intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tăng cường công tác quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh ở Việt Nam trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Chia sẻ: Mao A Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

35
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết nếu lên một trong những vấn đề quan trọng là cần tăng cường công tác quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh trước các tác động của cuộc cách mạng công nghiệp này. Đây là chìa khóa để phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tăng cường công tác quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh ở Việt Nam trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG TĂNG CƢỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH Ở VIỆT NAM TRƢỚC TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƢ Trần Thu Thủy Đại học H Tĩnh Email: thuy.tranthu@gmail.com Tóm tắt Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) hay còn được gọi là “Cuộc cách mạng công nghệ” bắt đầu từ đầu thế kỷ XXI và đang diễn ra rất mạnh mẽ, đặc trưng bởi sự hợp nhất, không có ranh giới giữa các lĩnh vực công nghệ, vật lý, kỹ thuật số và sinh học và đã có những tác động to lớn đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường ở tất cả các cấp – toàn cầu, khu vực và từng quốc gia. Đối với Việt Nam cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tạo ra nhiều cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, cũng như đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Một trong những vấn đề quan trọng là cần tăng cường công tác quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh trước các tác động của cuộc cách mạng công nghiệp này. Đây là chìa khóa để phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay. Từ khóa: Cách mạng công nghiệp; Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Quản lý kinh tế; Quản trị kinh doanh; Việt Nam Đặt vấn đề Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tạo ra một sự thay đổi lớn trên phạm vi toàn cầu với việc cải thiện tính linh hoạt, tốc độ, năng suất, và chất lượng của quá trình sản xuất. Trong các “nhà máy thông minh”, các máy móc được kết nối Internet và liên kết với nhau qua một hệ thống có thể tự hình dung toàn bộ quy trình sản xuất rồi đưa ra quyết định sẽ thay thế dần các dây chuyền sản xuất trước đây. Nhờ khả năng kết nối của hàng tỷ người trên trên thế giới thông qua các thiết bị di động và khả năng tiếp cận được với cơ sở dữ liệu lớn, những tính năng xử lý thông tin sẽ được nhân lên bởi những đột phá công nghệ trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, công nghệ người máy, Internet kết nối vạn vật, xe tự lái, công nghệ in 3 chiều, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học vật liệu, lưu trữ năng lượng và tính toán lượng tử [7]. Đối với Việt Nam, đây là xu thế công nghệ tất yếu phải hướng đến để theo kịp các nước phát triển trên thế giới. Song Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức không nhỏ ở tầm quản lý vĩ mô và vi mô thể hiện ở khía cạnh các chỉ số và công nghệ cũng như nguồn nhân lực công nghệ chưa sẵn sàng cho một nền kinh tế số. Bởi vậy, tăng cường công tác quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là một trong những vấn đề cấp thiết để ứng phó với sự thay đổi đang diễn ra nhanh chóng. Bài viết sử dụng phương pháp phân tích dữ liệu thứ cấp nghiên cứu đặc điểm của cuộc cách mạng lần thứ tư và những tác động của nó đối với nền kinh tế thế giới và cụ thế đối với Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp cho công tác quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh trước các tác động đó. 1. Đặc điểm của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ v tác động của nó đến thế giới đƣơng đại 1.1. Lịch sử những cuộc cách mạng công nghiệp trên thế giới Trải qua chiều dài lịch sử, nhiều cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) trên thế giới đã tạo ra những thay đổi sâu sắc trong sản xuất, tiêu dùng và kết cấu xã hội. CMCN lần 1 diễn ra tại Vương quốc Anh vào cuối thế kỷ XVIII, khi phát minh ra động cơ hơi nước và ứng dụng vào việc cơ giới hóa các ngành sản xuất. CMCN lần 2 bắt đầu vào cuối thế kỷ XIX ở khu vực châu Âu và Bắc Mỹ khi năng lượng điện được sử dụng để sản xuất hàng loạt với quy mô lớn. CMCN lần 3 bắt đầu từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX ảnh hưởng rộng lớn trên toàn cầu cùng với sự phát triển của máy tính, máy bay siêu âm, khám phá vũ trụ, công nghệ hạt nhân, công nghệ sinh học và các thành tựu về di truyền, gien, công nghệ thông tin… người ta gọi là nền văn minh hậu công nghiệp với đặc trưng nền kinh tế tri thức. 177
