intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tây Nguyên trong mối liên hệ với Champa thời kỳ cổ - trung đại

Chia sẻ: Ngọc Ngọc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

58
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Vùng đất Tây Nguyên và đồng bào các dân tộc nơi đây(1) trước khi là một bộ phận không thể tách rời của đất nước và cộng đồng các dân tộc Việt Nam thống nhất đã trải qua một thời kỳ lâu dài gắn bó và liên hệ với các vương quốc cổ ở miền Trung Việt Nam, Campuchia, Lào...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tây Nguyên trong mối liên hệ với Champa thời kỳ cổ - trung đại

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (144) . 2018<br /> <br /> 30 <br /> <br /> TÂY NGUYÊN TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI CHAMPA<br /> THỜI KỲ CỔ - TRUNG ĐẠI<br /> <br /> <br /> Đổng Thành Danh*<br /> <br /> 1. Dẫn luận<br /> Vùng đất Tây Nguyên và đồng bào các dân tộc nơi đây(1) trước khi là một bộ<br /> phận không thể tách rời của đất nước và cộng đồng các dân tộc Việt Nam thống<br /> nhất đã trải qua một thời kỳ lâu dài gắn bó và liên hệ với các vương quốc cổ ở miền<br /> Trung Việt Nam, Campuchia, Lào... Vùng đất này thuộc cao nguyên Trường Sơn<br /> Nam, tầm mở rộng của nó không chỉ giới hạn ở các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk<br /> Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng mà còn vươn xuống tận phần rìa phía tây của các tỉnh<br /> miền Trung, nơi cư trú của các cộng đồng nói tiếng Nam Đảo và Nam Á (H. Maitre<br /> 1912, 2008; Dam Bo 1950, 2003; Hickey 1982; Oscar Salemink 2003).<br /> Trong đó, vùng đất và các dân tộc ở vùng cao nguyên này đã từng đóng vai<br /> trò quan trọng trong sự cấu thành vương quốc Champa cổ, một vương quốc từng<br /> tồn tại ở miền Trung Việt Nam từ năm 192 đến năm 1832, có lãnh thổ chạy dài từ<br /> Quảng Bình đến Bình Thuận (G. Maspero 1928; Dohamide - Dorohiem 1965; Po<br /> Dharma 1987, 2012; Lafont 2011). Hơn thế nữa, hầu hết các nhà nghiên cứu đều<br /> tán đồng ý kiến rằng: Champa, trong thời kỳ đỉnh cao nhất của nó, không chỉ bao<br /> gồm vùng đồng bằng ven biển miền Trung mà còn bao gồm cả khu vực cao nguyên<br /> phía tây mà ngày nay chúng ta gọi là Tây Nguyên (T. Quach-Langlet 1988; Lafont<br /> 2011). Đi kèm với nhận thức này, chúng ta biết rằng Champa không phải chỉ là<br /> vương quốc của một dân tộc - dân tộc Chăm, như vẫn thường được hình dung, mà<br /> là một quốc gia đa dân tộc, bao gồm cả các sắc tộc ở Tây Nguyên hiện nay (B. Gay<br /> 1988: 52 - 56; Lafont 2011).<br /> Trên cơ sở đó, việc nghiên cứu mối liên hệ giữa vùng đất Tây Nguyên và<br /> Champa trong quá khứ là một trong những mảng nghiên cứu đáng chú ý và thu hút<br /> được sự quan tâm của nhiều học giả. Một số nhà nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc<br /> khảo tả và liệt kê các di tích, dấu vết của Champa ở vùng Tây Nguyên (H. Maitre<br /> 1912, 2008; J. Dournes 1970; Lê Đình Phụng 1996; Nguyễn Thị Kim Vân 2015),<br /> trong khi một số khác lại cố gắng lý giải sâu hơn các mối liên kết này, không chỉ<br /> trên bình diện dân tộc học mà còn dựa trên các tương tác về kinh tế, chính trị liên<br /> vùng trong quá khứ (Li Tana 2013; Trần Kỳ Phương 2004, 2009; Nguyễn Phước<br /> * Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm Ninh Thuận.