intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài liệu Tư tường HCM về thực hiện đời sống mới

Chia sẻ: Vũ Hồng Thanh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:9

73
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đổi mới là một yêu cầu khách quan, có tinhd quy luật đối với một cuộc cách mạng. Nó là bản chất của cách mạn xã hội chũ nghĩa

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài liệu Tư tường HCM về thực hiện đời sống mới

  1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HIỆN ĐỜI SỐNG 1. MỚI Đổi mới là một yêu cầu khách quan , có tính quy luật đ ối v ới m ột cu ộc cách m ạng . Nó là bản chất của cách mạng xã hội chủ nghĩa . Nó khác hẳn với các cu ộc đ ảo chính chính trị, mà thực chất của đảo chính là sự tranh giành quy ền l ực ch ứ không thay đ ổi quan hệ sản xuất, không thay đổi sở hữu về tư liệu sản xuất. Trong điều kiện của cách mạng khoa học và công nghệ, đạc đi ểm và trình đ ộ l ực lượng sản xuất thay đổi không ngừng, đòi hỏi quan hệ sản xuất luôn đ ổi m ới phù h ợp. vậy, đổi mới tư duy tất yếu phải đi trước một bước , đóng vai trò dẫn dắt ti ến trình đ ổi mới đi theo đúng hướng. Nhận thức đúng, đầy đủ các quy luật tác đ ộng và v ận d ụng chúng một cách chủ động, sáng tạo và hoàn cảnh, đi ều kiện c ụ th ể là m ột yêu c ầu h ết sức quan trọng của đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh t ế . Ngay sau khi tiến hành tổng khởi nghĩa thành công, giành chính quy ền v ề tay giai c ấp công – nông, và trong bối cảnh phải đương đầu với thù trong gi ặc ngoài , ph ải gi ải quyết những vấn đề cấp bách chống lại giặc đói, giặc dốt với một nền tài chính r ỗng tuếch. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong chào toàn dân “th ực hi ện đ ời s ống mới” với mục đích xuyên suốt: bảo vệ nền độc lập non trẻ và bắt tay vào xây d ựng m ột xã hội mới. Tư tưởng dổi mới của Hồ Chí Minh xuất phát từ quyền l ợi của dân t ộc và của nhân dân. Thay mặt Chính phủ lâm thới của nước Việt Nam dân ch ủ c ộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng : “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành m ột n ước t ự do và độc lập. toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và l ực l ượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy ”. Sau ngày đọc “ Tuyên ngôn Độc lập”, ngày 3 tháng 9 năm 1945, trong phiên h ọp đ ầu tiên của Hội Đồng Chính Phủ, Chủ Tịch Hồ Chí minh nêu lên sáu nhi ệm v ụ c ấp bách cùng những biện pháp thực hiện rất cụ thể. Về “ vấn đề thứ tư”, người nói: “ chế độ thực dân đã đầu độc dân ta với rượu và thuốc phiện.Nó đã dùng m ọi th ủ đo ạn hòng hủ hóa dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, l ười biếng, gian gi ảo, tham ô và những thói xấu khác.chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục l ại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho nhân dân chúng ta tr ở nên m ột dân t ộc dũng c ảm, yêu nước, yêu lao động. Một dân tộc xứng đáng với nước Vi ệt Nam đ ộc l ập. Tôi đề nghị mở lại một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách th ực hi ện: cần, kiệm, liêm, chính” Hiểu đầy đủ lời “đề nghị” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: tinh thần cần, kiệm, liêm, chính của nhân dân ta đã có truyền thống lâu đời, tinh thần ấy là tài s ản quý báu c ủa dân tộc, nó thẩm thấu vào con Hồng cháu Lạc, nó không bị đánh mất trong hoàn c ảnh đ ất nước bị xâm lăng và nó tiếp tục có giá trị to lớn trong sự nghi ệp cách m ạng đ ể đ ưa dân