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG Trong khi cách mạng công nghiệp lần thứ 3 đang lan tỏa cho các nước mà nó chưa đi qua thì Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đã nổi lên trong những năm gần đây ở các nước công nghiệp hàng đầu thế giới. Thuật ngữ "Công nghiệp 4.0" bắt nguồn từ một dự án trong Chiến lược công nghệ cao của Chính phủ Đức, trong đó khuyến khích việc tin học hóa sản xuất và được sử dụng lần đầu tiên vào năm 2011 tại Hội chợ Công nghệ Hannover ở Cộng hòa liên bang Đức. Đến năm 2012, thuật ngữ này được sử dụng cho giới nghiên cứu và các hiệp hội công nghiệp hàng đầu của Đức nhằm cải thiện quy trình quản lý và sản xuất trong các ngành chế tạo thông qua "điện toán hóa". Ở một số nước khác, nó được gọi là “công nghiệp IP”, “sản xuất thông minh” hay “sản xuất số”. Dù tên gọi có khác biệt nhưng ý tưởng là một - sản xuất tương lai mang thế giới ảo (mạng) và thực (máy móc) xích lại gần nhau. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (hay còn gọi là Cuộc cách mạng công nghệ), đặc trưng bởi sự hợp nhất, không có ranh giới giữa các lĩnh vực nghiên cứu đơn ngành truyền thống, như vật lý, kỹ thuật số và sinh học với sự phát triển bùng nổ của các công nghệ liên ngành, đa ngành, xuyên ngành. Đây là xu hướng kết hợp giữa các hệ thống thực và ảo, vạn vật kết nối Internet (IoT) và các hệ thống kết nối Internet (IoS),với tốc độ phát triển theo cấp lũy thừa [6] sẽ nâng cao đáng kể hiệu quả sản xuất và có những tác động to lớn về kinh tế, xã hội và môi trường của thế giới đương đại. Hình 1. Những cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử thế giới Nguồn: Báo cáo nghiên cứu của Sogeti VINT (2016)[8] 1.2. Tác đ ng của cu c cách mạng công nghiệp đối với phát triển bền vững nền kinh tế Về kinh tế, những đột phá về công nghệ đã làm giảm mạnh áp lực chi phí sản xuất nhờ chuyển đổi sang các hình thức sản xuất hiệu quả, thông minh và sử dụng nguồn lực tiết kiệm hơn, thúc đẩy nền kinh tế thế giới chuyển từ nền kinh tế tài nguyên sang nền sang kinh tế tri thức. Bằng cách tăng cường tự động hóa và ứng dụng số hóa trong quá trình sản xuất, các yếu tố đầu vào truyền thống như tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông sẽ được thay thế bởi sự tăng trưởng chủ yếu dựa vào động lực công nghệ và đổi mới sáng tạo, sử dụng nhiều lao động có kỹ năng và chuyên môn cao. Điều đó có nghĩa bản đồ kinh tế trên thế giới đang có sự thay đổi, với sự gia tăng sức mạnh của các quốc gia dựa chủ yếu vào công nghệ và đổi mới sáng tạo và sự suy giảm quyền lực của các quốc gia dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên. Trên thế giới, các nước phát triển tiên phong về công nghệ mới đã phục hồi nhanh chóng sau cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính diễn ra từ năm 2008, trong khi các nước phụ thuộc nặng nề vào nguồn tài nguyên thiên nhiên đang phải trải qua mục tiêu cơ cấu lại nền kinh tế với nhiều khó khăn và thách thức. Mỹ là quốc gia đứng đầu thế giới về công nghệ và dẫn dắt cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang trong quá trình khôi phục vị thế hàng đầu của mình trên bản đồ kinh tế thế giới. Các quốc gia phát triển ở châu Âu như: Đức, Anh, Pháp và các quốc gia ở Đông Bắc Á như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) đã tham gia mạnh mẽ và tận dụng được nhiều cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp mới.Các quốc gia phát triển 178