<br /> <br /> Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (144) . 2018<br /> <br /> 31<br /> <br /> Bảo Đàn 2009; Andrew Hardy 2008, 2014; Nguyễn Hữu Thông 2015; Nguyễn Thị<br /> Hòa 2015).<br /> Tuy nhiên, phần lớn những nghiên cứu này chỉ đề cập đến mối quan hệ<br /> giữa miền ngược với miền xuôi ở miền Trung Việt Nam bắt đầu từ thời kỳ Đàng<br /> Trong, còn những liên kết từ thời vương quốc Champa thì hoàn toàn không đề cập,<br /> hoặc chỉ đề cập một cách sơ lược, tản mạn. Chính vì lẽ ấy, việc nắm bắt một cách<br /> tường tận và chi tiết cơ chế vận hành của “Champa - Thượng” (theo cách gọi của<br /> J. Dournes 1970: 143 - 162), vẫn còn là một bí ẩn. Từ đó, nhiều câu hỏi vẫn còn<br /> được đặt ra: Làm thế nào những người Champa ở đồng bằng liên kết với các dân<br /> tộc ở Tây Nguyên? Họ xâm lược và thống trị nó ư, như cách mà một số người vẫn<br /> nói (H. Maitre 2008: 187 - 193; B. Bourotte 1955: 32 - 35; Ch. Meyer 1966: 20)?<br /> Hay nó được liên kết với Champa bằng những mối quan hệ mềm dẻo và ôn hòa<br /> hơn? Như quan hệ “kết nghĩa” chẳng hạn (Andrew Hardy 2014: 40, 100 - 101;<br /> Dominique Nguyen 2003: 6 - 10)? Nếu vậy thì mối quan hệ ấy vận hành như thế<br /> nào? Bài viết này, không thể trả lời đầy đủ những câu hỏi ấy, nhưng sẽ đóng góp<br /> một vài ý tưởng, hầu trả lời một phần trong những câu hỏi đó.<br /> 2. Những “giao kết” về kinh tế<br /> Điều gì khiến cho những dân tộc xa lạ ở miền Trung - Tây Nguyên liên kết<br /> với nhau đầu tiên và trước nhất? Các truyền thuyết dân gian hay những liên kết về<br /> nhân chủng? Đó có thể là những câu trả lời thiếu chính xác. Các dân tộc khác nhau<br /> chỉ có thể xuất hiện trong các tác phẩm dân gian của nhau khi họ đã có những cuộc<br /> tiếp xúc đầu tiên, trước đó với nhau, vì suy cho cùng văn chương dân gian cũng chỉ<br /> là sản phẩm của con người. Về nhân chủng cũng vậy, con người ở thời cổ sơ không<br /> hề có tí gì khái niệm dân tộc hay chủng tộc, họ ít ra chỉ có những liên kết dựa vào<br /> huyết thống và sự gần gũi về địa lý.<br /> Vậy thì, trong quan hệ giữa người Chăm (ở đồng bằng) với các sắc tộc (miền<br /> cao) điều gì đã kết nối họ lúc ban đầu? Nếu không phải là những liên kết về chính<br /> trị - quân sự thì cũng là những liên hệ về kinh tế. Trong nhãn quan đó, chúng tôi<br /> muốn tìm đến các giao kết về kinh tế đầu tiên, bởi vì xét cho cùng, các vấn đề vật<br /> chất cũng là vấn đề đầu tiên tạo nên sự trao đổi giữa các tộc người, chính trị chỉ là<br /> những yếu tố xuất hiện sau này. Trong thực tế, chính các hoạt động trao đổi, buôn<br /> bán giữa miền ngược với miền xuôi đã tạo ra những quan hệ đầu tiên giữa các tộc<br /> người mà sau này cấu thành nên những vương quốc tiền Champa. Những hoạt<br /> động này cho đến tận thời gian gần đây vẫn còn tồn tại, và nó sẽ còn dai dẳng khi<br /> mà nhu cầu mậu dịch của con người vẫn còn cần thiết.<br /> Ngay từ những buổi đầu của nền văn minh, các dân tộc bản địa ở vùng cao và<br /> vùng thấp đã tiến hành các hoạt động trao đổi sơ khai nhất theo nghĩa của nó. Đầu<br /> <br /> 32 <br /> <br /> Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (144) . 2018<br /> <br /> tiên, đó là những trao đổi về các sản phẩm tự nhiên và dễ khai thác nhất, các hàng<br /> hóa bằng thực vật và động vật. Người miền cao khai thác các sản phẩm từ rừng có<br /> thể là gỗ quý, trầm hương, ngà voi, thú rừng để trao đổi lấy các sản phẩm của đồng<br /> bằng như lúa, gạo, và xa hơn là các sản vật của biển khơi. Chỉ dấu của những liên<br /> kết này, cho đến những năm cuối thế kỷ XX, vẫn còn tồn tại trong hoạt động trao<br /> đổi thường xuyên giữa người miền ngược và người miền xuôi, từ đó mà xuất phát<br /> câu ca dao nổi tiếng: “Ai về nhắn với nậu nguồn - Măng le gửi xuống, cá chuồn gửi<br /> lên” (Trần Quốc Vượng 1998: 318; Li Tana 2013: 203).<br /> Tuy nhiên để nhận biết chỉ dấu của mối giao thương thượng - hạ thời kỳ<br /> Champa, vấn đề không chỉ nằm ở những quan sát các cách thức trao đổi gần đây,<br /> mà ta cần nắm bắt những nguồn tư liệu có từ thời kỳ ấy. Khi khảo cứu những nguồn<br /> tư liệu của Trung Hoa, ta biết được rằng danh sách những mặt hàng cống phẩm của<br /> Champa mang đến cho Trung Hoa chứa đầy các sản vật của núi rừng như là ngà<br /> voi, sừng tê, trầm hương, kỳ nam, và nhiều hương liệu, gỗ quý khác... và kỳ lạ thay,<br /> đây lại là những mặt hàng khiến Champa trở nên nổi tiếng trong khắp vùng. Cụ<br /> thể, sử liệu ghi nhận rất nhiều lần như vậy: vào năm 340, Champa lần đầu tiên cống<br /> voi cho Thiên triều, rồi rải rác sau đó cũng vậy, đến năm 630, Champa lại dâng cho<br /> Trung Hoa đá quý, voi thuần dưỡng…; năm 642 là 11 sừng tê giác, rồi các năm<br /> 711, 731, 749… đến tận năm 992, họ dâng đến 300 ngà voi, 2.000 cân hương liệu<br /> và 100 cân gỗ đàn hương; năm 1018, dâng 72 ngà voi, 86 sừng tê, 100 cân kỳ nam<br /> và 200 cân hương liệu…(H. Maitre 1912: 434 - 436; G. Maspero 1928: 88, 120<br /> -121, 132, 138; Momoki Shiro 1999: 45).<br /> Các đặc sản của núi rừng đã đóng một vai trò thiết yếu cho nền thương mại<br /> Champa cho đến tận giai đoạn hậu kỳ của vương quốc này cho dù lãnh thổ của nó<br /> đang dần thu hẹp về phương Nam. Cho đến tận thế kỷ XVII, các tài liệu phương<br /> Tây vẫn ghi nhận việc các tàu buôn của Hà Lan, Nhật Bản thường đến các cảng<br /> biển ở phía Nam Champa để buôn bán hương liệu, nổi tiếng nhất trong số đó là<br /> kỳ nam và trầm hương (Li Tana 2013: 203 - 204). Trong thế kỷ sau đó, các tài liệu<br /> của Việt Nam cũng ghi nhận các mặt hàng mà các phiên vương Champa cống nạp<br /> định kỳ cho chúa Nguyễn Đàng Trong,(2) mà phần nhiều vẫn là lâm sản như ngà<br /> voi, sừng tê, gỗ mun... (Lê Quý Đôn 2007: 151; Danny Wong Tze Ken 2007: 133;<br /> Sakaya 2014: 519).<br /> Điều gì khiến cho những hàng hóa của miền Thượng lại có mặt phổ biến đến<br /> mức thường xuyên trong các cống phẩm hay các mặt hàng xuất khẩu của Champa?<br /> Không còn nghi ngờ gì nữa, bằng một cách nào đó, các tiểu quốc Champa ở đồng<br /> bằng đã khai thác, thu nạp, trao đổi hoặc có thể cả cướp bóc để có nó. Vấn đề còn<br /> lại ở đây là những cách thức mà từ đó những hàng hóa này được đưa xuống vùng<br /> thấp, từ đó đến các cửa biển, rồi đem ra trao đổi, buôn bán và cống nạp cho ngoại<br /> <br /> Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (144) . 2018<br /> <br /> 33<br /> <br /> quốc. Tiếc thay, những tư liệu liên quan đến hoạt động này trong thời kỳ Champa<br /> không còn nhiều, chỉ có các tư liệu hoàng gia Champa mới phần nào cho ta lý giải<br /> hoạt động đó, nhưng nó cũng rất ít và chỉ đề cập đến hoạt động này từ khoảng thế<br /> kỷ XVIII đến thế kỷ XIX.(3)<br /> Một trong những nguồn tư liệu như vậy cung cấp thông tin về hoạt động khai<br /> thác trầm hương vẫn còn diễn ra ở khu vực Phan Rang, Phan Rí cho đến tận thế kỷ<br /> XIX. Hoạt động này thường do nhà nước (của người Chăm) tổ chức, trong những<br /> lần mà vua Chăm cần kỳ nam hay trầm hương, ông sẽ cử một vị quan gọi là Po<br /> Gahluw đến vùng của người Raglai, phối hợp với người đứng đầu làng tổ chức<br /> chiêu mộ các thanh niên Raglai, hoặc ở một số làng đã có sẵn những đội như vậy để<br /> vào sâu trong rừng khai thác trầm và kỳ. Do đây là một công việc nguy hiểm, khó<br /> khăn, kéo dài trong nhiều tháng, nên trước khi đi họ thường tổ chức nghi lễ cúng<br /> tế và khi về thì cúng tạ ơn thần linh, trong quá trình đi cũng phải có nhiều kiêng<br /> cữ, những người trong đội này cũng được triều đình ưu đãi ban phát trâu, ruộng và<br /> nhiều thứ bổng lộc khác (E. Aymonier 1891: 73 - 74; Sakaya 2013: 518 - 519).<br /> Tuy nhiên, chỉ với ngần ấy tư liệu thì việc phục dựng lại hoạt động giao<br /> thương Đông - Tây trong thời kỳ Champa quả thật là một vấn đề nan giải. Để có<br /> được những lý giải sâu hơn, ta cần phải tham chiếu các hoạt động giao thương<br /> trong giai đoạn sau đó, khi người Việt đã làm chủ phần lãnh thổ của Champa trước<br /> đây. Cách thức và mô hình giao kết giữa người Việt với các sắc dân Tây Nguyên<br /> có thể là một gợi ý để ta hình dung cách thức và mô hình mà người Chăm đã liên<br /> kết với các dân tộc miền cao trong quá khứ, bởi vì xét cho cùng người Việt đã thừa<br /> hưởng cách thức và mô hình của người Chăm trước đó.<br /> Chắc hẳn, trong buổi đầu của mối giao thương ấy, các hoạt động trao đổi đã<br /> phải men theo những con đường mòn qua các con đèo, mà ta gọi là các con đường<br /> thượng đạo, nơi giao cách giữa các tỉnh miền núi với đồng bằng, hoặc các giao điểm<br /> buôn bán. Người ta tìm thấy những con đường như vậy dọc miền Trung và Tây<br /> Nguyên như một con đường nối Kon Tum và Quảng Nam (Henri Maitre 2012: 442<br /> - 443, 2008: 190), con đường qua thung lũng A Sap, A Vương men theo Sông Côn<br /> xuống tận Bến Giang, Bến Hiền (Le Pichon 1938: 7). Những con đường thượng đạo<br /> từ Lao Bảo xuống Cửa Việt (Quảng Trị) qua đèo Ai Lao, tập trung ở thị trấn Cam<br /> Lộ, một con đường khác cũng quan trọng không kém là đường qua An Khê nối Gia<br /> Lai với Bình Định, nơi từng chiếm vai trò then chốt trong hoạt động buôn bán của<br /> Nguyễn Nhạc, người thủ lĩnh của phong trào Tây Sơn (Li Tana 2013: 200 - 202).<br /> Đó cũng là những con đường của vùng Tây Nguyên từ Tây-Bắc xuống Ðông-Nam,<br /> vượt qua núi, men theo các đỉnh, đổ xuống đồng bằng và cuối cùng đến Phan Thiết,<br /> Phan Rang, hoặc Nha Trang, đấy là những “con đường của các thủ lĩnh”, gung Böjai<br /> (đường đi Phan Thiết), gung Phöri (đường đi Phan Rí) (Dam Bo 2003: 36).<br /> <br /> 34 <br /> <br /> Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (144) . 