YOMEDIA
ADSENSE
Tăng trưởng xanh gắn với phát triển kinh tế tri thức - lý luận và thực tiễn
56
lượt xem 1
download
lượt xem 1
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Nghiên cứu trình bày về vấn đề tăng trưởng xanh gắn với phát triển kinh tế tri thức - lý luận và thực tiễn, biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên... đang ảnh hưởng tới sự ổn định môi trường sống của loài người, khiến các quốc gia phải nghĩ tới việc phát triển bền vững. Không nằm ngoài mục tiêu trên, Việt Nam đang hướng tới phát triển theo hướng tăng trưởng xanh.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tăng trưởng xanh gắn với phát triển kinh tế tri thức - lý luận và thực tiễn
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät<br />
<br />
TĂNG TRƯỞNG XANH GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ<br />
TRI THỨC - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN<br />
Hoàng Xuân Sơn∗, Hồ Thị Thanh Trúc∗∗<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
<br />
Biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên... đang ảnh hưởng tới sự ổn định môi trường sống của<br />
loài người, khiến các quốc gia phải nghĩ tới việc phát triển bền vững. Không nằm ngoài mục tiêu<br />
trên, Việt Nam đang hướng tới phát triển theo hướng tăng trưởng xanh. Mặt khác, trong thời gian<br />
qua sự bùng nổ công nghệ đang hiện ra ngày càng rõ nét, cơ hội lịch sử hiếm hoi mà thời đại tạo<br />
ra để các nước đi sau vượt lên, rượt đuổi và bắt kịp các nước đi trước. Do đó, tranh thủ thời cơ mà<br />
bối cảnh quốc tế tạo ra, kết hợp nội lực với các thuận lợi bước đầu về phát triển kinh tế tri thức,<br />
Việt Nam có thể thực hiện thành công những mục tiêu về tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.<br />
Từ khoá: Tăng trưởng xanh, kinh tế tri thức, lý luận, thực tiễn<br />
<br />
GREEN DEVELOPMENT CONNECT CLOSELY KNOWLEDGE ECONOMY<br />
– THOERY AND REALITY<br />
ABSTRACT<br />
Climate change, resource depletion ... are affecting the stability of the human habitat,<br />
causing the countries to think about sustainable development. Not falling outside the above,<br />
purposes Vietnam is aiming to develop towards green growth. On the other hand, in recent years<br />
the technology boom is appearing increasingly clear, rare historical opportunity that era created<br />
to go after the countries ahead, chase and catch up with the advanced countries. Therefore, taking<br />
advantage of opportunities that are created by international context, combined with the favorable<br />
internal resources initially on developing knowledge economy, Vietnam can successfully implement<br />
the goals of green growth and sustainable development.<br />
Key words: Green development, knowledge economy, thoery and reality<br />
<br />
1. Tăng trưởng xanh và kinh tế tri thức<br />
Theo chương trình Môi trường của Liên<br />
Hiệp Quốc (UNEP) thì “kinh tế xanh” là một<br />
nền kinh tế nhằm cải thiện hạnh phúc con<br />
người, công bằng xã hội và giảm thiểu đáng kể<br />
những nguy cơ kiệt quệ về môi sinh. Chuyển<br />
dịch sang nền kinh tế xanh sẽ làm chậm lại sự<br />
gia tăng của hàm lượng các-bon và ngăn chặn<br />
*<br />
<br />
biến đổi khí hậu. Sẽ có lợi cho sức khỏe con<br />
người, đảm bảo tính chịu đựng của hành tinh<br />
và sự sống còn của nhân loại. Thị trường toàn<br />
cầu hóa sẽ đi theo những chuỗi giá trị cung<br />