  2. tộc phát triển trên con đường mới, dẫn tới cuộc sống ấm no, h ạnh phúc cho toàn dân. Tinh thần ấy phải được “giáo dục lại” vì chế độ thực dân đã làm tổn hại và làm thoái hóa, biến chất trong những con người phải chịu cuộc đời của ki ếp nô lệ. vi ệc “giáo d ục lại” tinh thần ấy cũng có nghĩa là làm cuộc giải phóng nhân dân, tr ước h ết là gi ải phóng tư tưởng để họ nhận thức đúng đắn về nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền l ợi c ủa n ước Vi ệt Nam hoàn toàn độc lập và tự do; cho nên người cũng kêu g ọi “ phải có giáo d ục đ ạo đức công dân”. Trong cuộc vận động: “thực hiện đời sống mới”, Hồ Chí Minh rất coi trọng ch ữ đức. người viết : “ trời có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông.Đất có bốn phương: đông, tây, nam, b ắc. Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính. Thiếu một mùa, thì không thành trời. Thiếu một phương, thì không thành đất. Thiếu một đức, thì không thành người. Thiên (trời) – Địa (đất)- Nhân(người), đối với người phương Đông là m ột quan h ệ khít( tam tài), thể hiện một vũ trụ quan và một nhân sinh quan r ất đ ặc tr ưng và có ý nghĩa thực tiễn trong đời sống lao động sản xuất cũng nh ư đ ời s ống sinh ho ạt h ằng ngày.coi người là yếu tố chủ đạo, có tính quyết định trong mối quan h ệ v ới hai y ếu t ố trời và đất, là một quan niệm vừa mang tính truyền th ống( trong câu “nhân đ ịnh th ắng thiên”) vừa có tính biện chứng (con người là tiểu vũ trụ), b ởi ng ười là ch ủ thể trong vi ệc nhận thức và tác động vào các quy luật của tự nhiên, thông qua quá trình lao đ ộng và cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính mình. Trong tác phẩm “Cần Kiệm Liêm Chính” Hồ Chí minh giải thích rất rõ ý nghĩa giá tr ị của bốn đức này và mối quan hệ giữa chúng. Người nhấn mạnh: “ Cần, Kiệm, Liêm,Chính là nền tảng của đời sống mới, nền t ảng c ủa thi đua ái qu ốc”; và: “ Từ ngày Cách mạng thành tháng Tám thành công l ập nền dân ch ủ c ộng hòa,cho đ ến mấy năm kháng chiến, dân ta nhờ Cần, Kiệm, Liêm, Chính mà đánh th ắng đ ược gi ặc đói, giặc dốt, giặc thực dân và giặc lụt.Tuy vậy, đồng bào ta có ng ười đã hi ểu rõ, có người chưa hiểu rõ. Có người thực hành nhiều, có người thực hành ít. Cho nên c ần phải giải thích rõ ràng, để cho mọi người hiểu rõ, mọi ng ười đều th ực hành”. Thời gian và thực tiễn cuộc sống, ngày càng chứng minh s ự c ảm nhận c ủa H ồ Chí Minh là đúng khi người nói: “thắng đế quốc và phong kiến là t ương đ ối d ễ; th ắng b ần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều”. cảm nhận đó xuất phát t ừ l ịch s ử và chính t ừ s ự từng trải của Người.Do vậy, tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh là t ư t ưởng khoa h ọc, t ư tưởng cách mạng triệt để, được Người cụ thể hóa bằng các cuộc vận động, các phong trào thi đua nhằm tuyên truyền, giáo dục nhân dân chuy ển bi ến nh ận th ức phù h ợp v ới những đổi thay của xã hội cách mạng đem lại.Bởi, không có sự chuyển bi ến đó, t ừ m ỗi người dân cho đến toàn xã hội, thì khó có thể tiến hành s ự nghi ệp b ảo v ệ n ền đ ộc l ập dân tộc và tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi hoàn toàn. Ch ủ nghĩa cá