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG song chủ yếu dựa vào tài nguyên như Úc, Canada, Ả rập Xê út, nhóm BRICS v.v… đang phải trải qua một quá trình tái cơ cấu nền kinh tế với nhiều thách thức. Một thách thức không nhỏ đối với các quốc gia đang phát triển và kém phát triển bởi những quốc gia này phải đổi mặt với rất nhiều thách thức trước sự phát triển với tốc độ nhanh của cuộc cách mạng công nghệ. Sự tác động của cuộc công nghiệp 4.0 rất đáng kể đối với các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế lớn. Công nghệ đã giúp tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ mới, mang lại hiệu quả và sự hài lòng cao, cải thiện chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp, giúp người tiêu dùng tiếp cận sản phẩm với giá trị và mức giá phù hợp. Chính những thay đổi lớn về nhu cầu, sự tham gia và những hành vi mới của người tiêu dùng buộc các công ty phải điều chỉnh phương thức thiết kế, tiếp thị và phân phối sản phẩm, dịch vụ để tăng tính cạnh tranh. Đồng thời, nhờ vào hạ tầng thông tin Internet, các doanh nghiệp trẻ khởi nghiệp những năm gần đây như các công ty Google, Facebook, Uber v.v… đang tăng trưởng rất nhanh, trong khi các công ty tiếng tăm khác như IBM, Microsoft, Cisco, Intel v.v… đang phải trải qua một quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp với nhiều khó khăn, ảnh hưởng không nhỏ đến lao động việc làm. Về xã hội, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có thể làm gia tăng khoảng cách thu nhập, giàu nghèo giữa nhóm lao động giản đơn, ít kỹ năng hoặc có kỹ năng dễ có thể bị người máy thay thế với nhóm lao động là những người có kỹ năng cao và áp dụng quá trình số hóa, tự động hóa. Bởi lẽ nền sản xuất hiện đại sẽ sử dụng máy móc, rô bốt và trí thuệ nhân tạo thay cho sức người và tạo áp lực lớn lên thị trường lao động, do vậy hàng triệu người sẽ rơi vào cảnh thất nghiệp, đặc biệt là những nhân công trong các ngành với sự tác động của công nghệ lớn, ví dụ: vận tải, kế toán, môi giới bất động sản hay bảo hiểm… Theo nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), trong tương lai: trung bình 9% việc làm hiện nay có nguy cơ bị thay thế hoàn toàn bởi tự động hóa; khoảng 47% các công việc hiện tại ở Mỹ có thể sẽ biến mất vì tự động hóa; 30% việc làm sẽ trải qua quá trình trang bị lại, bao gồm các kỹ năng mới [4]. Mặt khác, yêu cầu đối với chất lượng nguồn nhân lực cũng trờ thành vấn đề lớn đặt ra đối với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư do những thiếu hụt lớn về nguồn nhân lực chất lượng cao trong thị trường kỹ thuật số. Hầu hết các quốc gia đều phải đối mặt với một mâu thuẫn nền tảng giữa cung và cầu trong nền kinh tế thị trường đang diễn ra: cung gia tăng mạnh mẽ trong khi cầu không theo kịp do nhiều người lao động bị thay thế bởi quá trình tự động hóa nên không có thu nhập. Theo các phân tích, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có tiềm năng nâng cao mức thu nhập toàn cầu và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân trên toàn thế giới. Những người tiêu dùng tiếp cận được với thế giới kỹ thuật số là những người hưởng lợi nhiều nhất từ cuộc cách mạng này. Tuy nhiên khoảng cách về thu nhập và sự phân hóa giàu nghèo lại có thể gia tăng đối với các lao động giản đơn, không có kỹ năng. Điều đó cũng sẽ xảy đến tình trạng bất bình đẳng và các vấn đề xã hội sẽ xảy ra. Tuy nhiên, thực trạng này đã dẫn tới sự xuất hiện những ý tưởng về sàn an Về môi trường, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng sẽ tác động tích cực đến môi trường nhờ vào các công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên vật liệu và thân thiện với môi trường. Thêm vào đó, các công nghệ giám sát môi trường cũng đang phát triển nhanh, cùng với sự hỗ trợ của Internet kết nối vạn vật, giúp thu thập và xử lý thông tin liên tục 24/7 theo thời gian thực. Với tốc độ phát triển nhanh của công nghệ, việc tái tạo các nguồn tài nguyên thiên nhiên hay thậm chí là khôi phục lại những tổn thất mà các cuộc cách mạng công nghiệp trước gây ra là có thể và sẽ mang lại lợi ích lớn cho vấn đề bảo tồn hệ sinh thái và môi trường trong tương lai. 2. Một số tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ tới quá trình phát triển nền kinh tế của Việt Nam Quá trình toàn cầu hóa diễn ra cùng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ có tác động mạnh đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam, tạo ra nhiều cơ hội và thách thức trong bối cảnh quy mô nền kinh tế và các nguồn lực còn hạn chế. Xem xét sự tác động cụ thể để thấy sự khác biệt giữa các ngành theo phân loại truyền thống. 179