cầu xanh, với các dòng chảy mậu dịch và đầu<br />
tư được quy định nghiêm ngặt theo những<br />
nguyên lý bền vững.<br />
Còn “tăng trưởng xanh” là định hướng<br />
<br />
Trường ĐH Kinh tế TP.HCM<br />
Trường Cao đẳng Tài chính – Hải quan<br />
<br />
**<br />
<br />
22<br />
<br />
Tăng trưởng xanh . . .<br />
<br />
mới thúc đẩy kinh tế phát triển theo những<br />
mô hình tiêu thụ và sản xuất bền vững, nhằm<br />
đảm bảo nguồn vốn tự nhiên tiếp tục cung cấp<br />
những nguồn lực và dịch vụ sinh thái mà đời<br />
sống của chúng ta phụ thuộc vào, cho thế hệ<br />
này cũng như cho những thế hệ mai sau.<br />
Ngân hàng Thế giới (WB) thì cho rằng:<br />
“Tăng trưởng xanh là quá trình tăng trưởng<br />
sử dụng tài nguyên hiệu quả, sạch hơn và tăng<br />
cường khả năng chống chịu mà không làm<br />
chậm quá trình này”.<br />
Vậy, để phát triển nền kinh tế xanh nhằm<br />
tăng trưởng xanh đạt được mục tiêu, thiết<br />
nghĩ không thể không gắn nó với nền kinh<br />
tế tri thức, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay<br />
và hoàn cảnh của Việt Nam. Chỉ có gắn tăng<br />
trưởng xanh với nền kinh tế tri thức mới có<br />
thể bảo đảm được tăng trưởng bền vững.<br />
Từ giữa thế kỷ XX, sự phát triển mạnh<br />
mẽ của lực lượng sản xuất mới đã dẫn tới<br />
một hình thái kinh tế mới. Đó là một nền<br />
kinh tế mà trong đó việc sáng tạo tri thức,<br />
sự lan truyền và quảng bá nhanh tri thức đưa<br />
vào ứng dụng là động lực chủ yếu của tăng<br />
trưởng kinh tế, tạo ra của cải, tạo ra việc làm<br />
cho tất cả các ngành kinh tế. Nhà kinh tế học<br />
P.F.Durker gọi đó là nền “kinh tế tri thức” và<br />
tên gọi này hiện nay đã trở thành phổ biến với<br />
việc sử dụng chính thức của Ngân hàng Thế<br />
giới (WB). Trong nền kinh tế mới, kinh tế tri<br />
thức sản xuất chủ yếu dựa vào nguồn lực tri<br />
thức. Tài nguyên và vốn dù quan trọng vẫn<br />
chỉ giữ vai trò thứ yếu.<br />
Trong tiến trình lịch sử phát triển của<br />
nhân loại con người là động vật duy nhất có<br />
năng lực sáng tạo tri thức, do đó biết lao động<br />
sản xuất và tiến dần tới nền kinh tế dựa vào tri<br />
thức là chính. Bởi vậy, kinh tế tri thức là một<br />
lịch sử tất yếu.<br />
Hiện nay, trên thế giới, khái niệm “kinh tế<br />
<br />
tri thức” có nhiều cách diễn đạt khác nhau. Tổ<br />
chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)<br />
đưa ra định nghĩa: “Kinh tế tri thức là nền<br />
kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử<br />
dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với<br />
sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao<br />
chất lược cuộc sống”; còn Viện Ngân hàng<br />
Thế giới (WBI) lại cho rằng: “Nền kinh tế tri<br />
thức là nền kinh tế dựa vào tri thức như là<br />
động lực chính cho sự tăng trưởng kinh tế.<br />
Là nền kinh tế trong đó tri thức được lĩnh hội,<br />
sáng tạo, phổ biến và vận dụng để thúc đẩy<br />
phát triển”. Cũng có cách nêu ngắn gọn hơn<br />
là: “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà tri<br />
thức là “đầu vào” (input) cơ bản của quá trình<br />
phát triển kinh tế”. Tuy cách diễn đạt có khác<br />
nhau, nhưng đều cho thấy điểm chung nhất<br />
trong nền kinh tế tri thức là công nghệ và tri<br />
thức đóng vai trò quyết định nhất đối với sự<br />
phát triển kinh tế.<br />
Tóm lại, có thể hiểu kinh tế tri thức là<br />
nền kinh tế mà sự phát triển của nó dựa chủ<br />
