Tài liệu luật so sánh
lượt xem 168
download
Luật so sánh hay Luật học so sánh là một môn khoa học, một phương pháp tiếp cận nghiên cứu so sánh các hệ thống pháp luật khác nhau nhằm tìm ra sự tương đồng và khác biệt, giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ thống pháp luật. Luật học so sánh còn là lý luận, hay là môn khoa học trong các ngành khoa học pháp lý nhằm nghiên cứu và so sánh các văn bản pháp luật và hệ thống pháp luật khác nhau với nhau và với các quy phạm của luật...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tài liệu luật so sánh
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA LUẬT GIÁO TRÌNH LUẬT SO SÁNH Chuû bieân: TS. Nguyeãn Ngoïc Ñieän Caàn Thô - 2006
- Giáo trình Luật so sánh Khoa luật- Đại học Cần Thơ MỤC LỤC PHẦN I- PHẦN CHUNG Trang Chương 1-Tổng quan về so sánh luật ………………………………………………. 01 Chương 2- Các hệ thống pháp luật tiêu biểu trên thế giới …………………………. 09 PHẦN II- PHẦN CHUYÊN ĐỀ Chuyên đề 1- Quyền chiếm hữu trong luật của các nước …………………………. .24 Chuyên đề 2- Chế độ pháp lý về giao kết hợp đồng trong luật của Anh-Mỹ, Pháp, Đức và Italia ……………………………………………………………………………… 33 Chuyên đề 3- Các nguyên tắc xác định thiệt hại về tinh thần trong trách nhiệm dân sự- kinh nghiệm của các nước ………………………………………………………….. 56 Chuyên đề 4- Trust trong luật của Anh……………………………………………… 64 Chuyên đề 5- Quy chế pháp lý về chữ ký điện tử trong luật của Pháp và luật của Mỹ ……………………………………………………………………………………….. 83
- Giáo trình Luật so sánh Khoa luật- Đại học Cần Thơ PHẦN I- PHẦN CHUNG Chương 1 Tổng quan về so sánh luật 1. Khung cảnh hình thành yêu cầu so sánh luật Sự đa dạng của luật. Sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế-xã hội, sự khác biệt về chế độ chính trị và sự dị biệt văn hoá là những nguyên nhân chính dẫn đến sự khác biệt giữa các hệ thống luật. Gắn với chủ quyền quốc gia, mỗi hệ thống luật là của riêng quốc gia ấy. Bởi vậy, có thể thừa nhận rằng có bao nhiêu quốc gia thì có bấy nhiêu hệ thống luật. Thậm chí, trong trường hợp Nhà nước được tổ chức theo mô hình liên bang, mỗi bang thành viên còn có cả hệ thống luật của bang mình. Luật và hệ thống pháp lý. Trong ngôn ngữ được sử dụng hàng ngày, luật và hệ thống pháp lý được coi là những khái niệm đồng nghĩa. Đó là một hệ thống các quy tắc ứng xử trong quan hệ xã hội được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Về phương diện kỹ thuật, có thể định nghĩa hệ thống pháp lý là luật được áp dụng ở một nước. Ví dụ, hệ thống pháp lý của Pháp, của Mỹ, của Việt Nam,… Định nghĩa này thực ra cũng chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi trong một Nhà nước liên bang có thể có nhiều hệ thống pháp lý; mặt khác, một nhóm nước có thể chỉ có một hệ thống pháp lý chung. 2. Đối tượng của luật học so sánh Đối tượng vĩ mô. Sự khác biệt có thể được nhìn nhận trong phạm vi toàn hệ thống, dẫn đến sự phân biệt giữa hệ thống này với hệ thống khác. Thông thường, một hệ thống đặc thù hình thành trên một nền văn hoá đặc thù. Chẳng hạn, văn hoá phương Tây là chiếc nôi của hệ thống pháp luật phương Tây; văn hoá nho giáo tương ứng với hệ thống pháp luật của các nước Viễn Đông. Bên cạnh đó, các ảnh hưởng tôn giáo cũng có thể khiến cho hệ thống luật trở nên đặc thù. Ví dụ điển hình là luật giáo hội ở châu Âu thời Trung cổ và luật Hồi giáo hiện nay. Có những khác biệt có nguồn gốc từ chế độ chính trị, ví dụ, luật xã hội chủ nghĩa khác với luật tư sản. Tuy nhiên, trong khung cảnh toàn cầu hoá đời sống kinh tế, những khác biệt có nguồn gốc từ sự khác biệt chế độ chính trị dần dần biến mất. Đối tượng vi mô. Sự khác biệt có thể có nguồn gốc từ những tác động chính trị, kinh tế, văn hoá, tôn giáo của từng nước đến từng lĩnh vực của đời sống xã hội, khiến cho quan điểm của người làm luật về cách giải quyết vấn đề pháp lý trở nên đặc thù. Ví dụ, luật của nhiều nước Hồi giáo cho đến nay vẫn thừa nhận chế độ đa thê và tình trạng bất bình đẳng nam nữ, trong khi chế độ này, tình trạng này đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật ở các nước tiền tiến và thậm chí ở nhiều nước đang phát triển. Tinh tế hơn nữa, có những khác biệt trong cách nhìn nhận sự việc, vấn đề, do các công cụ kỹ thuật được dùng để phân tích được tạo ra trong những hệ thống tư duy 1
- Giáo trình Luật so sánh Khoa luật- Đại học Cần Thơ không giống nhau. Ví dụ, ở các nước theo văn hoá pháp lý latinh, quyền sở hữu được quan niệm là quyền tuyệt đối và độc nhất đối với tài sản; trái lại trong luật của các nước theo văn hoá pháp lý Anh-Mỹ, quyền sở hữu cũng là một quyền tuyệt đối, nhưng không hẳn độc nhất: trên cùng một tài sản, có thể có nhiều người thực hiện các quyền tương tự như quyền sở hữu trong quan niệm la tinh, một cách độc lập với nhau. 2.2. Phương pháp So sánh bằng khái niệm. Việc so sánh luật có thể được thực hiện bằng cách đứng hẳn ở góc nhìn của luật nước ngoài là đối tượng của sự so sánh và dùng những khái niệm được xây dựng trong chính luật hữu quan (luật công cụ) để mô tả luật đó (luật được so sánh) hoặc, ngược lại, đứng hẳn ở góc nhìn của luật trong nước và dùng những khái niệm của luật trong nước để phân tích luật nước ngoài. Cách thứ nhất thường được áp dụng trong trường hợp giữa hai hệ thống luật có sự chênh lệch về trình độ phát triển kỹ thuật và luật được so sánh đang trong lộ trình hoàn thiện theo khuôn mẫu luật công cụ (có vận dụng). Cách thứ hai thường được áp dụng trong trường hợp cần làm rõ những nét đặc trưng có nguồn gốc văn hoá, lịch sử của luật trong nước trong mối quan hệ so sánh với luật nước ngoài. So sánh từ các căn cứ lịch sử. Trong một nước mà luật mang tính kế thừa, các dấu ấn của quá khứ để lại trong luật hiện đại có thể tạo thành những nét đặc thù của hệ thống luật so với các hệ thống luật cùng thời khác. Ví dụ, quyền hưởng hoa lợi trong luật của Pháp có nguồn gốc từ chế độ sở hữu phong kiến về đất đai; trust trong luật Anh-Mỹ xuất xứ từ mối quan hệ đặc biệt giữa người trực tiếp khai thác đất và người có quyền lợi gắn với đất. So sánh bằng cách dựa vào các yếu tố văn hoá, xã hội. Ngôn ngữ, tính cách, ý thức hệ thống, tình hình chính trị,… hay các yếu tố xã hội, văn hoá, kinh tế, chính trị nói chung có tác động nhất định đến sự phát triển của hệ thống pháp lý. Luật các nước phương Đông coi trọng sự hoà giải, việc bảo vệ các giá trị gia đình; luật phương Tây tôn vinh vai trò của cá nhân,… 3. Lợi ích của việc so sánh luật 3.1. Hiểu rõ hơn về luật trong nước Lý giải được các giải pháp riêng của luật trong nước. Khi tìm hiểu luật nước ngoài, người so sánh có điều kiện nắm bắt cách nhìn nhận, đánh giá, xử lý riêng của luật hữu quan đối với các vấn đề pháp lý xuất hiện cả ở nước ngoài và trong nước của mình. Qua đó, người so sánh hiểu rõ những điểm giống và khác nhau giữa luật trong nước và luật nước ngoài; Đặc biệt, việc nhìn nhận phân tích luật trong nước trong mối quan hệ so sánh với luật nước ngoài cho phép hiểu rõ hơn về nguồn gốc, bản chất của những giải pháp lớn tạo thành nét đặc thù của luật trong nước. Ví dụ: Việc so sánh luật sở hữu bất động sản của các nước cho phép hiểu rằng Việt Nam không phải là nước duy nhất thiết lập quyền sở hữu công cộng đối với đất đai. Quyền sở hữu công cộng đối với đất đai cũng không phải là giải pháp riêng của các nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa: đất đai ở Anh, một nước tư bản già nua, từ bao 2
