intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài liệu phông lưu trữ Đảng - nguồn sử liệu để nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Chia sẻ: Nguyễn Lệ Nhung | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:35

141
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khi xem xét như là một nguồn sử liệu, tài liệu phông lưu trữ ĐCSVN hiện đang bảo quản trong Kho Lưu trữ TW Đảng có một số đặc điểm quan trọng sau đây: đặc điểm nguồn sử liệu, những vấn đề hiện nay của việc xác định giá trị và xây dựng các nguồn sử liệu lịch sử Đảng. Mời bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài liệu phông lưu trữ Đảng - nguồn sử liệu để nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

  1. www.vanthuluutru.com Tài liệu phông lưu trữ Đảng - nguồn sử liệu để nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Khi xem xét như là một nguồn sử liệu, tài liệu phông l ưu trữ ĐCSVN hi ện đang bảo quản trong Kho Lưu trữ TW Đảng có một số đ ặc đi ểm quan trọng sau đây: 1. Đặc điểm nguồn sử liệu 1.1. Nguồn sử liệu có nội dung phong phú và đa dạng về loại hình có khả năng làm sáng tỏ nhiều vấn đề của lịch sử Đảng Tài liệu lưu trữ Đảng không chỉ đa dạng về thể loại mà còn phong phú về mặt nội dung. Khi ban hành những tài liệu văn kiện đó, các cơ quan, t ổ chức Đảng nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam là truyền đạt và cung cấp những thông tin cần thiết cho hoạt đ ộng lãnh đ ạo, chỉ đạo của Đảng. Tài liệu văn kiện của Đảng là cơ sở để thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quản lý Nhà nước. Đây cũng chính là giá trị đầu tiên của tài li ệu văn ki ện Đ ảng. Phân tích các mặt giá trị của tài liệu văn kiện Đảng là điều rất cần thi ết đ ể giúp các nhà sử học có thể chủ động khai thác nguồn sử liệu này nhằm ph ục vụ cho các công trình nghiên cứu của mình. Nhìn một cách tổng quan, nguồn sử liệu-tài liệu lưu trữ của Đảng có thể cung cấp cho các nhà nghiên cứu lịch sử Đảng những thông tin có giá tr ị lịch sử về tình hình chính trị, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội, giáo dục và nhiều vấn đề liên quan đến sự lãnh đ ạo của Đảng. Đây là những vấn đề mà từ lâu giới nghiên cứu ở Vi ệt Nam cũng như trên thế giới hết sức quan tâm. Điều này có thể thấy trên thực tế. Theo nội dung của mình, tài liệu lưu trữ của Đảng trước hết ph ản ánh kết quả của quá trình lãnh đạo tập thể của TW Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, thể hiện đường lối, chủ trương, phương châm, chính sách của Đảng qua nhiều giai đoạn đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đ ảng để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Trong nguồn sử liệu này có nhiều thông tin quan trọng và chi tiết về quá trình thành lập Đảng, về nguyên tắc tổ chức của Đảng, về cơ cấu tổ chức các cơ quan, tổ chức đảng từ Trung ương đến địa phương. Ngoài ra, nội dung của nó còn cho thấy sự phát triển các chủ trương, đường lối, chính sách tổng thể về đối nội cũng như đối ngoại của Đảng qua các giai đoạn cách mạng từ trước năm 1954 đ ến nay. TS. Nguyễn Lệ Nhung
  2. www.vanthuluutru.com Chẳng hạn như qua các sưu tập hiện đang bảo quản ở Kho Lưu trữ TW Đảng như Sưu tập lưu trữ “Các tổ chức tiền thân của Đảng (1924-1930)”, sưu tập “Hội nghị thành lập Đảng (2/1930)”, v.v... chúng ta có thể khai thác những thông tin về các sự kiện phản ảnh về quá trình vận động để đi đ ến thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam trước năm 1930. Hoặc như qua các tài liệu gốc về các bản Cương lĩnh của Đảng: “Cương lĩnh chính trị tháng 10 năm 1930”, “Cương lĩnh năm 1991 của Đảng” chúng ta có th ể so sánh s ự phát triển đường lối chiến lược, chủ trương chung và các chính sách tổng thể của Đảng qua các thời kỳ để tạo ra sự thống nhất trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong Kho Lưu trữ TW Đảng hiện đang bảo quản nhiều bản gốc là các Nghị quyết Hội nghị Trung ương, bắt đầu từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 (tháng 3/1948), Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ II (tháng 2/1951), cho đ ến Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Qua những văn kiện này, các nhà sử học có thể nghiên cứu một cách hệ thống đường lối chính trị, quan điểm của Đảng trong việc hình thành và phát triển những vấn đ ề lý luận cách mạng dân tộc dân chủ và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta, về sự đổi mới của Đảng trong quá trình lãnh đạo Cách mạng Việt Nam hiện nay. Điều quan trọng là việc nghiên cứu ở đây có th ể thông qua những tài liệu gốc với nhiều đặc điểm tin cậy đ ể đ ối chi ếu làm sáng tỏ những vấn đề còn tranh luận trong lịch sử ĐCSVN. Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, tài liệu lưu trữ của Đảng chứa đựng nhiều nội dung quan trọng của lịch sử ĐCSVN. Từ nguồn tài liệu Phông Lưu trữ ĐCSVN, giới sử học có thể dễ dàng tìm thấy những tài li ệu chính thức và xác thực. Cũng từ nguồn sử liệu - tài li ệu l ưu trữ Đ ảng v ốn gắn liền với hoạt động cách mạng của Đảng và nhân dân, việc nghiên cứu có thể rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích cho hiện tại và tương lai trên mọi lĩnh vực hoạt động của Đảng, giúp cho các cơ quan lãnh đạo của Đảng kế thừa, bổ sung và phát triển đường lối của Đảng cho phù hợp với yêu cầu của giai đoạn mới. Thực tế cho thấy rằng, nguồn sử liệu - tài liệu lưu trữ Đ ảng đã cung c ấp những tư liệu lịch sử đáng tin cậy, có hệ thống cho nghiên cứu lý luận, nghiên cứu và biên soạn lịch sử Đảng, cho công tác tuyên truyền, giáo dục và bồi dưỡng các thế hệ những tri thức và kinh nghiệm chính trị, về truyền thống và đạo đức cách mạng, về lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc và tinh thần quốc tế trong sáng của những người cộng sản Việt Nam. Có thể kể ra nhiều nội dung lịch sử cụ thể của lịch sử Đảng cần được nghiên cứu từ nguồn sử liệu - tài liệu Phông lưu trữ Đảng Cộng s ản Vi ệt TS. Nguyễn Lệ Nhung
  3. www.vanthuluutru.com Nam như sự hình thành các tổ chức tiền thân và sự ra đời của Đ ảng, sự lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng tháng Tám, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, quá trình hình thành và phát triển quan điểm lý luận của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Dựa vào nguồn sử liệu - tài liệu lưu trữ Đảng có thể tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo chung của Đảng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, v.v... Dưới đây là một vài dẫn chứng cụ thể. * Về sự hình thành các tổ chức tiền thân và sự ra đời của Đảng có thể nghiên cứu dựa vào một số tác phẩm của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, qua tài liệu văn kiện của các tổ chức cách mạng của Đảng, qua tài liệu văn kiện của Quốc tế Cộng sản có liên quan đến các tổ chức cộng sản ở Đông Dương.8 Nhóm tài liệu văn kiện này hiện được bảo quản trong Kho Lưu trữ TW Đảng trong một sưu tập mang tên “Các tổ chức tiền thân của Đ ảng (1924-1930)” và sưu tập “Hội nghị thành lập Đảng (1930)”. Những tác phẩm của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thời kỳ này gồm có bài "Phát biểu tại phiên họp thứ 22 Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản" ngày 01/7/1924; thư "Gửi Đoàn Chủ tịch QTCS về vấn đề Đông Dương" ngày 19/12/1925; cuốn “Đường Kách mệnh” năm 1927. Nguồn tài liệu của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội) có khả năng cung cấp cho giới sử học nhiều thông tin phản ánh từ hoàn cảnh ra đời đến những hoạt động cách mạng của Hội. Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tháng 6/1925. Đây là một tổ chức “quá độ” đặt cơ sở cho một Đảng Cộng sản về sau. Người xuất bản báo Thanh niên, huấn luyện, đào tạo cán bộ, tổ chức tuyên truyền lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của chủ nghĩa Lênin và tư tưởng cách mạng của Người vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam. Phong trào cách mạng của nhân dân ta ngày càng phát triển mạnh và có ý thức vô sản rõ rệt. Qua nội dung những tài liệu văn kiện của Hội như: án ngh ị quyết của hội nghị trù bị toàn quốc đại biểu đại hội (23/1/1929), Tuyên ngôn của Đ ại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất Hội VNKMTN, Chính cương tối đê hạn độ của Hội VNKMTN, Điều lệ của Hội VNKMTN, các nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Hội VNKMTN và một số tài liệu liên quan đến Hội đăng trên báo Thanh niên như Cách mạng, Nhân đ ức c ủa Pháp, Người An Nam ở Xiêm, v.v... chúng ta thấy được sự kết hợp ngày càng chặt chẽ chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu TS. Nguyễn Lệ Nhung
  4. www.vanthuluutru.com nước sục sôi của nhân dân ta đã thúc đẩy sự ra đời của các tổ chức Đ ảng Cộng sản ở Việt Nam. Tháng 3/1929, Chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam được thành lập tại số nhà 5D phố Hàm Long, Hà Nội. Chi bộ đã ch ủ trương vận động thành lập một Đảng Cộng sản thay tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Ngày 17/6/1929 tại nhà số 312 phố Khâm Thiên, Hà Nội, đ ại bi ểu các t ổ chức cơ sở đảng ở miền Bắc đã họp quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ của Đảng, quyết đ ịnh xuất bản báo Búa Liềm - cơ quan ngôn luận của Đảng - và cử ra BCHTW của Đảng. Tài liệu của Đảng Cộng sản Đông Dương 9 (Đông Dương Cộng sản Đảng) bao gồm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương, Điều lệ Đảng Cộng sản, các Nghị quyết của TW, lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 12/12/1929, của TW Đảng Cộng sản Đông Dương gửi những người cộng sản An Nam ở Tàu,... và một số tài liệu khác có liên quan như: Thư của anh em cộng sản ở Tàu gửi cho các đồng chí cộng sản ở Bắc, Những bức thư gửi các đồng chí, Về những nhiệm vụ trước mắt của những người cộng sản Đông Dương, v.v... Ngoài ra, những bài báo đăng trên báo “Búa Liềm”: Mặt trận thợ thuyền, Khẩu hiệu tranh đấu, Tiếng gọi của Quốc tế Cộng sản, v. v... cũng cung cấp cho các nhà khoa học rất nhiều thông tin về hoạt động của Đông Dương Cộng sản Đảng thời kỳ đầu thành lập. An Nam Cộng sản đảng thành lập tháng 7/1929. Đảng này có một chi bộ hoạt động ở Trung Quốc và phát triển thêm nhiều chi bộ ở Nam kỳ. Đ ảng có cơ sở quần chúng ở xí nghiệp và trong giới thợ thủ công ở Sài Gòn và một số tỉnh phía Nam. Tài liệu hình thành trong quá trình hoạt động của An Nam cộng sản Đảng bao gồm: Lời thông cáo giải thích cho đồng chí vì sao phải tổ chức Đảng Cộng sản An Nam, Điều lệ của An Nam cộng sản Đảng, báo cáo của Đảng Cộng sản An Nam vào cuối năm 1929 và những tài liệu văn kiện liên quan khác. Hoạt động của Tân Việt Cách mạng Đảng được phản ánh qua các tài liệu như Đảng chương, Tờ thông đạt của Đảng bộ và báo cáo của đồng chí Hà Huy Tập viết về lịch sử Tân Việt cách mạng Đảng [49]. Từ nguồn sử li ệu này, chúng ta thấy được sự ra đời của Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng có tác động mạnh mẽ đến sự phân hóa của đảng Tân Việt. Những phần tử tiên tiến của Đảng đã tách ra thành lập các chi bộ cộng sản, xúc tiến việc thành lập Đảng Cộng sản. Tháng 9/1929, họ tuyên bố thành lập Đông Dương cộng sản liên đoàn. TS. Nguyễn Lệ Nhung
  5. www.vanthuluutru.com Một số tài liệu của Quốc tế cộng sản có liên quan đến các tổ chức cộng sản ở Đông Dương như: Ban thuộc địa, Những nhận xét về Nghị quyết thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương; Bản thảo luận tại phiên h ọp c ủa Hội đồng Ban Bí thư phương Đông ngày 18/10/1929 về việc thành l ập Đảng Cộng sản Đông Dương và các tài liệu khác có liên quan. Tài li ệu Hội nghị thành lập Đảng phản ánh sự ra đời và hoạt động của Đảng trong cao trào cách mạng đầu tiên của lịch sử Việt Nam hiện đại. Đó là các văn ki ện: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của ĐCSVN, án nghị quyết của TW toàn thể Đại hội về tình hình hi ện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng tháng 10/1930, Chỉ thị của TW Thường vụ về thành lập “Hội Phản đế Đồng Minh”,... và một số tài liệu có liên quan như: Thư của QTCS gửi những người cộng sản Đông Dương, Thư của Ban Phương Đông gửi Đảng Cộng sản Đông Dương, Biên bản Hội nghị với các đại biểu Đông Dương ngày 9/9/1930,... Nhóm tài liệu khác của QTCS và Đảng Cộng sản Đông Dương cho phép xác định chính cương, đường lối, nhiệm vụ của Đảng thời kỳ đầu thành lập, cung cấp những thông tin về vai trò lịch sử của các đồng chí Tổng Bí th ư đ ầu tiên của Đảng ta. Nhìn chung, những nhóm tài liệu văn kiện kể trên hiện có trong Kho Lưu trữ Đảng có thể cung cấp nhiều thông tin phong phú về sự ra đời và những hoạt động của các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, về quá trình hợp nhất các tổ chức Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, về tổ chức và phương hướng hoạt động của các đoàn thể chính trị và Mặt trận dân t ộc thống nhất do Đảng lãnh đạo, về sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng đ ối với cao trào công-nông chống đế quốc, phong kiến, tư sản đang di ễn ra rộng khắp toàn quốc, nhất là ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Nghiên cứu toàn diện và cụ thể qua các nguồn tài li ệu khác nhau v ề l ịch sử các tổ chức tiền thân của Đảng và sự ra đời của ĐCSVN sẽ giúp cho chúng ta thấy được một xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, một giai đoạn có tính chất bước ngoặt cơ bản của cách mạng Việt Nam, phản ánh tinh thần độc lập tự chủ, cách mạng và sáng tạo của Đảng ta trong việc xác định cương lĩnh, đường lối, chính sách và tổ chức sắp xếp lực lượng cách mạng ở Việt Nam ngay từ khi Đảng mới thành lập. * Về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước cũng được phản ánh đầy đ ủ qua nguồn sử liệu - tài liệu lưu trữ Đảng. Đó là các Cương lĩnh chính trị của Đảng năm 1930, 1991, các tài liệu văn kiện Đại hội Đảng, Hội nghị BCHTW, tài liệu các cấp ủy Đảng, các cơ quan Nhà nước từ TW đến địa phương trong quá trình lãnh đạo và quản lý đất nước. TS. Nguyễn Lệ Nhung