yếu vào tri thức, trên nền tảng tri thức; tri<br />
thức chiếm tỉ trọng lớn trong giá trị sản phẩm<br />
xã hội.<br />
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), sự phát<br />
triển của nền kinh tế tri thức của một quốc gia<br />
dựa trên bốn trụ cột sau: lực lượng lao động<br />
trình độ cao, chất lượng cao; hệ thống sáng<br />
tạo và ứng dụng công nghệ có hiệu quả; hệ<br />
thống cơ sở hạ tầng, thông tin, tin học hiện<br />
đại; hệ thống thể chế xã hội và thể chế kinh tế<br />
hiện đại. Ngoài ra, kinh tế tri thức còn được<br />
xác định dựa trên bốn tiêu chí cơ bản: ≥ 70%<br />
GDP do đóng góp của các ngành kinh tế tri<br />
thức: ≥ 70% giá trị gia tăng do lao động trí óc<br />
mang lại: ≥ 70% lực lượng lao động xã hội là<br />
lao động trí óc: ≥ 70% vốn sản xuất là vốn về<br />
con người.<br />
Dù được định nghĩa thế này hay thế khác,<br />
23<br />
<br />
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät<br />
<br />
song kinh tế tri thức có những đặc trưng cơ<br />
bản sau: tri thức, nhất là công nghệ cao trở<br />
thành nhân tố chủ yếu nhất của sự phát triển<br />
kinh tế; trong nền kinh tế tri thức, sự sáng tạo,<br />
đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu<br />
nhất thúc đẩy sự phát triển; ứng dụng rộng<br />
rãi công nghệ thông tin trở thành một nhân<br />
tố quan trọng nhất trong phát triển kinh tế tri<br />
thức; nền kinh tế tri thức gắn liền với xã hội<br />
học tập; kinh tế tri thức thúc đẩy phát triển<br />
nền kinh tế toàn cầu hóa; kinh tế tri thức tạo<br />
cơ sở để nền kinh tế phát triển bền vững; hệ<br />
thống thể chế hiện đại thúc đẩy sáng tạo.<br />
Để cụ thể hóa trong việc đánh giá trình<br />
độ phát triển kinh tế tri thức của các nước<br />
trên thế giới, Ngân hàng Thế giới (WB) đưa<br />
ra chỉ số kinh tế tri thức KEI (Knowledge<br />
Economy Index), với thang điểm thấp nhất<br />
là 0 và cao nhất là 10. Theo đó, chỉ số KEI<br />
của Việt Nam năm 2012 còn rất thấp, chỉ là<br />
3,4 xếp thứ 104/145 quốc gia được xếp loại,<br />
tăng 9 bậc so với năm 2000, trong khi các<br />
nước có thu nhập trung bình chỉ số này là<br />
4,1. Thêm vào đó, năng suất lao động của<br />
nước ta rất thấp, chỉ bằng 38% Trung Quốc<br />
và 27% Thái Lan1.<br />
Các nước phát triển đi tới kinh tế tri thức<br />
là một quá trình tự nhiên, phù hợp quy luật.<br />
Các nước đi sau mới bắt đầu quá trình công<br />
nghiệp hóa không thể chuyển ngay sang nền<br />
kinh tế tri thức với đầy đủ cơ cấu, đặc trưng,<br />
cách thức hoạt động của nó, nhưng có cơ hội<br />
nắm bắt, tiếp thu tri thức mới (về công nghệ,<br />
tổ chức quản lý, sản xuất, kinh doanh), từng<br />
bước phát triển kinh tế tri thức để đẩy nhanh<br />
quá trình phát triển. Nhưng phát triển kinh tế<br />
tri thức cũng là thách thức rất lớn.<br />
Song song với quá trình biến đổi công<br />
nghệ, thế giới cũng đang chịu những áp lực<br />
1<br />
<br />
thay đổi cấu trúc và mô hình phát triển. Quá<br />
trình phát triển nền kinh tế toàn cầu với khối<br />
lượng hàng hóa làm ra ngày càng lớn đã làm<br />
cho chúng ta dễ dàng nhận thấy nguy cơ ngày<br />
càng rõ của sự cạn kiệt tài nguyên, của tình<br />
trạng ô nhiễm môi trường; thêm vào đó là xu<br />
hướng trái đất nóng lên và nước biển dâng.<br />
Loài người đã đạt đến giới hạn sinh tồn khi<br />
nỗ lực phát huy tối đa cách phát triển dựa chủ<br />
yếu vào khai thác tài nguyên, tận dụng sự hào<br />
phóng của thiên nhiên theo lối hủy hoại nó<br />