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG Ngành công nghiệp Nhóm ngành năng lượng là nhóm ngành cung cấp các đầu vào chiến lược cho nền kinh tế. Những tác động lớn nhất đang diễn ra ở hai phân ngành là dầu khí và điện năng. Đối với ngành dầu khí hiện nay đang chịu áp lực rất lớn do có những đột phá trong lĩnh vực năng lượng (khai thác dầu đá phiến, sản xuất năng lượng tái tạo, ắc qui trữ điện) và vận tải (ô tô điện với chi phí sản xuất và giá giảm nhanh, kinh tế chia sẻ như Uber hay Grab taxi) dẫn đến nhu cầu đối với dầu thô có thể giảm mạnh. Ngành điện có thể được hưởng lợi khá nhiều nhờ những đột phá trong công nghệ năng lượng tái tạo.Trong tương lai, nếu công nghệ điện mặt trời và điện gió phát triển mạnh có thể giảm giá đầu vào chiến lược của nền kinh tế, đồng thời giảm thiểu tác động đến môi trường. Bởi lẽ loại hình năng lượng này có thể sản xuất hiệu quả ở qui mô nhỏ, thậm chí ở cấp hộ gia đình ở cả những vùng miền núi hoặc hải đảo. Thông qua đó giúp cải thiện đời sống, nâng cao phúc lợi của nhóm người dân này, giúp họ không bị bỏ lại phía sau trong quá trình tăng trưởng. Nhóm ngành công nghiệp chế tạo là nhóm ngành mà Việt Nam sẽ phải chịu tác động mạnh nhất bởi những đột phá về công nghệ, đặc biệt là những tiến bộ vượt bậc trong tự động hóa, công nghệ in 3D, người máy và Internet kết nối vạn vật sẽ làm đảo ngược dòng thương mại theo hướng bất lợi cho các nước đang phát triển như Việt Nam. Trong những năm gần đây với lợi thế tương đối về lao động giá rẻ, và vị trí địa kinh tế rất thuận lợi, ngành điện tử đã có những tiến bộ vượt bậc nhờ sự thu hút được các tập đoàn lớn, đa quốc gia dẫn dắt các chuỗi giá trị toàn cầu có mặt tại Việt Nam. Song, cuộc cách mạng 4.0 với sự đột phá về công nghệ, các tập đoàn lớn hiện diện ở Việt Nam sẽ cắt giảm lao động, dẫn đến lao động của Việt Nam bị ảnh hưởng không nhỏ. Theo đó, các hoạt động kinh doanh có liên quan như cung cấp suất ăn hay chỗ ở, vận chuyển công nhân đi làm mà các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp cũng sẽ bị ảnh hưởng. Đối với ngành công nghiệp thâm dụng lao động như chế biến da giày, dệt may, công nhân Việt Nam cũng đang bị mắc kẹt trong cuộc cạnh tranh khốc liệt trên phạm vi toàn cầu giữa một bên là nhân công rẻ hơn từ các nước Campuchia, Bangladesh, v.v… và bên kia là người máy đang được ứng dụng ngày một rộng rãi ở các nước phát triển. Báo cáo của ILO công bố tháng 7/2016 [3] cho thấy Việt Nam có đến 86% lao động trong các ngành dệt may và giày dép ở Việt Nam có nguy cơ cao mất việc dưới tác động của những đột phá về công nghệ. Bởi vì điều đáng nói là lao động trong ngành này đa phần là lao động ít kỹ năng và không dễ dàng tìm được việc làm thay thế khi mất việc. Đây là thách thức rất lớn xảy ra trong quá trình điều chỉnh cơ cấu lao động trong toàn bộ nền kinh tế, thậm chí có thể làm đảo ngược quá trình chuyển dịch lao động ra khỏi nông nghiệp trong những năm vừa qua. Ngành dịch vụ Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đưa đến những thay đổi lớn trong ngành dịch vụ, đặc biệt diễn ra mạnh mẽ nhất ở các phân ngành tài chính - ngân hàng, du lịch, thương mại nội địa, giáo dục đào tạo, y tế, vận tải lưu trú,… Trên thế giới, các ngân hàng tập trung mạnh vào các sản phẩm và dịch vụ trực tuyến kết hợp với kỹ thuật mới như ngân hàng điện tử (internet banking) và ngân hàng qua điện thoại di động (mobile banking)… khiến nhu cầu nhân lực ngành ngân hàng giảm mạnh và dự báo xu hướng này sẽ còn tiếp tục tăng tốc trong thời gian tới, đặc biệt là tại châu Âu. Ở Việt Nam, tuy dịch vụ ngân hàng điện tử được triển khai ở tất cả các ngân hàng, nhưng lượng khách hàng sử dụng các sản phẩm này vẫn còn chưa phổ biến do thói quen dùng tiền mặt cũng như tâm lý e ngại việc bảo mật thông tin cá nhân và lo sợ bị mất cắp thông tin tài khoản khi sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử của người dân khiến các loại hình dịch vụ này chưa phát triển mạnh. Tuy nhiên có thể thấy trong tương lai không xa sẽ có sự thay đổi một cách đáng kể về thói quen tiêu dùng các dịch vụ này. Điều này cũng do sự nhập cuộc của các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài, sự gia tăng nhanh của tầng lớp trung lưu và những người trẻ tuổi dễ dàng tiếp thu sử dụng công nghệ mới sẽ là nguyên nhân thúc đẩy các dịch vụ này phát triển nhanh chóng. 180