  6. www.vanthuluutru.com Như chúng ta đã biết, sự lãnh đạo của Đảng trong xã hội nói chung, cũng như đối với Nhà nước nói riêng là yêu cầu khách quan, là đi ều ki ện cốt t ử để giành thắng lợi cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Xét về mục đích thì Đảng Cộng sản và Nhà nước XHCN có chung một mục đích là xây d ựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Nhưng về phương diện xã hội thì chức năng của Đảng và Nhà nước có sự khác nhau: Đảng lãnh đạo chính trị đối với Nhà nước và xã hội, tức là đề ra đường lối, chính sách đối với Nhà nước và xã hội, lãnh đạo tổ chức mọi lực lượng cách mạng trong xã hội thực hiện phương hướng, mục tiêu đã đề ra. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình bằng cách đề ra Cương lĩnh, đường lối chi ến lược, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội cũng như sách lược và quy định những mục tiêu phát triển của xã hội, còn Nhà nước có chức năng là th ể chế hóa bằng pháp luật quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ của nhân dân lao động và quản lý kinh tế, xã hội theo pháp luật. Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với Nhà nước và các tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội là những bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là phương tiện, là công cụ chủ yếu sắc bén đ ể thông qua Nhà nước Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Nhà nước XHCN mà chúng ta đang xây dựng - Nhà nước pháp quyền Việt Nam - dựa trên cơ sở mở rộng và tăng cường khối đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng. Đó là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, quản lý xã h ội bằng luật pháp và dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong hệ thống chính trị của CNXH, Nhà nước giữ vị trí trung tâm và đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện tập trung ở Nhà nước, được thực hiện thông qua Nhà nước. Sức mạnh của Đảng là sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, trong đó vị trí then chốt là Nhà n ước do Đ ảng lãnh đạo. Trong Cách mạng dân tộc dân chủ và Cách mạng XHCN, ĐCSVN đóng vai trò là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân, đ ồng th ời trở thành người lãnh đạo toàn xã hội. Nhìn chung trong 70 năm qua, cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đ ảng đã cơ bản phản ánh được ý chí, nguyện vọng và những lợi ích chung của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Đ ảng lãnh đ ạo đ ất nước bằng cách đề ra cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chính sách lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây chính là những quyết đ ịnh, những tư tưởng chỉ đạo để Nhà nước vận dụng sáng tạo phù hợp với chức năng của mình. Dựa trên Cương lĩnh chính trị tháng 10 năm 1930 và nhi ều nghị quyết quan trọng khác, Đảng đã lãnh đạo đất nước ta giành nhi ều thắng lợi quyết định trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, lập nên Nhà TS. Nguyễn Lệ Nhung
  7. www.vanthuluutru.com nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông Nam á. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đến năm 1946, Hi ến pháp đầu tiên của chế độ cộng hòa dân chủ ở nước ta được chính Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì soạn thảo đã ra đời dựa trên cơ sở tư tưởng chỉ đ ạo nhạy bén của Đảng ta với việc xây dựng một nền hành chính vững mạnh, có hiệu lực theo đường lối đã vạch ra của Cương lĩnh chính trị. Đến Cương lĩnh 1991, Đảng ta đã xác định: chủ nghĩa xã hội là một xã h ội con người được giải phóng, nhân dân lao động làm chủ đất nước, có một nền kinh tế phát triển cao và nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, mọi người có cuộc sống ấm no hạnh phúc, có điều kiện phát tri ển toàn diện cá nhân, công bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo, các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau, có quan h ệ h ữu nghị với các dân tộc khác trên thế giới. Những luận điểm cơ bản và tư tưởng khoa học, mục đích và nhiệm vụ, chính sách và biện pháp thực ti ễn, phương hướng hành động,... của Cương lĩnh chính là cơ sở cho việc ban hành các chính sách xã hội và các chính sách kinh tế để thực hiện chức năng của Nhà nước, là những căn cứ và nhận thức để Nhà nước điều ti ết các quan hệ xã hội, nhằm thực hiện việc tổ chức và lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo định hướng XHCN. Trong số những văn bản được thể chế hóa, trước tiên phải kể đến Hiến pháp - đạo luật cơ bản, và các luật tổ chức Nhà nước, những nguyên tắc và quy định về cơ cấu tổ chức, các thiết chế quyền lực, cơ chế hoạt động và mối quan hệ giữa các thiết chế quyền lực ấy. Chúng tạo điều kiện để bộ máy Nhà nước ta vận hành phù hợp với điều kiện của giai đoạn phát triển hiện tại của đất nước và những thay đổi của tình hình quốc tế đang biến động. Thành tựu của 10 năm đổi mới là thành quả ph ấn đ ấu của toàn dân, c ủa sự năng động trong điều hành của Nhà nước, đặc biệt phải nói đ ến sự đúng đắn của đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đ ạo từ Đ ại hội VI. Nó đã tạo ra bước ngoặt đi lên của cả dân tộc. Nhìn lại thời gian hơn 10 năm qua, các chủ trương của Đảng đã đi vào cuộc sống của nhân dân thông qua sự quản lý của Nhà nước bằng chính các bộ luật, pháp lệnh, các nghị định,... và sự điều hành ngày một năng đ ộng, có hi ệu qu ả của chính các cơ quan Nhà nước. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị năm 1988 về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp đã nhanh chóng đi vào cuộc sống. Chính sách kinh tế nhiều thành phần được Đảng lãnh đạo thông qua Nhà nước đã khuyến khích, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát tri ển trong lĩnh vực nông nghiệp, góp phần giải quyết tốt vấn đề nông thôn, nông dân, nông nghiệp. Nghị quyết Đại hội VIII và các nghị quyết TW đã đ ề ra và TS. Nguyễn Lệ Nhung
  8. www.vanthuluutru.com khẳng định chủ trương cải cách doanh nghiệp Nhà nước, trong đó vi ệc thực hiện cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước là một trong những giải pháp để đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước. Trên cơ sở chủ trương đó, Chính phủ đã có những Nghị định (Ngh ị định 28-CP, Nghị định 44-CP) về cổ phần hóa, và hiện nay, việc cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước đang được tiếp tục thực hiện dưới sự chỉ đạo của Nhà nước. Bây giờ chúng ta hãy xem xét, nghiên cứu sự lãnh đạo của Đ ảng trên Mặt trận văn hóa-xã hội. Tài liệu lưu trữ của Đảng ghi lại những thành quả lao động tạo nên những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của nhân dân ta qua các thời kỳ lịch sử. Dấu ấn văn hóa ấy được phản ánh trong nguồn sử liệu-tài liệu lưu trữ của Đảng rất đậm nét. Chúng có thể cung cấp những thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng trong việc phát triển nền văn hóa dân tộc, về tình hình phát triển văn hóa nói chung và từng lĩnh v ực văn hóa nói riêng như giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn học, sử học, mỹ thuật, v.v... Giới sử học Việt Nam vô cùng trân trọng bản Đề cương văn hóa của Đ ảng năm 1943 (do đồng chí Trường Chinh khởi thảo), coi đó là một c ống hi ến to lớn cho lịch sử nước nhà. Ba phương châm Dân tộc, Khoa học và Đ ại chúng mà Đề cương nêu ra luôn luôn là những điều chỉ dẫn có tính quy luật