thay vì phải dựa vào công nghệ và trí tuệ con<br />
người. Vì vậy trong thời gian tới, loài người<br />
để tiếp tục phát triển bền vững, thì tăng trưởng<br />
phải gắn liền với “tăng trưởng xanh”. Tăng<br />
trưởng xanh tốt nhất trong bối cảnh hiện nay<br />
chính là đẩy mạnh phát triển kinh tế tri thức.<br />
2. Quá trình nhận thức và chủ trương<br />
tiếp tục phát triển kinh tế tri thức gắn với<br />
tăng trưởng xanh và bền vững của Đảng<br />
Cộng sản Việt Nam trong thời gian qua.<br />
Bước sang thế kỷ mới, tại Đại hội IX<br />
(4/2001), Đảng xác định: “Kinh tế tri thức có<br />
vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát<br />
triển lực lượng sản xuất” và đề ra định hướng<br />
“từng bước phát triển kinh tế tri thức”.<br />
Đến Đại hội X (4/2006), để tiếp tục phát<br />
triển nền kinh tế góp phần thực hiện mục tiêu<br />
“đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn<br />
với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước<br />
ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền<br />
tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở<br />
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện<br />
đại”, Đảng xác định: “Chúng ta cần tranh thủ<br />
các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra<br />
và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn<br />
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất<br />
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn<br />
với phát triển kinh tế tri thức” và Đảng khẳng<br />
<br />
http://siteresources.worldbank.org/INTUNIKAM/Resources/2012.pdf<br />
<br />
24<br />
<br />
Tăng trưởng xanh . . .<br />
<br />
định: “Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan<br />
trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa,<br />
hiện đại hóa”2. Từ đó, Đại hội đã xác định<br />
nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp<br />
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri<br />
thức là phải phát triển mạnh các ngành và sản<br />
phẩm có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri<br />
thức, kết hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của<br />
con người Việt Nam với tri thức mới nhất của<br />
nhân loại; coi trọng cả số lượng và chất lượng<br />
tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển<br />
của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương,<br />
từng dự án kinh tế - xã hội; xây dựng cơ cấu<br />
kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực<br />
và lãnh thổ; giảm chi phí trung gian, nâng cao<br />
năng xuất lao động của tất cả các ngành, lĩnh<br />
vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh<br />
tranh cao.<br />
Nhận rõ tầm quan trọng của phát triển kinh<br />
tế tri thức trong thời gian qua và trong thời<br />
gian tới để đạt được mục tiêu “tạo nền tảng để<br />
đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành<br />
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”<br />
hay xa hơn là “từ nay đến giữa thế kỷ XXI,<br />
nước ta trở thành một nước công nghiệp theo<br />
định hướng xã hội chủ nghĩa” và bảo đảm cho<br />
tăng trưởng bền vững, Đại hội XI của Đảng<br />
(1/2011) khẳng định: “thực hiện công nghiệp<br />
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri<br />
thức”; “chú trọng phát triển các ngành, lĩnh<br />
vực khoa học, công nghệ làm nền tảng cho<br />
sự phát triển kinh tế tri thức”; “tập trung phát<br />