- Giáo trình Luật so sánh Khoa luật- Đại học Cần Thơ đời này vẫn thuộc về Vương quyền. Quyền sở hữu công cộng đối với đất đai cả ở Việt Nam và ở Anh có nguồn gốc từ việc thừa nhận tính tối cao, quyền tối thượng đối với lãnh thổ của chủ thể tạo thành biểu tượng của quốc gia. 3.2. Giúp hoàn thiện luật trong nước Vận dụng luật nước ngoài vào việc hoàn thiện luật trong nước. Nhắc lại rằng sự khác biệt về giải pháp cho các vấn đề pháp lý trong luật của các nước có thể có nguồn gốc đa dạng: kinh tế, văn hoá, chính trị,... hoặc, trong rất nhiều trường hợp, sự khác biệt có nguyên nhân thuần tuý kỹ thuật, chuyên môn. Việc hiểu biết luật nước ngoài cho phép người nghiên cứu luật trong nước có điều kiện cân nhắc, lựa chọn các phương án thúc đẩy sự hoàn thiện của luật trong nước, các phương án được xây dựng từ các kết quả vận dụng các thành tựu của luật nước ngoài. Ví dụ, khi biết rằng quyền sở hữu công cộng đối với đất đai cũng là giải pháp nguyên tắc trong luật của một số nước tiên tiến, ví dụ, ở Anh, ta có thể nghiên cứu các thành tựu trong việc xây dựng và hoàn thiện chế độ pháp lý về sở hữu đất đai của các nước đó và đề xuất các biện pháp vận dụng các thành tựu đó vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam 3.3. Tạo điều kiện phát triển quan hệ quốc tế Quan hệ trong cuộc sống dân sự. Việc so sánh luật cho phép hoàn thiện sự hiểu biết về luật nước ngoài và điều đó có ích trong việc chuẩn hoá thái độ cư xử của con người trong các quan hệ dân sự và thương mại có yếu tố nước ngoài. Ví dụ, hiểu rõ luật của các nước Hồi giáo, nhà đầu tư Việt Nam sẽ không nghĩ đến chuyện lập một dự án đầu tư xây dựng nhà máy rượu bia tại một nước Hồi giáo. Việc so sánh luật cũng tỏ ra cần thiết cho quá trình chuẩn bị tư liệu, tài liệu phục vụ việc xây dựng các công ước quốc tế đặt cơ sở cho sự thống nhất thái độ ứng xử trong một lĩnh vực nào đó. Ví dụ điển hình là công ước Vienne về hợp đồng mua bán; công ước Berne về quyền tác giả,… Trong trường hợp có xung đột pháp lý, người có lợi ích liên quan hiểu rõ luật nước ngoài sẽ có điều kiện bảo vệ quyền lợi của mình trong những điều kiện tốt nhất có thể được. Quan hệ công. Việc hiểu rõ luật tổ chức, luật hành chính nước ngoài cho phép viên chức có thái độ giao tiếp, ứng xử thích hợp trong các mối quan hệ công: biết được trong trường hợp nào cần nói chuyện với ai và nói như thế nào. Việc trao đổi giữa các thiết chế công cũng có thể được thực hiện trong những điều kiện thuận lợi. Việc xây dựng các công ước liên quan đến chính sách công (ngoại thương, thuế,…) cũng được trở nên dễ dàng trên cơ sở sự hiểu biết về luật lệ của nhau. 4. Phân loại các nền luật học 4.1. Lợi ích và tiêu chí phân loại Lợi ích. Việc phân loại các nền luật học cho phép hình dung sự tồn tại của những nhóm hệ thống pháp lý có những điểm tương đồng cơ bản, tạo thành một 3
- Giáo trình Luật so sánh Khoa luật- Đại học Cần Thơ trường phái phân biệt với các trường phái khác. Việc so sánh luật có thể được thực hiện giữa trường phái này và trường phái khác hoặc giữa hệ thống luật thuộc trường phái này với hệ thống luật thuộc trường phái khác. Tiêu chí. Các tiêu chí phân loại rất đa dạng. Có bốn nhóm tiêu chí chủ yếu được thừa nhận trong luật học so sánh của nhiều nước. - Nhóm tiêu chí gắn liền với quan niệm về trật tự xã hội. Trật tự xã hội có thể được xây dựng dựa trên cách nhìn nhận về cơ sở của lòng tin hoặc về vị trí của cá nhân trong xã hội có tổ chức. Tuỳ theo cơ sở của lòng tin có tính chất hay không có tính chất tôn giáo, có thể phân chia các hệ thống pháp luật thành trường phái tôn giáo hoặc trường phái thế tục. Tuỳ theo cá nhân có được đặt ở vị trí trung tâm của xã hội hay không, có thể phân chia các hệ thống pháp luật thành luật cá nhân chủ nghĩa, luật cộng đồng chủ nghĩa hay luật tập thể chủ nghĩa. - Nhóm tiêu chí gắn liền với quan niệm về vai trò của luật. Ở một số nước, luật là công cụ tổ chức và quản lý xã hội; ở một số nước khác, luật lại được coi là công cụ chủ yếu dùng để trấn áp. - Nhóm tiêu chí gắn liền với quan niệm về các nguồn của luật. Một số hệ thống luật dựa chủ yếu vào luật viết; một số hệ thống luật khác lại coi các án lệ là nguồn chủ yếu của luật; có hệ thống lại coi tục lệ là nền tảng của luật. - Nhóm tiêu chí gắn liền với cách cấu trúc quy phạm pháp luật. Các quy phạm có thể được xây dựng bằng cách trừu tượng hoá cao độ các giả định, quy định và, để áp dụng các quy phạm đó, người ta phải sử dụng nhiều phương pháp phân tích luật viết nhằm làm vỡ cấu trúc của quy phạm và làm lộ ra các quy phạm ẩn. Thế nhưng, các quy phạm của luật viết cũng có thể được xây dựng một cách thật cụ thể để áp dụng trong các trường hợp cụ thể thông qua việc sử dụng phương pháp tam đoạn luận. 4.2. Ý nghĩa tương đối của việc phân loại Thực ra, các vấn đề được người làm luật quan tâm, trên nguyên tắc, xuất hiện ở tất cả các nước. Vả lại, vượt lên tất cả những khác biệt, có một trật tự phổ quát dựa vào lẽ phải, lẽ công bằng. Chủ yếu là dựa vào trật tự phổ quát đó mà người làm luật ở các nước xây dựng hầu hết các giải pháp của mình. Có thể giữa người làm luật ở các nước khác nhau có cách định lượng khác nhau, chẳng hạn, trong việc xây dựng các giải pháp liên quan đến tuổi kết hôn, tuổi thành niên, hình phạt dành cho các tội phạm hình sự,…; nhưng cách định tính thì giống nhau trên nguyên tắc. Bởi vậy, sự khác biệt giữa các hệ thống luật không mang ý nghĩa đối lập mà chủ yếu thể hiện tính đa dạng của văn hoá pháp lý và của văn hoá nói chung. Sự đa dạng của văn hoá pháp lý có thể được nhìn nhận theo nhiều cách và tương ứng với mỗi cách, người ta có thể xây dựng một hệ thống phân loại. Vả lại, ngay trong nội bộ một trường phái, các giải pháp cụ thể được ghi nhận trong luật của mỗi nước cũng có thể rất khác nhau. 4.3. Cách phân loại truyền thống: luật phương Tây và luật phương Đông 4