2018<br /> <br /> Trong thời kỳ sau này, khi Champa tham gia vào các hoạt động mậu dịch khu<br /> vực, hoạt động trao đổi được nâng lên tầm thương mại, vai trò của các con đường<br /> thượng đạo được bổ sung bởi các con đường ven sông, từ đây, thì những dòng sông<br /> đóng một vai trò chủ đạo trong hoạt động vận chuyển hàng hóa từ miền núi xuống<br /> đồng bằng. Vậy thì, các thiết chế trao đổi giữa miền xuôi và miền ngược ven các<br /> dòng sông đã được vận hành như thế nào trong quá khứ? Câu trả lời có lẽ được<br /> bắt đầu từ một mô hình giả định, của B. Bronson: “mạng lưới trao đổi ven sông”<br /> (riverine exchange network) (B. Bronson 1977: 39 - 52). Mô hình này được chấp<br /> nhận rộng rãi trong giới nghiên cứu về Champa, W. Southworth là người đầu tiên<br /> gợi mở việc áp dụng mô hình này vào Champa (W. Southworth 2004, 2011). Sau<br /> đó, các nhà nghiên cứu khác đi vào việc áp dụng các trường hợp cụ thể như Trần<br /> Kỳ Phương đã áp dụng mô hình này để nghiên cứu về Champa trong trường hợp<br /> của tiểu quốc Amaravati, mà ngày nay là tỉnh Quảng Nam với mô hình ven sông<br /> Thu Bồn (Trần Kỳ Phương 2009: 19 - 48) hay Đỗ Trường Giang áp dụng mô hình<br /> này với tiểu quốc Vijaya (Bình Định), trong trường hợp Sông Côn (Đỗ Trường<br /> Giang 2011: 285 - 314), Nguyễn Hữu Thông thì áp dụng mô hình ấy cho Sông Ba<br /> (Nguyễn Hữu Thông 2015).<br /> Đọc lại những nghiên cứu này, chúng ta có thể phần nào hình dung được<br /> rằng, người xưa đã biến các dòng sông trở thành một trục lộ quan trọng trong con<br /> đường giao lưu và buôn bán Đông - Tây từ miền núi xuống đồng bằng. Trên vùng<br /> thượng nguồn của những trục sông ấy, người miền núi khai thác và sản xuất ra<br /> hàng hóa rồi đem đến trao đổi ở một nơi tập kết, thường là giao lộ của các con sông<br /> hay xa hơn là các cửa ngõ xuống đồng bằng qua các con đèo.(4) Từ đây, những mặt<br /> hàng của người miền núi được trao đổi với các thương lái và sau đó vận chuyển<br /> xuống miền xuôi mà địa điểm cuối cùng thường là các cảng thị ven biển, trong lịch<br /> sử Champa đã có những cảng thị nổi tiếng như các cửa Đại Chiêm (Hội An), Thị<br /> Nại, và nhiều cảng thị ở phía nam miền Trung. Chính từ những cửa này mà người<br /> Việt thừa hưởng nó để thúc đẩy các hoạt động giao thương của Đàng Trong giai<br /> đoạn thế kỷ XVII - XVIII (Trần Kỳ Phương 2004: 48 - 49; Nguyễn Phước Bảo Đàn<br /> 2009: 152 - 153; Nguyễn Hữu Thông 2015: 35 - 36).<br /> Những tham chiếu này chỉ dựa trên các cứ liệu mô tả ít nhất là từ thời chúa<br /> Nguyễn ở Đàng Trong, tức là khi người Việt bước đầu tạo nên các giao kết với<br /> các dân tộc bản địa Tây Nguyên. Câu hỏi đặt ra là, liệu người Chăm xưa có từng<br /> giao thương với các dân tộc miền núi như vậy hay không? Đến khi nào ta chưa có<br /> những nguồn tư liệu chính xác làm bằng chứng thì chưa thể kết luận được rằng<br /> người Chăm xưa có phải đã tạo nên những quan hệ kinh tế với người Thượng như<br /> người Việt sau này. Tuy nhiên, ta có thể kết luận rằng, bằng một cách nào đó, ngay<br /> từ rất sớm người Chăm và các sắc dân cao nguyên đã có những mối quan hệ trao<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2