất lượng thể chế đến quy mô kinh tế ngầm. Vì trong
xu hướng toàn cầu hóa, dòng vốn FDI sẽ luân chuyển khá linh hoạt và
tự do giữa các nước/khu vực. Sự tương đồng về khu vực địa lý, tài
nguyên thiên nhiên, cùng hội nhập vào một khối kinh tế của các quốc
gia láng giềng làm cho sự cạnh tranh càng trở nên gay gắt. Các chính
sách kinh tế tốt như chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài,
chính sách hạn chế kinh tế ngầm… có thể bị sao chép giữa các quốc
gia/khu vực kinh tế tương đồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Đỗ Đức Bình. (2018). Quan điểm và giải pháp đột phá về khắc phục các rào cản
thể chế kinh tế đối với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đến năm 2030.
Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 251, trang 10-20.
2. Võ Hồng Đức & Lý Hưng Thịnh. (2014). Kinh tế ngầm và tham nhũng tại các
quốc gia Đông Nam Á. Tạp chí khoa học - Trường Đại học Mở, Thành phố
Hồ Chí Minh, số 42, trang 78-90.
TIẾNG ANH
1. Acemoglu, D., & Robinson, J. A. (2008). The role of institutions in growth and
development, World Bank, Washington DC.
2. Acemoglu, D., & Robinson, J. A. (2013),"Why nations fail: the origins of power,
prosperity and poverty", Journal of Organizational Change Management,
32(1), 154-156.
3. Acemoglu, D., & Verdier, T. (2000),"The choice between market failures and
corruption", American economic review, 90(1), 194-211.
4. Arrow, K. (1962), ‘The Economic implication of learning-by-doing’, Review of
Economic Studies, 29(1). 155-173.
5. Bajda, C. and Schneider, F. (2005). The Shadow Economies of the Asia-Pacific.
Pacific Economic Review, 10(3), 379-401.
6. Buehn, A. & Schneider, F. (2012). Corruption and the shadow economy: like oil
and vinegar, like water and fire?. Int Tax Public Finance (2012) 19:172–194.
7. Buehn, A. & Schneider, F. (2009). Corruption and the Shadow Economy: A
Structural Equation Model Approach. IZA Discussion Paper No. 4182.
8. Dell’Anno, R. and Schneider, F. (2004). The Shadow Economy of Italy and other
OECD Countries: What Do We Know? Linz: University of Linz, Department
of Economics. Discussion Paper. Journal of Public Finance and Public Choice,
2005.
9. Dell’Anno, R. and Schneider, F. (2006). Estimating the Underground Economy
by Using MIMIC Models: A Response to T. Breusch´s critique. Linz:
University of Linz, Department of Economics. Working Paper. No. 0607.
10. Dreher, A., Kosogiannis, Ch., & McCorriston, S. (2007). Corruption around the
world: evidence from astructural model. Journal of Comparative Economics,
35(3), 443–446.
11. Dreher, A., Kotsogiannis, C., & McCorriston, S. (2008). How do institutions
affect corruption and the shadow economy? International Tax and Public
Finance.
12. Feige, E., L. ed. (1989). The Underground Economies: Tax Evasion and
Information Distortion. Cambridge: Cambridge University.
13. Feld, L. and Schneider, F. (2010). Survey on the Shadow Economy and
Undeclared Earnings in OECD Countries. Invited Paper written for
publication in the German Economic Review, Department of Economics,
University of Linz, Linz, Austria.
14. Hesam Nikopour., Habibullah, M.S., Schneider, F and Law, S.H., (2009).
Foreign direct investment and Shadow Economy: A causality analysis using
panel data. Munich Personal RePEc Archive, No.14485. http://mpra.ub.uni-
muenchen.de/14485.
15. Hirschman, Albert O. (1970). Exit, Voice and Loyalty. Cambridge: Harvard U.
Press
16. Johnson, Simon; Daniel Kaufmann and Andrei Shleifer. (1997). The unofficial
economy in transition. Brookings Papers on Economic Activity 2: 159-221.
17. Loayza, Norman V. (1996). The Economics of the Informal Sector: A Simple
Model and Some Empirical Evidence from Latin America. Carnegie-
Rochester Conf. Series Public Policy, 45, pp. 129–62.
18. Mogensen, Gunnar V.; Hans K. Kvist, Eszter Körmendi, and Soren Pedersen
(1995). The Shadow Economy in Denmark 1994: Measurement and Results.
Study No. 3, Rockwool Foundation Research Unit, Copenhagen.
19. North, D. (1990). Institutions, institutional changes and economic performance.
Cambridge: Cambridge University Press.
20. Schneider (2010). The Influence of the economic crisis on the underground
economy in Germany and the other OECD countries. Review of Law and
Economics, 6(3), 441-468.
21. Schneider, F. (2006). Shadow economies and corruption all over the world:
what do we really know? CESifo working paper No. 1806.
22. Schneider, F. and Enste, D., H. (2000). Shadow Economies - Size, Causes, and
Consequences. Journal of Economic Literature, 38(1), 77-114.
23. Schneider, F.; Buehn, A.; and Montenegro C. E. (2010). Shadow Economies All
over the World - New Estimates for 162 Countries from 1999 to 2007. World
Bank, Policy Research Working Paper 5356.
24. Smith, Philip (1994). Assessing the Size of the Underground Economy: The
Canadian Statistical Perspectives Canadian Econ. Observer, Cat. No. 11–010,
3.16–33, at 3.18.