- Giáo trình Luật so sánh Khoa luật- Đại học Cần Thơ 4.3.1. Luật phương Tây Luật phương Tây bao gồm các nền luật pháp được áp dụng tại châu Âu, châu Mỹ (trừ Cu ba) và ở một số nước tại các lục địa khác như châu Á (Thổ Nhĩ Kỳ, Li Băng, Israel, một phần của Ấn Độ, Hồng Kông), Châu Đại Dương (Úc và New Zealand) và phần lớn lãnh thổ Liên bang Nam Phi. Sự thống nhất của luật phương Tây. Về mặt nội dung, gọi chung là luật phương Tây các nền luật pháp dựa trên một quan niệm đặc thù về trật tự xã hội và một số nguyên tắc đặc thù thiết lập trên cơ sở quan niệm đó: - Nguyên tắc tôn vinh vai trò của cá nhân trong đời sống pháp lý: đặc trưng bằng việc thừa nhận cá nhân là chủ thể của quyền và nghĩa vụ; pháp nhân, suy cho cùng, chỉ là cách nhìn nhận cá nhân-chủ thể của luật trong trường hợp đặc thù. Nói chung, trong hệ thống luật phương Tây, cá nhân là trung tâm của luật, là lý lẽ để luật tồn tại. - Nguyên tắc về tính thế tục của đời sống pháp lý: chủ trương thiết lập ranh giới giữa sinh hoạt tôn giáo và; cho phép phi pháp lý hoá các ứng xử của nhà chức trách tôn giáo trong khuôn khổ vận hành của tổ chức tôn giáo. - Nguyên tắc tôn trọng tự do cá nhân: tạo điều kiện cho việc thiết lập một hệ thống các biện pháp bảo vệ của cơ quan tài phán dành cho cá nhân trong các trường hợp có xung đột pháp lý giữa cá nhân và Nhà nước Sự phân cực của luật phương Tây: luật la tinh và luật Anh-Mỹ. Sự phân cực của luật phương Tây thành hai hệ thống lớn – la tinh và Anh-Mỹ - có nguồn gốc không phải từ sự khác biệt ý thức hệ mà từ sự khác biệt trong việc xây dựng và sử dụng các công cụ kỹ thuật để mổ xẻ, mô tả đối tượng của luật. Luật la tinh, được hiểu là luật của các nước Châu Âu và Châu Mỹ la tinh. Các nước theo luật la tinh chịu ảnh hưởng sâu sắc của luật La Mã. Luật của các nước này đặc trưng bởi các khái niệm trừu tượng và việc xây dựng các quy tắc tổng quát, bởi việc coi trọng luật viết so với các nguồn khác của luật cũng như bởi việc phân biệt luật nội dung và luật tố tụng. Trong các nước theo luật la tinh, người ta thường thừa nhận sự tồn tại của luật tự nhiên, tức là các quy tắc có giá trị phổ quát, gọi là lẽ phải, lẽ công bằng. Về hình thức, luật la tinh thường được chứa đựng trong các bộ luật. Luật Anh-Mỹ, là luật của Anh, Ireland, Mỹ, Canada và New Zealand. Luật ở các nước này dựa chủ yếu vào các quy tắc được rút ra từ quá trình xét xử các vụ án. Các quy tắc này có tính cụ thể rất cao và, trong nhiều trường hợp, là sự pha trộn giữa luật nội dung và luật tố tụng. Có thể nhận thấy rằng các nước theo trường phái Anh- Mỹ là các nước nói tiếng Anh. Hệ thống thuật ngữ pháp lý được xây dựng trong khuôn khổ một nền văn hoá pháp lý đặc thù, bởi vậy, rất khó dịch ra các ngôn ngữ khác. Tính đa dạng của luật la tinh và luật Anh-Mỹ. Các trường phái la tinh và Anh-Mỹ không phải là tập hợp các hệ thống pháp luật đồng nhất. 5
- Giáo trình Luật so sánh Khoa luật- Đại học Cần Thơ Trường phái la tinh có các đại diện tiêu biểu là các nước Tây Âu, Bắc Âu, Nga và Mỹ la tinh. Các nước Tây Âu đáng chú ý nhất là Pháp, Đức, Tây Ban Nha. Các nước Bắc Âu đáng chú ý nhất là Thuỵ Điển, Na Uy, Đan Mạch. Các nước Nga được hiểu là Nga và các nước thành viên của Liên Xô cũ: đây là những nước từng sáng lập ra luật xô viết, nhưng, từ những năm 1990, đã bắt đầu xây dựng hệ thống pháp luật của mình bằng cách vận dụng các khuôn mẫu luật la tinh. Các nước Mỹ la tinh xây dựng hệ thống pháp luật theo mô hình luật la tinh, nhưng chịu ảnh hưởng luật của Mỹ, nhất là trong các lĩnh vực công pháp và tố tụng. Trường phái Anh-Mỹ phát nguyên từ Anh và phát triển ở các nước nói tiếng Anh. Trường phái này có các biểu tượng chung, như chế định trust và hệ thống tư pháp. Trừ Anh, các nước khác đang có xu hướng phát triển luật viết dưới hình thức các bộ luật. Sự tương đồng giữa luật la tinh và luật Anh-Mỹ. Những điểm tương đồng giữa luật la tinh và luật Anh-Mỹ là kết quả sự gặp gỡ và giao thoa giữa các nền văn hoá có cùng trình độ phát triển kỹ thuật. Về nguồn của luật, các nước theo văn hoá pháp lý la tinh dành cho án lệ một vị trí ngày càng quan trọng. Trong khi đó, các nước theo văn hoá pháp lý Anh-Mỹ ngày càng có xu hướng pháp điển hoá pháp luật của mình. Về nội dung, các nước theo văn hoá pháp lý Anh-Mỹ bắt đầu dung nạp các khái niệm của luật la tinh, nhất là trong lĩnh vực sở hữu và hợp đồng. Vầ phần mình, các nước theo văn hoá pháp lý la tinh có xu hướng vận dụng các thành tựu của luật Anh- Mỹ trong lĩnh vực thương mại để hoàn thiện hệ thống pháp luật thương mại của mình. Thậm chí, một số nước đã xây dựng một hệ thống pháp luật hỗn hợp dựa trên sự kết hợp các thành tựu của hai nền văn hoá pháp lý. Ví dụ điển hình là Canada, Scotland. 4.3.2. Luật phương Đông Gọi chung là luật phương Đông các nền luật pháp không được xếp vào nhóm luật phương Tây, bao gồm luật châu Phi và luật châu Á. Các luật truyền thống. Vào thời cổ, luật của các nước châu Phi được xây dựng dựa vào ý tưởng đoàn kết: đoàn kết gia đình, làng xã, bộ tộc. Cá nhân không có vai trò gì đặc biệt trong đời sống pháp lý: các quyền và nghĩa vụ trên nguyên tắc mang tính gia đình, cộng đồng hoặc tập thể. Về hình thức, luật chủ yếu là luật tục lệ; khái niệm luật viết hầu như không tồn tại. Ở các nước Hồi giáo, luật được rút ra từ kinh Coran và từ các truyền thống liên quan đến cuộc sống của Đấng tiên tri, được các giáo sĩ ghi nhận. Bởi vậy, luật có nguồn gốc chủ yếu từ các học thuyết của các giáo sĩ, chứ không phải từ ý chí của nhà chức trách. Các nguyên tắc của luật dựa vào tôn giáo và do đó có tính ổn định cao: bất bình đảng nam nữ, cấm cho vay nặng lãi, cấm uống rượu, chế độ đa thê,…. Luật Hồi 6
- Giáo trình Luật so sánh Khoa luật- Đại học Cần Thơ giáo phát triển chủ yếu dựa vào các phương pháp biện luận tương tự pháp luật và biện luận theo trường hợp đặc thù; các khái niệm khá trừu tượng nhưng lại khó diễn dịch. Luật Hindou bao gồm các tục lệ của cộng đồng Hindou và các tín điều của đạo Hindou. Luật Hindou coi trọng sự khoan dung và các bổn phận của mỗi thành viên cộng đồng đối với gia đình cũng như đối với xã hội. Thấm nhuần tín ngưỡng Hindou đặc trưng bằng lý thuyết luân hồi, luật Hindou dạy cho thành viên cách ứng xử phù hợp với đẳng cấp của mình: ứng xử tốt trong kiếp này, thành viên sẽ có cơ hội được đưa lên đẳng cấp cao hơn trong kiếp sau. Luật của các nước châu Á Viễn Đông thấm nhuần tư tưởng Khổng- Mạnh - Nguyên tắc tôn vinh vai trò của gia đình: trong quan niệm truyền thống, gia đình, chứ không phải cá nhân, là chủ thể của luật. Ở góc nhìn của luật học phương Tây, có thể thừa nhận rằng gia đình trong luật cổ của các nước Viễn Đông là chủ sở hữu các tài sản tư và là người có các quyền và nghĩa vụ tài sản trong quan hệ với Nhà nước và với các gia đình khác. Trong quá trình thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ thể, gia đình hoá thân vào một cá nhân gọi là chủ gia đình. - Nguyên tắc trung dung: chủ trương rằng sự cân bằng là mục tiêu cao nhất của xã hội; bởi vậy, con người phải hành động như thế nào để bản thân mình đạt được điều đó và góp phần đưa xã hội đến mục tiêu đó. Chủ nghĩa trung dung lên án các hành động cực đoan, thái quá, đề cao vai trò của việc hoà giải, thừa nhận quyền hạn rộng rãi của chủ gia đình và tôn ti trật tự gia đình, xã hội. Luật hiện đại. Trong thế kỷ 20, Châu Phi và Châu Á chịu tác động rất mạnh của các trào lưu tư tưởng có nguồn gốc từ phương Tây và đã thay đổi một cách sâu sắc. Luật của các nước Á Phi cũng thế. Luật đương đại của các nước Châu Phi vẫn dựa vào tục lệ, nhất là trong lĩnh vực sở hữu đất đai và quan hệ gia đình, nhưng chịu ảnh hưởng mạnh của luật phương Tây trong các lĩnh vực kinh tế, quan hệ xã hội trong cuộc sống thị dân và tổ chức, vận hành của bộ máy hành chính. Luật phương Tây tác động vào có thể là luật latinh hoặc luật Anh-Mỹ tuỳ theo nước hữu quan từng là thuộc địa của một nước châu Âu đại lục hay của Anh. Luật Ấn độ hiện đại là sự pha trộn giữa các giá trị của văn hoá pháp lý Hindou truyền thống, các tín điều của đạo Hồi và các thành tựu của luật Anh-Mỹ. Các truyền thống cổ vẫn tiếp tục có chỗ đứng trong lĩnh vực gia đình và sở hữu đất đai trong nông nghiệp; luật Anh-Mỹ thống trị đời sống kinh tế, tổ chức bộ máy nhà nước, hệ thống hành chính và hệ thống tư pháp. Hầu hết các nước Viễn đông, trong quá trình hiện đại hoá hệ thống pháp luật của mình, đều chịu ảnh hưởng luật của Đức; riêng Việt Nam, một thuộc địa cũ của Pháp đã tiếp nhận các thành tựu trong luật của Pháp. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, văn hoá pháp lý Anh-Mỹ du nhập trong khuôn khổ chương trình tái thiết sau chiến tranh. Nhật, Hàn Quốc là những nước tiêu biểu cho trào lưu hiện đại hoá pháp luật theo mô hình Anh-Mỹ. 7
- Giáo trình Luật so sánh Khoa luật- Đại học Cần Thơ Các nước theo chế độ XHCN, như Trung Quốc, Việt Nam còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của luật xô viết trong thời kỳ đầu sau chiến tranh thế giới lần thứ II. Đến thời kỳ hội nhập, mở cửa, các nước này tiếp nhận luật phương Tây, đặc biệt trong việc hiện đại hoá pháp luật dân sự và thương mại. Việc áp dụng chính sách kinh tế thị trường cũng tạo điều kiện cho sự xuất hiện trở lại của các đơn vị kinh tế gia đình và điều đó, đến lượt mình, đặt cơ sở kinh tế cho việc khôi phục các giá trị truyền thống trong lĩnh vực gia đình. Pháp luật gia đình hiện đại của Trung Quốc và Việt Nam, bởi vậy, lại mang dấu ấn của tục lệ và của tư tưởng Khổng Mạnh. 8
- Giáo trình Luật so sánh Khoa luật- Đại học Cần Thơ Chương 2 Các hệ thống pháp luật tiêu biểu trên thế giới 1. Hệ thống tiêu biểu do tầm ảnh hưởng đối với luật của các nước khác trên thế giới 1.1. Luật của Pháp Trong chừng mực nào đó, có thể thừa nhận rằng luật của Pháp là sự kết hợp giữa luật La mã, luật germanique, luật giáo hội và sự sáng tạo của các nhà luật học (mà tiêu biểu là Beaumanoir, Domat và Pothier). 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Luật tục lệ và luật viết. Thời Trung cổ, các xứ miền Bắc nước Pháp được gọi là các xứ theo luật tục lệ, chịu ảnh hưởng của luật germanique; các xứ miền Nam được gọi là các xứ theo luật viết, chịu ảnh hưởng của luật La mã. Sau Cách mạng tư sản (1789), luật của Pháp đi vào lộ trình thống nhất. Cách mạng tư sản đã thủ tiêu hệ thống tư pháp cổ xưa, hệ thống pháp luật phong kiến, đồng thời thiết lập các nguyên tắc cơ bản của nền pháp luật mới: thừa nhận và tôn trọng các quyền tự do của công dân trong khuôn khổ pháp luật, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật,… Các bộ luật ra đời đánh dấu những điểm son của thời kỳ này. Cho đến trước thế chiến thứ hai, luật không ngừng được hoàn thiện cả về phương diện luật viết, án lệ và học thuyết. Các ngành luật lần lượt ra đời và luật dân sự được thừa nhận là luật chung của hệ thống luật tư. Sau thế chiến thứ hai, bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống luật công trên cơ sở Hiến pháp 1958, người Pháp tiếp tục phát triển luật tư. Một số ngành luật mới, phù hợp với yêu cầu của cuộc sống pháp lý hiện đại, xuất hiện và không ngừng phát huy vai trò của mình, như luật cạnh tranh, luật bảo vệ người tiêu dùng, luật môi trường, luật bất động sản,… Về hình thức pháp luật, luật của Pháp thuộc trường phái tôn trọng luật viết. Từ sau cách mạng tư sản, vai trò của tục lệ ngày càng thu hẹp lại. Án lệ được coi là một nguồn của luật nhưng không phải là một nguồn độc lập: thẩm phán có chức năng làm rõ nội dung luật viết thông qua việc áp dụng các phương pháp phân tích luật, chứ không có quyền tạo ra các quy tắc độc lập với luật viết. 1.1.2. Luật tư Luật dân sự. Luật dân sự Pháp giải quyết bốn vấn đề lớn: 1. Các chủ thể của luật là ai? 2. Các chủ thể của luật có những quyền gì? 3. Các quyền chủ thể được xác lập và thực hiện như thế nào? 4. Các biện pháp bảo đảm đối với việc thực hiện quyền chủ thể là những biện pháp gì? Luật dân sự còn được gọi là luật chung của hệ thống luật tư, nghĩa là luật được áp dụng trong tất cả các trường hợp không có quy định ngược lại trong các luật riêng. 9
- Giáo trình Luật so sánh Khoa luật- Đại học Cần Thơ Luật tài sản của Pháp chịu ảnh hưởng của luật La mã; nhưng những chế định độc đáo nhất trong luật tài sản La mã, như tài sản uỷ thác (fiducie), đại nhiệm quản trị (fideicommis), lại không được người Pháp tiếp nhận. Người Pháp thừa nhận quyền sở hữu là tuyệt đối và độc quyền, theo kiểu La mã, đồng thời chấp nhận các quan niệm về quyền đối vật và quyền đối nhân. Các tài sản được phân thành hai loại - động sản và bất động sản. Chế độ đăng ký bất động sản được tổ chức tốt, nhưng việc đăng ký chỉ có hiệu lực đối kháng với người thứ ba chứ không chứng minh được quyền sở hữu. Luật nghĩa vụ của Pháp bao gồm hai phần: phần lý thuyết chung và luật về các hợp đồng thông dụng. Lý thuyết chung lại được chia thành hai phần lớn: luật hợp đồng và luật trách nhiệm dân sự. Luật hợp đồng cũng chịu ảnh hưởng luật La mã, đồng thời có những nét đặc trưng; một trong những nét đặc trưng đáng chú ý là lý thuyết về nguyên nhân của nghĩa vụ kết ước. Trách nhiệm dân sự được quy kết, trên nguyên tắc, do lỗi (BLDS Điều 1382); nhưng trách nhiệm dân sự không do lỗi cũng được thừa nhận. Luật về các hợp đồng thông dụng có các hạt nhân là hợp đồng mua bán, hợp đồng cho thuê và hợp đồng dịch vụ. Luật thương mại. Luật thương mại là môt ngành của luật tư bao gồm các quy tắc chi phối hoạt động nghề nghiệp của thương nhân, được hiểu là những người mua đi bán lại, cung ứng dịch vụ và sản xuất công nghiệp. Luật