triển các sản phẩm công nghệ cao, có giá trị<br />
gia tăng lớn trong một số ngành, lĩnh vực”;<br />
“xây dựng và triển khai lộ trình phát triển<br />
kinh tế tri thức đến năm 2020”, gắn với đẩy<br />
mạnh đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao<br />
và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định<br />
hướng XHCN.<br />
<br />
Mặt khác, Đại hội XI (2011) chủ trương:<br />
phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển<br />
giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ; xây<br />
dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng khoa học, công<br />
nghệ, trước hết là công nghệ thông tin, truyền<br />
thông, công nghệ tự động, nâng cao năng lực<br />
nghiên cứu - ứng dụng gắn với phát triển nguồn<br />
nhân lực chất lượng cao. Phát triển mạnh các<br />
ngành và sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp,<br />
dịch vụ công nghệ cao, có giá trị gia tăng, dựa<br />
nhiều vào tri thức. Phát huy và sử dụng có hiệu<br />
quả nhất nguồn tri thức của con người Việt<br />
Nam và khai thác nhiều nhất tri thức của nhân<br />
loại. Xây dựng và triển khai lộ trình phát triển<br />
kinh tế tri thức đến năm 20203.<br />
Về tăng trưởng xanh, Chiến lược phát<br />
triển kinh tế - xã hội 2011-2020 được thông<br />
qua tại Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ XI<br />
xác định: Phát triển nhanh gắn liền với phát<br />
triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu<br />
xuyên suốt trong Chiến lược... Gắn phát triển<br />
kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển kinh<br />
tế xanh.<br />
Tiếp đó, Kết luận Hội nghị Trung ương lần<br />
thứ ba khóa XI khẳng định: Ðổi mới mô hình<br />
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng<br />
nâng cao chất lượng, đảm bảo phúc lợi và an<br />
sinh xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường.<br />
Như vậy, những định hướng tăng trưởng, phát<br />
triển mà Ðảng lựa chọn trùng khớp với những<br />
tiêu chí của tăng trưởng xanh và mô hình kinh<br />
tế xanh mà thế giới đang tiến hành.<br />
Nhằm hiện thực hóa chủ trương của Đảng<br />
về phát triển kinh tế tri thức bảo đảm phát<br />
triển bền vững ngày 25/9/2012, Thủ tướng<br />
Chính phủ đã ban hành quyết định số 1393/<br />
QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược quốc gia về<br />
Tăng trưởng xanh” với quan điểm, mục tiêu,<br />
nhiệm vụ Chiến lược:<br />
<br />
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.CTQG, HN, tr.28-29<br />
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQG-ST, HN, tr.220-221<br />
<br />
2<br />
3<br />
<br />
25<br />
<br />
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät<br />
<br />
Về quan điểm: Tăng trưởng xanh là một<br />
nội dung quan trọng của phát triển bền vững,<br />
đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả,<br />
bền vững và góp phần quan trọng thực hiện<br />
Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu;<br />
Tăng trưởng xanh dựa trên tăng cường đầu<br />
tư vào bảo tồn, phát triển và sử dụng hiệu quả<br />
các nguồn vốn tự nhiên, giảm phát thải khí<br />
nhà kính, cải thiện nâng cao chất lượng môi<br />
trường, qua đó kích thích tăng trưởng kinh tế;<br />
Đồng thời, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn<br />
dân, các cấp chính quyền, các Bộ, ngành, địa<br />
phương, các doanh nghiệp và tổ chức xã hội...<br />