cho sự phát triển của nền văn hóa cách mạng nước ta. Thí dụ, tại kho lưu trữ TW, các nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu nhiều vấn đề có liên quan trực tiếp đến đời sống tinh thần và sức khỏe của nhân dân, về văn hóa, giáo dục, đào tạo, về chính sách dân số, công tác thanh niên, v.v... trong “Hồ sơ về việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư BCHTW Đảng khóa VII, 1993”, trong đó thể hiện rõ mục tiêu của Đảng ta là “tất cả là cho con người, tất cả vì hạnh phúc con người - mục tiêu phấn đấu cao nhất của chúng ta”. Nhiều Nghị quyết của TW và gần đây nhất là Nghị quyết Hội nghị BCH TW lần thứ năm (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Vi ệt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trên thực tế đã là cơ sở, là nền móng cho việc xây dựng, ban hành luật pháp, ban hành các chính sách về văn hóa. Để Nghị quyết của Đảng thực sự đi vào cuộc sống, Nhà nước đã và đang xây dựng các luật, pháp lệnh, các văn bản pháp quy đi ều chỉnh các hoạt động trên lĩnh vực văn hóa; bổ sung những luật đã ban hành cho phù hợp với tình hình mới; nghiên cứu xây dựng Luật di sản văn hóa dân tộc, Luật quảng cáo, Pháp lệnh thư viện, xây dựng chính sách kinh tế trong văn hóa, chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa, v. v... TS. Nguyễn Lệ Nhung
  9. www.vanthuluutru.com Như vậy, xét về phương diện xã hội, Đảng lãnh đạo về chính trị trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và các tổ chức xã hội bằng đường lối và các chính sách của Đảng. Đảng lãnh đạo, tổ chức mọi lực lượng cách mạng trong xã hội thực hiện cho được đường lối, chủ trương mà Đảng đã đề ra. Còn Nhà nước do Đảng lãnh đạo, chức năng của Nhà nước là th ể chế hóa bằng pháp luật quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ của nhân dân lao động và quản lý kinh tế, xã hội theo pháp luật. Trên cơ sở đó, Nhà n ước quản lý, điều hành mọi mặt đời sống xã hội. Uy tín và quyền lãnh đ ạo của Đảng được thực hiện thông qua hoạt động của Nhà nước. Nhà nước mạnh, hoạt động có hiệu quả là điều kiện đầu tiên để Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với xã hội. Nâng cao năng lực, hi ệu l ực qu ản lý của Nhà nước chính là nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Như vậy là, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, chính là toàn bộ đường lối, chủ trương, chính sách lớn của Đảng được thể chế hóa thành chủ trương, chính sách, hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Đây cũng chính là quá trình thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước XHCN của chúng ta. Nghiên cứu vấn đề này trong lịch sử ĐCSVN từ nguồn sử liệu - tài liệu lưu trữ Đảng là góp phần làm rõ thêm vị trí, vai trò của ĐCSVN trong hệ thống chính trị xã hội và không ngừng nâng cao năng l ực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. * Nhiều chính sách, đường lối, chủ trương chiến lược do Đảng đề ra trong những thời điểm quan trọng của cách mạng Việt Nam được phản ánh rõ nét qua nguồn sử liệu-tài liệu lưu trữ của Đảng: Nghiên cứu, tìm hiểu quan điểm của Đảng ta về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam giúp chúng ta hiểu được những cố gắng to lớn của toàn Đảng, toàn dân, giúp chúng ta tin tưởng sâu sắc vào con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã không ngừng tìm tòi khám phá, thử nghiệm để ngày càng xác định rõ hơn, cụ thể hơn về con đường đi lên CNXH ở nước ta. Những giai đoạn phát triển quan điểm lý luận của Đảng ta, những đ ặc điểm của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam được thể hiện tương đối đầy đủ qua tài liệu văn kiện của Đảng. Trước tiên, những quan điểm lý luận đầu tiên của cách mạng Việt Nam được nêu lên trong cuốn Đường Kách mệnh (do đồng chí Nguyễn Ái Quốc viết năm 1927) là cơ sở hình thành đường lối cách mạng Việt Nam từ đó về sau này. Đó là cách mạng XHCN, là quyết định lịch sử cực kỳ quan trọng, những đột phá mang tính cách mạng trong nhận thức và quan điểm lý luận của Đảng ta. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương đánh dấu một sự chuyển biến về chất của cách mạng Việt Nam, khẳng định mục tiêu lý tưởng của con đường phát TS. Nguyễn Lệ Nhung
  10. www.vanthuluutru.com triển của Việt Nam là đi lên CNXH và CNCS. Mục tiêu lý tưởng c ủa cách mạng Việt Nam đã được khẳng định ngay trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong bối cảnh lịch sử lúc đó, việc khẳng định con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, đó là quan điểm đ ầy sáng tạo, xuất phát từ điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam nửa thuộc địa, nửa phong kiến, phù hợp với xu thế của thời đại, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân Việt Nam. Sự hình thành các quan điểm lý luận của Đảng về con đường đi lên CNXH được gắn liền với đặc điểm tình hình của mỗi giai đoạn khác nhau của cách mạng Việt Nam. Thí dụ: Giai đoạn 1945-1954 tiếp tục hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, bước đầu chuẩn bị lý luận cho CNXH. Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nhân dân ta phải trải qua 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp để bảo vệ thành quả của cách mạng, giữ vững nền độc lập dân tộc. Kết thúc 9 năm kháng chiến, cách mạng nước ta mới hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc trong nửa nước, đưa miền Bắc quá độ lên CNXH, đồng thời tiếp tục cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam. Nhưng từ khi đang tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta đã có ý thức chuẩn bị đường l ối đi lên CNXH sau khi kháng chiến thành công. Những nhận thức theo đ ịnh hướng của Cương lĩnh 1930 đã được thể hiện trong một số văn kiện quan trọng của Đảng như: Nghị quyết Hội nghị cán bộ TW lần thứ 5 tháng 10/1948 về điều kiện đi lên CNXH, tài liệu văn ki ện Đ ại h ội đ ại bi ểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2/1951), tài liệu Hội nghị TW l ần thứ 8 (tháng 8/1955). Qua đó, chúng ta thấy quan điểm của Đảng về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã nâng cao một bước, đó là ti ến dần từng bước vững chắc lên CNXH. Từ Đại hội II (1951) cho đến Hội nghị TW lần thứ 12 (1957) đã hình thành những quan điểm ban đầu rất quan trọng của Đ ảng về con đường XHCN ở nước ta. Tiếp đó, sau Đại hội III, các Nghị quyết Hội nghị TW l ần thứ 2 (11/1960), lần thứ 5 (7/1961), lần thứ 7 (6/1962), lần thứ 10 (12/1964), v.v... đã c ụ th ể hóa Nghị quyết của Đại hội, đưa ra những quan điểm chỉ đạo cụ thể trong những năm 1960-1975. Vấn đề này còn được đề cập rõ nét trong quá trình thực hiện chủ trương của Đảng về cuộc vận động cải tiến quản lý HTX, cải tiến kỹ thuật trong nông nghiệp và cuộc vận động “3 xây 3 chống”. Quan điểm lý luận của Đảng ta trong giai đoạn này nổi lên những vấn đ ề lớn đáng chú ý như: tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, l ấy cách mạng khoa học kỹ thuật làm then chốt, xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới, con người mới; xác lập bước đi ban đầu trong th ời TS. Nguyễn Lệ Nhung