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG Du lịch là ngành có triển vọng và tiềm năng lớn tại Việt Nam. Mặc dù không chịu tác động lớn bởi quá trình tự động hóa và ít chịu áp lực cạnh tranh quốc tế hơn so với nhiều ngành khác do các sản phẩm du lịch mang tính chuyên biệt, gắn với giá trị văn hóa, lịch sử, thiên nhiên nhưng thách thức đối với ngành lại là việc sử dụng hiệu quả những công nghệ hiện đại để giúp đẩy mạnh tiếp thị, khuyếch trương hình ảnh ở trong nước cũng như ra quốc tế, giảm bớt chi phí để nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm du lịch. Giáo dục đào tạo không chỉ chịu sự ảnh hưởng lớn của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư nói riêng và tiến bộ công nghệ nói chung mà còn có tác động ngược lại đối với quá trình này. Ở Việt Nam, giáo dục đào tạo luôn được xác định vị trí quan trọng trong các chính sách của Nhà nước và trong đầu tư của toàn xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hệ thống giáo dục đào tạo của Việt Nam còn có nhiều bất cập so với yêu cầu. Trong một thế giới hiện đại do công nghệ dẫn dắt, chính phủ của nhiều nước trên thế giới đã có chính sách ưu tiên rõ rệt cho các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán (Science, Technology, Engineering and Mathematics, viết tắt là STEM) trong khi Việt Nam chưa có những định hướng rõ nét, dẫn đến tình trạng những sinh viên giỏi nhất thường theo học các ngành kinh tế, ngoại thương, tài chính, ngân hàng… nhiều hơn so với các ngành công nghệ và kỹ thuật, đặc biệt là ngành công nghệ thông tin. Bên cạnh đó, sự kết nối giữa các trường đại học và các doanh nghiệp hiện nay còn yếu. Các công việc đơn giản mà sinh viên mới ra trường trước đây làm trong những năm đầu sự nghiệp đã bị tự động hóa nên sinh viên mới ra trường phải làm những việc phức tạp hơn. Nếu trong quá trình đào tạo sinh viên không được thực tập đầy đủ những công việc đó thì kết quả là kể cả trong các ngành tăng trưởng nhanh, sinh viên khi ra trường vẫn thiếu nhiều kỹ năng mà doanh nghiệp cần. Y tế sẽ được hưởng lợi nhiều nhờ những đột phá về công nghệ trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Gần đây, những đột phá trong công nghệ nano giúp tạo ra Internet kết nối vạn vật siêu nhỏ có thể dùng các hạt cảm ứng rất nhỏ với kích cỡ nano để thu thập thông tin liên tục trong cơ thể con người. Điều quan trọng là Việt Nam cần nắm bắt các cơ hội do cách mạng công nghệ mang lại một cách nhanh nhất để cải thiện chất lượng và mở rộng dịch vụ y tế đến mọi người dân. Tính phổ cập của dịch vụ y tế có thể gia tăng nếu chất lượng dịch vụ nâng lên và chi phí dịch vụ ở mức hợp lý, phù hợp với mức sống của người dân. Trên thực tế, một số bệnh viện đã bắt đầu ứng dụng người máy trong các ca phẫu thuật.Xu hướng này sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong tương lai, giúp cải thiện lĩnh vực chăm sóc sức khỏe phục vụ người dân. Dịch vụ vận tải, lưu trú đã xuất hiện các mô hình kinh doanh mới dựa trên nền tảng công nghệ - kinh tế chia sẻ - đã trở nên ngày càng phổ biến ở Việt Nam. Uber, Grab taxi… đang giúp khách hàng tiếp cận được với dịch vụ đa dạng hơn, giá cả hợp lý hơn. Những loại hình dịch vụ này đặc biệt có ích đối với khách du lịch nước ngoài do giúp khắc phụ đáng kể hàng rào ngôn ngữ. Tuy nhiên những dịch vụ truyền thống sẽ bị ảnh hưởng thu nhập đáng kể do bị tăng cạnh tranh khi các dịch vụ này trở nên phổ biến. Ngành nông nghiệp Cuộc cách mạng 4.0 đã và đang tạo ra những công nghệ mới trong nông nghiệp, đem lại cho người nông dân nhiểu lợi ích từ việc áp dụng các quá trình tự động hóa để nâng cao năng suất và thu nhập. Công nghệ cảm biến giúp chuẩn đoán và theo dõi mùa màng theo thời gian thực, hỗ trợ chăn nuôi và máy móc nông nghiệp; Công nghệ thực phẩm mang lại những thành tựu về gene cũng như khả năng tạo ra thịt từ phòng thí nghiệm; Công nghệ tự động được thực hiện bởi các robot kích thước lớn hoặc robot siêu nhỏ để giám sát quá trình gieo trồng…. Tuy nhiên, thực tế cho thấy khả năng ứng dụng, hấp thụ các công nghệ vào phát triển nông nghiệp của Việt Nam còn thấp do hạn chế về trình độ và năng lực nội tại của ngành nhất là yếu tố con người. 181
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 3. Một số giải pháp t ng cƣờng công tác quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh trƣớc tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ Đối với công tác quản lý kinh tế Để tăng cường công tác quản lý kinh tế trước cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra với tốc nhanh và tác động mạnh đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội, trên giác độ quản lý vĩ mô nền kinh tế một mặc Nhà nước cần tiếp tục giải quyết những vấn đề tồn tại liên quan đến kinh tế, xã hội và môi trường trong giai đoạn phát triển nóng trước đây, mặt khác cần có các giải pháp tăng cường năng lực tiếp cận cách mạng công nghiệp 4.0. Những giải pháp tập trung vào các hướng sau đây: Thứ nhất, trước hết cần nhà nước cần có các biện pháp để nâng cao nhận thức của lãnh đạo các cấp, các ngành, các địa phương, doanh nghiệp và toàn xã hội về cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư thông qua việc phát huy mạnh mẽ các phương tiện tuyền thông. Bởi có rất nhiều địa phương, doanh nghiệp chưa nhận thức đúng về bản chất, đặc trưng, các cơ hội và thách thức của cuộc cách mạng này. Chính phủ cần có các quy định để các ngành, địa phương, xã hội xây dựng lộ trình, các biện pháp, kế hoạch cụ thể tiếp cận với Cuộc cách mạng 4.0. Các cơ quan quản lý nhà nước các cấp phải rà soát lại chiến lược, chương trình hành động, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch và các nhiệm vụ trọng tâm để triển khai phù hợp với các tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Cụ thể: xây dựng chiến lược chuyển đổi số, nền quản trị thông minh, ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số, nông nghiệp thông minh, du lịch thông minh, đô thị thông minh… Thứ hai, Nhà nước cần có kế hoạch đầu tư kết cầu hạ tầng lớn, như hạ tầng internet, thông tin, truyền thông… đặc biệt thúc đẩy phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, tạo đột phá về ứng dụng và nhân lực công nghệ thông tin – truyền thông. Bên cạnh đó, phát triển hạ tầng kết nối số và bảo đảm an toàn, an ninh tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp dễ dàng, bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội phát triển nội dung số. Bởi lẽ cuộc cách mạng 4.0 với đặc điểm là tận dụng một cách triệt để sức mạnh lan tỏa của số hóa và công nghệ thông tin. Thứ ba, cải thiện môi trường kinh doanh để thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể hấp thụ nhanh và tiếp cận được các công nghệ mới. Để làm được điều đó đòi hỏi Nhà nước chỉ đạo các cơ quan quản lý nhà nước các cấp xây dựng Chính phủ điện tử hiệu quả, rà soát, cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa và hiện đại hóa nhất là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, bãi bỏ các điều kiện kinh doanh không còn phù hợp,… Cùng với đó, đẩy mạnh tinh thần khởi nghiệp, sử dụng các mô hình “vườn ươm doanh nghiệp” hiệu quả, thúc đẩy các doanh nghiệp tiếp cận khoa học công nghệ mới, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh. Cần có các chính sách và biện pháp khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp và các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả trong các lĩnh vực ứng dụng và phát triển công nghệ để gắn với các chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực, đồng thời thân thiện với môi trường. Hơn nữa, cơ chế tài chính phải rõ ràng để thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của các doanh nghiệp mà từ trước đến nay dường như vẫn chưa thể phát huy hết hiệu quả. Theo báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ thì đầu tư cho khoa học công nghệ chưa thỏa đáng, hiện đầu tư