của Pháp có những khái niệm rất đặc thù như hành vi thương mại, sản nghiệp thương mại. Các mô hình công ty chủ yếu được xây dựng trong luật của Pháp bao gồm: công ty dân sự, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty cấp vốn đơn giản, công ty cấp vốn chia cổ phần, công ty dự phần. Trừ công ty dự phần, tất cả các công ty đều có tư cách pháp nhân. 1.1.3. Luật công Luật hiến pháp. Nhà nước Pháp theo chế độ cộng hoà, được tổ chức theo đúng các nguyên tắc của lý thuyết phân quyền. Cơ quan lập pháp bao gồm Quốc hội và Thượng viện. Bộ máy hành pháp gồm có Tổng thống và Chính phủ: đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng do Tổng thống bổ nhiệm; Chính phủ có các quyền hạn rộng rãi trong đối nội, còn Tổng thống có các quyền hạn rộng rãi trong đối ngoại. Đứng đầu hệ thống tư pháp là Toà phá án. Bên cạnh hệ thống tài phán tư pháp còn có hệ thống tài phán hành chính, do Hội đồng nhà nước đứng đầu. Việc kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật được thực hiện bởi Hội đồng bảo hiến, độc lập với tất cả các thiết chế quyền lực. Luật hành chính. Hệ thống hành chính được tổ chức và vận hành theo nguyên tắc phi tập trung hoá và tản quyền. Các thiết chế địa phương, bao gồm vùng, tỉnh, quận (ở các thành phố lớn) và xã được trao các quyền hạn rộng rãi để quản lý dân cư theo lãnh thổ. Người công chức được tuyển dụng trên nguyên tắc thông qua các kỳ thi tuyển; họ được hưởng các chế độ đãi ngộ dành cho công chức nhà nước và thực hiện công việc theo lệnh của cấp trên. Công chức vi phạm quy chế công vụ có thể bị xử lý kỷ luật. Các hành vi của công chức trong khuôn khổ công vụ có thể bị phản bác trước toà án hành chính. 10
- Giáo trình Luật so sánh Khoa luật- Đại học Cần Thơ Hệ thống tư pháp. Nguyên tắc phân quyền không cho phép các toà án tư pháp phán xét các hành vi hành chính. Do vậy, hệ thống toà án hành chính được thành lập, phân biệt với hệ thống toà án tư pháp. Toà án hành chính có ba cấp: sơ thẩm, phúc thẩm và hội đồng nhà nước. Toà án hành chính có thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính và thẩm tra tính hợp pháp của các văn bản lập quy. Toà án tư pháp được phân thành nhóm: toà án xét xử về nội dung và toà phá án. Toà án xét xử về nội dung lại phân thành các toà án hình sự và toà án dân sự. Toà án hình sự bao gồm toà vi cảnh, toà tiểu hình toà đại hình, toà án quân sự. Toà án dân sự bao gồm các toà đệ nhất cấp và toà phúc thẩm. Toà phá án không phải là là cấp xét xử về nội dung mà chỉ đánh giá chất lượng áp dụng pháp luật của các bản án của toà cấp dưới. 1.2. Luật của Đức 1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển Nhà nước. Đế quốc La mã thần thánh của dân tộc Đức được thành lập vào năm 962, do hoàng đế đứng đầu và cai quản, bao gồm một vùng lãnh thổ rộng lớn. Đến năm 1250, đế quốc suy yếu, các công quốc hình thành và dần dần thay thế các thiết chế của đế quốc; những công quốc mạnh nhất chuyển thành các nhà nước, nhất là sau khi có các hiệp ước Wesphalie (1648). Đế quốc La mã thần thánh chính thức cáo chung vào năm 1806; các cuộc chinh phục của Napoléon làm biến mất các công quốc nhỏ bé, dẫn đến việc hình thành Liên bang Đức vào năm 1816. Liên bang Đức thống nhất chính thức được thành lập vào năm 1871 do những nỗ lực của Bismarck. Sau chiến tranh thế giới thứ II, nước Đức được chia thành Cộng hoà liên bang Đức và Cộng hoà dân chủ Đức. Đến năm 1990, Cộng hoà dân chủ Đức tự nguyện gia nhập vào Cộng hoà liên bang Đức. Pháp luật. Luật của Đức theo truyền thống la tinh. Việc tiếp nhận luật La mã diễn ra từ thế kỷ XIV thông qua việc giảng dạy luật tại các trường đại học. Đến thời kỳ của các nhà nước liên bang, xuất hiện học thuyết về luật tự nhiên, đặc trưng bởi tính duy lý và tính cá nhân chủ nghĩa. Dưới ảnh hưởng của học thuyết này, các nhà nước mạnh tiến hành xây dựng các bộ luật, như ở Bavaria, Áo. Đầu thế kỷ XIX, có nhiều ý kiến đề xuất việc thống nhất luật pháp của Đức để chống lại những ảnh hưởng của BLDS Napoléon; tuy nhiên, các nỗ lực nhằm hiện thực hoá ý kiến này đã thất bại. Mãi cho đến khi Bismarck thống nhất nước Đức, các ý tưởng này mới được khôi phục và đã đặt cơ sở cho việc xây dựng Bộ luật dân sự Đức nổi tiếng cùng với các bộ luật khác. 1.2.2. Luật tư Luật dân sự. Bộ luật dân sự Đức được ban hành năm 1896, có hiệu lực năm 1900, sau BLDS Napoléon đến gần một thế kỷ. Song, tầm ảnh hưởng của Bộ luật này có vẻ rộng, sâu và bền vững ở các nước châu Á, đặc biệt là Trung Quốc và Nhật. 11
- Giáo trình Luật so sánh Khoa luật- Đại học Cần Thơ Quyền sở hữu và các quyền đối vật được xây dựng theo các quan niệm la tinh. Sự chiếm hữu dựa vào học thuyết của Iherring và do đó, có phạm vi áp dụng rộng hơn sự chiếm hữu trong luật của Pháp. Chế độ đăng ký bất động sản được tổ chức rất chặt chẽ. Việc lập và giữ sổ địa bộ (grundbuch) được giao cho toà án hoặc các văn phòng công chứng nhà nước. Việc đăng ký một quyền đối vật bất động sản vào sổ địa bộ có tác dụng thiết lập bằng chứng chính thức về sự tồn tại của quyền đó. Người nào cho rằng việc đăng ký quyền đó là không có căn cứ thì phải chứng minh điều mình nói. Luật hợp đồng cũng chịu ảnh hưởng của luật La mã và có những nét tương đồng với luật của Pháp. Tuy nhiên, người Đức không có khái niệm nguyên nhân của nghĩa vụ kết ước. Luật cấm một số điều khoản có tác dụng tạo ra tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, đặc biệt trong trường hợp người ở vị trí bất lợi là người tiêu dùng. Luật về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng thừa nhận ba nhóm trách nhiệm: trách nhiệm do hành vi của con người; trách nhiệm do lỗi được suy đoán và trách nhiệm do rủi ro. Riêng chế độ trách nhiệm do rủi ro đã đi qua một lộ trình hoàn thiện và nay trở thành một chế độ trách nhiệm phức tạp, được áp dụng trong nhiều lĩnh vực: giao thông đường bộ, vệ sinh thực phẩm, bảo vệ môi trường,… Luật thương mại. Luật thương mại, được hiểu là luật tư dành cho thương nhân, được quy định chủ yếu trong Bộ luật thương mại năm 1897. So với luật thương mại Pháp, luật thương mại Đức có phạm vi áp dụng rộng hơn, bởi người Đức xác định phạm vi này không dựa vào sự tồn tại của hành vi thương mại mà dựa vào tư cách thương nhân của một trong các bên giao dịch. Các công ty được thừa nhận tương tự như luật của Pháp. Cần nhấn mạnh rằng chính người Đức là tác giả của mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn. Người Đức không có khái niệm sản nghiệp thương mại mà có khái niệm doanh nghiệp, được hiểu là một tập hợp các phương tiện vật chất và con người mà thương nhân sử dụng trong hoạt động thương mại. Khái niệm doanh nghiệp rộng hơn khái niệm sản nghiệp thương mại trong luật của Pháp. Doanh nghiệp có thể được chuyển nhượng. Luật hình. Khác với luật của Pháp, luật của Đức chỉ thừa nhận chủ thể của tội phạm là cá nhân; còn pháp nhân chỉ có thể bị chế tài trấn áp trong khuôn khổ xử lý vi phạm hành chính Do có luật về vi phạm hành chính mà luật hình chỉ ghi nhận hai loại vi phạm: tội đại hình (vergeben) và tội tiểu hình (vergehen). Luật thừa nhận nguyên tắc trách nhiệm hình sự cá nhân. Trên nguyên tắc, cá nhân chịu trách nhiệm hình sự khi có lỗi trong việc thực hiện hành vi vi phạm luật hình; tuy nhiên, có trường hợp cá nhân cũng phải chịu trách nhiệm hình sự, dù không có lỗi, một khi tỏ ra thiếu thận trọng trong cư xử và rơi vào tình trạng vi phạm pháp luật. 1.2.3. Luật công Luật công của Đức đặc trưng bởi chế độ bảo vệ các quyền cơ bản và chế độ bảo vệ các quyền của công dân trong mối quan hệ với quyền lực công. 12