  11. www.vanthuluutru.com kỳ quá độ ở nước ta; xây dựng cơ cấu kinh tế, xây dựng đội ngũ cán bộ v. v... Đó là những vấn đề có thể nghiên cứu thông qua nguồn sử li ệu-tài li ệu lưu trữ của Đảng. Đại hội lần thứ IV của Đảng đã đề ra hệ thống quan điểm về CNXH và con đường đi lên CNXH của cả nước trong điều kiện đã hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc. Những tư tưởng cơ bản của Đại hội lần thứ IV đ ược coi là cơ sở để xác định phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - văn hóa, được tiếp tục cụ thể hóa trong Nghị quyết Hội ngh ị BCHTW lần thứ 6, lần thứ 11 (khóa IV): thừa nhận sự tồn tại nhi ều thành phần kinh tế, đổi mới chính sách kinh tế, đổi mới quản lý trong lĩnh vực nông nghiệp, v.v... Tiếp theo đó, Đại hội V của Đảng tháng 3/1982 tiếp tục tìm tòi và hoàn thiện quan điểm lý luận về con đường đi lên CNXH ở nước ta. Có th ể nói thời kỳ này, những chủ trương của Đảng thể hiện qua Nghị quyết Hội nghị TW lần 6 (khóa IV), Nghị quyết Đại hội V, Nghị quyết Hội nghị TW l ần thứ 8 (khóa V), Chỉ thị 100 về khoán trong nông nghiệp và Quyết đ ịnh 25/CP về công nghiệp đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, là những mầm mống cho sự ra đời đường lối đổi mới đất nước của Đảng ta. Nếu ở Đại hội VI, Đảng đã đề ra những quan điểm đ ổi mới về kinh t ế thì Đại hội lần thứ VII đã đưa ra những quan điểm kinh tế mới, phát tri ển và hoàn thiện những quan điểm kinh tế của Đại hội VI. Đó là đ ịnh hướng XHCN, là mối quan hệ giữa đổi mới chính sách kinh tế - xã hội với đổi mới chính trị và hệ thống chính trị, là mối quan hệ dân tộc, giai cấp trong đ ịnh hướng XHCN, là chiến lược và bước đi của quá trình đổi mới,... Như đã trình bày ở phần trên, nhiều nội dung của lịch sử Đ ảng vừa nêu hoàn toàn có thể nghiên cứu một cách sâu sắc dựa vào nguồn sử liệu - tài liệu lưu trữ Đảng hiện có. Sẽ là một sai lầm nếu chúng ta không d ựa vào tài liệu lưu trữ Đảng để tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo chung của Đảng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao cũng nh ư các lĩnh vực khác mà Đảng ta đã thực hiện có kết quả trong mấy chục năm qua. Cần nói rằng tổng kết kinh nghiệm để không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo của Đảng là một nhu cầu tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, của sự phát triển của bản thân Đảng. Trong tình hình đổi mới và trong điều kiện quốc tế hiện nay, vấn đề tổng kết kinh nghiệm, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo thời kỳ cách mạng đã qua càng trở nên đặc biệt bức thiết đối với các Đảng hoạt động trong điều kiện đ ất nước còn nghèo nàn lạc hậu nói chung và Đảng ta nói riêng. TS. Nguyễn Lệ Nhung
  12. www.vanthuluutru.com Mục đích tổng kết là giúp Đảng ta trưởng thành trong việc nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan để Đảng hoạt động tự giác hơn, tránh lặp lại sai lầm đã qua, gây tổn hại cho nhân dân. Cho nên, công tác t ổng kết phải mang tính đảng và tính khoa học nghiêm túc, phát hi ện nh ững khía cạnh chưa hoàn thiện của đường lối, chính sách khi đi vào cuộc sống muôn màu, muôn vẻ; để có thể điều chỉnh kịp thời, phục vụ cho sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trên các lĩnh vực hoạt động. Dưới đây là một vài minh họa cụ thể. * Trên lĩnh vực kinh tế: Lãnh đạo kinh tế là một trong những chức năng quan trọng nhất của Đảng Cộng sản. Sau khi giành được chính quyền, hệ thống chính trị trở thành điều kiện quyết định trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Tác động tích cực của hệ thống chính trị đối với sự phát triển kinh tế lại phụ thuộc vào việc thiết lập mối quan hệ đúng đắn giữa chức năng lãnh đạo kinh tế của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước. Trên cơ sở nhận thức nội dung mới trong mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế, có thể rút ra những kinh nghiệm và bài học về sự lãnh đ ạo kinh tế của Đảng trong thời gian qua. Qua nguồn sử liệu-tài liệu lưu trữ của Đảng, các nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu về chủ trương phát triển kinh tế của Đảng như các chủ trương quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản. Nhiều tài liệu lưu trữ của Đ ảng ph ản ánh tình hình kinh tế - xã hội của đất nước qua nhi ều thời kỳ, v ề đ ổi m ới cơ chế quản lý, về phát triển kinh tế công nghiệp, về hợp tác hóa nông nghiệp, về CNH, HĐH trong thời kỳ đổi mới, về kinh tế nhiều thành phần, v.v... Các nhà nghiên cứu cũng có thể tìm hiểu những đ ịnh hướng l ớn v ề chính sách kinh tế của nước ta trong các văn kiện Đại hội, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Chi ến lược ổn đ ịnh và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 của Đảng hoặc Nghị quy ết 10 (năm 1988) của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp cùng các tài liệu khác của các cơ quan, tổ chức Đảng và Nhà nước đang được bảo quản hoàn chỉnh và tập trung trong các kho lưu trữ Đ ảng. Những tài liệu văn kiện này có khả năng cung cấp nhi ều tư li ệu có giá trị về sự phát triển của chính sách kinh tế nhiều thành phần được Đảng lãnh đạo thông qua Nhà nước, về giải quyết các vấn đề nông thôn, nông dân, nông nghiệp ở nước ta, về chủ trương cải cách và thực hiện cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước, v.v... Thực tế cho thấy, xét trên lĩnh vực kinh tế, tài liệu lưu trữ của Đảng ở trung ương cũng như ở địa phương đều mang nhiều ý nghĩa quan trọng mà các nhà nghiên cứu có thể khai thác được dưới nhiều khía cạnh. Thí dụ, để khai thác thông tin về việc khôi phục và phát triển kinh t ế văn hóa 2 năm TS. Nguyễn Lệ Nhung
  13. www.vanthuluutru.com 1974-1975 ở miền Bắc và một số thông tin về đổi mới quản lý nông nghiệp, các nhà nghiên cứu có thể sử dụng tài liệu trong các hồ sơ như: “Hồ sơ v/v thực hiện Nghị quyết 22-NQ/TW”, “Hồ sơ v/v thực hiện Ch ỉ thị 208 - CT/TW của BCHTW Đảng khóa IV”, “Hồ sơ v/v thực hiện Chỉ thị 100 ngày 13/1/1981 của BBT TW”, v.v... Hoặc qua một số tài li ệu l ưu trữ khác như: Nghị quyết 26-NQ/TW (1981), Chỉ thị 109-CT/TW của BCHTW (1983), Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ hai (tháng 4/1987, v.v...) và các hồ sơ tài liệu về việc thực hiện các tài liệu văn kiện này. Đó là nguồn t ư li ệu đầy đủ, xác thực để nghiên cứu nhiều vấn đề trên lĩnh vực lãnh đ ạo kinh tế của Đảng mà không phải ở đâu chúng ta cũng có thể tìm thấy. Qua thông tin của tài liệu Hội nghị lần thứ 13 của BCHTW Đảng tháng 12/1957, các nhà nghiên cứu có thể đánh giá về thời kỳ khôi ph ục kinh t ế 1954-1957: nhân dân miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã ra sức khắc phục khó khăn, lao động sản xuất, thu được những thành tích to l ớn trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế. Cải cách ruộng đất căn bản đã hoàn thành, công việc sữa chữa sai l ầm, phát huy thắng lợi trong nhiều địa phương đã thu được kết quả tốt, nông nghi ệp đã vượt mức trước chiến tranh, công nghiệp đã khôi phục các xí nghiệp cũ, xây dựng một số nhà máy mới. Những năm 1976-1980, Đảng ta có chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH đ ất