Trên cơ sở đó, Chiến lược hướng tới ba<br />
mục tiêu cụ thể: Tái cấu trúc và hoàn thiện<br />
thể chế kinh tế theo hướng xanh hóa các<br />
ngành hiện có và khuyến khích phát triển các<br />
ngành kinh tế sử dụng hiệu quả năng lượng<br />
và tài nguyên với giá trị gia tăng cao; Nghiên<br />
cứu, ứng dụng ngày càng rộng rãi công nghệ<br />
tiên tiến nhằm sử dụng hiệu quả hơn tài<br />
nguyên thiên nhiên, giảm cường độ phát thải<br />
khí nhà kính, góp phần ứng phó hiệu quả với<br />
biến đổi khí hậu; Nâng cao đời sống nhân dân,<br />
xây dựng lối sống thân thiện với môi trường,<br />
tạo nhiều việc làm từ các ngành công nghiệp,<br />
nông nghiệp, dịch vụ xanh, đầu tư vào vốn tự<br />
nhiên, phát triển hạ tầng xanh.<br />
Để đạt được 3 mục tiêu nêu trên, Chiến<br />
lược đề ra 3 nhiệm vụ quan trọng:<br />
Thứ nhất, giảm cường độ phát thải khí nhà<br />
kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch,<br />
năng lượng tái tạo. Theo đó, giai đoạn 20112020: Giảm cường độ phát thải khí nhà kính<br />
8-10% so với mức 2010, giảm tiêu hao năng<br />
lượng tính trên GDP là 1-1,5% mỗi năm. Giảm<br />
lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt<br />
động năng lượng từ 10-20% so với phương<br />
án phát triển bình thường. Trong đó mức tự<br />
nguyện khoảng 10%, 10% còn lại mức phấn<br />
<br />
đấu khi có thêm hỗ trợ quốc tế; Định hướng<br />
đến năm 2030: Giảm mức phát thải khí nhà<br />
kính mỗi năm ít nhất 1,5-2%, giảm lượng phát<br />
thải khí nhà kính trong các hoạt động năng<br />
lượng từ 20-30% so với phương án phát triển<br />
bình thường. Trong đó mức tự nguyện khoảng<br />
20%, 10% còn lại là mức khi có thêm hỗ trợ<br />
quốc tế; Định hướng đến năm 2050: Giảm<br />
mức phát thải khí nhà kính mỗi năm 1,5-2%.<br />
Thứ hai, xanh hóa sản xuất. Thực hiện một<br />
chiến lược “công nghiệp hóa sạch” thông qua<br />
rà soát, điều chỉnh những quy hoạch ngành<br />
hiện có, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài<br />
nguyên, khuyến khích phát triển công nghiệp<br />
xanh, nông nghiệp xanh với cơ cấu ngành<br />
nghề, công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên tắc<br />
thân thiện với môi trường, đầu tư phát triển<br />
vốn tự nhiên; tích cực ngăn ngừa và xử lý ô<br />
nhiễm.<br />
Những chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020<br />
gồm: Giá trị sản phẩm ngành công nghệ cao,<br />
công nghệ xanh trong GDP là 42-45%; tỷ lệ<br />
các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn<br />
về môi trường là 80%, áp dụng công nghệ<br />
sạch hơn 50%, đầu tư phát triển các ngành<br />
hỗ trợ bảo vệ môi trường và làm giàu vốn tự<br />
nhiên đạt 3 - 4% GDP.<br />
Thứ ba, xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu<br />
dùng bền vững. Kết hợp nếp sống đẹp truyền<br />
thông với những phương tiện văn minh hiện<br />
đại để tạo nên đời sống tiện nghi, chất lượng<br />
cao mang đậm bản sắc dân tộc cho xã hội Việt<br />
Nam hiện đại. Thực hiện đô thị hóa nhanh,<br />
bền vững, duy trì lối sống hòa hợp với thiên<br />
nhiên ở nông thôn và tạo thói quen tiêu dùng<br />
bền vững trong bối cảnh hội nhập với thế giới<br />
toàn cầu.<br />
Những chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020<br />
gồm: tỷ lệ đô thị loại III có hệ thống thu gom<br />
và và xử lý nước thải đạt quy chuẩn quy định:<br />
26<br />
<br />
ADSENSE
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn