intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài liệu Canh tác hữu cơ: Phần 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:61

27
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nối tiếp nội dung phần 1, phần 2 cuốn sách "Canh tác hữu cơ" tiếp tục cung cấp tới bạn đọc nội dung về luân canh cây trồng: kết hợp toàn bộ các biện pháp cùng nhau; quy trình sản xuất rau, sản xuất trái cây; sản xuất chè; sản xuất động vật hữu cơ; chuyển đổi canh tác hữu cơ,... Hi vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích phục vụ công việc, học tập và cuộc sống của các bạn nhé.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài liệu Canh tác hữu cơ: Phần 2

  1. 8. Luân canh cây trồng: Phối hợp toàn bộ các biện pháp cùng nhau Luân canh cây trồng là biện pháp then chốt trong canh tác hữu cơ. Luân canh cây trồng không chỉ là biện pháp mang tính quyết định để tránh bệnh hại, mà nó còn là phương pháp để quản lý thành công cỏ dại và dinh dưỡng Luân canh cây trồng cho ta thấy bức tranh toàn cảnh của toàn bộ trang trại và phản ánh khả năng sử dụng sự hiểu biết của người nông dân về sinh thái và tiềm năng sinh học trong trang trại 8.1 Tầm quan trọng của luân canh cây trồng – Cân nhắc lại mọi khía cạnh Chúng ta sẽ bắt đầu chương này với việc xem xét lại các khía cạnh khác nhau của luân canh cây trồng đã được thảo luận trong các chương trước. Luân canh cây trồng là gì? Luân canh cây trồng là một trật tự các cây trồng cụ thể đã được cân nhắc và được trồng trong cùng một thửa ruộng. Luân canh cây trồng cũng có nghĩa các cây trồng tiếp theo là một loại, một loài hoặc một giống khác với cây trồng trước đó. Ví dụ lúa mạch sau lúa mì, ngũ cốc sau cây họ đậu, cà chua sau cải bắp v.v. Chuỗi luân canh có kế hoạch này có thể là chỉ cho một vài năm hoặc là liên tục, như trong sản xuất rau hữu cơ. Luân canh tốt là một phần quan trọng trong bất kỳ hệ thống hữu cơ nào. Luân canh phải đáp ứng nhiều vai trò quan trọng, gồm cả việc giảm thiểu các vấn đề về cỏ dại, sâu bệnh hại, duy trì các lớp vật chất hữu cơ và cấu trúc đất, cung cấp đủ đạm và làm cho việc thất thoát dinh dưỡng giảm tới mức thiểu. Luân canh đồng thời phải sản sinh đủ thức ăn cho chăn nuôi và duy trì sản phẩm đầu ra của chăn nuôi và cây trồng hoa lợi để nông dân có thể có được một khoản thu nhập thỏa đáng. Không có luân canh tốt, nông dân không thể canh tác hữu cơ thành công, ít nhất là theo nghĩa phát triển bền vững. Luân canh cây trồng đã rơi vào tình trạng không được tán thành vì chúng đòi hỏi thêm các kỹ năng quản lý và lập kế hoạch, tăng tính phức tạp của canh tác. Vì trong các khu sản xuất nông nghiệp khác, kỹ năng lao động và kỹ năng canh tác đã được thay thế bằng việc sử dụng thuốc hóa học. Trong một vài thập kỷ qua, việc phổ biến sự sẵn có phân đạm tổng hợp ở nhiều quốc gia là nguyên nhân làm giảm phần lớn việc trồng cây họ đậu, chỉ loại trừ mỗi đậu tương. Cơ khí hóa và chuyên môn hóa trang trại thành chăn nuôi đang làm giảm nhu cầu về đồng cỏ và cây trồng làm cỏ khô và đang loại bỏ một số cây trồng làm thức ăn chăn nuôi thường được sử dụng trong luân canh. Năng suất và sự màu mỡ của đất phụ thuộc nhiều vào sự luân canh. Nhiều khía cạnh khác nhau của luân canh, bao gồm sự hình thành cấu trúc đất, vòng quay dinh dưỡng và vật chất hữu cơ đã được thảo luận trong các chương trước của tài liệu này. Nếu đất có điều kiện tốt, cấu trúc tốt, vật chất hữu cơ và hoạt động sinh học sẵn có, thì việc kiểm soát sinh học tự nhiên sâu bệnh hại sinh ra từ đất sẽ hiệu quả hơn.. - 77 -
  2. Độc canh và luân canh được thiết kế không tốt làm cho đất “mệt mỏi” hoặc “cạn kiệt” – một tình trạng ngăn cản sự tăng trưởng và phát triển, làm giảm năng suất và làm xuất hiện sâu bệnh hại trên cây trồng và là nguyên nhân làm giảm sức đề kháng của cây trồng. Sự mệt mỏi của đất có nhiều phần. Biểu hiện rõ ràng nhất là thiếu hụt dinh dưỡng hoặc mất cân bằng dinh dưỡng. Biểu hiện ít rõ ràng hơn là những tác động của tàn dư cây trồng mà ở đó nếu tiếp tục canh tác cây cùng loại có thể gây cản trở các hoạt động của một số sinh vật trong đất, và các rễ tiết ra dịch độc riêng biệt cho loài cây trồng và tạo ra tác động cảm nhiễm qua lại. Tất cả những tác động này làm tăng tính nhạy cảm của cây trồng đối với bệnh hại. 8.2 Luân canh cây trồng là nền tảng để quản lý trang trại Sau khi suy nghĩ thấu đáo và lập kế hoạch luân canh cây trồng cho trang trại, bạn có một điểm khởi đầu rất tốt để lập kế hoạch thu hái, kế hoạch phân bón và lịch làm việc. Lựa chọn cây trồng không chỉ dựa vào cây trồng nào có thể trồng, có thể làm thức ăn chăn nuôi hoặc bán được, mà còn gồm cả vai trò của cây trồng đó trong vòng dinh dưỡng, khả năng sử dụng của chúng trong nguồn phân bón, trong hệ sinh thái đồng ruộng, vai trò của chúng trong quản lý cỏ dại và các hoạt động đồng ruộng được yêu cầu. Đáp ứng nhiều yêu cầu Có nhiều mục đích sinh học mà người ta mong muốn đạt được trong một trang trại hữu cơ. Rất nhiều mục đích này được liên kết với việc chọn loại cây trồng và luân canh cây trồng. Tuy nhiên, trong đời sống thực tế, nhiều mục đích khác cần được cân nhắc hơn là các mục đích sinh học, điều này có thể nhìn thấy trong Hình 15 dưới đây. Thường qua trải nghiệm bạn có thể nhận thấy vì những cân nhắc khác này mà cần phải có sự thỏa hiệp. Nhu cầu về thức Các cây trồng thu ăn chăn nuôi hoa lợi thích đáng Sinh học lý Máy móc và các Xem xét thực tiễn tưởng là công trình xây Luân canh dựng trong trại Quản lý trang trại Sự tiết kiệm Hình 15 – Luân canh cây trồng và kế hoạch canh tác – một sự thỏa hiệp Một luân canh cây trồng và một kế hoạch canh tác phải cân bằng giữa các mục đích sinh học và những xem xét về kinh tế/thực tế - 78 -
  3. Đối với bất kỳ trang trại cụ thể nào, một số mục đích này sẽ là quan trọng hơn các mục đích khác. Vì thế, trước khi chọn cây trồng, người ta phải quyết định các mục tiêu sinh học quan trọng nhất đối với trang trại. Tôi cần duy trì hoặc cải thiện cái gì? Để đơn giản hóa vấn đề, đây là năm điểm chính cần cân nhắc khi lựa chọn cây trồng để đưa vào luân canh: 1. Có giá trị như một cây thu hoa lợi hoặc thức ăn chăn nuôi 2. Xây dựng đất 3. Bảo tồn dinh dưỡng 4. Kiểm soát cỏ dại và sâu hại 5. Nhu cầu về thiết bị và nhân công Các cân nhắc này được thảo luận cụ thể hơn dưới đây. Giá trị của cây trồng Mặc dù các cây trồng hữu cơ thường có thể đòi hỏi một mức giá thu lợi cao hơn cây trồng theo phương pháp thông thường nhưng điều này không có nghĩa là bất kỳ cây trồng nào cũng sẽ thu được một mức giá có lợi. Bởi vì thương trường hữu cơ vẫn còn rất nhỏ bé, cân bằng cung cầu vẫn còn rất mong manh và có thể biến động lớn từ tháng này sang tháng khác. Một số nông dân hữu cơ đề xuất liên hệ với các nhà phân phối hoặc bán lẻ để tìm hiểu từ họ xem loại cây trồng nào đang có nhu cầu cao. Bằng cách này, cây được trồng trên trang trại có thể được hợp đồng trước nghĩa là nông dân chia xẻ rủi ro với nhà phân phối về khối lượng sản phẩm cuối cùng thu được từ trang trại. Việc lựa chọn loại cây trồng và luân canh cây trồng được liên kết chặt chẽ với loại hình trang trại đương nhiên vẫn còn đang được tranh cãi. Trang trại có chăn nuôi hay không? Nếu có, loại gì và bao nhiêu? Loại gì đang được trồng và nuôi trong trang trại? Cái gì được mua và cái gì được bán? Trong một trang trại hỗn hợp (chăn nuôi kết hợp với các cây trồng được trồng luân canh) các yêu cầu về thức ăn sẽ xác định một qui mô lớn cây trồng nào được trồng luân canh. Tuy nhiên, xem xét những thay đổi tỉ lệ thức ăn cho phép chúng linh hoạt hơn là việc đáng phải làm. Xây dựng đất Cây phân xanh đóng một vai trò quan trọng trong luân canh vì khả năng của chúng đối với việc tái tạo cấu trúc đất, bảo tồn độ ẩm, kiểm soát xói mòn và giảm chắt lọc dinh dưỡng khỏi trang trại (xem phần 5.6). Các kỹ thuật giúp xây dựng đất:  Đảm bảo trồng cân đối các cây thu hoa lợi (ví dụ ngô và đậu tương) và cây che phủ bảo tồn đất (cây phân xanh).  Các cây trồng có rễ sâu (bí xanh, cà chua, cà rốt) nên xen kẽ với cây trồng có rễ nông (ngũ cốc, hành, xà lách) để giúp cho đất thoát nước và duy trì một cấu trúc thông thoáng .  Luân canh giữa cây trồng có sinh khối rễ lớn và cây trồng có sinh khối rễ nhỏ. Đồng cỏ với cây trồng có sinh khối rễ lớn cung cấp sinh vật đất, đặc biệt là giun đất, cùng với thức ăn.  Luân canh cây trồng yêu cầu độ ẩm cao với cây trồng cần ít độ ẩm.  Các cây trồng có sư cảm nhiễm qua lại (lúa mạch đen và hoa hướng dương) nên trồng luân canh để ngăn chặn việc hình thành các chất độc hóa học tự nhiên. - 79 -
  4.  Luân canh cây cố định đạm (cây họ đậu) với các cây sử dụng đạm cao (ngô, cải bắp, bí xanh) Bảo tồn chất dinh dưỡng Đạm là một chất dinh dưỡng chủ yếu và là chìa khóa điều chỉnh tiến trình sinh thái. Một tỷ lệ đáng kể của phân đạm không bao giờ đến được cây trồng; nó bị thất thoát vào không khí như khí ni tơ, oxit nitorat, hoặc amoniac hoặc qua nước ngầm như nitrat. Hầu hết thất thoát này xuất hiện ở nơi và khi mà không có cây trồng trên ruộng. Đất bị phơi gần như toàn bộ giữa hai giai đoạn. Trước hết, từ thời điểm cây con đến tận thời điểm cây trồng trưởng thành đủ lớn để tạo ra một vòm che kín mặt đất, thứ hai là sau khi cây trồng được thu hoạch. Một việc làm ưu tiên đối với nông dân hữu cơ là ngăn chặn thất thoát dinh dưỡng từ trang trại và cải thiện độ phì tự nhiên của đất. Các kỹ thuật giúp bảo tồn dinh dưỡng:  Tránh để đất trọc bằng cách trồng cây trồng che phủ và thực hiện biện pháp gieo trồng dưới tán cây.  Trồng cây phân xanh  Để đáp ứng tất cả những đòi hỏi của trang trại từ trong hệ thống cây cố định đạm, nên trồng luân phiên với những cây trồng yêu cầu đạm cao.  Cây họ đậu nên đề cao thường xuyên trong luân canh cây trồng. Cây họ đậu là một phần tất yếu của luân canh cây trồng vì khả năng cố định đạm của chúng.  Cây trồng đòi hỏi nhiều dinh dưỡng nên được trồng sau các cây trồng có nhu cầu dinh duỡng ít hoặc trung bình.  Nếu có thể, nên kết hợp trồng đồng cỏ trong luân canh cây trồng để tăng vai trò giá trị lâu dài của chúng trong việc quay vòng dinh dưỡng và bảo tồn đất. Để có nguồn dinh dưỡng và tăng khẩu vị cho động vật nuôi, một đồng cỏ nên gồm nhiều giống cỏ và cây họ đậu.  Cất giữ phân chuồng để ngăn cản dinh dưỡng bị rửa trôi và để làm phân ủ. Kiểm soát cỏ dại và sâu hại Nông dân hữu cơ thường không gặp trở ngại lớn về sâu bệnh hại cây trồng trên đồng ruộng. Sự đa dạng cây trồng và côn trùng trên các trang trại hữu cơ tạo ra một sự cân bằng trong hệ sinh thái nông nghiệp. Những nảy sinh về vấn đề sâu hại và cỏ dại nào đó thường có nguyên nhân là do luân canh cây trồng không thích hợp. Các kỹ thuật giúp kiểm soát cỏ dại:  Các cây trồng mọc chậm dễ bị ảnh hưởng bởi cỏ dại nên trồng sau các loại cây trồng cản trở cỏ dại.  Kết hợp đưa và luân canh các cây trồng sản sinh các chất tự nhiên kiềm chế sự nảy mầm của cỏ dại (như lúa mạch đen và hoa hướng dương).  Kết hợp đưa vào luân canh các cây họ đậu làm thức ăn gia súc. Chúng cạnh tranh tốt với cỏ dại và chặn đứng cỏ dại.  Trồng thuần túy cỏ linh lăng, lúa mạch đen và kiều mạch để ngăn cản các loại cỏ dại mọc dai dẳng hàng năm. Các kỹ thuật cụ thể để kiểm soát sâu hại:  Ở đâu tồn tại những rủi ro về sâu, bệnh hại từ đất, thì ở đó cây chủ tiềm ẩn chỉ nên xuất hiện trong luân canh ở thời điểm cách quãng thích hợp giữa 2 loại cây trồng. Một - 80 -
  5. khoảng cách giữa trồng cây họ cải bắp hoặc cây họ thập tự hoặc khoai tây trong cùng ruộng là 4 năm, và trồng một loại cây trồng khác làm gián đoạn sự xâm nhiễm trong những năm nghỉ giữa chừng.  Tránh sử dụng cây phân xanh họ thập tự quá nhiều vì chúng khuyến khích một số sâu hại nhất định. Những đòi hỏi về lao động và dụng cụ Một lợi thế trồng các cây trồng khác nhau đối với nông dân là khi đó sẽ có các hoạt động đa dạng và khối lượng công việc sẽ được phân bổ đều cho cả năm. Khi một loại cây được trồng trên một diện tích rộng lớn thì áp lực tại thời điểm thu hoạch là rất cao. Đa dạng cây trồng trên trang trại sẽ giúp rải đều khối lượng công việc trong suốt mùa vụ cây trồng. Trong những năm đang chuyển đổi, nông dân nên xem xét những nhu cầu về lao động và thiết bị đối với những cây trồng khác nhau trong luân canh cây trồng và đảm bảo không xảy ra hiện tượng " đốt cháy giai đoạn". Ủ phân lần đầu tiên cũng cần được tổng hợp vào lịch làm việc của nông dân và dụng cụ cần thiết có thể phải được điều chỉnh từ các dụng cụ có sẵn. 8.3 Các loại trang trại Việc lựa chọn luân canh cây trồng phù hợp cũng phụ thuộc vào độ lớn của loại trang trại. Có sự khác biệt rất lớn giữa chăn nuôi và canh tác cây trồng, cũng như giữa các trang trại có động vật nhai lại (bò) và những trang trại có động vật 1 khoang bụng (lợn, gia cầm). Sự khác biệt này phản ánh rõ nét trong việc lựa chọn cây trồng và luân canh cây trồng. Kết quả là, cứ 3 loại trang trại tập trung hoàn toàn vào các mục tiêu sinh học khác nhau. Luân canh cây trồng cùng với nuôi động vật Khi lập kế hoạch luân canh cây trồng cho một trang trại chăn nuôi, việc đầu tiên là tính toán những yêu cầu về thức ăn thô và lựa chọn loại cây trồng phù hợp để làm thức ăn thô cho động vật. Việc lập kế hoạch này cũng bao gồm cả việc xác định diện tích đất cần thiết cho khu vực chăn thả có quây rào và có thể có cả đồng cỏ. Tỷ lệ vật nuôi (ví dụ số lượng động vật trên một diện tích đất) có tác động lớn đến kế hoạch luân canh cây trồng. Trong giai đoạn này, cần phải có những cân nhắc về hiệu quả kinh tế khác nhau và tiến hành làm những thử nghiệm thực tiễn khác nhau. Những khía cạnh cần xem xét này gồm cả việc tích trữ thức ăn thô và cơ sở vật chất chăn nuôi, khả năng tiếp cận của vật nuôi với khu các đồng cỏ chăn thả, phân tích các chi phí khi được gia đình trồng với chi phí mua thức ăn chăn nuôi bên ngoài v.v. Luân canh cây trồng không có động vật nuôi Đối với một trang trại không nuôi động vật nào, để luân canh cây trồng thành công thì việc lập kế hoạch không thể làm từng bước một, nhưng thường được làm theo kiểu tự mò mẫm theo tiến trình của “phương pháp thử và sai”. Nhiều khía cạnh khác nhau phải được đưa vào xem xét cùng một lúc. Trong trang trại không có bất kỳ động vật nuôi nào, thì thực sự phải làm việc rất cực nhọc để đạt được các mục tiêu sinh học trong một kế hoạch luân canh cây trồng. Duy trì sự cân bằng dinh dưỡng trong trang trại là rất quan trọng vì trang trại sẽ xuất dinh dưỡng ra ngoài (theo các sản phẩm bán ra) lớn hơn rất nhiều so với các trang trại chăn nuôi. Các cây phân xanh dài ngày và cây trồng làm thức ăn thô khác có thể cung cấp rất nhiều đạm cho trang trại thì lại không ăn khớp lắm với kế hoạch luân canh. Đối với trang trại trồng trọt nguồn - 81 -
  6. dinh duỡng quan trọng là phân được mua dự trữ nhưng lại bị giới hạn về số lượng bởi các quy định trong sản xuất hữu cơ. Phân bón cũng lại không sẵn có ở nhiều nơi. Một vấn đề lớn là tìm những cây trồng có thể cạnh tranh để ngăn chặn cỏ dại một cách hiệu quả và có thể chịu đựng được sự tấn công của sâu hại hoặc sự lây nhiễm của bệnh hại. Một khía cạnh quan trọng khác đó là việc cung cấp chất dinh dưỡng mà đó chính là lý do vì sao có một chiến lược trồng cây phân xanh tốt lại là vấn đề sống còn như vậy đối với các trang trại trồng trọt. Các trang trại hỗn hợp có nhiều lợi thế nhất Như chúng ta đã thấy, một trang trại hữu cơ có nhiều chăn nuôi, đặc biệt là động vật nhai lại sẽ vận hành dễ dàng hơn một trang trại chỉ có trồng trọt. Mặt khác, ở Việt Nam hiện nay nhu cầu về sản phẩm cây trồng hữu cơ lớn hơn so với sản phẩm động vật. Về tính kinh tế, cũng sẽ có lợi thế đối với một trang trại sản xuất đa dạng. Tuy nhiên, điều này cũng đòi hỏi rât nhiều về tay nghề làm nông nghiệp, kỹ năng quản lý và các khoản đầu tư. Có một cách để đạt được tính đa dạng tốt hơn đó là phát triển sự hợp tác giữa các trang trại trồng trọt với các trang trại chăn nuôi lân cận. 8.4 Những khía cạnh quan trọng của một kế hoạch luân canh – Tóm tắt Nhìn chung, các quy tắc cơ bản sau đây nên được chú ý:  Các cây trồng có rễ sâu nên trồng kế tiếp sau các cây trồng có rễ nông để giữ cấu trúc đất thông thoáng và hỗ trợ việc thoát nước.  Trồng luân phiên giữa các cây trồng có sinh khối rễ cao và thấp. Rễ có sinh khối cao cung cấp các sinh vật đất, đặc biệt là giun cùng với vật chất để cho các sinh vật sống dựa vào đó.  Các cây trồng cố định đạm nên trồng kế tiếp với các cây trồng yêu cầu N cao; Nếu có thể đáp ứng tất cả nhu cầu về đạm của trang trại từ trong hệ thống của trại là điều lý tưởng  Các cây trồng phát triển chậm và vì thế dễ bị cỏ dại lấn át nên trồng tiếp sau các cây trồng có khả năng cản trở cỏ dại.  Ở đâu tồn tại những rủi ro về sâu, bệnh hại bị nhiễm từ đất, các cây chủ tiềm ẩn cho dịch hại chỉ nên xuất hiện trong luân canh vào khoảng thời gian luân phiên thích hợp.  Bất kỳ ở đâu có thể, các cây trồng thu hoa lợi, cây phân xanh và các kỹ thuật gieo trồng dưới tán nên sử dụng càng nhiều càng tốt để duy trì việc che phủ cho đất, bằng cách đó bảo vệ đất khỏi rủi ro xói mòn và giảm bớt quá trình lọc dinh dưỡng. Ngoài ra, các yếu tố sau cũng nên được cân nhắc:  Sự thích hợp của từng cây trồng với đặc điểm khí hậu và đất đai.  Sự cân đối giữa các cây thu hoa lợi và cây làm thức ăn chăn nuôi;cân đối giữa yêu cầu về lao động thời vụ và lao động sẵn có; cân đối giữa hoạt động trồng trọt và làm đất canh tác Chương tiếp theo về sản xuất rau hữu cơ cũng sẽ cung cấp chi tiết hơn về thiết kế một hệ thống luân canh cây trồng cho rau hữu cơ. - 82 -
  7. 9. Sản xuất rau Một cách lý tưởng, sản xuất rau hữu cơ nên là bộ phận của một nông trại hỗn hợp. Một kế hoạch luân canh cây trồng cân đối sẽ đảm bảo lượng chất dinh dưỡng và vật chất hữu cơ đầy đủ trong đất, đồng thời giúp kiểm soát vấn đề cỏ dại và sâu bênh hại. Sản xuất rau có thể cho năng suất tốt và lợi nhuận gộp rất cao so với các hoạt động kinh doanh nông nghiệp khác. Tuy nhiên, việc này đòi hỏi các điều kiện canh tác tối ưu và quản lý nông trại tốt. 9.1 Giới thiệu Đối với một người trồng rau, thời gian chuyển đổi để đạt được trạng thái hữu cơ của vùng sản xuất ít nhất là 12 tháng nhưng nhiều tổ chức cấp chứng nhận yêu cầu thời gian chuyển đổi dài hơn. Việc kiểm tra kim loại nặng trong đất nên tiến hành ở nơi có tập quán thâm canh cao trước khi chương trình hữu cơ bắt đầu. 9.2 Quản lý nước và đất Lập kế hoạch trước là yếu tố then chốt để sản xuất rau hữu cơ thành công. Việc phóng thích dinh dưỡng cho cây là kết quả từ hoạt động của các vi sinh vật chế biến vật chất hữu cơ trong đất. Vì thế, để có kết quả đầu ra tốt nhất từ phân ủ hoặc các vật liệu hữu cơ khác cần một khoảng thời gian cho phép giữa bón phân ủ và trồng cây. Trong công thức luân canh khép kín 4 loại cây trồng mỗi năm (Vĩnh Phúc và Bắc Ninh) không có thời gian cho đất nghỉ ngơi vì cây trồng được trồng luân phiên một cách liên. Để duy trì sự màu mỡ của đất trong hệ thống canh tác hữu cơ, cây phân xanh phải được đưa vào trong công thức luân canh. Cây phân xanh1 là yếu tố thiết yếu để tạo ra các mức vật chất hữu cơ trong đất, cải thiện cấu trúc đất và cố định các dinh dưỡng. Để đưa một cây phân xanh vào trong luân canh là một thử thách vì nông dân có mong muốn và yêu cầu duy trì mức thu nhập và cân đối nguồn nhân lực đầu vào cho cây trồng của họ. Một giải pháp có thể được chấp nhận đối với nông dân để xác định và lựa chọn cây trồng cho năng suất trong một thời gian dài hơn, có hiệu quả cao hơn (như cà chua, đậu, dưa chuột, cà tím vv…) ngược lại với việc lựa chọn những rau trồng thu hoạch ngay như cải bắp có sự quay vòng tiền mặt nhanh nhưng lợi nhuận trên mỗi đơn vị diện tích thấp trừ khi nó được trồng trong một khung mùa vụ cho giá cao. 9.3 Kỹ thuật canh tác Nông dân ở Sa pa có ít kỹ năng làm đất so với nông dân trồng rau ở Vĩnh Phúc và Bắc Ninh. Họ sử dụng kỹ thuật cơ bản giống như nông dân vùng thấp nhưng lại bỏ rất ít thời gian để làm đất canh tác. Những kỹ thuật chuẩn bị đất cơ bản bao hàm cày đất, sau đó để phơi đất trong một thời gian ngắn, sau đó làm nhỏ đất và lên luống bằng cuốc tay. Điểm quan trọng để có được đất canh tác tơi xốp là tránh không làm đất khi nó quá ướt. Tất nhiên nông dân Bắc Ninh biết điều này vì họ đã giải thích rằng khi trồng vụ cà chua mới họ đã phải hoãn làm đất vì ruộng bị đọng nước Các phương pháp và lý do cơ bản để trồng các loại rau khác nhau nông dân đã hiểu rõ và không cần thảo luận thêm trong phạm vi này. Tuy nhiên, một số kỹ năng trồng trọt như chuẩn bị luống trồng và trồng cây con nên được đưa vào trong nội dung TOT đặc biệt đối với Sa Pa. 1 Cây phân xanh là các cây họ đậu được trồng theo cách riêng để tạo sự màu mỡ cho đất - 83 -
  8. Có thể sử dụng các biện pháp khác nhau để duy trì độ ẩm cho đất. Mức độ vật chất hữu cơ cao trong đất và một cấu trúc đất xốp giúp duy trì độ ẩm. Che phủ đất bằng rơm rạ hoặc vật liệu tương tự cũng là một cách. Đối với nông dân ở Sa Pa, đây là yếu tố cốt lõi để giải quyết cho vấn đề thiếu nước hóc búa thường xảy ra trong sản xuất như họ đã mô tả. Khoảng cách cây trồng được xác định bởi kinh nghiệm và loại rau sẽ được trồng. Nhóm nông dân thử nghiệm ở Sa Pa đã trồng cà chua quá dày và đề xuất rằng họ cần đào tạo kĩ năng trồng trọt trong khi nông dân ở khu vực khác đã biết cách trồng cây với những khoảng cách thích hợp để cho năng suất cao nhất. Ở Bắc Ninh và Vĩnh Phúc, nông dân đã có những diện tích với kết cấu ổn định được che phủ bằng lưới bảo vệ để trồng rau. Nông dân tin rằng từ những kinh nghiệm của riêng họ thì rau trồng được che phủ cho hiệu quả cao nhất. Thảo luận về chất lượng tương xứng của cây trồng canh tác dưới mái che nằm ngoài phạm vi của phần công việc này. Tiến sĩ Hùng đã khẳng định chắc chắn rằng rau trồng được cung cấp mái che cho năng suất cao nhất. 9.4 Dinh dưỡng cây trồng và dòng dinh dưỡng Chất dinh dưỡng nằm xung quanh cây trồng và thông qua bộ rễ và lá của mình, cây trồng có thể hút cả dinh dưỡng vi lượng và đa lượng. Nên đánh giá khả năng cung cấp các chất dinh dưỡng này của đất thông qua việc kiểm tra đất thường xuyên và phân tích lá cây để có thể phát hiện ra sự thiếu hụt. Nhiệt độ, độ ẩm, cấu trúc, khả năng thấm và thoát nước của đất cũng đóng một vai trò quan trọng trong khả năng hút dinh dưỡng của cây trồng. Đối với các ruộng trồng rau thâm canh, lên luống là cần thiết vì chúng giúp việc thoát nước dễ dàng và quá trình làm đất chuẩn bị luống sẽ tạo ra một môi trường gieo hạt và trồng cây phù hợp. Độ rộng luống thường do nông dân xác định và bằng khoảng cách họ có thể với ngang qua luống từ rãnh đi lại. Một luống lý tưởng là nó không bao giờ bị dẫm lên trên khi chăm sóc, vì thế luống phải có độ rộng để khi với ra từ rãnh đi lại tới giữa luống để làm cỏ, trồng cây được dễ dàng. Đi lại trên luống không được khuyến khích vì nó sẽ là cho đất bị nén chặt lại, làm giảm dòng dinh dưỡng tới cây trồng và cản trở thoát nước. Phân ủ là thành phần cốt lõi để cung cấp cho đất những dinh dưỡng cây trồng cần. Vì thế, làm phân ủ nóng là một tiến trình cơ bản phải được tiến hành trong vùng sản xuất. Phân ủ được làm tốt có hàm lượng dinh dưỡng trung bình là 2% đạm; 1% lân và 2.5% kali (Xem phụ lục1 ứng dụng làm phân ủ cho các loại rau được chọn). Bảng 1: Mức độ lấy đi dinh dưỡng trong đất của các loại rau Năng suất N P K Mg S tấn/ha kg kg kg kg kg Cải bắp 70 370 85 180 60 80 Rau chân vịt 25 120 45 200 35 Cà chua 50 140 65 190 25 30 Hành tây /tỏi 35 120 50 160 15 20 Đầu vào khuyến cáo 150 100 150 Số liệu từ www.ipni.net/ppiweb/eindia.nsf - 84 -
  9. Hành tây lấy đi 120 kg đạm, 50 kg lân và 160 kg kali trên mỗi héc ta để cho một năng suất là 35 tấn/ha và yêu cầu thay thế một lượng phân ủ ít nhất là 10 tấn/ha. Với lượng phân ủ này sẽ cung cấp khoảng 200kg đạm, 100 kg lân và 250 kg kali. Lượng phân bón này sẽ trang trải cho dinh dưỡng bị cây trồng lấy mất đi (như ở bảng trình bày trên). Bón 10 tấn phân ủ cho mỗi héc ta là mức cơ bản khuyến cáo chung nhưng các kết quả kiểm tra đất cũng nên được sử dụng để điều tiết hài hòa với kế hoạch quản lý mầu mỡ cho đất. Các nguồn dinh dưỡng khác sẽ được cần đến cho những cây sử dụng đạm cao như cải bắp. Cây họ đậu được khuyến cáo trồng để tạo nguồn đạm ưu tiên cho đồng ruộng khi trồng những cây yêu cầu đạm cao như cải bắp. Sử dụng cây họ đậu để trồng như một cây phân xanh có thể cố định tới 180 kg đạm/ha tùy theo mùa vụ và mức độ ẩm của đất. Đậu tương sau 64 ngày trồng có thể cho năng suất khoảng 106 kg đạm/ha trong mùa khô và 140 kg đạm/ha trong mùa ẩm ướt, đậu đen (Vigna unguicalata) có thể cho năng suất 50-100 kg đạm/ha sau 60 ngày trồng, đậu đen cũng có lợi thế là thức ăn dinh dưỡng cho động vật nuôi khoảng 3-10 tấn/ha vật chất khô. Tuy nhiên, nếu sử dụng luân canh cây trồng ngắn để làm thức ăn cho động vật nuôi thì dinh dưỡng được trả lại vào trong đất đạt hiệu quả rất thấp. Cây họ đậu có thể được thử nghiệm như một phần nội dung của TOT gồm các loại lạc, cỏ ba lá được gieo dưới tán ngô, các đậu rồng, đậu triều và điền thanh. Xem mô tả dinh dưỡng sơ lược và khuyến cáo phân ủ đầu vào trong phụ lục 1 (Koen den Braber). Vì cây rau là một cây quay vòng nhanh, đòi hỏi dinh dưỡng cao và tức thời, do vậy nó có thể cho biết sự thiếu hụt của nhiều dinh dưỡng trong đất ở ngay giai đoạn đầu. Có thể giải quyết vấn đề này bằng một vài cách như bón thúc phân ủ, phân khoáng hoặc các loại phân qua lá được sản xuất tại nông trại. Trong trường hợp này, các yếu tố vi lượng có thể được đưa qua lá bằng các phân bón dinh dưỡng lá. Những triệu chứng cụ thể của nhiều rối loạn dinh dưỡng trong rau đã được chứng minh bằng tài liệu rất rõ ràng. Một số nguồn dinh dưỡng qua lá có thể được sản xuất bằng cách sử dụng các cây khác nhau trong trại để cung cấp dinh dưỡng. Các phân này có thể được cung cấp hàng tuần qua các giai đoạn chính của cây trồng, khi một cây trồng riêng rẽ cho thu hoạch như loại rau xà lách bắt đầu vào cuốn thì nên dừng việc bón phân nhưng đối với loại rau cho thu quả kéo dài như cà chua thì quá trình cung cấp dinh dưỡng qua lá có thể kéo dài suốt cả vụ (Phương pháp sản xuất dinh dưỡng qua lá trong nông trại được mô tả trong phụ lục 4). 9.5 Quản lý sâu bệnh hại Nguyên tắc cơ bản của quản lý sâu bệnh hại trong nông nghiệp hữu cơ là tạo ra cây trồng khỏe mạnh để chống cự lại với sự tấn công của sâu bệnh hại tốt hơn. Môi trường canh tác nên thông qua luân canh cây trồng, trồng cây che phủ và tạo sự đa dạng hóa cho môi trường sống tổng thể để khuyến khích sự có mặt của các loài thiên địch. Những thói quen tốt trong nghề nông như tỉa cây, giữ vệ sinh, kiểm soát bằng biện pháp cơ học như sử dụng bẫy, chuẩn bị đất tốt cùng với sử dụng các loại thảo mộc khác nhau đáp ứng cơ bản cho một chương trình quản lý sâu bệnh hại cân đối - 85 -
  10. Đối với sản xuất rau, tạo được một cơ cấu luân canh cây trồng tốt, chuẩn bị luống trồng dễ dàng thoát nước là yếu tố thiết yếu. Luân canh làm giảm rủi ro lan truyền bệnh từ cây trồng này tới cây khác. Trồng cây hỗn hợp cũng giúp làm giảm tác động của sâu bệnh hại khi hệ thống canh tác có nguy cơ phát tán rủi ro của sâu bệnh. Một loại cây trồng có thể bị ảnh hưởng bởi sâu bệnh nhưng loại khác lại không. Trồng cây hỗn hợp cũng hoàn trả lại dinh dưỡng cho đất tốt nhất. Việc đưa cây phân xanh vào trong luân canh có thể cũng đáp ứng một môi trường sống cho thiên địch (những con ăn mồi) vì thế làm giảm ảnh hưởng của sâu hại lên các cây trồng khác và nó còn có thêm một lợi ích nữa là sự khác nhau của các cây trồng tạo một môi trường tốt cho các cây trồng khác trong hệ thống bằng việc cung cấp bóng mát, đạm hoặc cản gió. Kết hợp trồng các cây như trồng hành tây với cà rốt, bí xanh với ngô, húng và cà chua là các cây trồng đi kèm nhau rất phổ biến. Di dời các cây trồng bị bệnh hại trong cánh đồng trước và sau khi thu hoạch giúp làm giảm mức độ lây nhiễm sâu bệnh. Thường những vật liệu thực vật được dọn có thể ủ phân tuy nhiên những vật liệu bị bệnh nguy hiểm nên được đốt. Được phép sử dụng một số biện pháp đấu tranh sinh học khác nhau hầu hết theo các tiêu chuẩn hữu cơ nhưng cần phải được quan tâm hơn để tránh việc sử dụng các biện pháp kiểm soát này thường xuyên và làm cho nó trở thành một biện pháp thay thế cho các đầu vào trong tập quán sản xuất thông thường và những nông trại quản lý kém. Một số thực vật hoặc cây trồng có thể được canh tác một cách đặc biệt để tạo thành các dải cây có tác dụng như loài săn mồi hoặc tạo nơi ẩn náu cho các động vật ăn thịt tự nhiên hoặc các côn trùng có ích có thể sinh sống ở đó. Ví dụ những cây thuộc họ hoa tán trồng làm cây chủ cho các côn trùng khác nhau rất tốt như dẫn dụ loài chuồn cỏ (lace wings) trên ruộng lúa. Những dải cây này được trồng và được chăm sóc khi được yêu cầu, những bụi cây nhỏ có thể duy trì như một bộ phận trong hệ thống canh tác ở vườn hay nông trại. Sâu và bệnh hại (xem phụ lục 3 ở IBS cho các đầu vào có thể sử dụng và bị cấm) Một số sâu hại phổ biến Giòi đục lá – Nhìn chung giòi đục lá là loại sâu hại nhỏ gây ảnh hưởng tới các lá ở phía ngoài (lá già) của cây. Trong canh tác thông thường (không hữu cơ) các biện pháp kiểm soát sử dụng thuốc sâu nội hấp thấm sâu qua lá và vì thế có thể tiêu diệt giòi đục nằm bên trong lá. Với biện pháp kiểm soát trong canh tác hữu cơ cố gắng tiếp xúc trực tiếp với sâu hại hoặc xử lý thông qua đường tiêu hóa, vì thế việc kiểm soát giòi sẽ kém hiệu quả hơn. Tuy nhiên trong điều kiện canh tác thích hợp, giòi đục lá nhìn chung có thể được lờ đi vì cây trồng thường phát triển đủ nhanh để sản sinh ra nhiều lá mới và vì thế nó không bị ảnh hưởng bởi sâu hại này, ngoài ra trong hầu hết các trường hợp phần lớn giòi đục lá bị kiểm soát bởi các sinh vật ký sinh. Kiến thức vòng đời nên được sử dụng hướng vào giai đoạn giòi ở bên ngoài lá (trứng, nhộng, ruồi). Chế phẩm xoan có thể được thử nghiệm để kiểm tra hiệu quả của nó trong kiểm soát giòi. Sử dụng bẫy có thể có hiệu quả để bẫy ruồi trước khi nó đẻ trứng. Đối với nhiều loại sâu – động vật ăn mồi là hàng rào phòng thủ đầu tiên và bẫy đèn cũng rất có ích. Bacillus thuringiensis (BT) có thể được sử dụng ở giai đoạn trồng cây để kiểm soát sâu xám và phun lên cây trong quá trình phát triển để kiểm soát tất cả các loại sâu ăn - 86 -
  11. lá. Thuốc sinh học BT rất có sẵn ở Việt Nam và các thử nghiệm đã được tiến hành như một phần hoạt động của dự án ADDA-VNFU cho thấy nông dân hài lòng với kết quả thu được khi sử dụng nó để kiểm soát sâu. Các loại rệp khác nhau thường tác động đến những bộ phận sinh trưởng mềm của cây bằng việc hút nhựa cây từ thân và tiết ra chất mật như sương đọng lại ở đó (làm vật chủ cho mốc đen ký sinh). Các loại rệp mẫn cảm với một số ký sinh và loài ăn mồi (như bọ rùa, ruồi ăn thịt, chuồn cỏ và chim). Các biện pháp kiểm soát có thể bao gồm cả phun nước hoặc nước xà phòng, tỏi và ớt và dầu khoáng ở tỉ lệ 5% (5 ml cho 1 lít nước) và phun vào sáng sớm hoặc khi trời có nhiều mây. Bọ xít (Nezara viridula hoặc bọ xít xanh hại rau) có thể trở thành loại sâu hại đáng lo ngại đặc biệt trong thời kỳ đất khô hạn. Duy trì ẩm độ đất tốt bằng cách tưới nước thường xuyên có thể làm giảm ảnh hưởng của bọ xít cùng với việc làm sạch cỏ ở những diện tích ở gần phía cuối ruộng. Phun nước sạch có thể làm giảm ảnh hưởng của bọ xít nhưng đối với trường hợp bọ xít phá hoại nghiêm trọng, để cố gắng tiêu diệt chúng còn sử dụng biện pháp trộn bột nhão với nước và phun lên cây hoặc sử dụng thuốc sâu hữu cơ (Theo tiêu chuẩn IBS). Bọ phấn trắng (họ Aleyrodidea) có thể trở thành vấn đề trong các khu vực có sự lưu thông không khí kém. Có nhiều cách kiểm soát nhưng cách hiệu quả nhất là lợi dụng ong kí sinh (Encarsia formasa và các loại khác). Biện pháp kiểm soát này có thể được khuyến khích bằng cách trồng những cây có hoa ở gần ruộng hoặc cây trồng. Tấm bẫy dính màu vàng, dầu khoáng (trong những trường hợp được cân nhắc) phun tỏi và ớt cũng là những biện pháp được sử dụng. Sâu bột (Pseudococcus spp) thường được tìm thấy ở những khe hoặc chỗ kín trong phạm vi xung quanh gốc cây. Chúng bị ăn bởi bọ rùa và ong kí sinh chalcid. Đốt những vật liệu thực vật bị nhiễm sâu nặng. Phun dầu khoáng cũng là một biện pháp kiểm soát. Một số bệnh phổ biến Bệnh sương mai Phytothera hại cà chua –vệ sinh đất trồng, thoát nước và thông khí tốt, dọn dẹp toàn bộ các lá cây chạm vào đất cũng như lựa chọn các giống cẩn thận có thể được hỗ trợ thêm bằng cách dùng đồng như một loại thuốc trừ nấm, tuy nhiên có những giới hạn được yêu cầu khi sử dụng bắt buộc phải tuân thủ cho mỗi IBS. Dung dịch phân ủ (một chất lỏng được tạo ra khi ngâm một bao phân ủ vào nước qua một đêm) và được bón thường xuyên hàng tuần với tỉ lệ khoảng 20 nước sạch sẽ cho 1 lít dung dịch còn gọi là chè phân ủ. Xem phụ lục 4. Bệnh mốc sương trên cây họ bầu bí – Bệnh mốc sương trên lá thường tấn công vào giai đoạn cuối của cây và vì thế nó có thể bị làm ngơ vì lúc đó cây trồng đã cho thu hoạch, tuy nhiên nếu bệnh tấn công cây trồng vào giai đoạn sớm thì lưu huỳnh được sử dụng phổ biến để kiểm soát bệnh, ngoài ra axit lactic (từ sữa) hoặc chất bicacbonat của nước có gas (soda) có thể có tác dụng. Dung dịch phân ủ cũng có thể được sử dụng. Một dung dịch cũng có thể được chế ra bằng cách cho vào một túi 5 kg phân ủ và treo nó vào trong một thùng chứa 100 lít nước. Sau 2 ngày dung dịch có thể được phun lên cây với tỉ lệ 20:1. Kỹ thuật này yêu cầu thử nghiệm xem có sai sót gì không và hiệu lực của chúng khác nhau thế nào khi sử dụng ở thời tiết và thời gian khác nhau. - 87 -
  12. 9.6 Luân canh và trồng cây hỗn hợp Nguyên tắc của luân canh là các cây được trồng luân phiên nhau có nhu cầu dinh dưỡng từ đất khác nhau. Cây trồng có yêu cầu cao nguồn dinh dưỡng từ cây phân xanh thì các cây trồng tiếp theo nó có nhu cầu ít hơn. Các loại cây khác nhau được trồng trong cách phối hợp này – cây lấy rễ hoặc củ như khoai lang, cà rốt; cây rau ăn lá như cải bắp và loại ăn quả như ngô, cà chua. Một luân canh điển hình gồm 4 kỳ canh tác dựa trên ý tưởng rằng nên có 25 % diện tích đất canh tác được nghỉ ở một số giai đoạn trong một chu kỳ canh tác. Trong khoảng thời gian của giai đoạn này nên để đất có đủ thời gian nghỉ để có khả năng tạo ra sự màu mỡ cho cây trồng tiếp theo. Do đó, khi luân canh ngắn hiệu quả của cây phân xanh bị giảm bớt vì thế cần điều chỉnh làm sao để có thể sử dụng hiệu quả cây phân xanh. Trong khoảng thời gian luân canh dài hơn (12 tháng hoặc hơn) cây phân xanh có thể được thu hoạch để làm phân ủ và làm thức ăn chăn nuôi, tuy nhiên với hướng luân canh ngắn ở Việt nam sẽ làm hạn chế khả năng này. Luân canh 4 kỳ canh tác sẽ như sau: • Cây phân xanh (điền thanh/đậu tương/lạc) → cây rau ăn lá (như: cải bắp) → cây rau ăn quả (như: cà chua, dưa chuột, đậu) → cây rau ăn rễ (khoai lang). Xin lưu ý: ớt nên được trồng trong giai đoạn đầu luân canh vì chúng đòi hỏi dinh dưỡng trong đất cao. Sau đó những cây cần dinh dưỡng ít hơn được trồng tiếp theo. Đối với Sapa là nơi luôn trồng lúa luân canh: • Năm1: lúa → cây phân xanh (yến mạch và cây họ đậu → lúa • Năm 2: lúa → rau (cà chua hoặc cải bắp hoặc hành tây vv…) → lúa. Lúa có thể được gieo dưới tán cây họ đậu như cỏ 3 lá trắng để có thể cung cấp dinh dưỡng cho vụ trồng rau dài hơn, đặc biệt thích hợp đối với trồng cà chua có thời gian sinh trưởng dài hơn so với trồng loại cây rau ăn lá. Cỏ 3 lá cũng sẽ giải quyết nhu cầu về đạm của lúa. Cỏ 3 lá có thể cố định khoảng 120kg N/ha. Một phương pháp trồng cây hỗn hợp là cùng một thời gian có một vài loại cây khác nhau được trồng cùng nhau (nhưng sẽ phải đương đầu với vấn đề thiếu nước trong mùa khô). Tiến sỹ Phụ gợi ý cây khoai môn có thể được trồng như một cây thu hoa lợi ở Sapa. Loại cây này được coi là một cây thu hoa lợi có giá trị được canh tác bằng cách sử dụng các biện pháp kỹ thuật truyền thống đang duy trì trên những cánh đồng nhỏ ở gần những khu vực chăn nuôi gia súc hay chuồng lợn giàu dinh dưỡng và bị úng ngập hầu hết thời gian canh tác. Để mở rộng việc sản xuất khoai môn tới các cánh đồng khác cần nghiên cứu khả thi để đánh giá các nguồn lực sẵn có (phân bón và nước). Bắc Ninh và Vĩnh Phúc Luân canh 4 kỳ sẽ như sau: • Cây phân xanh (12 tuần) → Cây ăn lá (như cải bắp) hoặc ngô → Cà chua, cây họ bầu bí, đậu → khoai lang → cây phân xanh. - 88 -
  13. Cây phân xanh như lạc Arachis hypogea giống L14 sẽ cho năng suất sinh khối 10tấn/ha và đạm là 30 kg N/ha. Cây phân xanh sẽ được trồng qua mùa ẩm ướt khi giá rau thấp và việc hoàn trả dinh dưỡng cho đất của mỗi cây thấp một cách tương ứng. 9.7 Duy trì tính nguyên vẹn hữu cơ của khu vực sản xuất Con người là mấu chốt để duy trì tính toàn vẹn hữu cơ của một vùng sản xuẩt hữu cơ. Nhóm nông dân được tổ chức tốt, hiểu rõ vai trò và trách nhiệm của họ cũng như tự tin trong kỹ thuật sản xuất là yếu tố cơ bản của bất cứ chương trình hữu cơ nào. Ở nơi có nguồn đầu vào xa khu vực sản xuất, người cung cấp nên được biết trách nhiệm của họ như một nhà cung cấp đầu vào “có thể chấp nhận được” và ở đó có thể được khuyến khích để sản xuất nguồn đầu vào đảm bảo cho nông nghiệp hữu cơ. Việc sắp xếp theo quy luật tự nhiên như tạo tầng đệm và quản lý nước cũng có ý nghĩa quan trọng như việc kiểm soát đầu vào ở bên ngoài vùng sản xuất như quản lý nguồn phân động vật chẳng hạn. Lý tưởng nhất là tất cả phân bón được sinh ra từ nông trại hay vùng sản xuất nhưng các nông trại hầu hết đều thiếu động vật để đáp ứng được điều này, vì thế có thể sử dụng các nguồn đầu vào từ bên ngoài nông trại kèm theo những quy định hết sức rõ ràng. Trường hợp ở Bắc Ninh nơi tiếp cận với lượng lớn phân bón động vật nuôi công nghiệp phải được kiểm tra để đảm bảo rằng liệu nguồn phân này khi được sử dụng trong sản xuất hữu cơ “có thể chấp nhận” được không. Có nghĩa là sản phẩm phải được kiểm tra xem có các chất gây ô nhiễm không (thức ăn kỹ thuật gen, kim loại nặng hoặc các độc tố khác) và nếu nó được chấp nhận như sản phẩm “sạch” bởi nơi cấp chứng nhận hoặc dự án ADDA-VNFU thì việc kiểm tra sản phẩm thường xuyên phải được đưa vào quy trình chứng nhận. Trong tất cả các trường hợp như vậy phân động vật phải được đưa vào ủ nóng theo tiến trình ủ phân nóng (do dự án ADDA-VNFU ) khuyến cáo. 9.8 Nguồn lực sẵn có cho sản xuất hữu cơ Để duy trì lâu dài sự màu mỡ đất lý tưởng thì dinh dưỡng cần được sản xuất từ trong nông trại. Tuy nhiên, thực tế luôn không như vậy và một số đầu vào có thể phải được lấy từ nguồn bên ngoài nông trại nhưng việc làm này không nên khuyến khích. Trước khi có bất kỳ nguồn đầu vào từ bên ngoài nào được đưa vào một nông trại hữu cơ thì nó nên được kiểm định các tiêu chuẩn thích hợp. Theo truyền thống, các vật liệu làm phân ủ được thu gom ở những nơi hoang dại gần đó cùng với các vật liệu che phủ khác nhau.Việc khảo sát đã chỉ ra rằng việc thu gom các vật liệu này có sự hạn chế về thời gian thu gom, khoảng cách, lượng sẵn có và các vật liệu này được lấy từ các nguồn không rõ ràng vì thế không thể được đảm bảo là có nguồn gốc hữu cơ. Đối với hầu hết các trường hợp hay làm theo thói quen này không nên khuyến khích mạnh mẽ. Để duy trì nền tảng cho sản xuất rau hữu cơ lâu dài, đại bộ phận nông dân nên hướng tới việc làm tăng đầu vào sản xuất phân ủ của họ từ 2 đến khoảng 10 tấn. Điều này cho thấy những thách thức khi tăng lượng phân ủ được làm sẽ phải tăng lượng vật liệu thực vật được thu gom hoặc được tạo ra từ nông trại. Nông dân cần phải làm: • Gia tăng tình trạng màu mỡ cho nông trại hơn như trồng các cây họ đậu, cỏ để tạo sự màu mỡ trực tiếp cho đất mà không cần phải làm phân ủ hoặc trồng một số cây phân xanh ở bất cứ chỗ nào có thể để có nguồn vật liệu làm phân ủ. - 89 -
  14. • Việc thu gom vật liệu để làm phân ủ trong nông trại phải trở nên hệ thống hơn trong nông trại sản xuất của họ. Thói quen hiện nay là nông dân chỉ thu gom vật liệu trước khi cần đến một số ngày đã làm giảm rất lớn đến khối lượng vật liệu có thể được thu • Sử dụng các vật liệu hữu cơ sẵn có ở phạm vi lớn nhất có thể • Tạo “bãi lưu trữ” cho các vật liệu hữu cơ và liên tục bổ xung vào đó những vật liệu sẵn có được thu lại cho đến khi đủ để có thể làm phân thay vì phải cố đi thu gom cho đủ vật liệu cần chỉ trước khi ủ phân có 1 ngày Khóa ToT nên mô tả một tiến trình nhằm xác định các nguồn vật liệu sẵn có khác nhau cho từng địa bàn cụ thể của dự án và xây dựng điểm trình diễn việc thu gom và lưu trữ chúng cho các hệ canh tác đó. Một số cái mới nên được thử nghiệm đặc biệt là các loại cỏ khác nhau để xem liệu chúng có thể được sử dụng làm thức ăn chăn nuôi không. Ở những nơi nông dân có đủ chỗ trống nên trồng cây phân xanh (cây họ đậu và cỏ) để có thể thu hoạch để làm phân ủ. Những cây phân xanh được chọn nên có khả năng tái sinh và cho thu hoạch lâu dài, khó khăn chủ yếu trong tiến trình này là thời gian. Nói chung, nhóm khảo sát đã cho thấy rằng nông dân có đủ nguồn vật liệu sẵn có trong vùng hoặc gần nơi sản xuất của họ do đó họ có khả năng giữ vững được một hệ thống sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Phân động vật Có nhiều động vật khác nhau được chăn nuôi trong vùng hoặc ít nhất được nông dân sở hữu. Điển hình như những nông dân có một con trâu hoặc bò, lợn, gà, vịt vv….Để có khả năng sử dụng phân động vật làm phân ủ và tạo sự màu mỡ cho đất thì những phân này phải có khả năng lấy và cất giữ nó lại được. Ở Sapa trâu thả lang thang tự do hầu như quanh năm và vì thế làm giảm lượng phân có khả năng thu lại dễ dàng và hệ thống chuồng nuôi cũng làm mất đi hầu hết lượng phân do bị rửa trôi xuống các lạch nước. Sự ô nhiễm gây ra từ các lạch nước này không được chấp nhận theo nguyên tắc sản xuất hữu cơ. Phân động vật phải được thu lại và sử dụng trong nông trại thông qua hệ thống phân ủ nóng. Ước tính một con trâu cho 4-6 tấn phân mỗi năm và nước tiểu còn có thể được thu lại hoặc dẫn vào ao hoặc đồng ruộng. Nếu 50% lượng phân này được thu lại trong nông trại và lượng còn lại từ các động vật trong khu vực có thể sản xuất hơn 10 tấn phân ủ cho mỗi năm. Nếu lượng phân ủ bón với tỉ lệ 10 tấn/ha thì có đủ dinh dưỡng cơ bản cho khoảng 10000 m2 diện tích sản xuất rau và lúa. 1 con lợn cung cấp ít nhất 200 kg phân mỗi năm đủ để làm ra được khoảng 800 kg phân ủ (25% phân động vật và phần còn lại là vật liệu thực vật) Gà và các động vật khác thường được thả rông thì phân của chúng theo đánh giá cũng không được làm vật liệu đầu vào cho phân ủ hữu cơ. Ở Sapa, để làm nông nghiệp hữu cơ khó khăn chính là gia súc thả rông không được kiểm soát, như vậy không thể trồng cây phân xanh trừ khi những khu vực này được rào ngăn lại. Nếu cỏ được trồng và quản lý trong những khu vực được bảo vệ thì tiềm năng để sản xuất - 90 -
  15. một tỉ lệ lớn nguồn thức ăn xanh cho động vật bằng cách cắt và vận chuyển đi nơi khác là rất lớn. Cỏ Guatemala Tripsacum fasciculatum có thể cung cấp hơn 150 tấn/ha thức ăn xanh, 1 con bò cần 30 kg thức ăn xanh mỗi ngày. Qui đổi ra thì 1 ha cỏ đủ làm thức ăn xanh cho 10-13 con bò. Ở những nơi cá biệt có mùa vụ canh tác trong điều kiện lạnh hoặc khô thì những số liệu này dao động nhưng về cơ bản khái niệm không thay đổi. Đối với những nông dân ở vùng đất thấp nơi có nhiều cách lựa chọn để có nguồn thức ăn xanh, với 100 m2 có khả năng để sản xuất đủ thức ăn xanh cho 1 con bò trong 1 năm (cỏ và cây họ đậu) và cung cấp khoảng 3.500 kg cây phân xanh làm phân ủ và vật liệu che phủ. Ngoài ra khi cỏ được trồng như một cây lâu năm nó còn có thêm lợi ích là sẽ cải thiện đất rất tốt vì chúng tạo ra một sinh quần rễ dày đặc khi chúng đang phát triển nhờ đó bổ xung thêm vật chất hữu cơ vào trong đất. Danh mục IBS liệt kê các chất khoáng đầu vào khác nhau có thể được sử dụng cũng như hạn chế sử dụng (trường hợp hạn chế sử dụng yêu cầu các sản phẩm khi sử dụng phải được phê chuẩn và được chấp nhận bởi các tổ chức cấp chứng nhận hoặc một hội đồng tuơng ứng) Lân (apatid) – khoáng lân sẵn có ở tỉnh Lào Cai nhưng nhà cung cấp không sẵn lòng bán ra ngoài luồng khi chỉ đựơc hỏi mua với một lượng nhỏ (ý kiến riêng của Koen den Braber) Ka li–có thể thu được từ tro thực vật hoặc gỗ (8% K và 50% C). Tập quán canh tác truyền thống sử dụng biện pháp đốt rơm và trấu để tạo nguồn kali. Có một số biện pháp kỹ thuật khác cần được cân nhắc kỹ trước khi sử dụng như hun đất. Biện pháp này làm phóng thích dinh dưỡng đất cần thảo luận thêm với tổ chức chứng nhận tiềm năng. Đất được tạo ra từ phân giun có thể cung cấp một tỉ lệ dinh dưỡng rất lớn trong đất. Một thử nghiệm kiểm tra tính khả thi của mỗi nông dân tham gia nuôi giun trong nông trại đã khuyến cáo. 9.9 Mô tả số lượng và chất lượng luân chuyển dinh duỡng trong nông trại/ vùng sản xuất Cùng với việc lập kế hoạch thích hợp hầu hết nông dân đều có khả năng tạo ra một tỉ lệ lớn sự màu mỡ trong nông trại của họ. Đầu vào từ bên ngoài nông trại cũng phải là hữu cơ hoặc không bị nhiễm bẩn để nó không thể làm tổn hại đến tính toàn vẹn hữu cơ của nông trại. Sử dụng các kĩ thuật hữu cơ để cân bằng dinh dưỡng trong đất sẽ mất thời gian như được mô tả ở trên (2.3 và 3.3) và tiến trình thì tăng thêm. Khi đất được cải thiện nó làm cho tăng thêm khả năng sử dụng dinh dưỡng được tạo sẵn trong đất của cây trồng. Tiến trình nên được củng cố thường xuyên bởi: • Kiểm tra đất • Phân tích lá • Quan sát đồng ruộng để kiểm tra sự thiếu hụt của cây • Đánh giá năng suất, chất lượng và khối lượng sản phẩm. Đánh giá dinh dưỡng cây trồng lấy đi và lượng đầu vào thay thế theo nhu cầu được phác thảo trong phụ lục 2. - 91 -
  16. 10.Sản xuất vải 10.1 Giới thiệu Có hai giống vải chính được trồng ở Bắc Giang là Vải Tàu (chín vào tháng năm) và Vải Ta (chín vào tháng 7 tháng 8). Ở Bắc Giang, Vải Ta là giống được trồng phổ biến vì nó ngọt hơn và nổi tiếng hơn. Trong môi trường canh tác độc canh thâm canh cao ở Bắc Giang thì tập quán canh tác truyền thống và hữu cơ chỉ còn là trong quá khứ. Tư duy của nông dân bị hướng theo số đông những cách thức quản lý tập trung vào sự tối đa hóa sản lượng bao gồm cả việc sử dụng quá mức lượng thuốc trừ sâu bệnh. Lý do căn bản của những tập quán này là nhằm đạt được lợi nhuận tối đa và nó đã làm thiệt hại cây cối, đất chai cằn và năng suất bị sụt giảm cũng như môi trường bị hủy hoại. Trong bối cảnh phát triển này, một mô hình chuyển đổi từ một vườn vải canh tác thông thường sang canh tác hữu cơ có vẻ như làm cho mọi người nản chí nhưng việc chuyển đổi này đã được thực hiện cho các cây trồng khác trong những tình huống tương tự. Phần dưới đây mô tả sự chuyển đổi từ một vườn vải thông thường sang một chương trình quản lý hữu cơ. Việc đưa hẳn sang một phương thức canh tác hữu cơ trong bối cảnh phức tạp này sẽ là một thử thách lớn và dường như sẽ gặp phải những vấn đề không lường trước được đặc biệt xung quanh vấn đề quản lý sâu bệnh hại mà nó yêu cầu phải có thời gian để củng cố mật độ côn trùng bắt mồi và sự tin tưởng của nông dân vào các kĩ thuật quản lý hữu cơ. Cách lựa chọn một vườn quả để bắt đầu chuyển sang canh tác theo phương pháp hữu cơ từ một vườn quả hỗn tạp không được coi là một phần của tài liệu này và cũng không được xem là cách thích hợp nhất để thúc đẩy sản xuất hữu cơ trên cây vải. Thời gian chuyển đổi từ canh tác thông thường sang canh tác hữu cơ trên cây ăn quả tối thiểu là 18 tháng (IBS). 10.2 Quản lý đất và nước tưới Để cải thiện sự phóng thích dinh dưỡng cho cây trồng thì đất phải có khả năng “hô hấp”. Đất bị nén chặt là do liên tục sử dụng phân bón hóa học và thuốc diệt cỏ, góp phần vào việc phóng thích dinh dưỡng thất thường của đất cho cây trồng. Phân ủ nên được sử dụng trong một hệ thống canh tác hữu cơ để xây dựng mức độ vật chất hữu cơ trong đất và khuyến khích các vi sinh vật hoạt động trong đất. Những cây có rễ ăn sâu cũng có thể được sử dụng để trồng xung quanh đường rìa tán hoặc ở diện tích giữa các hàng cây để khai phá đất và cung cấp chất hữu cơ cho đất (còn làm cây chủ cho những côn trùng có ích cư trú). Những nơi thoát nước kém và có mực nước ngầm cao (như ở những cánh đồng trồng lúa cũ) thì vấn đề ngập úng có thể làm cho rễ cây bị bệnh như bệnh mốc sương (phytothera). Phương thức chữa trị thông thường cho những cây bị nhiễm bệnh là xử lý bằng axit phosphoric nhưng biện pháp này hầu hết không được cơ quan cấp chứng nhận hữu cơ chấp thuận. Để làm giảm khả năng tác động của bệnh mốc sương gây thối rễ, mọi nỗ lực nên được triển khai để cải thiện hệ thống thoát nước trong trại hoặc vùng sản xuất. Vấn đề này có thể được giải quyết bằng cách trồng các cây mới trên những gò đất cao, cải thiện hệ - 92 -
  17. thống thoát nước trong vườn và khu vực sản xuất. Những địa điểm được lựa chọn để sản xuất hữu cơ nên ở những nơi đất dốc hoặc nơi có đất thoát nước tốt. Đất nhìn chung là dạng sét pha và ít chất hữu cơ. Loại đất này dễ làm và nhu cầu chuẩn bị đất để tạo một luống trồng tốt là rất ít. Các loại rau có thể được trồng trong phạm vi trang trại ở trên những luống nhỏ được chuẩn bị bằng công cụ cầm tay. Cần chăm sóc cẩn thận xung quanh đường rìa tán cây để tránh làm thiệt hại những rễ hút non. Ở những nơi luôn hút nước ở các giếng nông trong vườn hoặc trại để tưới cho vải, nước giếng nên đuợc kiểm tra về kim loại nặng truớc khi nó được đưa vào sử dụng trong một trại canh tác hữu cơ. 10.3 Dinh dưỡng cây trồng và dòng dinh dưỡng. Một trong những nhân tố chính làm hạn chế sản lượng quả của cây vải là thiếu một chương trình nuôi duỡng thích hợp. Năng suất thấp có thể do nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân phổ biến là do cây mọc thêm nhiều chồi mới xung quanh thời kỳ ra hoa. Những chồi mới mọc muộn không cho quả và thường sinh trưởng trong điều kiện phải đối phó với sự biến động của thời tiết hoặc lựa chọn thời điểm bón đạm cho cây không đúng. Sự thiếu hụt đạm và kali làm lượng B, Zn và Cu bị giảm đi ở mức độ nào đó cũng có thể làm giảm năng suất bởi nó ngăn cản sự đậu quả và quá trình phát triển sau này của quả. Chiến lược quản lý dinh dưỡng theo canh tác thông thường chủ yếu dựa vào hiểu biết sự sinh trưởng của cây theo khuôn mẫu và nhu cầu dinh dưỡng NPK tương thích cho từng giai đoạn trong chu trình phát triển của nó. Sự sinh trưởng hàng năm của cây vải được chia làm 3 giai đoạn: 1. Giai đoạn cuối thu hoạch đến khi chồi Thu trưởng thành (ASMS) 2. Giai đoạn ASMS đến khi ra hoa (FS) 3. Giai đoạn FS đến thu hoạch tiếp theo Tình trạng dinh dưỡng của mỗi giai đoạn mô tả nhu cầu sinh lý của cây ở từng giai đoạn đó. Trong canh tác thông thường chủ trương rằng cung cấp dinh dưỡng trong giai đoạn đầu nên đáp ứng sự phục hồi của thân cây và sự phát triển của chồi. Sự phát triển của nụ sự ra hoa cũng như hình thành quả sẽ là những thay đổi chính về sinh lý trong giai đoạn thứ hai và tập trung ở giai đoạn cuối là quá trình lớn lên và chín của quả. Nhu cầu dinh dưỡng của mỗi giai đoạn thay đổi tùy theo từng thời kỳ sinh trưởng của cây. Nhu cầu về đạm (N) cao hơn trong giai đoạn 1 và nhu cầu về kali (K) cao hơn trong giai đoạn 3. Lượng phân bón hóa học khuyến cáo cho những cây trưởng thành (8-15 năm tuổi) là khoảng 3 kg NPK/ cây cho mỗi giai đoạn. Giai đoạn 1 bón với tỉ lệ- 20:10:12, giai đoạn 2 - 13:12:21 và giai đoạn cuối - 10:20:20. Kế hoạch bón có nhiều biến đổi nhưng nhìn chung đều nhằm mục đích giữ mức độ dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng trong suốt một năm đặc biệt ở thời điểm cây ra quả. Nông dân ở Bắc Giang cho biết mỗi năm họ bón khoảng 5 kg NPK /cây chia làm 3 đợt. Lượng bón này thấp hơn so với hướng dẫn được khuyến cáo ở các nước khác nhưng nông dân ở đây tỏ ra hài lòng với cách bón hiện nay của họ. - 93 -
  18. Sử dụng một chương trình hữu cơ để thay thế sẽ khó có thể tác động nhanh tới sự sinh truởng trong cây giống như cách bón phân NPK trong canh tác thông thường. Một phần lớn dinh dưỡng hữu cơ không hòa tan trong nước và vì thế việc phóng thích dinh dưỡng đòi hỏi những điều kiện sinh học thích hợp trong đất và để tạo một môi trường hoạt động như vậy cần có thời gian. Trọng điểm của một chương trình hữu cơ là phải phát triển môi trường đất và tiến hành trồng trọt để thiết lập nên một mô hình cây sinh trưởng cho quả ổn định. Một chương trình hữu cơ sẽ bao gồm phân ủ, phân khoáng và đạm từ các cây họ đậu và phân bón lá. Trước đây dịch lỏng từ phân lợn được sử dụng nhưng hiện nay không còn lợn vì thế cần phải tìm ra các nguồn dịch phân chuồng khác. Nuôi thỏ và gà đã được thay thế cho lợn. Nhìn chung các tiêu chuẩn đều cho phép viẹc sử dụng dịch phân động vật được cung cấp từ các động vật nông dân nuôi trong trang trại hoặc vùng sản xuất không có nguy cơ bị nhiễm các kim loại nặng (như đồng từ thức ăn gia súc hay từ thuốc trị bệnh) hoặc các chất kháng sinh. Nên có sự kiểm tra thích đáng nếu có sự nghi ngờ về khả năng phù hợp của phân động vật nào đó khi đưa vào sử dụng Phân ủ đầu vào – Lượng phân bón NPK hiện nay là 5 kgs/cây chia làm 2-3 đợt bón. Lượng phân này tương đương với 50 kg/cây, 300 cây tương đương với 15 tấn (2 con trâu cùng với các nguyên liệu xanh). Nitơ (đạm) từ cây họ đậu – Cơ hội để sản xuất đạm tại chỗ bị hạn chế bởi những vùng bị tán cây che bóng trên mặt đất. Để trồng cây họ đậu cần có khoảng trống (dải đất giữa các hàng vải) ở đó cây họ đậu có thể được gieo trồng và được chăm. Những cây già cần được cắt tỉa nhằm tạo ra những khoảng trống và những cây trẻ hơn được cắt tỉa thường xuyên nhằm giữ lại những dải đất không bị che bóng để trồng trọt. Nếu tạo được khoảng 10% diện tích vườn quả để có thể được sử trồng cây họ đậu và có sự phân phối đều các dải cây họ đậu trên toàn bộ vườn có thể tạo ra lượng đạm tương đương là 20 kg/ha có thể sẵn có cho cây sử dụng cộng với sự bổ xung thêm các chất hữu cơ. Các nguyên tố vi lượng từ phân bón lá – boron tỏ ra là một nguyên tố vi lượng quan trọng. Để xác định rõ liệu cây có nhu cầu hay không thì cần phải tiến hành phân tích lá khi cây ở giai đoạn hình thành quả. Boron có thể được bổ xung như nguyên tố vi lượng nếu cần thiết. Nhiều loại dinh dưỡng qua lá có thể tạo ra ngay tại trang trại từ các thực vật và phân động vật khác nhau (phân thỏ, những cây có rễ sâu, cây họ đậu vv…). Sử dụng đá vôi – được sử dụng thường xuyên để điều tiết độ pH nhưng nông dân không giải thích rõ lý do sử dụng nó. Được biết vải thích hợp với đất có độ pH 5.0 đến 5.5 nhưng cũng có lợi khi sử dụng vôi để đưa pH lên khoảng 6.0. Một vài nông dân đôi khi sử dụng bùn ao để cung cấp dinh dưỡng – cứ mỗi 3 năm, một lớp bùn mỏng được rải lên cho tất cả các cây (xấp xỉ). Mặc dù có thể bổ xung một số dinh dưỡng cho trang trại từ bùn ao nhưng cách thức này chỉ giới hạn ở những trang trại có ao. Các tiêu chuẩn hữu cơ không cấm sử dụng bùn ao miễn là nguồn nước chảy vào ao không mang theo NPK từ hệ thống canh tác thông thường hoặc các chất ô nhiễm như các kim loại nặng. Nên lấy mẫu bùn để kiểm tra và đấnh giá tình trạng của bùn ao ở những trang trại đang chuyển đổi sang canh tác hữu cơ. Cách làm truyền thống như cắt và vùi cỏ dại ở tầng đất xung quanh gốc cây vẫn được áp dụng và nên được phát triển hơn nữa trong chương trình hữu cơ. Việc trồng xen cây họ - 94 -
  19. đậu vào các dải đất giữa các hàng cây hoặc lý tưởng nhất là trồng hỗn hợp các loại cây trong độ rộng hơn 2m nhưng các dải đất với bất cứ độ rộng nào cũng nên được khuyến khích. 10.4 Quản lý sâu bệnh hại Nông dân thường mô tả hàng loạt những loại sâu bệnh hại mà họ cho là khó phòng trừ. Mối nguy hại thực chất của những sâu bệnh hại này đối với sản xuất không nên được nhấn mạnh quá đến vậy nhưng điều này cũng dễ hiểu bởi nông dân luôn có tính thủ cựu và lo lắng về những tác động tiềm ẩn của các loại sâu bệnh hại này tới sự sinh trưởng của cây và chất lượng quả. Tất cả các loài sâu bệnh hại này đều có thể quản lý được trong một hệ thống canh tác hữu cơ với những kỹ xảo quản lý khác nhau và một thị trường đã được chuẩn bị để đánh giá đúng giá trị của loại quả có hương vị rất ngon nhưng lại có thể có một vài khiếm khuyết nhỏ ở ngoài vỏ. Kiểm soát sâu bệnh hại sẽ đòi hỏi sử dụng rất nhiều các biện pháp khác nhau như cơ học, thảo mộc và đấu tranh sinh học. Những kỹ thuật này sẽ cần phải được thử nghiệm trong bối cảnh đang chuyển đổi của một vườn quả trước khi một chương trình xác định có thể được giới thiệu tới người trồng vải hữu cơ. Chú ý rằng nhóm hoạt chất pyrethroids thường được sử dụng trong chương trình IPM và nông nghiệp bền vững nhưng trong nông nghiệp hữu cơ nên tránh sử dụng vì tính không chọn lọc của chúng khi sử dụng sẽ tiêu diệt cả sâu hại lẫn thiên địch. Những vấn đề về sâu hại • Bọ xít hại vải (Tessaratoma papillosa) (Drury) – Có nhiều báo cáo về việc đã áp dụng biện pháp kiểm soát bằng vi khuẩn qua việc sử dụng virut beauvaria như một kỹ thuật phòng trừ bọ xít (Cần thu thập thêm thông tin để biết cách lấy và sử dụng virut này như thế nào trên cây vải ở Việt Nam và đánh giá được tác động tiềm tàng của nó ở phạm vi rộng hơn ). • Sâu gặm vỏ cây (conopomorpha sinensis) được xem là loại sâu hại chính. Sử dụng sunphua vôi hoặc một hỗn hợp booc-đô để xử lý ngay trên những vùng gỗ bị ảnh hưởng (không ở phần lá) có thể làm giảm tác động của sâu hại. Phòng trừ sâu này được xem là quan trọng vì ở những phần vỏ bị hại có thể trở thành nơi ký chủ cho các sâu hại khác. Cọ sạch vùng vỏ cây bị hại bằng phương pháp thủ công, cũng có thể làm sạch các vùng sau khi cọ bằng cách bôi một lớp dầu máy đã qua sử dụng lên đó (nhưng không được để dầu chạm vào lá hoặc những phần vỏ non). Việc khoanh vỏ cũng có thể làm cho vấn đề sâu hại tồi tệ thêm, do việc cắt bớt vỏ cây trong biện pháp khoanh vỏ làm cây bị căng thẳng và nó bị sâu hại tấn công. Vì thế hạn chế việc làm này sẽ làm giảm bớt sự tấn công của sâu hại • Sâu đục thân (Cramella smellem) – Tỉa bỏ bằng biện pháp thủ công. Phòng trừ sâu đục thân cần thiết phải có sự đề phòng và phát hiện sớm để giảm thiểu tác hại tới cây. • Nhện lông nhung (Eriophyes litchi) là một vấn đề lớn mà nó có thể trở nên tồi tệ hơn bởi vì thiếu các loài ăn mồi do phun quá nhiều thuốc sâu. Vấn đề không trở thành dịch hại trầm trọng nếu nông dân hưỏng ứng với việc hủy bỏ hoàn toàn việc phun thuốc trừ nhện ngay từ ban đầu. Biện pháp phòng trừ khuyến cáo trong hữu cơ là phun sunphua thấm nước. Nhện lông nhung sống trên cây quanh năm nên công tác vệ sinh đóng một vai trò quan trọng trong biện pháp phòng trừ nó. Phun mạnh tia nước sạch lên cây có thể làm rối loạn nhện, làm giảm khả năng sinh sản và gây hại của nhện. - 95 -
  20. Có nhiều con săn mồi đặc biệt là những loại rệp ăn mồi được biết đến và đã được sử dụng trong các chương trình đấu tranh sinh học trên thế giới trong đó có cả Trung Quốc. Đối với các cây vải già nhện gây hại trên lá ít hơn nhưng cần quan tâm tới các cây trẻ hơn. Những phần bị nhện hại trên cây có thể được đốn tỉa và đốt đi. Nếu cần thiết phải xử lý chỉ nên tiến hành trên các cây bị gây hại. Khi cần thiết xà phòng và dầu có thể được sử dụng hiệu quả. Những vấn đề về nấm gây bệnh: • Sương mai (Phytothera) – Biện pháp xử lý trong canh tác thông thường là sử dụng axit phosphoric không được khuyến khích trong canh tác hữu cơ. Cung cấp một lượng vật chất hữu cơ cao như che phủ quanh gốc cây được cho là biện pháp phòng bệnh tự nhiên tốt nhất đối với bệnh sương mai trong đất. • Bệnh thán thư (Collectrotrichum) làm mất mầu quả vải, phun sulphur thấm nước lên cây, rửa quả sau khi thu hoạch. Ngoài những sâu bệnh ở trên được nông dân xác định là các loài gây hại chủ yếu họ phải đương đầu còn có các sâu bệnh hại khác nữa. Tham khảo từ M. Alterie và Andre Leu. ‘Những cây che phủ còn có thể tạo ra một nơi ẩn náu cho những côn trùng có ích bằng việc cung cấp cho chúng thức ăn và nơi ở. Sự sụt giảm mật độ nhện hại và rầy hại trên nho đã được quan sát trong hệ thống được trồng cây che phủ.(Alterie et al. 2005). Trong vườn nho, những cây dẫn dụ côn trùng đã được trồng trộn lẫn như cây che phủ để khuyến khích sự hiện diện của các côn trùng có ích trên đồng và có vai trò như một hành lang để cho các côn trùng có ích di chuyển từ nơi này sang nơi khác trong vườn nho hoặc từ những vùng sinh thái gần đó về vườn nho (Alterie et al. 2005). (Nếu bạn lựa chọn trồng một loại cây dẫn dụ côn trùng, điều quan trọng là lựa chọn những loại cây hấp dẫn những côn trùng sẽ có những tác động tích cực cho vườn quả của bạn)’ Khóa huấn luyện TOT nên cung cấp sự mô tả vòng đời của các loại sâu bệnh hại khác nhau và liệt kê danh sách các cây dẫn dụ côn trùng cũng như chúng được trồng khi nào và như thế nào. Các cây dẫn dụ côn trùng cung cấp thức ăn và nơi trú ngụ cho các con vật bắt mồi. Chúng gồm nhiều loại cây khác nhau và có thể được phát triển trong nhiều cách thức khác nhau. • Được gieo vào trong lớp đất có cỏ của vườn quả (thực vật đang sinh trưởng ở giữa các cây ăn quả) và những nơi trống bị bỏ lại trong vườn – đối với chè, vải vv… • Trong những khoảnh đất bỏ lại ở cuối các hàng cây • Dọc theo các dải làm vùng đệm và các chỗ ẩn náu . • Đặc biệt được gieo giữa các hàng rau trên các luống trồng. Khi các cây dẫn dụ đã được trồng và sinh trưởng, chúng nên được duy trì thường xuyên bằng việc gieo lại và trong một số trường hợp có thể cắt hoặc gặt hái để giữ cho chúng phát triển tốt. Xung quanh vấn đề về lợn và sức khỏe động vật Lợn bị chết hoặc bị giết do bị bệnh dịch lở mồm long móng. Không có giải pháp nào cho vấn đề này ngoại trừ việc làm cho đa dạng vật nuôi sang các vật nuôi khác như thỏ nhưng - 96 -
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2