25. Tanzi, V. (1998). Corruption around the world: causes, consequences, scope and
cures. IMF Staff Papers, 45(4), 559–594.
26. Tanzi, Vito. (1999). Uses and Abuses of Estimates of the Underground
Economy. Econ. J., 109:456,pp. 338–40.
27. Torgler, B. and Schneider, F. (2009). The Impact of Tax Morale and
Institutional Quality on the Shadow Economy. Journal of Economic
Psychology, 30(2), 228-245.
PHỤ LỤC KẾT QUẢ HỒI QUY
Phụ lục 1: Kết quả ước lượng bằng phương pháp OLS
Dependent Variable: SE
Method: Least Squares
Date: 12/19/18 Time: 18:35
Sample: 1991 2015
Included observations: 25
Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.
LnFDI 0.229978 0.205969 1.116568 0.2762
HC -8.217348 0.677750 -12.12445 0.0000
34.42841 0.747751 46.04264 0.0000 C
R-squared 0.964356 Mean dependent var 18.69480
Adjusted R-squared 0.961116 S.D. dependent var 2.313529
S.E. of regression 0.456207 Akaike info criterion 1.380425
Sum squared resid 4.578738 Schwarz criterion 1.526690
Log likelihood -14.25531 Hannan-Quinn criter. 1.420992
F-statistic 297.6087 Durbin-Watson stat 1.631745
Prob(F-statistic) 0.000000
Phụ lục 2: Kiểm định nhân tử phóng đại phương sai VIF
Variance Inflation Factors
Date: 12/19/18 Time: 18:48
Sample: 1991 2015
Included observations: 25
Coefficient Uncentered Centered
Variable Variance VIF VIF
LnFDI 0.042423 321.9683 4.793857
HC 0.459345 256.4147 4.793857
C 0.559131 67.16304 NA
Phụ lục 3: Kiểm định phương sai thay đổi
Heteroskedasticity Test: White
Null hypothesis: Homoskedasticity
F-statistic 0.132997 Prob. F(2,22) 0.8762
Obs*R-squared 0.298655 Prob. Chi-Square(2) 0.8613
Scaled explained SS 0.192745 Prob. Chi-Square(2) 0.9081
Phụ lục 4: Kiểm định tự tương quan
Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test:
Null hypothesis: No serial correlation at up to 2 lags
F-statistic 0.425211 Prob. F(2,20) 0.6594
Obs*R-squared 1.019670 Prob. Chi-Square(2) 0.6006
Phụ lục 5: Kiểm định Jarque-Bera
Phụ lục 6: Xác định độ trễ tối ưu của mô hình
LR Lag LogL FPE AIC SC HQ
NA 0 -24.95481 0.002549 2.541346 2.690125 2.576394
1 76.62993 166.2296 5.70e-07 -5.875448 -5.280334 -5.735257
2 91.65492 20.48861* 3.49e-07* -6.423174* -5.381725* -6.177840*
3 100.0105 9.115187 4.28e-07 -6.364591 -4.876806 -6.014114
Phụ lục 7: Kết quả kiểm định đường bao
F-Bounds Test Null Hypothesis: No levels relationship
Test Statistic Value Signif. I(0) I(1)
Asymptotic:
n=1000
10% 2.63 3.35 F-statistic 6.560662
5% 3.1 3.87 k 2
2.5% 3.55 4.38
1% 4.13 5
Finite Sample:
n=35 Actual Sample Size 24
10% 2.845 3.623
5% 3.478 4.335
1% 4.948 6.028
Finite Sample:
n=30
2.915 10% 3.695
3.538 5% 4.428
5.155 1% 6.265
Phụ lục 8: Kiểm định CUSUM
Phụ lục 9: Kiểm định CUSUMSQ
Phụ lục 10: Kết quả tác động ngắn hạn
ARDL Long Run Form and Bounds Test
Dependent Variable: D(SE)
Selected Model: ARDL(1, 1, 0)
Case 2: Restricted Constant and No Trend
Date: 12/20/18 Time: 09:35
Sample: 1991 2015
Included observations: 24
Conditional Error Correction Regression
Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.
C 29.37223 7.646327 3.841351 0.0011
SE(-1)* -0.868721 0.221410 -3.923582 0.0009
LnFDI(-1) 0.352756 0.234423 1.504779 0.1488
HC** -7.475164 1.913411 -3.906722 0.0009
D(LnFDI) 0.208235 0.339874 0.612683 0.5474
* p-value incompatible with t-Bounds distribution.
** Variable interpreted as Z = Z(-1) + D(Z).
Phụ lục 11: Kết quả tác động dài hạn
Levels Equation
Case 2: Restricted Constant and No Trend
Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.
LnFDI 0.406063 0.267507 1.517952 0.1455
HC -8.604792 0.840789 -10.23419 0.0000
C 33.81089 0.968268 34.91895 0.0000
ECM = SE - (0.4061*LnFDI -8.6048*HC + 33.8109 )
Phụ lục 12: Kết quả kiểm định nhân quả Granger giữa các biến
Pairwise Granger Causality Tests
Date: 12/20/18 Time: 10:12
Sample: 1991 2015
Lags: 2
Null Hypothesis: F-Statistic Prob. Obs
LnFDI does not Granger Cause SE 0.62831 0.5448 23
SE does not Granger Cause LnFDI 4.20484 0.0317
HC does not Granger Cause SE 2.72397 0.0926 23
SE does not Granger Cause HC 0.68636 0.5161
HC does not Granger Cause LnFDI 4.42136 0.0274 23
LnFDI does not Granger Cause HC 0.44396 0.6483