  3. nhân – con đẻ của các chế độ phong kiến va thực dân, với nhiêu thói h ư t ật x ấu trong lới sống, nếp sống, tạo nên sức ì trong tâm lý mỗi ngươi, lan truyền ra kh ắp c ộng đ ồng , lâu ngay trở nên “thâm căn cố đế”, la vật cản nguy hiểm đ ối v ới cu ộc cách m ạng. Thực hiện đời sống mới là nhằm phá cách I thâm căn cố đế đó đi. Song, đi ều đó không dễ, không phải ngày một ngày hai đã làm được. Thế mà H ồ Chí Minh đã kh ẳng đ ịnh là phải làm bằng được nếu quyết tâm làm và có biện pháp đúng để làm . D ưới d ạng h ỏi – đáp, trong tác phẩm “Đời sống mới” (V, 91-110), Người phân tích, lý gi ải và ch ỉ ra cho mọi tầng lớp nhân dân cách mạng thực hiện nội dung, ý nghĩa c ủa đ ời s ống m ới m ột cách giản dị, chân xác và thuyết phục . Trả lời câu hỏi :Đời sống m ới là gì?, Ng ười viết : “Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không ph ải cái gì cũng làm m ới “. Người phân tích:”Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ”,” cái gì cũ mà không x ấu, nh ưng phi ền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý”, “cái gì cũ mà tốt, thì phải phát tri ển thêm”,”cái gì mới mà hay, thì ta phải làm”. Nội dung tư tưởng đổi mới của H ồ Chí Minh n ằm trong những câu – chữ hết sức bình dị, ai cũng có thể hiểu và đ ều th ực hi ện đ ược, b ởi đ ổi mới chính là sự kế thừa có chọn lọc truyền thống dân t ộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. cách tư duy này tránh được sự không t ưởng; tránh đ ược s ự lãng phí s ức l ực, tiền của, thời gian không cần thiết; tránh được sự vòng vo, l ặp l ại vô ích. Đi ều căn b ản là lam thế nào để phân biệt, xác định được cái xấu, cái không x ấu, cái t ốt hay và cái hay; để làm gì ? – Để “làm thế nào cho đời sống của dân ta, vật chất đ ược đ ầy đ ủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn. Đó là mục đích đời sống mới”. Mục đích đời sống mới, theo cách nói của Hồ Chí Minh, cũng là m ục đích c ủa cách mạng – cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa – mà Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta thực hiện suốt chiều dài hơn bảy mươi năm qua. Người nói rõ hơn: Đời sống mới “Nó chỉ sửa đổi những việc rất cần thiết, rất ph ổ thông, trong đời sống của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách m ặc, cách ở, cách đi lại,cách làm việc. Sửa đổi được những điều đó, thì mọi người đều được hưởng hạnh phúc. Mà ch ắc s ửa đổi được, vì nó không có gì là gay go, khó làm”. Tuy việc sửa đổi có tính chất phổ thông như vậy, nhưng lại là sự sửa đ ổi căn bản, s ửa đổi tận gốc gác ý thức con người.Nó là nền tảng cho sự nhận th ức mới. Vì v ậy, đ ổi m ới là một quá trình sửa đổi liên tục sự nhận thức (đổi mới t ư duy), không cho phép th ỏa mãn với những gì đã đạt được. Nó phù hợp với quy luật phát triển xã h ội, v ới chính nhu cầu ( vật chất và tinh thần) của bản thân mỗi cá nhân con người trong quá trình t ự hoàn thiện mình. Do hoàn cảnh thực tế của cách mạng và cũng do trình đ ộ dân trí ở th ời đi ểm đó, H ồ Chí Minh đã lựa chọn hình thức diễn đạt phổ thông nhất nội dung và cách th ực hi ện đời sống mới.Thực chất, tác phẩm “ Đời sống mới” và những bài vi ết , bài nói c ủa H ồ Chí Minh về đời sống mới , là học thuyết về đổi mới, bao gồm trong đó cả ph ương
  4. pháp luận và cả phương pháp khoa học, được phát tri ển trên nền t ảng lý lu ận c ủa ch ủ nghĩa Mác – Lênin một cách độc lập và sáng t ạo . Trong bài”Kh ổng T ử” vi ết ngày 20 tháng 2 năm 1947, đăng trên báo thanh niên s ố 80, Ng ười phê phán chính ph ủ Trung Hoa dân quốc ra quyết định xóa bỏ những nghi l ễ t ưởng niệm Kh ổng T ử - m ột nhà t ư tưởng vĩ đại, Người viết: “ Với việc xóa bỏ những nghi lễ tưởng niệm Khổng Tử, chính phủ Trung Qu ốc đã làm mất đi một thể chế cũ và trái với tinh thần dân chủ. Còn nh ững ng ười An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác ph ẩm c ủa Kh ổng T ử, và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của LêNin”. Tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh thật là sâu sắc và có bề rộng của mọi th ời đ ại. k ế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại t ừ cổ chí kim, cả đông và tây, Ng ười ch ỉ ra cách “tự hàn thiện mình” cho người Việt Nam.Sự vận dụng những cái hay cái đ ẹp c ủa học thuyết Khổng Tử và học thuyết Lênin là một sáng t ạo đ ộc đáo, ch ỉ có ở H ồ Chí Minh, đã nâng tư tưởng đổi mới của Người lên tầm thời đại, ở chỗ việc sửa đ ổi bao quát toàn bộ đời sống kinh tế và xã hội, đời sống vật chất và tinh th ần c ủa toàn b ộ các tầng lớp dân cư, không phân biệt già trẻ, nam n ữ, thành ph ần xu ất thân, tôn giáo, dân tộc, trình độ nhận thức, miễn là ai ai cũng hưởng ứng “Thi đua ái qu ốc”vì đ ộc l ập dân tộc va chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân ch ủ, văn minh. Với ý nghĩa đó, “đời sống mới” do Chủ Tịch Hồ Chí Minh đ ề x ướng đã tr ở thành cái gốc,cái nền của một nền văn hóa mới xã hội ch ủ nghĩa và m ột n ền đ ạo đ ức xã hội chủ nghĩa – hai nhân tố không thể thiếu trong quá trình xây d ựng và phát tri ển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Mỗi người phải có đủ bốn đức: Cần, Kiệm,Liêm, Chính thi mới có thể thực hiện được mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa – đó là một nguyên lý ngày càng được thực tế cuộc sống chứng minh là xác đáng. H ồ Chí Minh viết: “ một dân tộc biết Cần, Kiệm, Liêm, Chính là một dân t ộc giàu v ề vật ch ất, m ạnh v ề tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”; và “Một người phải c ần Kiệm, Liêm nh ưng còn phải chính mới là hoàn toàn”. Như vậy, Cần, Kiệm, Liêm, Chính không chỉ có ý nghĩa đạo đức đơn thuần,mà có giá trị to lớn trong đời sống lao động sản xuất về mọi phương diện: t ổ chức và qu ản lý sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng và phân bố sản phẩm.Cũng vì lẽ đó mà Ng ười nói: “ không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng”, một cách nói r ất Vi ệt Nam và cũng là nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin: ai làm nhi ều h ưởng nhi ều, ai làm ít h ưởng ít, ai không làm không hưởng.Nhưng, để thực hiện được sự công bằng đó thì tr ước tiên cán bộ cách mạng phải tự nguyện là “công bộc của dân” với tinh th ần: “ Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gi hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Tư tưởng “toàn dân toàn diện” là sợi chỉ đỏ xuyên su ốt trong các lu ận đi ểm cách m ạng của Hồ Chí Minh. Sức dân là sức nước, nên mối quan hệ gi ữa cách m ạng và nhân dân
  5. là mối quan hệ giữa cá và nước, giữa thuyền và nước.Đó là tư tưởng nhân nghĩa c ủa Nguyễn Trãi và khác xa với tư tưởng của Khổng Tử. Thừa nhận Kh ổng giáo không ph ải là một tôn giáo mà là một thứ khoa học về kinh nghiệm về đạo đức và phép ứng x ử, nhưng Hồ Chí Minh phê phán: “những ông vua tôn sùng Kh ổng T ử không ph ải ch ỉ vì ông không phải là người cách mạng, mà còn là vì ông tiến hành m ột cu ộc tuyên truy ền mạnh mẽ có lợi cho họ. Họ hai thác Khổng giáo như bọn đế qu ốc đang khai thác kitô giáo”; và “Khổng Tử đã viết Kinh Xuân Thu để chỉ trích “nh ững thần dân n ổi lo ạn” và “những đứa con hư hỏng”, nhưng ông không viết gì để lên án nh ững t ội ác c ủa “nh ững người cha của tai ác” và “những hoàng tử thiển cận”. Nói tóm l ại, ông rõ ràng là ng ười phát ngôn bênh vực những người bóc lột chống lại những ng ười b ị áp b ức.” Tính chất phản động của Khổng giáo còn thể hiện rõ ở ba cặp quan h ệ: quân – th ần (vua – tôi), phụ - tử (cha – con), và phu – phụ (vợ - chồng), d ẫn đến khái ni ệm “trung quân” mù quáng (vua bắt chết là phải chết), đặc biệt đưa ng ười ph ụ nữ đến ch ỗ l ệ thuộc hoàn toàn: khi ở nhà phải phục tòng cha, lấy chồng phục tòng ch ồng, ch ồng chết phải phục tòng con trai (tam tòng). Đạo đức Hồ Chí Minh hoàn toàn khác. Ng ười vận động và giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, giáo d ục đạo đ ức công dân cho toàn dân trên cơ sở “trung với n ước, hi ếu v ới dân” và luôn t ự rèn luy ện, tự hoàn thiện bản thân bằng bốn đức cân, kiệm, liêm, chính . (Kh ổng giáo đ ưa ra năm đức căn bản:nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Tiếp thu và chọn lọc nh ững cái t ốt, cái hay t ừ khổng giáo và cuộc vận động nhân dân thực hiện đời sống mới và sáng t ạo nó trong hoàn cảnh của cách mạng, Hô Chí Minh thấu hiểu gắng: trong tâm th ức ng ười Vi ệt Nam bao đời nay chịu ảnh hưởng rất sâu sắc học thuyết của Khổng T ử, trong đó có c ả những yếu tố kìm hãm sự phát triển cá nhân và xã h ội. Vi ệc t ẩy r ửa nh ững tâm lý h ủ nho cùng những thói xấu do thực dân đế quốc gieo rắc trong su ốt tám m ươi năm đô h ộ bằng rượu và thuốc phiệ, là việc làm tất yếu . Song, như vậy chưa đủ . Muốn có một xã hội mới thi phải giáo dục, bồi dưỡng những con người mới – chuyên c ần lao đ ộng (lao đông chân tay và lao động trí óc, kể cả học tập);biết chân giá tr ị và ti ết ki ệm những thanh quả lao động của chính mình và của toàn xã h ội(k ể cả th ời gian, s ức l ực, tiền bạc va của cải);biết đặt lợi ích của quốc gia, của t ập thể trên l ợi ích cá nhân, không tự tư, tự lợi;phải thẳng thắn, trung thực, có lòng t ự tr ọng và bi ết tôn tr ọng ng ười khác, luôn luôn hướng thiện. Để trở thành một con ng ươi m ới trong xã h ội m ới, duy nhất chỉ có con đường là học, mà tự học, tự rèn luyện, tự cải t ạo mình là c ốt y ếu, t ức là “tu thân”(tu thân, tề gia, trị quốc,bình thiên h ạ) và cũng là”cách m ệnh tiên cách tâm”. Học để làm người, học để biết minh có những trách nhiệm và nghĩa v ụ gì đ ối v ới xã hội . Có học thi mớ biết đấu tranh cho cái tốt, cái đẹp. Hồ Chí Minh nói:”Quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết, không chịu đót, thì “quan”dù là không liêm cũng ph ải hóa ra liêm”. Sau khi từ pháp về, gửi thư cho các cháu thiếu nhi (ngày 24 tháng 10 năm 1946), đi ều đầu tiên Bác Hồ khuyên các cháu là”phải siêng h ọc”. Trước đó, nhân ngày khai tr ương đâu tiên ở nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, người viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân t ộc Vi ệt Nam có b ước t ới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính la nh ờ một phần lớn công học tập của các em”.
  6. Đối với chị em phụ nữ, Người cũng khuyên: “Phụ nữ lại càng cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm, đây là lúc chị em ph ải c ố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng mình là một ph ần t ử trong n ước, có quy ền b ầu c ử và ứng cử”. “Chống giặc dốt” là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách mà Chủ t ịch Hồ Chí Minh nêu ra tại phiên họp đầu tiên của hội đông Chính phủ lâm th ời của nhà n ước Vi ệt Nam dân chủ cộng hòa. Nó chỉ đứng sau nhiệm vụ “chống giặc đói”. Vận động toàn dân “ch ống nạn thất học”, hơn ai hết và hơn bất cứ lúc nào trong lịch sử, H ồ Chí Minh coi “vi ệc học” là một nhân tố quan trọng đầu tiên của tiến trình đ ổi m ới, coi tri th ức là m ột l ực lượng vật chất thực sự của cách mạng, nó có ý nghĩa to lớn đ ối v ới s ự chinh ph ục toàn diện thế giới, đưa thế giới đến đại đồng. Ngày nay, khi thế giới b ước vào th ời kì c ủa kinh tế tri thức, ý nghĩa của “việc học” càng có giá trị to l ớn. Tr ước lúc đi xa, Ng ười di chúc cho toàn đảng, toàn dân ta: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và r ất c ần thi ết.”; và Đảng cần có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế văn hóa, nh ằm không ng ừng nâng cao đời sống nhân dân”. Đối với Hồ Chí Minh, phát triển kinh tế và văn hóa luôn luôn là nhi ệm v ụ song hành trên con đường cách mạng ở Việt Nam. Một mặt là do lịch sử để lại; m ặt khác cũng Do lịch sử yêu cầu – phải “sửa đổi” những cái cũ và từng bước xây dựng cái m ới, c ả v ề vật chất lẫn tinh thần, cho một xã hội có đủ những đi ều kiện đ ể phát tri ển. Khi xóa bỏ chế độ thực dân – phong kiến cũng là lúc nhà n ước dân ch ủ nhân dân ph ải giải quyết một loạt những nhiệm vụ để đưa đất nước và nhân dân nhanh chóng thoát khỏi sự bần cùng, lạc hậu. Phân tích nền kinh tế cách mạng Vi ệt Nam tr ước cách mạng tháng 8 năm 1945, các nhà nghiên cứu đều cho rằng: v ới m ột trình đ ộ phát tri ển cao, chỉ đứng sau nước Anh thời đó, nước Pháp có đủ tiềm l ực đ ể giúp đ ỡ và khai hóa Việt Nam, đồng thời nước Pháp cũng có quyền uy rất mạnh để th ực hi ện th ống tr ị Vi ệt Nam. Cả hai nhân tố đã đưa nước Pháp đến chỗ “nhập nhằng” hay “mập m ờ”, nh ư cách nói của các nhà sử học Pháp,trong chính sách cai tr ị Vi ệt Nam. Th ực ch ất, th ực dân Pháp tiến hành chính sách “khai hóa” ở Vi ệt Nam là đ ể khai thác – m ọi s ự ki ến t ạo là để khai thác, chứ không phải khai thác là để kiến t ạo. điều này khác v ới ch ủ nghĩa thực dân Anh, vì chủ nghĩa thực dân Pháp bủn xỉn, hẹp hòi và ích k ỉ h ơn – nh ững “đ ức tính” xấu đến nỗi nhà cách mạng Pháp jean jaures, sáng l ập viên c ủa t ờ L’Humanite`, đã phải tuyên bố từ năm 1911 rằng: “Nếu chúng ta cứ tiếp t ục nh ư th ế này, thì ở trên xứ sở đó chúng ta chỉ còn gặt hái được hận thù và thất bại” – m ột l ời cảnh báo có tính chất tiên tri. Trên thực tế, trong những năm 20 của thế kỉ XX, Nguy ễn Ái Qu ốc đã có nhận xét về những “đức tính” xấu của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Vi ệt Nam, ở Đông Dương và ở nhiều nước thuộc địa khác mà người đã tận mắt chứng kiến; và người đã tố cáo đanh thép tội ác của chủ nghĩa thực dân nói chung, ch ủ nghĩa th ực dân Pháp nói riêng, bằng một loạt những bài báo đậm chất chính luận pha ch ất hài h ước sâu ca. người viết:
  7. “còn như chính phủ thuộc địa Pháp thì vẫn ngoan cố một cách ngây th ơ cho r ằng ở Đông Dương này muốn ràng buộc những người bản xứ thì chỉ cần vỗ về h ọ mãi mãi bằng những bài diễn văn long trọng, những luận điệu tuyên truy ền gian ngoan và b ằng những lời thề nguyện trung thành mà nó chỉ đáng giá ở ch ỗ ngu ời ta đ ặt vào đ ấy: trong cái xứ này do thiếu sót hay nói cho đúng h ơn, là do ý đ ịnh c ủa Chính ph ủ, nên đâu đâu tử trên xuống dưới cũng đều có cái nạn tham nhũng mua quan bán ch ức, nh ững b ọn người mua bán được bằng tiền thì không phải là thứ hàng hóa hi ếm. Và đ ể nh ồi s ọ những người da vàng, Chính phủ thuộc địa đã sẵn sàng những biện pháp và ph ương tiện cực kỳ mạnh”. Sự “khai hóa” của chủ nghĩa thực dân Pháp bằng những “đ ức tính” xấu – b ủn x ỉn, h ẹp hòi và ích kỷ - và “phương tiện cực kỳ mạnh” là rượu và thuốc phi ện, c ộng v ới s ự già cỗi của chế độ phong kiến, đã đẩy người dân bản xứ đến tình trạng d ốt nát. Nguy ễn Ái Quốc viết về tình trạng đó như sau: “Trong tất cả các nước thuộc địa, ở cái xứ Đông Dương già cỗi kia cũng nh ư ở x ứ Đahomay trẻ trung này, người ta không hiểu đấu tranh giai cấp là gì, l ực l ượng giai c ấp vô sản là gì cả, vì một lẽ đơn giản là ở đó không có nền kinh doanh l ớn v ề th ương nghiệp hay công nghiệp, cũng không có tổ chức công nhân”, và “Nói chung, qu ần chúng căn bản là có tinh thần nổi dậy, nhưng còn rất dốt nát. H ọ mu ốn gi ải phóng, nhưng họ chưa biết làm cách nào để đạt được mục đích ấy”. Những con số thống kê và sự phân tích sau đây cho th ấy nh ận đ ịnh c ủa Nguy ễn Ái Quốc là hoàn toàn có căn cứ. trong 80 năm đô hộ Pháp đã đầu t ư vào Đông D ương 1/5 tổng số vốn đầu tư vào các nước thuộc địa Pháp (trong đó đầu t ư c ủa nhà n ước ch ỉ chiếm 1/3, còn 2/3 là đầu tư của tư nhân), trong khi Đông Dương ch ỉ chi ếm 1/6 di ện tích toàn đế quốc Pháp (740.000km2 /12.300.000km2 ). Đầu tư l ớn nh ư vậy đã đ ưa đến kết quả là: thực dân Pháp đã khai thác triệt để những tài nguyên thiên nhiên và biến sở hữu của dân tộc Việt Nam thành sở hữu của tư nhân Pháp; và, đ ẩy m ức ti ền lương của nhân công làm thuê người Việt xuống thấp hơn nhi ều l ần so v ới m ức tiền lương bình quân của người Pháp (mức chênh lệch tới 7,933 lần). Ng ười ta cũng tính rằng, đến năm 1939, tất cả các cơ sở kinh doanh của Pháp hoạt đ ộng ở Vi ệt Nam đã thuê 317.800 nhân công các loại, trong đó số ng ười đ ược đào t ạo v ề chuyên môn r ất ít, chỉ có 1.575 người. Chỉ như vậy thôi cũng đủ thấy bản chất đích thực của chính sách “khai hóa” do chủ nghĩa thực dân Pháp tiến hành ở Vi ệt Nam là nh ư thế nào. Đó là chính sách ăn cướp tàn bạo. Sau tám mươi năm đô h ộ, nó đã đ ể l ại cho Vi ệt nam m ột nền kinh tế kiệt quệ, một đời sống xã hội bần cùng đén mức không thể bần cùng h ơn được nữa. Thêm vào đó, phát xít Nhật vào Việt Nam đã gây nên n ạn đói kh ủng khi ếp, từ tháng 2 đén tháng 4 năm 1945 đã cướp đi sinh mạng c ủa g ần hai tri ệu dân (t ức là 1/5 dân số miền Bắc lúc đó) và 300.000 trong tổng s ố 450.000 con trâu bò. Vi ệt Nam giành được độc lập trong tình hình kinh tế xã hội như vậy, nên nhà n ước dân ch ủ nhân dân non trẻ phải đương đầu với muôn ngàn khó khăn, th ử thách. Nguy c ơ tám tri ệu dân miền Bắc sẽ bị đói trong thời gian giáp hạt, vì vụ lúa mùa ph ải đến tháng 11 m ới cho thu hoạch. Vỡ đê và lũ lụt xảy ra ở nhiều nơi, đúng vào nh ững ngày cách m ạng tháng Tám, làm ngập 350.000ha trong tổng số 830.000ha (chi ếm khoảng 40%) di ện tích đã
  8. cấy xong lúa mùa ở Bắc Bộ. Đó là chưa kể những khó khăn về nạn thù trong, luôn quấy rối và giặc ngoài luôn lăm le xâm lược. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên những nhiệm vụ cấp bách và nh ững biện pháp c ụ thể thực hiện những nhiệm vụ đó. Người gương mẫu thực hiện và vận động toàn dân thực hiện thắng lợi, đưa dân tộc từng bước vượt qua hiểm nghèo – là m ột s ự n ỗ l ực phi thường, biểu hiện một quyết tâm sắt đá của một trái tim yêu n ước, th ương dân vô b ờ bến và của một bộ óc tinh anh hiếm có. Trong hoàn cảnh l ịch sử ấy, Ch ủ t ịch H ồ Chí Minh vận động toàn dân thực hiện “đời sống mới” và Người tin ch ắc s ẽ th ực hiện đ ược, thì càng thấy tầm chiến lược của Người vĩ đại như thế nào. Phải là một người có khát vọng độc lập, tự do đến cháy bỏng, phải có lòng yêu thương và tin t ưởng tuy ệt đ ối vào nhân dân, vào truyền thống tự lực tự cường của dân t ộc nh ư H ồ Chí Minh m ới có th ể tư duy và hành động vừa quyết liệt vừa mềm mỏng, một cách linh ho ạt và đ ạt k ết qu ả to lớn như vậy. Kết quả thực hiện đời sống mới không chỉ dừng lại ở thời kì xây dựng chính quyền nhân dân và trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống th ực dân Pháp xâm l ược, mà nó còn tiếp tục ở thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà, và tiếp tục cả trong nh ững giai đo ạn sau này.Bởi thực hiện đời sống mới cũng chính là thực hiện đ ổi m ới liên t ục trên t ất c ả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, để toàn xã h ội nh ằm t ới m ục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh – cũng là m ục tiêu c ủa đ ộc l ập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh vận động mọi người thực hiện đời sống mới một cách giản d ị, chân thành và rất thiết thực: “Nước ta người khá đông, đất khá rộng, ruộng khá t ốt, của khá nhi ều. Đ ồng bào ta l ại có tính chịu khổ, chịu khó, biết việc phải thì vui lòng theo.Thế là nh ững đi ều ki ện đ ể làm đời sống mới đã đủ rồi. cũng như gạo, nước, củi đều sẵn sàng, ch ỉ cần nhen l ửa thì có cơm ăn.Nêu cao và thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính tức là nhen l ửa cho đ ời sống mới”. Mối quan hệ “tam tài” (thiên- địa- nhân) - ở đầu tác phẩm “Đ ời s ống m ới”, đ ược Ng ười nhắc lại ở cuối tác phẩm bằng lối văn sinh động và tha thi ết. Ở đây, cái g ốc – cái n ền của đời sống mới là Cần, Kiệm, Liêm, Chính – một lần nữa được Người khẳng đ ịnh rõ ràng. Cho đến cuối đời, Hồ Chí Minh vẫn kiên định giữ vững l ập tr ường cách m ạng của mình. Trong bài “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét s ạch ch ủ nghĩa cá nhân”, đăng trên báo Nhân Dân số 5409, ngày 3 tháng 2 năm 1969, kí T.L, H ồ Chí Minh vi ết : “Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, c ủa nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đ ạo đ ức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể,tinh thần đoàn kết, tính t ổ ch ức và tính k ỷ lu ật. Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quy ền làm chủ tập thể của nhân dân.Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình đ ộ hi ểu bi ết để làm tốt mọi nhiệm vụ”.
  9. Thực hiện những lời di huấn của chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, trong công cu ộc đ ổi mới ngày nay, đảng cộng sản Việt Nam đã xác định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta dành th ắng l ợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và của dân t ộc ta. Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm n ền t ảng t ư t ưởng, kim chỉ nam cho hành động và bước phát triển quan tr ọng nhận th ức và t ư duy lý lu ận của Đảng ta”. Để đảm bảo thắng lợi cho công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta chù trương không ngừng “xây dựng, chỉnh đốn đảng, nâng cao năng l ực lãnh đ ạo và s ức chi ến đ ấu c ủa Đảng”, trong đó nhiệm vụ giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đ ạo đ ức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân thường xuyên được coi trọng. Đó chính là s ự kế t ục và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc vận động, giáo dục đảng viên và nhân dân “s ửa đổi” để biến cái cũ thành cái mới, biến cái xấu thành cái t ốt trên c ơ s ở thay đ ổi t ừ nh ận thức đến hành động, trước tiên là thay đổi lối nghĩ, nếp ngh ỉ và rèn luy ện b ản thân thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Cho đến nay, bốn đức cơ bản của con người: Cần, Kiệm, Liêm, Chính do ch ủ t ịch H ồ Chí Minh do Hồ Chí Minh đề xướng vẫn là cái gốc, là khởi đi ểm của sự giáo dục đ ạo đức cách mạng, của sự đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Thực hành t ốt C ần, Ki ệm, Liêm, Chính trong mỗi con người và trong toàn b ộ xã h ội là nhân t ố đ ặc bi ệt quan tr ọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất n ước, nh ất là trong tình hình chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường định hướng xã h ội ch ủ nghĩa và ti ến hành hội nhập kinh tế quốc tế. phát triển nền kinh tế thị trường, th ực tế càng đ ặt s ự cấp thiết phải tăng cường thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính vì m ục tiêu c ủa đ ộc l ập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2