nước. Nhưng trên thực tế, Đảng lãnh đạo đẩy mạnh CNH trong khi chưa có đủ tiền đề cần thiết, vừa nóng vội, vừa buông lỏng trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa, chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế không còn phù hợp. Trong những năm 1981-1985, Đảng chưa cụ thể hóa đ ường l ối kinh tế trong chặng đường đầu tiên, chưa kiên quyết khắc phục chủ quan, nóng vội và bảo thủ trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế cải tạo XHCN và qu ản lý kinh tế, lại phạm sai lầm nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối l ưu thông, đã buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lý kinh tế xã hội... Nh ững sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và về tổ chức thực hiện được thể hiện qua các tài liệu văn kiện của Đảng như: tài liệu Hội nghị TW 4 (khóa IV) về khắc phục tình trạng trì trệ về sản xuất và quản lý kinh tế, tài liệu hội nghị TW 8 (6/79) về kế hoạch sản xuất hàng tiêu dùng, phát triển công nghiệp địa phương và đề ra biện pháp sửa chữa các khuyết điểm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, nhất là phải đẩy mạnh công tác kế hoạch hóa và cải tiến một cách cơ bản chính sách kinh tế làm cho sản xuất “bung ra” theo phương hướng kế hoạch của Nhà nước. TS. Nguyễn Lệ Nhung
  14. www.vanthuluutru.com Tiếp theo, chúng ta có thể tìm hiểu vấn đề này qua tài liệu văn kiện Đ ại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, thấy được nhi ệm vụ, phương hướng nhằm giải quyết những vấn đề gay gắt nóng bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam. Sau Đại hội V, BCHTW và BCT đã mở nhiều hội nghị đánh giá tình hình kinh tế nước ta như Hội nghị TW 3 (12/82) nhằm giải quyết một số vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông, xây dựng và tăng cường cấp huyện, Hội nghị TW tháng 10/86 phân tích khuyết đi ểm, sai lầm trong chỉ đạo giá, lương, tiền,... Thông qua Nhà nước, Đảng đã lãnh đạo thực hiện chính sách mở cửa về kinh tế. Luật đầu tư nước ngoài được ban hành nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn, công nghệ, kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh, quản lý... vào nước ta hợp tác, góp phần thúc đẩy kinh tế phát tri ển và đôi bên cùng có lợi. Chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, cải cách doanh nghiệp Nhà nước của Đảng được phản ánh trong Nghị quyết Đại hội VIII và các Nghị quyết TW. Việc thực hiện cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước là một trong những giải pháp để đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước. Những thí dụ trên đây chỉ là minh họa đôi nét về vai trò của tài li ệu l ưu trữ Đảng trong tổng kết quá trình lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực kinh tế. Như chúng ta đã biết, nguồn sử liệu - tài liệu lưu trữ Đảng giúp chúng ta mô tả một cách phong phú hơn, sâu sắc và toàn diện hơn quá trình lãnh đạo kinh tế của Đảng, giúp cho các cơ quan lãnh đạo Đảng tổng kết, rút ra những bài học kinh nghiệm về lãnh đạo, chỉ đạo trên mặt trận kinh tế. Trên cơ sở đó, hạn chế những mặt yếu kém sai lầm, phát huy những thành tựu, những ưu điểm đã đạt được, làm cho kinh tế vừa có tốc độ tăng trưởng và năng suất lao động cao, có lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh, vừa đi đúng hướng xã hội chủ nghĩa, hạn chế bất công và bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. * Trên lĩnh vực xây dựng Đảng: Thực tiễn 70 năm qua chứng minh rằng, Đảng và công tác Đảng là vấn đề cực kỳ quan trọng, là một trong nh ững nhân tố hàng đầu quyết định sự thành công của cách mạng. Các ngh ị quyết gần đây của TW Đảng khẳng định: Công tác xây dựng Đảng đang nổi lên như một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta và có ý nghĩ sống còn đối với Đảng ta. Như chúng ta đã biết, hiện nay, TW Đ ảng, Bộ Chính trị, các cấp ủy Đảng từ TW đến địa phương đang giành nhiều thời gian và công sức cho công tác quan trọng này. Một mặt, triển khai thực hi ện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng; mặt khác, tiến hành tổng kết các nhiệm vụ chủ yếu về xây dựng đảng từ 1975 TS. Nguyễn Lệ Nhung
  15. www.vanthuluutru.com đến nay. Nhiều tài liệu văn kiện quan trọng của Đảng đã ra đời đồng th ời cùng với sự hoạt động của Đảng, phản ánh rõ nét công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Thí dụ: Từ cuộc vận động Chỉnh huấn mùa xuân 1961, đến Nghị quyết 195 của BCT về cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh (1969-1970). Tiếp theo đó là chủ trương đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng, Nghị quyết 23 của TW về nâng cao sức chiến đấu của Đảng, tăng cường chỉ đạo nâng cao chất lượng đảng viên, Chỉ thị 72 (1979) về tăng cường phát triển đảng và ki ện toàn, củng cố tổ chức đảng, Chỉ thị 83 về phát thẻ đảng, Chỉ thị 79 chỉ đạo công tác phê bình làm trong sạch đội ngũ đảng viên, Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị về cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của Đảng, Nghị quyết Hội nghị TW 8 (khóa VII) về đ ổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, Nghị quyết Hội nghị TW 6 lần 2 (khóa VIII) về xây dựng và chỉnh đ ốn Đảng cùng nhiều đề án, báo cáo khác của TW,... Những thông tin, những chứng cứ xác đáng của nguồn sử liệu trên đây là cơ sở, là căn cứ cho nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực xây dựng đảng. * Trên lĩnh vực quân sự: nguồn sử liệu - tài liệu lưu trữ Đảng phản ánh nhiều thông tin về hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng. Nói tài liệu lưu trữ Đảng - cơ sở cho việc tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo chung của Đảng trên lĩnh vực quân sự, bởi lẽ những tài liệu văn kiện quân sự của Đảng hình thành trong quá trình hoạt động phản ánh rất rõ nét quan đi ểm, đường lối, những chỉ đạo có tính chiến lược cách mạng, dìu dắt quân đội ta, nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Về bản chất, Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Vi ệt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đ ảng đ ối với quân đội là một quy luật, một nguyên tắc cơ bản trong sự nghi ệp xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam, là nguồn gốc chủ yếu quyết định mọi thắng lợi và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo của ĐCSVN đối với quân đội không những có ý nghĩa về mặt lý luận là bảo vệ, làm rõ thêm quan đi ểm của ch ủ nghĩa Mác-Lênin về quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, mà còn có ý nghĩa lớn lao đối với tổ chức Đảng, đội ngũ cán bộ các cấp trong quân đ ội, đ ối với cấp ủy đảng, với cán bộ các cấp của các tổ chức Đảng, Nhà nước trên mọi lĩnh vực hoạt động. Qua đó, tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của TS. Nguyễn Lệ Nhung
  16. www.vanthuluutru.com Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó có Quân đội nhân dân Việt Nam. Trung thành với học thuyết Mác-Lênin về quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, Đảng đã vận dụng một cách sáng tạo, đúng đắn những nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới của Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng, kế thừa, phát triển kinh nghiệm có tính quy luật “d ựng nước phải đi đôi với giữ nước”. Thí dụ: Vấn đề “Tổ chức ra quân đội công nông” đã được đ ồng chí Nguyễn Ái Quốc đề xuất trong Chánh cương vắn tắt của Đảng tháng 2 năm 1930. Luận cương chính trị của Đảng (10-1930) cũng nêu vấn đ ề “Vũ trang cho công nông”, “lập quân đội công nông”, “tổ chức đội tự vệ công nông”. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng (3-1935), Đảng đã ra Nghị quyết riêng về việc tổ chức và lãnh đạo tự vệ thường trực. Nghị quyết ghi rõ: “Công nông Cách mạng tự vệ đội là dưới quyền chỉ huy thống nhất của TW, Quân ủy Đảng Cộng sản... luôn luôn ph ải gi ữ quyền chỉ huy nghiêm ngặt của Đảng trong đội tự vệ “[105]. Qua những tư liệu lịch sử trên, chúng ta có thể thấy rằng ngay từ khi mới ra đời, Đ ảng ta đã khẳng định phải thành lập Quân đội công nông và phải đặt Quân đ ội dưới sự lãnh đạo nghiêm ngặt của Đảng. Tư tưởng đó có ý nghĩa rất to lớn, nó đặt nền móng cho việc thành lập lực lượng vũ trang nhân dân và Quân đội nhân dân. Một số tài liệu văn kiện của Đảng cho thấy quan điểm và chủ trương của Đảng trong tổ chức và lãnh đạo Quân đội như: Nghị quyết tháng 7/1952 về thành lập cấp ủy Đảng trong Quân đội với chức năng “thực hi ện sự lãnh đạo tập thể, thống nhất của Đảng về mọi mặt công tác”, Nghị quyết 07 (tháng 12/1982) của Bộ Chính trị về việc đổi mới, hoàn thi ện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, Nghị quyết số 27 (tháng 7/1985) của Bộ Chính trị về tiếp tục kiện toàn cơ chế lãnh đ ạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam và sự nghiệp quốc phòng nhằm bảo đảm sự lãnh đạo vững chắc của Đảng trong mọi tình huống, giữ vững nguyên tắc lãnh đạo tập thể, phát huy cao độ trách nhiệm của người chỉ huy và hiệu lực công tác Đảng, công tác chính trị, không ngừng nâng cao sức chiến đấu của Quân đội. Đó là những văn kiện nhằm cụ thể hóa Đi ều lệ của Đảng, quy định về sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang trong tình hình mới. Những tài liệu trên với tư cách là nguồn s ử li ệu trung thực, chính xác đã cung cấp nhiều thông tin có giá trị, đ ể rút ra bài h ọc kinh nghiệm về tổ chức Đảng trong Quân đội từ cơ sở đến toàn quân và chế độ lãnh đạo của Đảng ủy trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhiều tài liệu văn kiện của các Hội nghị TW Đảng từ 1946 đến 1950 ph ản ánh hoạt động của Đảng về lãnh đạo xây dựng đường lối quân sự, phản TS. Nguyễn Lệ Nhung
  17. www.vanthuluutru.com ánh quá trình xây dựng và phát triển đường lối chiến tranh, khoa học và nghệ thuật quân sự để chiến thắng thực dân Pháp xâm lược, tình hình về xây dựng lực lượng quân sự, phương châm tác chiến, công tác tổng động viên và nhiều vấn đề khác. Đó là những văn kiện như: Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” (22/12/1946), tài liệu Hội nghị tháng 1/1948, tài li ệu Hội ngh ị cán bộ TW (1/1949) về “Tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công”, đến tài liệu Hội nghị cán bộ toàn quốc (1/1950) về “nhiệm vụ quân sự trước mắt chuyển sang tổng phản công”, v.v... Các nhà sử học cũng có thể nghiên cứu đường lối và ph ương pháp cách mạng miền Nam qua Đề cương cách mạng miền Nam của đồng chí Lê Duẩn, Nghị quyết 15 (1/1959), tiếp sau đó là Nghị quyết Đ ại hội đ ại bi ểu toàn quốc lần thứ III (9/1960) để có thể thấy sự sáng tạo của Đ ảng ta trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cuộc đấu tranh của nhân dân cả nước chống đế quốc Mỹ xâm lược. Các tài liệu Hội nghị TW lần thứ 11 (3/1965), nhất là lần thứ 12 (12/1965) đã phân tích toàn diện, sâu sắc chi ến l ược mới của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam và đề ra chủ trương đối phó đúng đắn, chủ động và sáng tạo. Nghị quyết Hội nghị TW l ần th ứ 21 (7/1973) là một trong những văn kiện lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ và là văn kiện quan trọng trực tiếp chỉ đạo chiến tranh cách mạng giành thắng lợi trong giai đoạn kết thúc chiến tranh, và cùng với tài li ệu Hội nghị Quân ủy TW (3/1974) đã đề ra chủ trương kiên quyết phản công và tiến công địch, vận dụng linh hoạt trên cả ba vùng chiến lược,... mở đ ường cho chiến thắng lịch sử Mùa xuân 1975, v. v... Nói tóm lại, từ nguồn sử liệu - tài liệu lưu trữ Đảng giúp chúng ta tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo chung của Đảng đối với quân đội, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội. Bài học lịch sử quan trọng bậc nhất là nắm vững cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đ ội, đồng thời góp phần phát triển và hoàn thi ện cơ chế lãnh đạo, làm cho c ơ chế đó luôn luôn phù hợp với tính chất, đặc đi ểm, nhi ệm vụ của t ổ ch ức hoạt động của Quân đội tương ứng với từng giai đoạn cách mạng. Những dẫn chứng về sự phong phú của nội dung lịch sử trong nguồn s ử liệu-tài liệu lưu trữ của ĐCSVN có thể thấy qua nhiều thí dụ khác. Có th ể khai thác trong các văn kiện của Đảng và các tài liệu lưu trữ những nội dung lịch sử về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất, xây dựng chính quyền nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng để cùng toàn dân làm nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tố quốc, xây dựng mối quan hệ giữa Việt Nam và quốc tế, v.v...Ngoài những lĩnh vực trên, tài liệu lưu trữ của Đảng còn cung cấp các thông tin về tình hình đời sống của nhân dân, phong trào đấu tranh cách mạng của TS. Nguyễn Lệ Nhung
  18. www.vanthuluutru.com nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đ ế qu ốc Mỹ xâm lược, v.v... Về phương diện này, những tài liệu trong các phông lưu trữ của các tổ chức Đảng đều có thể xem là nguồn sử liệu vô giá. Có thể nói rằng, với một khối lượng lớn, nội dung phong phú, đa dạng, tài li ệu lưu trữ của ĐCSVN chứa đựng những thông tin toàn diện về lịch sử Đảng, cũng như về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, về truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của Đảng và nhân dân ta. Tại các kho lưu trữ Đảng ở địa phương, các tài liệu hiện có cho thấy quá trình vận dụng chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tế, sự lãnh đ ạo của các cấp ủy đảng để giải quyết các nhiệm vụ cụ thể qua các thời kỳ ở các địa bàn khác nhau đều là những tài liệu có ý nghĩa rất lớn về chính trị. Thí dụ, khi nghiên cứu về phong trào "Đồng khởi” ở miền Nam trong những năm chống Mỹ cứu nước, các nhà nghiên cứu hiện nay và sau này có th ể khai thác và sử dụng các nguồn sử liệu - tài li ệu l ưu trữ bảo quản ở Kho lưu trữ TW Đảng và ở các kho lưu trữ tỉnh ủy Bến Tre, Bình Định, Quảng Ngãi,... (những địa bàn được xem là nơi mở đầu và là ngọn cờ tiêu biểu cho phong trào “Đồng khởi” ở miền Nam nước ta trước ngày giải phóng). Trong kho Lưu trữ tỉnh ủy Quảng Ngãi hiện đang bảo quản rất nhi ều báo cáo, điện của Tỉnh ủy Quảng Ngãi và các Huyện ủy trong tỉnh như: Sơn Hà, Ba Tơ, Đức Phổ, Trà Bồng,... về tình hình chi ến sự, về phong trào đ ấu tranh vũ trang dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương; Nghị quyết, Báo cáo và các tài liệu khác có liên quan của Tỉnh ủy Quảng Ngãi về cuộc khởi nghĩa Trà Bồng (miền tây Quảng Ngãi), về phong trào vũ trang chống đ ịch càn quét dồn dân, giành quyền làm chủ ở nhiều thôn xã của các huyện Sơn Tịnh, Bình Sơn, Nghĩa Hành, Tư Nghĩa, Sơn Hà, Ba Tơ, Đức Phổ [83]. Hoặc trong công trình nghiên cứu lịch sử chiến khu D, tài li ệu l ưu trữ c ủa Tỉnh ủy Tây Ninh, Đồng Nai, Sông Bé,... có thể sử dụng như những bằng chứng lịch sử góp phần đánh giá đúng tầm vóc của một căn cứ địa nổi tiếng, một trung tâm kháng chiến, một hậu phương chiến lược tại chỗ của quân và dân miền Đông Nam bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong đó, hiện có một số tài liệu rất quý về các sự kiện lịch sử của Đảng, của dân tộc. Thí dụ, tài li ệu văn kiện của Xứ ủy Nam Bộ, Bộ Tư lệnh miền Đông như: bản kiến nghị của Xứ ủy Nam Bộ ngày 21/01/1960 về phương châm hoạt động trong tình hình mới để bảo vệ lực lượng và căn cứ cách mạng, Nghị quyết của Xứ ủy Nam Bộ tháng 3/1960, các Chỉ thị, Nghị quyết của Liên khu ủy Liên khu V, Báo cáo của các Tỉnh ủy và các Đảng bộ cơ sở về công tác xây dựng Đảng, về tình hình thực hiện Chỉ thị của Xứ ủy, của TW Cục về phát động quần chúng nổi dậy phối hợp với tiến công quân sự năm 1974-1975 của TS. Nguyễn Lệ Nhung
  19. www.vanthuluutru.com quân và dân các tỉnh miền Đông Nam bộ, báo cáo hàng tháng c ủa Bộ t ư lệnh miền Đông về tình hình ta - địch, v.v.... Có thể tìm thấy ở kho Lưu tr ữ này Mật điện của Tổng Quân ủy cuối năm 1953 (do đ ồng chí Võ Nguyên Giáp ký) nêu lên những nhận xét của Tổng Quân ủy đối với sự chỉ đạo quân sự của Chính ủy và Tư lệnh miền Đông Nam bộ, chấn chỉnh sự chỉ đạo quân sự trong giai đoạn cách mạng sắp tới và nhiều tài li ệu văn ki ện khác có liên quan. Những thông tin này là nguồn sử li ệu đáng tin c ậy cho việc nghiên cứu về lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử ĐCSVN nói riêng. Mặt khác, giá trị tài liệu lưu trữ Đảng còn thể hiện ở chỗ chúng là nh ững chứng cứ lịch sử mang tính khách quan, có độ tin cậy cao, phản ánh chân thực các sự kiện, hiện tượng lịch sử và nhất là chúng được bảo quản một cách có hệ thống với tư cách là các tài liệu gốc. Trên thực tế, thời gian qua, trên cơ sở sử dụng tài liệu lưu trữ và các nguồn sử liệu khác, nhiều tác phẩm về lịch sử Đảng được viết và công bố. Nhi ều công trình lịch sử Đảng và lịch sử dân tộc, lịch sử ngành được xuất bản trong cả nước đã cho thấy sự phong phú của lĩnh vực này như: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Lịch sử Việt Nam, Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Lịch sử Quốc hội Việt Nam, Sự nghiệp và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các công trình lịch sử đảng bộ địa phương v.v... Đây là những công trình nghiên cứu nghiêm túc trên cơ sở khai thác nhi ều nguồn sử liệu và tài liệu lưu trữ. Chúng đã nêu bật đ ược ý nghĩa l ịch s ử, nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quan trọng hơn, các công trình trên đã đánh giá nghiêm túc nh ững ưu điểm chính của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp cách mạng của đất nước, của dân tộc và cũng đã nêu lên những tồn tại cần khắc phục. Từ đó có thể rút ra những bài học kinh nghiệm lớn về lãnh đ ạo, ch ỉ đạo của Đảng ta trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước hiện nay. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy vẫn còn một số tác phẩm nghiên cứu, biên soạn sơ lược, thiếu tính tổng kết nên chưa có được những bài học lịch sử đích thực. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng đáng kể nhất, theo chúng tôi là sự nghèo nàn về sử liệu, dẫn đ ến sự gi ản đơn, sơ lược trong cách lý giải các sự kiện và quá trình lịch sử. Mặc dù nguồn sử liệu của lịch sử Đảng ta khá phong phú, nhưng trong thời gian qua, việc khai thác và sử dụng chúng trong một số công trình l ịch s ử còn quá ít, đặc biệt là lịch sử Đảng ở địa phương. Nhiều nguồn sử liệu trong các kho lưu trữ thậm chí chưa được sử dụng. Trong thực tế, không ít nhà nghiên cứu lịch sử Đảng còn tự hạn chế mình khi tìm kiếm các khả năng TS. Nguyễn Lệ Nhung
  20. www.vanthuluutru.com khai thác sử liệu cũng như phương pháp tiếp cận với giá trị thực sự của mỗi nguồn sử liệu cụ thể. Có nhiều thí dụ cho thấy tình hình thực tế đó. Chẳng hạn trong công trình lịch sử của một số đảng bộ hoạt động trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp ở Bắc và Trung bộ vì thiếu các nguồn sử liệu có độ tin cậy cao, nên sự chỉ đạo của các Khu ủy, Liên khu ủy III, IV, Khu ủy Tả Ngạn còn chưa được trình bày rõ. ở một vài công trình còn nặng về mô tả sự ki ện, th ậm chí sự kiện này phủ nhận sự kiện kia [58, 08], hoặc tuy đã sử dụng nhi ều loại hình sử liệu khác nhau, kể cả tài liệu lưu trữ, nhưng phương pháp ti ếp cận chưa đảm bảo tính khoa học. Có tác phẩm về lịch sử Đảng bộ huyện do có khó khăn trong việc khai thác các nguồn sử liệu đã mô tả các sự kiện không chính xác về thời gian xảy ra, do đó chưa hiểu đúng và đ ầy đ ủ về diễn biến của các sự kiện đó. Sự vắng mặt của tài liệu lưu trữ Đảng trong những trường hợp trên đã dẫn đến kết quả là tác phẩm lịch sử Đ ảng bộ thiếu những cứ liệu quan trọng, làm cho nội dung của không ít tác phẩm mô tả thiếu tính chính xác và khoa học, đôi khi chỉ là sự chắp vá khiên cưỡng và chủ yếu là những sự kiện, những nhận xét, đánh giá chung chung. Các tồn tại đó hoàn toàn có thể khắc phục được nếu biết dựa vào tài liệu lưu trữ Đảng. Một thí dụ khác: Tại huyện Nga Sơn (t ỉnh Thanh Hóa), khi nghiên cứu và biên soạn lịch sử Đảng bộ huyện, vi ệc khai thác các nguồn sử liệu thật sự là một khó khăn rất lớn. Các cuộc tọa đàm, các hội thảo rộng rãi với thành phần là những nhân chứng đã từng tham gia công tác lãnh đạo ở địa phương, hoặc đã từng tham gia vào chính các sự kiện đã xảy ra trong lịch sử của huyện, chỉ cho phép các nhà nghiên c ứu hình dung được những nét chung nhất, những nhận định khái quát về một vài thời điểm lịch sử hay từng giai đoạn nhất định. Nguồn sử liệu chính xác và phong phú về sự chỉ đạo của tổ chức Đảng, về sự hoạt động của các đoàn thể quần chúng, về tinh thần cách mạng của nhân dân cuối cùng chỉ có thể tìm thấy qua khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ trong Kho l ưu trữ Đảng bộ huyện. Những sự kiện lịch sử, những số liệu thống kê được xử lý qua thông tin quá khứ của tài liệu lưu trữ đã đem đến cho công trình l ịch sử Đảng bộ huyện một sắc thái mới bằng những chứng cứ tin cậy, xác đáng. Tất nhiên, ngoài nguồn sử liệu chữ viết như sách, báo, tài liệu lưu trữ, các nhà nghiên cứu cũng còn phải chú ý đến các hiện vật trong bảo tàng, trong phòng truyền thống, và khai thác nhiều thông tin qua các nhân chứng sống (những người cao tuổi, những chiến sĩ cách mạng lão thành, những người đã từng giữ những chức vụ lãnh đạo ở TW và địa phương, v.v...). Tuy vậy, không một nguồn sử liệu nào lại có thể thay thế được vai trò của nguồn sử liệu chữ viết, mà trong số đó đặc biệt quan trọng là tài liệu lưu trữ. Thật TS. Nguyễn Lệ Nhung
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2