mới đạt khoảng 1% GDP (bao gồm cả đầu tư từ ngân sách nhà nước và đầu tư toàn xã hội, doanh nghiệp), trong khi các quốc gia khác như Trung Quốc là 2,2% Hàn Quốc 4,5% [11]. Thứ tư, thực hiện cải cách mạnh mẽ hệ thống giáo dục, đào tạo theo hướng ưu tiên hỗ trợ cho các ngành khoa học và công nghệ bằng các thể chế và chính sách hiệu quả; Có cơ chế, chính sách khuyến khích sự gắn kết giữa các doanh nghiệp và các tổ chức giáo dục đào tạo. Nguồn nhân lực là một thách thức không nhỏ trước tác động của cuộc cách mạng 4.0. Lợi thế về lao động giá rẻ, lao động phổ thông trước đây sẽ không còn nữa thậm chí còn trở thành bất lợi. Nguồn nhân lực được đào tạo phải có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới do đó nhà nước phải thay đổi các chính sách, nội dung, phương pháp giáo dục và dạy 182
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG nghề theo hướng tập trung vào thúc đẩy đào tạo về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học, ngoại ngữ, tin học trong chương trình phổ thông. Còn đối với các cơ sở đào tạo nghề cần thực hiện tốt cơ chế tự chủ, đối với các ngành nghề đặc thù cần có các quy định cụ thể. Đối với công tác quản trị kinh doanh Trước cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các doanh nghiệp cần nhận thức một cách đầy đủ để có các giải pháp phù hợp hiệu quả. Thứ nhất, xây dựng chiến lược thích ứng, nhận thức về doanh nghiệp trong thời đại số mới. Bản thân các doanh nghiệp cần phải chuẩn bị sẵn sàng cho cách mạng công nghiệp 4.0. Song điều này đối với các doanh nghiệp Việt Nam chưa làm được, hầu hết các doanh nghiệp Việt còn bị động với các xu thế mới đang diễn ra, họ chưa hiểu bản chất của cách mạng công nghiệp 4.0, không thấy sự liên quan của các xu thế công nghệ đến ngành, lĩnh vực của mình , không sẵn sàng năng lực để tiếp cận công nghệ, hệ thống hạ tầng. Việt Nam không có những tập đoàn, công ty hàng đâù thế giới nên các doanh nghiệp có năng suất thấp, áp dụng KHCN rất hạn chế. Vì vậy trước hết các doanh nghiệp cần nhận thức và xây dựng được chiến lược thích ứng với sự biến chuyển to lớn đang diễn ra. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp phải có chiến lược từ hạ tầng đến các ứng dụng công nghệ thông tin. Theo đó, có chiến lược quy trình hóa, số hóa được các hoạt động sản xuất kinh doanh quan trọng của doanh nghiệp, tạo ra môi trường kết nối, an ninh, an toàn từ đó mới áp dụng được các ứng dụng thông minh, tiện ích hơn. Thêm vào đó, cần có chiến lược lựa chọn đầu tư và ứng dụng công nghệ thích hợp với thế mạnh và chiến lược phát triển của doanh nghiệp trước làn song ro bot hóa trong tương lai. Thứ hai, ứng dụng công nghệ trong tất cả hoạt động đặc biệt trong bán hàng và xây dựng chiến lược marketing. Trong hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp cũng cần nhận thức rằng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn liền với sự biến đổi nhanh chóng về công nghệ đã tác động không nhỏ đến khách hàng và hành vi mua hàng của họ. Vấn đề thay đổi thói quen tiêu dùng thường gắn liền với những tiến bộ trong công nghệ. Có thể thấy trong thời gian qua bán hàng xã hội đã thu hút được sự chú ý của các chuyên gia bán hàng. Mạng truyền thông xã hội phát triển với một tốc độ rất nhanh, với số người dự kiến sử dụng mạng truyền thông xã hội đến năm 2018 sẽ là 2,55 tỷ người trên toàn cầu [12]. Rõ ràng, không gian kỹ thuật số đã và đang tác động rất lớn đến người dùng. Do vậy, các doanh nghiệp phải bắt kịp với những thay đổi đó. Các DN cũng cần thay đổi chiến lược bán hàng và marketing theo hướng: tiếp thị kỹ thuật số, đòi hỏi các nhà tiếp thị được đào tạo bài bản, tiếp thu được các kỹ năng kỹ thuật số mới; Truyền thông marketing chú trọng đến marketing xã hội và video marketing trong xu thế hiện nay; Ứng dụng các công nghệ tiên tiến của cách mạng 4.0 để cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị, linh động điều chỉnh theo nhu cầu khách hàng, giản tiện quy trình sản xuất, giảm thời gian giao hàng, tăng khả năng cạnh tranh. Thứ ba, các doanh nghiệp cũng cần có chiến lược nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp. Một trong những thách thức lớn nhất đối với Việt Nam trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.0 vẫn chính là lao động trình độ thấp. Do vậy, dưới góc độ quản trị kinh doanh, các doanh nghiệp cũng cần cùng phối hợp, chia sẻ thông tin, đặt hàng , có trách nhiệm với nhà trường, các cơ sở đào tạo, các ngành liên quan trong việc đào tạo ra đội ngũ lao động có chất lượng, trình độ cao và am hiểu về khoa học công nghệ, sẵn sàng tiếp nhận được những tiến bộ của khoa học vào hoạt động sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Mặt khác, cần có chiến lược, kế hoạch đào tạo lại đội ngũ lao động bắt nhịp với các thay đổi của kỹ thuật công nghệ mới. Kết luận Trước tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong công tác quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh cần thiết có những thay đổi nhất định hướng đến sự tích hợp sáng tạo, phù hợp thời kỳ công nghệ số. Sự thay đổi đó sẽ giúp nền kinh tế Việt nam khai thác được các 183
  8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG cơ hội của cuộc cách mạng trong khi vẫn phát huy cao nhất tiềm năng của đất nước để thúc đẩy sự phát triển quốc gia một cách nhanh chóng và rút ngắn khoảng cách so với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. TS. Chu Ngọc Anh (2017), Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức đối với mục tiêu tăng trưởng bền vững của Việt Nam (Tạp chí Cộng sản, ngày 27/01/2017). 2. Alice Vu.(2015). Làn sóng cắt giảm nhân sự tại các ngân hàng châu Âu năm 2016.http://www.if24h.com/lan-song-cat-giam-nhan-su-tai-cac-ngan-hang-chau-au-nam- 2016/. 3. Chang, J. H., Rynhart, G., & Huynh, P. (2016).ASEAN in Transformation: How technology is changing jobs and enterprises (No. 994909343402676). International Labour Organization. 4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. (2016). Báo cáo đánh giá tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và một số định hướng hoạt động của ngành Ngân hàng Việt Nam.Kỷ yếu hội thảo OECD 2016. 5. GS,TS. Trần Đại Quang (2016), Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư: thời cơ phát triển và các thách thức phi truyền thống, Bài phát biểu của Chủ tịch nước tại Lễ Khai khóa Đại học Quốc gia TP.HCM, ngày 3/10/2016. 6. Schwab, K. (2016), The Fourth Industrial Revolution: what it means, how to respond.https://www.weforum.org/agenda/2016/01/the-fourth-industrial-revolution-what- it-means-and-how-to-respond/. 7. Schwab, K. (2017). The Fourth Industrial Revolution.Penguin UK. 8. Sogeti VINT (Vision-Inspiration-Navigation-Trends). (2016). “The Fourth Industrial Revolution Things to Tighten the Link Between IT and OT”.http://www.fr.sogeti.com/globalassets/global/downloads/reports/vint-research-3- the-fourth-industrial-revolution. 9.Văn phòng Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam (2016), Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Thông tin chuyên đề, số 08-TTCĐ/VPTW, ngày 10 tháng 8 năm 2016. 10.Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Một số đặc điểm, tác động và hàm ý chính sách đối với Việt Nam. 11. http://www.most.gov.vn 12. https://www.forbes.com STRENGTHENING ECONOMIC ADMINISTRATION AND BUSINESS MANAGEMENT IN VIETNAM AMID THE IMPACTS OF THE FOURTH INDUSTRIAL REVOLUTION The Fourth Industrial Revolution (Industry 4.0), also known as “Technological Revolution”, started in early 21st century and is taking place strongly. The Industry, characterized by the integration and removal of frontiers in technology, physics, digital technique and biology, is exerting significant impacts on social, economic and environmental aspects at all levels – international, regional and national. For Vietnam, Industry 4.0 will create many opportunities and challenges to the country‟s socio-economic development as well as businesses. One of the important issues that need doing is strengthening economic administration and business management amid the impacts of the Industry. This is the key to socio-economic development in the present context. Key words: Industrial Revolution, Industry 4.0, Economic Administration, Business Management, Vietnam 184
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0