- Giáo trình Luật so sánh Khoa luật- Đại học Cần Thơ Bảo vệ các quyền cơ bản. Các quyền cơ bản bao gồm các quyền tự do chủ yếu (tự do hành động, tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tự do báo chí,…), nguyên tắc bình đẳng, quyền được hưởng sự bảo đảm tài phán đối với việc tôn trọng các quyền tự do cơ bản và nguyên tắc bình đẳng. Các quyền này được ghi nhận trong hiến pháp và được bảo đảm bằng một hệ thống tư pháp rất hữu hiệu. Đặc biệt, luật của Đức cho phép công dân kiện ra toà án để vô hiệu hoá một đạo luật được cho là vi phạm các quy định của hiến pháp liên quan đến các quyền của công dân. Bảo vệ công dân. Chế độ bảo vệ công dân trong mối quan hệ với quyền lực công được xây dựng rất chặt chẽ. Nó cho phép công dân tiến hành các vụ án nhằm vô hiệu hoá các quyết định hành chính bất hợp lệ của chính quyền, cũng như yêu cầu bồi thường thiệt hại do hoạt động của chính quyền gây ra. Việc kiện chống lại các quyết định hành chính bất hợp lệ được thực hiện trước các toà án hành chính, bao gồm hai loại: kiện do là nạn nhân của một quyết định đã ban hành; kiện do là nạn nhân của việc từ chối ban hành một quyết định được yêu cầu. Trước khi kiện tại toà án hành chính, công dân phải khiếu nại đến cấp trên của cơ quan hành chính bị kiện và chỉ khi nào việc khiếu nại thất bại, việc kiện mới được thụ lý. Việc kiện bồi thường thiệt hại được dự kiến trong ba trường hợp: quy trách nhiệm của Nhà nước do lỗi của người thừa hành; quy trách nhiệm của Nhà nước do đề ra các biện pháp quản lý gây phương hại đến sở hữu tư nhân; quy trách nhiệm của Nhà nước do đề ra các biện pháp có tác dụng tạo ra tình trạng bất bình đẳng giữa công dân trong việc gánh vác các nghĩa vụ công ích. Trong cả ba trường hợp, toà án dân sự là cơ quan có thẩm quyền xét xử. 1.3. Luật của Anh 1.3.1. Lịch sử phát triển Mọi người đều nói rằng năm khai sinh luật của Anh là năm 1066, năm mà Guillaume Người Chinh Phục, Quận công Normandie, thiết lập vương quyền trên lãnh thổ Anh. 1.3.1.1. Common law Luật chung của vương quốc. Các vua Anh giao cho các thẩm phán quyền thay mặt mình xét xử các vụ tranh chấp xảy ra trên lãnh thổ. Trong quá trình giải quyết các tranh chấp ấy, các thẩm phán xây dựng hệ thống án lệ thống nhất trên toàn lãnh thổ Anh. Hệ thống án lệ này cạnh tranh mạnh mẽ với các luật lệ vẫn được thừa nhận bởi các toà án địa phương truyền thống tồn tại từ trước khi vương quyền được thiết lập, bao gồm toà án bình dân (áp dụng tục lệ) và toà án của lãnh chúa (áp dụng luật phong kiến). Về nội dung, các quy tắc án lệ pha trộn luật nội dung và luật thủ tục; về hình thức, các quy tắc được ghi nhận thành các tập án lệ, viết bằng tiếng Pháp normand và được dùng để giảng dạy ở các trường luật. Đến thế kỷ XIII, các án lệ trở nên ổn định và tạo thành khuôn mẫu mà các thẩm phán phải dựa vào để xét xử các vụ việc tương tự. 1.3.1.2. Equity 13
- Giáo trình Luật so sánh Khoa luật- Đại học Cần Thơ Luật đối trọng của common law. Dù được phát triển qua nhiều thế kỷ, common law không bảo đảm được việc xây dựng các giải pháp thoả đáng đối với con người trong tất cả các trường hợp. Vả lại, hình thành trong các tình huống thực tế, common law mang tính vụ việc cao và do đó có nhiều sơ hở. Trong điều kiện nhà vua vẫn giữ cho mình quyền phán xét ngay cả sau khi đã ủy thác quyền này cho các thẩm phán, người dân, trong trường hợp xét thấy các phán quyết của toà án common law là không thoả đáng, có quyền kêu nài đến tận nhà vua. Thoạt tiên, khi được người dân kêu nài về những phán quyết bất công của toà án common law, nhà vua trực tiếp thụ lý và giải quyết. Thế nhưng, càng về sau, các khiếu nại của người dân càng nhiều, nhà vua giao quyền giải quyết cho Chưởng Ấn, cộng sự viên thân cận của mình. Trong quá trình giải quyết các khiếu nại, Chưởng Ấn, xây dựng các quy tắc có tính chất khắc phục các nhược điểm của common law. Tập hợp các quy tắc này tạo thành một hệ thống luật gọi là Equity. Vào nửa cuối thế kỷ XV, cuộc chiến tranh kéo dài giữa vua Henri V và Edouard d’York, còn gọi là cuộc chiến tranh hai hoa hồng, đã làm tê liệt quyền lực của nhà vua. Trong bối cảnh ấy, Chưởng Ấn khẳng định quyền hạn của mình và, theo sự uỷ nhiệm của Hội đồng Nhà Vua, thụ lý và giải quyết kiện cáo của người dân như một thẩm phán độc lập. Thế là Equity, thay vì vẫn là một tập hợp các giải pháp thấu tình đạt lý cho các vấn đề phát sinh trong từng trường hợp đặc thù, trở thành một hệ thống luật độc lập bổ sung cho common law, thậm chí trở thành đối trọng của common law, bởi các giải pháp hình thành trong khuôn khổ đó chịu ảnh hưởng đặc biệt của luật La mã và luật giáo hội. Sự tồn tại song song của common law và equity. Sự gia tăng các việc kiện tại toà chưởng ấn tạo điều kiện cho sự phát triển equity thành một hệ thống luật đối trọng của common law. Thoạt tiên, nhà vua có thiên hướng ủng hộ equity, bởi đó là hệ thống luật được xây dựng dưới danh nghĩa của vua. Thế nhưng về sau, nhà vua lại thiết lập thêm một hệ thống tài phán mới để xét xử các tranh chấp được cho là quan trọng nhất, bao gồm các việc hình sự và các việc hành chính. Hệ thống tài phán mới này dẫn đến một cuộc khủng hoảng tư pháp nghiêm trọng, do người dân cho rằng nó có tác dụng thiết lập sự độc tài của nhà vua và ngăn cản việc dân chúng thụ hưởng các biện pháp bảo đảm tư pháp dựa vào common law. Hệ thống này bị huỷ bỏ vào thế kỷ XVII. Vậy là chỉ còn lại common law và equity. Các thẩm phán common law và equity hoàn toàn độc lập với nhau. Tuy nhiên, giữa common law và equity có nhiều điểm tương đồng. Về phương pháp áp dụng pháp luật, cả hai hệ thống xét xử đều có xu hướng hạn chế việc tạo ra các quy tắc mới và, từ thế kỷ XVII, dựa chủ yếu vào các tiền lệ. Về thủ tục áp dụng, hai hệ thống cũng tương đồng, nhất là từ khi các thẩm phán có xu hướng tách biệt các quy định về nội dung và quy định về thủ tục. Đặc biệt, sau khi có các luật 1873 và 1875, các hệ thống xét xử theo common law và equity đã được hợp nhất trong khuôn khổ một hệ thống tư pháp duy nhất, dù hai trình tự xét xử độc lập vẫn được duy trì. 1.3.1.3. Luật viết 14
- Giáo trình Luật so sánh Khoa luật- Đại học Cần Thơ Các đạo luật có nguồn gốc từ nghị viện. Từ thế kỷ XVII, luật có vai trò càng lúc càng quan trọng và can thiệp vào nhiều lĩnh vực: hôn nhân, bất động sản, hợp đồng mua bán,…. Luật thậm chí có thể chống lại cả hiến pháp mà, theo truyền thống Anh, có nguồn gốc từ tục lệ. Luật có giá trị cao hơn common law và equity; tuy nhiên, người làm luật thường chỉ dừng lại ở việc củng cố, hoàn thiện common law và equity, thay vì chống lại các hệ thống luật này. Các văn bản quy phạm khác. Nghị viện có thể uỷ thác quyền lập pháp cho các bộ trưởng. Nghị viện cũng có thể đưa vào luật quốc gia các quy tắc trong các công ước quốc tế hoặc trong luật Châu Âu. 1.3.2. Luật tư Luật dân sự. Luật dân sự của Anh không xây dựng lý thuyết chung về nghĩa vụ như trong luật của Pháp, bởi người Anh phân biệt hai chuyên ngành luật: luật về hành vi trái pháp luật và luật hợp đồng. Luật về hành vi trái pháp luật là cơ sở của trách nhiệm pháp lý trong cuộc sống dân sự ngoài hợp đồng. Tư tưởng chủ đạo theo truyền thống là người nào có hành vi xâm phạm một quyền hoặc trái với đạo đức thì phải chịu trách nhiệm; tuy nhiên, hệ thống trách nhiệm dân sự hiện đại lại dựa vào khái niệm tắc trách, được hiểu là sự vi phạm đối với nghĩa vụ cư xử thận trọng, đúng mực trong xã hội công dân. . Luật hợp đồng gồm các quy tắc phi phối quan hệ kết ước. Có hai loại hợp đồng: hợp đồng có đóng dấu và hợp đồng đơn giản. Hợp đồng có đóng dấu là hợp đồng viết, có chữ ký của các bên và được đóng dấu niêm; hợp đồng đơn giản không phải là hợp đồng viết. Một trong những điều kiện cơ bản để hợp đồng đơn giản có giá trị là sự tồn tại của vật đánh đổi (consideration). Trong trường hợp một bên vi phạm hợp đồng, bên kia có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu thực hiện đúng hợp đồng. Luật tài sản của Anh rất đặc thù. Người Anh không phân biệt giữa quyền đối vật và quyền đối nhân. Thừa nhận sự tồn tại của quyền sở hữu theo nghĩa của luật la tinh, người Anh đồng thời cũng thừa nhận sự tồn tại cùng một lúc của nhiều quyền khác đối với cùng một tài sản. Đặc biệt, trust, một chế định có nguồn gốc từ equity, có thể được coi là biểu tượng của luật tài sản của Anh: nó cho phép áp đặt đối với một người có quyền của chủ sở hữu theo common law, các nghĩa vụ của một người quản lý tài sản của một người khác. Luật tố tụng dân sự. Luật tố tụng dân sự Anh đặc trưng bởi hai tính chất đặc biệt của thủ tục: vấn đáp và cáo buộc. Vụ kiện bắt đầu bằng việc nguyên đơn xin một trát đòi bị đơn ra toà án. Nếu bị đơn tuyên bố phản bác, luật sư của nguyên đơn sẽ gửi bản giải trình các yêu sách và luật sự của bị đơn sẽ gửi bản bào chữa. Sau đó cả hai bên sẽ yêu cầu thư ký toà án xem xét sơ bộ các lý lẽ của hai bên. Thư ký thậm chí có thể tự mình xét xử nếu lý lẽ của bên bị đơn quá yếu và cho phép xử ngay theo hướng có lợi cho nguyên đơn mà không sợ sai hoặc nếu các bên có yêu cầu thư ký xử. Nếu vụ kiên quá phức tạp, thì thư ký toà sẽ ấn định ngày xét xử vụ án. 15
- Giáo trình Luật so sánh Khoa luật- Đại học Cần Thơ Việc xét xử được thực hiện tại toà cấp cao trước một thẩm phán và các đại luật sư của hai bên (có thể có thêm luật sư tư vấn hỗ trợ). Việc tranh tụng do luật sự của các bên tiến hành, thẩm phán chỉ ngồi nghe, thậm chí không đặt câu hỏi, trừ các trường hợp thấy cần có chứng cứ bổ sung. Thẩm phán tuyên án theo kết quả đánh giá của mình về chất lượng của lý lẽ của mỗi bên. 1.3.3. Luật công Luật hành chính. Theo truyền thống, người công chức ở Anh trên nguyên tắc được đối xử không khác người dân thường: trừ một số trường hợp đặc biệt, người công chức, trong quá trình thực hiện chức vụ, chịu sự chi phối của cùng một hệ thống chuẩn mực như dân thường. Bởi vậy, các hành vi của người công chức có thể bị công dân phản bác về mặt tư pháp theo cùng một cách như công dân bình thường, nghĩa là trước toà án thường luật, trừ một số trường hợp ngoại lệ được đưa ra xem xét tại toà án hành chính. Việc kiểm tra tư pháp đối với hoạt động của chính quyền cũng do toà án thường luật thực hiện. Tuy nhiên, một số quy tắc riêng về tố tụng và cả về nội dung có thể được áp dụng đối với loại việc này. Người nào có ý định kiện nhà chức trách hành chính có thể tiến hành các vụ kiện đặc biệt được dự kiến riêng để xét xử các hành vi của người nhân danh quyền lực công. Căn cứ để kiện là sự vi phạm của cơ quan hành chính đối với nghĩa vụ không lạm quyền và nghĩa vụ tôn trọng công lý, lẽ phải tự nhiên. Hê thống tư pháp. Hệ thống tư pháp Anh, như đã biết, đặc trưng bởi sự thống nhất: tư nhân và cơ quan nhà nước đều chịu sự chi phối của cùng một hệ thống tài phán. Các nhân vật chính trong hệ thống tư pháp bao gồm các luật sự tư vấn (solicitors), đại luật sư (barristers) và thẩm phán. Luật sư tư vấn là các luật gia đa chức năng: họ soạn thảo các văn kiện pháp lý; biện hộ tại các toà cấp dưới và thực hiện các hành vi tố tụng sơ khởi tại các toà cấp trên; từ năm 1990, họ có quyền biện hộ tại các toà cấp trên. Đại luật sư là các luật gia chuyên ngành, có quyền biện hộ tại các toà cấp trên. Hệ thống toà án chia thành hai bậc: toà án cấp dưới và toà án cấp trên. Toà án tối cao là một thiết chế mới. Toà án cấp dưới bao gồm toà hoà giải và toà quận. Toà hoà giải có các thẩm phán hoà giải được lựa chọn trong số các công dân có uy tín và được chưởng ấn bổ nhiệm suốt đời. Thẩm phán hoà giải không phải là các luật gia, nhưng được sự hỗ trợ của các luật gia trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Tại các khu dân cư tập trung, các thẩm phán hoà giải được thay thế bằng các quan toà được trả thù lao theo vụ việc: những người này được lựa chọn trong số luật sư tư vấn và đại luật sư có kinh nghiệm và được nhà vua bổ nhiệm suốt đời theo đề nghị của Chưởng ấn. Các toà hoà giải có chức năng xét xử các vụ kiện trong lĩnh vực gia đình hoặc hành chính; các vụ án hình sự ít nghiêm trọng có mức án dự kiến không quá 6 tháng tù. 16
- Giáo trình Luật so sánh Khoa luật- Đại học Cần Thơ Toà án quận có các thẩm phán quản hạt và thẩm phán quận. Thẩm phán quản hạt có quyền tài phán trong phạm vi nhiều thành phố thuộc cùng một quản hạt. Nhân vật này được lựa chọn trong số các đại luật sư có kinh nghiệm và được vương quyền bổ nhiệm suốt đời theo đề nghị của Chưởng ấn. Thẩm phán quận, về phần mình, là nhân vật thay thế các thư ký toà trước đây; song, khác với người tiền nhiệm, họ được giao chức năng tư pháp rõ ràng; họ được bổ nhiệm trong số những người có quyền biện hộ trước các toà án cấp dưới. Về thẩm quyền, toà án quận là cấp xét xử thường luật và có quyền xét xử các vụ việc liên quan đến tài sản có giá trị không quá 50.000 hoặc 30.000 livres. Toà án cấp trên bao gồm toà cấp cao, toà của vương quyền và toà phúc thẩm. Toà án cấp cao có các thẩm phán được lựa chọn trong số các đại luật sư và luật sư tư vấn có kinh nghiệm và được vương quyền bổ nhiệm theo đề nghị của chưởng ấn. Toà cấp trên có thẩm quyền sơ thẩm đối với tất cả các việc dân sự và hành chính; nó cũng có thẩm quyền phúc thẩm có giới hạn đối với một số việc dân sự và hình sự. Toà của vương quyền là toà chuyên về hình sự, gồm các thẩm phán vốn thuộc về toà cấp cao hoặc các thẩm phán bán thời gian được lựa chọn trong các luật sư tư vấn và đại luật sư có kinh nghiệm và được bổ nhiệm suốt đời. Các toà của vương quyền có sự hỗ trợ của một hội đồng bồi thẩm 12 người. Toà phúc thẩm gồm có toà dân sự và toà hình sự, có chức năng phúc thẩm các vụ án hình sự và dân sự của toà quận và toà cấp cao. Toà án tối cao được thành lập từ năm 2005, đảm nhận chức năng tài phán tối cao thay cho Viện quý tộc. Toà án tối cao gồm có 12 thẩm phán. Hiện 12 người này vẫn là các thành viên của Viện quý tộc. Trong tương lai, họ sẽ được lực chọn trong số các đại luật sư có kinh nghiệm nhất và được bổ nhiệm suốt đời bởi một uỷ ban độc lập và theo một thủ tục phức tạp được xác định tại luật năm 2005. Toà án tối cao có thẩm quyền phúc thẩm các vụ án dân sự và hành chính của toà án cấp trên của toàn vương quốc liên hiệp; phúc thẩm các vụ án hình sự tuyên tại các toà cấp trên của Anh và Bắc Ireland; có quyền giải quyết các tranh chấp về phân bổ quyền hạn giữa vương quốc liên hiệp và các thành viên (quyền trước đây thuộc về hội đồng tư pháp của Nữ hoàng). 2. Hệ thống tiêu biểu do sức mạnh kinh tế của nước đại diện 2.1. Luật của Mỹ 2.1.1 Lịch sử hình thành Thời kỳ đầu. Vốn là thuộc địa của Anh, Luật của Mỹ thực sự là một dòng của trường phái anglo-saxon. Việc Mỹ giành độc lập không hề có ảnh hưởng đối với việc tiếp tục duy trì và phát triển common law, trừ trường hợp của Bang Louisiana. Tuy nhiên, từ năm 1820, nhiều tiểu bang của Mỹ có xu hướng ghi nhận các quy tắc của common law thành các bộ luật. Cuộc chiến tranh Nam-Bắc (1861-1865) kết thúc với thắng lợi của chính quyền liên bang đối với các tiểu bang miền nam, chủ trương duy 17
- Giáo trình Luật so sánh Khoa luật- Đại học Cần Thơ trì chế độ nô lệ, tạo điều kiện cho việc khẳng định các nguyên tắc bình đẳng và tôn trọng quyền con người. Thời kỳ hiện đại. Các tiểu bang có quyền hạn rộng rãi trong việc xây dựng hệ thống pháp luật riêng của bang mình, bên cạnh hệ thống pháp luật liên bang. Tuy nhiên, các tiểu bang cũng cố gắng làm thế nào để tránh sự xung đột luật lệ giữa các tiểu bang với nhau. Năm 1951, các tiểu bang thông qua bộ luật thương mại thống nhất: đây thực sự là luật tiểu bang, nhưng lại mang tầm vóc liên bang do tất cả các tiểu bang đều nhất trí thông qua và áp dụng bộ luật trên lãnh thổ tiểu bang của mình, trừ những quy định không phù hợp với các lợi ích mà tiểu bang ưu tiên bảo vệ. Nói chung, luật liên bang được xây dựng và hoàn thiện với các lý do chủ yếu là: sự cần thiết của một hệ thống pháp luật kinh tế thống nhất nhằm bảo đảm sức mạnh kinh tế của nước Mỹ; mong muốn của chính quyền áp đặt một hệ thống pháp luật mang tính xã hội sau thời kỳ khủng hoảng kinh tế (1929-1933); mong muốn của chính quyền liên bang xây dựng một hệ thống bảo vệ các quyền tự do cá nhân theo các chuẩn mực thống nhất. 2.1.2 Luật tư Luật dân sự. Luật về hành vi trái pháp luật (tort law) tạo thành một trong những nét đặc trưng cho luật của Mỹ. Các hành vi trái pháp luật, trong quan niệm truyền thống, được xếp thành hai nhóm lớn: hành vi trái pháp luật của bản thân và hành vi trái pháp luật thông qua vai trò của người khác. Các hành vi trái pháp luật của bản thân lại được chia thành hai nhóm: hành vi có chủ ý và hành vi có tính chất gây phiền hà cho láng giềng. Các hành vi trái pháp luật thông qua vai trò của người khác bao gồm người làm công ăn lương và người cung ứng dịch vụ theo hợp đồng. Các hành vi trái pháp luật trong quan niệm hiện đại. Luật hợp đồng chịu ảnh hưởng luật của Anh, nhưng được hiện đại hoá. Người Mỹ đã loại bỏ hình thức hợp đồng có đóng dấu; thế nhưng, hợp đồng viết được thừa nhận như là điều kiện bắt buộc đối với các giao ước quan trọng. Về nội, hợp đồng được giao kết trên cơ sở sự thoả thuận về vật đánh đổi. Các điều kiện về năng lực, sự ưng thuận,…theo luật của Anh. Hợp đồng có hiệu lực phải được thi hành đúng; việc vi phạm hợp đồng có thể bị chế tài bằng các biện pháp buộc bồi thường thiệt hại hoặc buộc thi hành. Luật sở hữu bất động sản của Mỹ cũng theo truyền thống Anh, nghĩa là đặc trưng bằng sự thừa nhận nhiều quyền cùng một lúc cho nhiều người khác nhau đối với cùng một bất động sản. Luật tố tụng dân sự. Hệ thống tố tụng có nguồn gốc từ Anh, nhưng được hoàn thiện ở trình độ rất cao và đặc trưng bởi hai yếu tố: thủ tục nguyên cáo và hệ thống bồi thẩm dân sự. Ở cấp sơ thẩm, bồi thẩm đoàn là người có quyền thẩm định và phán xét bằng cách trả lời những câu hỏi của thẩm phán; dựa vào kết quả trả lời đó, thẩm phán ra phán quyết của mình. Thẩm phán cũng có thể không ra quyết định mà tuyên bố bác bỏ phán xét của bồi thẩm đoàn và mở một phiên xử khác. Thủ tục phúc thẩm chỉ được mở nếu có sự cho phép của thẩm phán sơ thẩm hoặc thẩm phán phúc thẩm; cấp phúc 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
ĐỀ CƯƠNG LUẬT SO SÁNH
17 p | 1819 | 287
-
Tài liệu LUẬT SO SÁNH - BÀI 1
9 p | 856 | 227
-
Đề cương Luật học so sánh – Phần 1
20 p | 1176 | 210
-
Đề thi Học kỳ Luật So sánh
6 p | 943 | 206
-
Tài liệu LUẬT SO SÁNH - BÀI 2 & 3
6 p | 482 | 154
-
Tổng hợp câu hỏi trắc nghiệm Luật học so sánh
10 p | 935 | 143
-
Giáo trình Luật so sánh - Ths.Tăng Thanh Phương
26 p | 885 | 131
-
Tài liệu LUẬT SO SÁNH - Bài 4 & 5
8 p | 344 | 119
-
Bài giảng về Luật so sánh
37 p | 502 | 94
-
Tiểu luận về luật so sánh
5 p | 565 | 86
-
Giáo trình Luật so sánh (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 2
28 p | 253 | 81
-
Luật so sánh và commonlaw
7 p | 326 | 79
-
Luật so sánh và việc dạy luật so sánh ở việt nam: Từ một quan điểm tới một quan điểm về một số vấn đề cơ bản
22 p | 299 | 73
-
Giáo trình Luật so sánh (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1
36 p | 274 | 70
-
Bài giảng luật học so sánh chương 2 - Trần Vân Long
77 p | 297 | 52
-
ĐỀ CƯƠNG BÁO CÁO NGHIÊN CỨU SO SÁNH LUẬT PHÁP
7 p | 205 | 45
-
Luật so sánh
58 p | 175 | 34
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn