Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài trong thực tiễn hiện nay
lượt xem 2
download
Kể từ khi Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (Luật TTTM) được ban hành đến nay, số lượng vụ việc được giải quyết bằng trọng tài đang có xu hướng tăng. Nhưng nếu so sánh với số lượng vụ việc mà Tòa án thụ lý thì chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của Trọng tài Việt Nam. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài vẫn còn hẹp
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài trong thực tiễn hiện nay
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT THÊÍM QUYÏÌN GIAÃI QUYÏËT TRANH CHÊËP CUÃA TROÅNG TAÂI TRONG THÛÅC TIÏÎN HIÏåN NAY Cao Anh Nguyên* * ThS. Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Khánh Hòa. Thông tin bài viết: Tóm tắt: Từ khoá: Giải quyết tranh Kể từ khi Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (Luật TTTM) được ban hành chấp, Trọng tài thương mại. đến nay, số lượng vụ việc được giải quyết bằng trọng tài đang có xu hướng tăng. Nhưng nếu so sánh với số lượng vụ việc mà Tòa án thụ lý thì chưa Lịch sử bài viết: tương xứng với tiềm năng hiện có của Trọng tài Việt Nam. Một trong những Nhận bài: 25/08/2016 nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài vẫn còn hẹp. Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành có các quy Biên tập: 23/01/2017 định, giải thích khác nhau về phạm vi thẩm quyền của Trọng tài, dẫn đến Duyệt bài: 16/02/2017 việc hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau, nên phán quyết của Trọng tài có nguy cơ bị Tòa án tuyên hủy vì cho rằng Trọng tài vượt quá thẩm quyền. Do vậy, việc mở rộng thẩm quyền trọng tài là hết sức cần thiết để tạo ra diện mạo mới cho hoạt động trọng tài ở Việt Nam. Article Infomation: Abstract: Keywords: Disputes Since the Commercial Arbitration Act 2010 was issued, the arbitration has seen Resolution, Commercial improvements. The number of disputes resolved by arbitration is likely to be Arbitration increasing, yet is comparatively little to the cases accepted and settlemented by the Courts, and does not correspond to the potential of Vietnam arbitration Article History: panel. One of the main factors that lead to existing issues is the narrowness of Received: 25 Aug. 2016 jurisdiction of abtribution dispute settlement. In additions, as the current legislation provides different provisions and interpretations of arbitration’s Edited: 23 Jan. 2017 scope of jurisdiction, which leads to diverse perceptives and applications, Approved: 16 Feb. 2017 arbitral award can be declared cancelled by courts if an arbitrator is believed to exceed his authority. Nowadays, with new essential acts of legislation being issued, it is essential to expand the competence of arbitrators in order to define a new appearance to Vietnam Arbitration activities. 1. Tranh chấp phát sinh từ hoạt động pháp luật quy định được giải quyết bằng thương mại Trọng tài (khoản 3). Mặc dù, Luật TTTM có Theo quy định tại Điều 2 Luật TTTM nhiều điểm tiến bộ so với Pháp lệnh TTTM thì Trọng tài có thẩm quyền giải quyết các trước đây, nhưng Luật vẫn sử dụng thuật tranh chấp như sau: tranh chấp giữa các bên ngữ “hoạt động thương mại” làm bản lề cho phát sinh từ hoạt động thương mại (khoản việc giới hạn thẩm quyền giải quyết tranh 1); tranh chấp phát sinh giữa các bên trong chấp của Trọng tài. đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại Việc Luật TTTM quy định các dạng (khoản 2); tranh chấp khác giữa các bên mà tranh chấp tại khoản 1, khoản 2 Điều 2 là NGHIÏN CÛÁU Söë 04(332) T2/2017 LÊÅP PHAÁP 47
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT không rõ ràng, thậm chí chồng chéo với án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một nhau1, bởi vì: số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn - Thứ nhất, “tranh chấp giữa các bên không đưa ra được tiêu chí thuyết phục để phát sinh từ hoạt động thương mại” (khoản xác định ranh giới giữa tranh chấp kinh 1), nghĩa là nội dung giao kết, thực hiện giao doanh thương mại và tranh chấp dân sự. dịch của các bên phải là hoạt động thương Điểm d khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số mại, dạng tranh chấp này được hiểu là giữa 03/2012/NQ-HĐTP quy định: “Trong thương nhân với thương nhân. Nếu hoạt trường hợp căn cứ vào hướng dẫn tại các động thương mại xuất phát từ một bên mà điểm a, b và c khoản 1 Điều này mà khó xác phát sinh tranh chấp thì không rơi vào quy định được tranh chấp hoặc yêu cầu đó thuộc định khoản 1 Điều 2. nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa chuyên trách - Thứ hai, “tranh chấp phát sinh giữa nào, thì Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt thành phố trực thuộc trung ương quyết định động thương mại” (khoản 2), từ ngữ “ít phân công cho một Tòa chuyên trách giải nhất” này nghĩa là khi các bên giao kết, thực quyết theo thủ tục chung. Trường hợp sau hiện giao dịch thì chỉ cần hoạt động thương khi thụ lý vụ việc dân sự mới phát hiện được mại xuất phát từ một bên, dạng tranh chấp vụ việc dân sự thuộc nhiệm vụ, quyền hạn này được hiểu là giữa thương nhân với cá của Tòa chuyên trách khác, thì Tòa chuyên nhân, tổ chức bất kỳ. Luật TTTM không yêu trách đã thụ lý tiếp tục giải quyết vụ việc dân cầu một bên còn lại phải là thương nhân, nên sự theo thủ tục chung”. Quy định này mang cá nhân, tổ chức này có hoạt động thương tính chất mệnh lệnh hành chính, nếu quan mại hay không là không cần thiết. Nếu hiểu điểm của các thẩm phán không thống nhất “hoạt động thương mại” dưới góc độ không hoặc mơ hồ về việc xác định vụ việc thuộc phải là nội dung giao dịch, mà là ngành nghề nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa kinh tế hay kinh doanh của ít nhất một bên tranh chấp, Tòa dân sự, thì Chánh án sẽ là biểu tượng thì sẽ rất khó để cho rằng Trọng tài có thẩm đứng ra chỉ đạo Tòa chuyên trách nào sẽ giải quyền giải quyết tranh chấp phát sinh trong quyết vụ việc đó. Thực tiễn xét xử cho thấy, một số trường hợp, và không đúng với tinh không có một Chánh án cấp tỉnh nào có đầy thần của Luật TTTM. đủ năng lực chuyên sâu về mọi lĩnh vực dân Như vậy, nếu phân tích kỹ nội dung sự, kinh tế, lao động, hôn nhân, gia đình, quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 2 thì hình sự, hành chính,… để đưa ra kết luận sẽ thấy rằng bản chất nội dung khoản 2 đã chuẩn xác về từng loại tranh chấp. bao trùm nội dung khoản 1. Do đó, về kỹ Trong thực tế, có nhiều tổ chức không thuật lập pháp thì quy định tại khoản 1 Điều phải là tổ chức kinh doanh như các ban quản 2 là không cần thiết. lý dự án, cơ quan hành chính sự nghiệp tham Từ trước đến nay trong khoa học pháp gia đấu thầu hoặc giao kết hợp đồng, kể cả lý, vấn đề ranh giới giữa “tranh chấp kinh hợp đồng mua sắm chính phủ, trong đó sử doanh thương mại” và “tranh chấp dân sự” dụng trọng tài theo khuyến nghị của các nhà là rất mong manh. Từ Nghị quyết số tài trợ, định chế tài chính quốc tế như Ngân 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 cho đến hàng Thế giới, Ngân hàng phát triển châu Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày Á,… và trên thế giới, các chủ thể này hoàn 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa toàn có quyền lựa chọn trọng tài để giải 1 Xem thêm: Tưởng Duy Lượng (2015), “Những nội dung cơ bản trong việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân (6), tr. 14-15. NGHIÏN CÛÁU 48 LÊÅP PHAÁP Söë 04(332) T2/2017
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT quyết tranh chấp nhưng tại Việt Nam thì lại chấp phi thương mại. Ngoài ra, khái niệm không được phép. Tuy nhiên, khi Bộ luật “thương mại” quy định tại chú thích 2 của Dân sự năm 2015 (BLDS) bắt đầu phát sinh Luật mẫu 1985 không phải là một danh sách hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017 thì liệt kê toàn bộ các hành vi thương mại. Trên các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã thực tế, rất khó phân biệt giữa hành vi hội, nghề nghiệp,… đều được liệt kê là pháp thương mại và phi thương mại. Sự không rõ nhân phi thương mại, kể cả Nhà nước khi ràng này có thể sẽ bị tòa án lạm dụng4. tham gia quan hệ dân sự thì cũng bình đẳng Nhưng dường như quan điểm của cơ quan với các chủ thể khác, và được hiểu rằng Nhà lập pháp cho rằng, việc mở rộng thẩm quyền nước đã “từ bỏ” quyền miễn trừ của mình2. trọng tài là quá tham vọng trong bối cảnh Do đó, tiêu chí chủ thể ký thỏa thuận trọng Trọng tài được xem là kênh bổ trợ cho Tòa tài không còn ý nghĩa quan trọng. Pháp luật án, chứ không được xếp ngang hàng với Tòa cho phép các tổ chức này hoạt động thương án. Thực tế cho thấy, cơ quan lập pháp chưa mại nhưng không có mục tiêu chính là tìm tính đến xu hướng thay đổi các đạo luật quan kiếm lợi nhuận. Pháp luật các nước ghi nhận trọng như BLDS năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (Bộ luật TTDS), Luật về nguyên tắc, bất cứ tranh chấp nào có thể Doanh nghiệp năm 2014 (Luật DN),… nên giải quyết bởi một hội đồng trọng tài tư thì dẫn đến phát sinh những bất cập, chồng cũng có thể giải quyết bởi thẩm phán của tòa chéo như hiện nay. Một lần nữa, vấn đề mở án quốc gia. Ví dụ, Điều 2059, BLDS Pháp rộng thẩm quyền trọng tài được đặt ra cấp quy định “tất cả các bên có thể tham gia vào thiết, Luật TTTM cần sớm sửa đổi, bổ sung một thỏa thuận trọng tài có liên quan đến để đồng bộ, thống nhất với các đạo luật liên quyền mà họ có thể tự do quyết định”. Mặc quan khác, đặc biệt khi lần đầu tiên BLDS dù, Điều 2060 có quy định thêm rằng, các năm 2015 quy định cá nhân, tổ chức được bên không thể thỏa thuận giải quyết tranh quyền lựa chọn Tòa án hoặc Trọng tài để chấp bằng trọng tài trong một số lĩnh vực cụ yêu cầu bảo vệ quyền dân sự bị xâm phạm thể (ví dụ như luật gia đình), và “một cách hoặc khi có tranh chấp phát sinh. Quyền dân khái quát hơn là trong tất cả các vấn đề liên sự của cá nhân, tổ chức được xác lập trên cơ quan đến lợi ích công cộng”, nhưng sự giới sở hợp đồng và ngoài hợp đồng5. Điều này hạn này đã được các tòa án Pháp giải thích là phù hợp với pháp luật và thực tiễn trọng theo một nghĩa rất hạn chế3. tài quốc tế vốn chỉ nhấn mạnh tiêu chí thỏa Trước đây, trong quá trình Dự thảo thuận, nghĩa là khi có thỏa thuận của các bên Luật TTTM, nhiều nhà khoa học pháp lý đã chọn trọng tài thì Trọng tài sẽ có thẩm quyền đề xuất việc mở rộng thẩm quyền trọng tài giải quyết. Pháp luật các nước thường xác đến cả các quan hệ tranh chấp dân sự, lao định phạm vi thẩm quyền của Trọng tài theo động,… Sau khi tiến hành nghiên cứu pháp cách liệt kê các loại việc không thuộc thẩm luật của hơn 80 quốc gia trên thế giới, Ban quyền giải quyết của Trọng tài. Theo Soạn thảo Luật TTTM đi đến kết luận rằng, phương pháp loại trừ này, thẩm quyền của hầu hết pháp luật các nước đều không phân Trọng tài được xác định ở phạm vi mở, tạo biệt rõ các tranh chấp thương mại và tranh khả năng thích ứng và linh hoạt trong tố 2 Điều 76, Điều 97 BLDS năm 2015. 3 Alan Redfern, Martin Hunter, Nigel Blackaby và Constantine Partasides (2004), “Pháp luật và thực tiễn trọng tài thương mại quốc tế”, tái bản lần thứ 4, Nxb. Sweet & Maxwel, London, tr. 166-167. 4 Phạm Duy Nghĩa, “Pháp luật trọng tài ở Việt Nam - Quá trình phát triển và các vấn đề đặt ra”, trích dẫn từ: http://vi- bonline.com.vn/vi-VN/Forum/TopicDetail.aspx?TopicID=2179. 5 Điều 8, Điều 14 BLDS năm 2015. NGHIÏN CÛÁU Söë 04(332) T2/2017 LÊÅP PHAÁP 49
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT tụng trọng tài. Theo đó, về nguyên tắc, Xét về mặt hình thức: Luật Tổ chức không cho phép Trọng tài giải quyết các vấn Tòa án nhân dân năm 2014 vẫn giữ nguyên đề liên quan đến quyền nhân thân, tình trạng cách phân định cơ cấu tổ chức theo chiều cá nhân, quan hệ hôn nhân, gia đình; tranh dọc từ trung ương xuống địa phương, bao chấp về phá sản, vỡ nợ công ty, về sở hữu gồm: Tòa kinh tế, Tòa dân sự, Tòa hình sự, trí tuệ; tranh chấp liên quan đến trật tự công Tòa hành chính, Tòa lao động, Tòa gia đình cộng, lợi ích công… Ở một số nước, các vấn và người chưa thành niên. Việc phân chia các đề trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ như Tòa chuyên trách như trên mang nặng tính phạm vi bảo hộ, hiệu lực của văn bằng, vi chất quản lý nhà nước. Trong hoạt động xét phạm quyền tác giả, quyền sở hữu công xử, Thẩm phán không có quyền lựa chọn loại nghiệp tuy không thể giải quyết bằng Trọng vụ việc để thụ lý giải quyết, mà Chánh án là tài, nhưng các bên lại có thể giải quyết bằng người phân công vụ việc cho từng Thẩm Trọng tài vấn đề li-xăng. Một số nước cho phán. Trên thực tế, rất nhiều Thẩm phán Tòa phép các chủ nợ có thể ký kết thỏa thuận kinh tế vẫn được giao giải quyết loại án dân trọng tài về giải quyết nợ trước khi Tòa án sự, lao động, hành chính, thậm chí là cả loại tiến hành thủ tục phá sản. Trong lĩnh vực án hình sự và ngược lại. Do đó, có thể thấy hình sự, các bên không thể thỏa thuận về rằng việc phân định Tòa kinh tế, Tòa dân sự, mức hình phạt, song có thể thỏa thuận về Tòa lao động,… chỉ mang nặng tính chất mức bồi thường thiệt hại và có thể dùng quản lý nhà nước nhiều hơn là sự xác định Trọng tài để giải quyết6. loại quan hệ tranh chấp. Trong hoạt động xét 2. Tranh chấp khác giữa các bên mà xử, tất cả tài liệu, văn bản tố tụng, bản án, pháp luật quy định được giải quyết bằng quyết định của Tòa án đều xác định chủ thể Trọng tài pháp luật là “Tòa án nhân dân” với tư cách Việc Luật TTTM quy định thêm thẩm là nhân danh Nhà nước, chứ không xác định quyền giải quyết tranh chấp khác giữa các Tòa chuyên trách là chủ thể pháp luật. bên mà pháp luật quy định được giải quyết Xét về mặt nội dung: Bộ luật TTDS bằng Trọng tài thể hiện sự thụ động trong 2015 vẫn giữ cách phân chia loại tranh chấp việc mở rộng thẩm quyền trọng tài. Trên dân sự và tranh chấp kinh doanh thương thực tế, kể từ khi Luật TTTM có hiệu lực mại7. Như phân tích trên, ranh giới giữa cho đến nay, các Trung tâm trọng tài hầu “tranh chấp kinh doanh thương mại” và như không thấy đưa ra giải quyết các vụ việc “tranh chấp dân sự” là rất mong manh. Điều tranh chấp rơi vào trường hợp được quy này được thể hiện rõ nét hơn khi Bộ luật định tại khoản 3 Điều 2. Nếu các bên đưa TTDS năm 2015 quy định “tranh chấp kinh các dạng tranh chấp này ra Trọng tài giải doanh thương mại bao gồm cả tranh chấp quyết thì chắc chắn, các Trung tâm trọng tài giữa người chưa phải là thành viên công ty lẫn các Trọng tài viên sẽ e dè khi xem xét nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần xem có thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ vốn góp với công ty, thành viên công ty” việc hay không. Bởi lẽ, pháp luật thực định (khoản 3 Điều 30). Vấn đề đặt ra ở đây, vẫn còn tồn tại sự phân biệt giữa tranh chấp thành viên công ty có phải bao giờ cũng là dân sự và tranh chấp kinh doanh thương mại thương nhân theo quy định tại khoản 1 Điều cả về mặt nội dung và hình thức. 6 Luật Thương mại năm 2005: “Thương 6 Đào Trí Úc, “Những vấn đề cơ bản của Luật Trọng tài”, 2006, trích dẫn từ: http://vibonline.com.vn/vi-VN/Forum/Top- icDetail.aspx?TopicID=2178. 7 Điều 26, Điều 27, Điều 30, Điều 31 Bộ luật TTDS năm 2015. NGHIÏN CÛÁU 50 LÊÅP PHAÁP Söë 04(332) T2/2017
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành quyết của ĐHĐCĐ trong các trường hợp lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại sau đây: (1) Trình tự và thủ tục triệu tập họp một cách độc lập, thường xuyên và có đăng và ra quyết định của ĐHĐCĐ không thực ký kinh doanh”. Ví dụ: Ông A lần đầu tiên là hiện đúng theo quy định của Luật này và thành viên Công ty trách nhiệm hữu hạn, vì Điều lệ công ty, trừ trường hợp quy định tại công ty kinh doanh thua lỗ nên ông A chấp khoản 2 Điều 148 của Luật này; (2) Nội nhận chuyển nhượng phần vốn góp của mình dung nghị quyết vi phạm pháp luật hoặc cho ông B với mức giá chịu lỗ và phát sinh Điều lệ công ty”. tranh chấp. Vậy hoạt động chuyển nhượng Vấn đề giải quyết yêu cầu xem xét, phần vốn góp giữa chủ thể cá nhân - cá nhân hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ bằng con có phải là hoạt động thương mại theo khoản đường Tòa án thì khá đơn giản với hệ thống 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005: “Hoạt các văn bản pháp luật tố tụng điều chỉnh cụ động thương mại là hoạt động nhằm mục thể. Nhưng câu chuyện sẽ trở nên rất phức đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, tạp nếu cổ đông, nhóm cổ đông quy định tại cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương khoản 2 Điều 114 Luật DN năm 2014 lựa mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh chọn phương thức giải quyết bằng trọng tài. lợi khác”, trong khi ông A không phải là Về vấn đề này, chúng tôi xin đưa ra 2 hướng thương nhân và không có mục đích sinh lợi giải thích như sau: trong giao dịch này. Mặt khác, Pháp lệnh Án - Hướng giải thích thứ nhất: Xác định phí, lệ phí năm 2009 quy định về án phí, lệ yêu cầu hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ là tranh phí của tranh chấp dân sự và tranh chấp kinh chấp về kinh doanh thương mại doanh thương mại là tương đồng nhau. Cổ đông thiểu số là cổ đông sở hữu Hiện nay, Luật DN năm 2014 vẫn giữ một tỷ lệ cổ phần nhỏ trong công ty cổ phần nguyên khái niệm kinh doanh như trước và không có khả năng chi phối, kiểm soát đây: “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục hoạt động của công ty. Bởi vậy, việc bảo vệ một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quyền lợi của các cổ đông thiểu số, đối quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản tượng dễ bị xâm phạm quyền lợi do sự yếu phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường thế trong việc quyết định những vấn đề quan nhằm mục đích sinh lợi”8. Nhưng cần phải trọng trong hoạt động của công ty, là hết sức hiểu rằng, hoạt động kinh doanh và hoạt cần thiết. Theo Luật DN năm 2014 thì một động thương mại là không có ranh giới, thực trong những cách thức bảo vệ quyền lợi cổ tiễn gọi chung bằng cụm từ “hoạt động kinh đông thiểu số là việc lựa chọn cơ quan tài doanh thương mại”. Tuy nhiên, Điều 147 phán giải quyết tranh chấp phát sinh. Khoản Luật DN năm 2014 tiếp tục ghi nhận 3 Điều 3 Luật TTTM định nghĩa thuật ngữ phương thức tài phán bằng trọng tài trong “các bên tranh chấp” là cá nhân, cơ quan, tổ những trường hợp nhất định, cụ thể: “Trong chức Việt Nam hoặc nước ngoài tham gia tố thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được biên tụng trọng tài với tư cách nguyên đơn, bị bản họp Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) đơn. Từ đây, lẽ dĩ nhiên xác định cổ đông hoặc biên bản kết quả kiểm phiếu lấy ý kiến thiểu số là nguyên đơn trong vụ kiện, công ĐHĐCĐ, cổ đông, nhóm cổ đông quy định ty là bị đơn. tại khoản 2 Điều 114 của Luật này có quyền Để xác định Trọng tài có thẩm quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy giải quyết loại việc này thì chỉ có thể viện bỏ nghị quyết hoặc một phần nội dung nghị dẫn khoản 3 Điều 2 Luật TTTM: “Tranh 8 Khoản 16 Điều 4 Luật DN năm 2014. NGHIÏN CÛÁU Söë 04(332) T2/2017 LÊÅP PHAÁP 51
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy ĐHĐCĐ theo pháp luật Việt Nam kéo dài định được giải quyết bằng Trọng tài” để diễn hơn so với pháp luật Đức, nhưng trong thực dịch thẩm quyền trọng tài. Bởi vì, yêu cầu tiễn xét xử của Tòa án vẫn tồn tại quan điểm hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ không phát xếp loại đây là xung đột quyền lợi trong nội sinh từ hoạt động thương mại thuần túy. Có bộ công ty và xác định thời hiệu khởi kiện lẽ Luật TTTM dự liệu được các tình huống theo Bộ luật TTDS. Do đó, hết thời hạn 90 tranh chấp trong nội bộ công ty nên có sự ngày thì Trung tâm trọng tài sẽ e dè thụ lý tiếp thu cần thiết pháp luật các nước trên thế vụ việc. Nếu Trọng tài từ chối giải quyết, thì giới bằng quy định hình thức thỏa thuận có xem thỏa thuận trọng tài là không thể trọng tài được thể hiện cả trong giao dịch thực hiện được hay không, để xác định thẩm các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể quyền thụ lý giải quyết của Tòa án nếu hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, đương sự có yêu cầu. chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu - Hướng giải thích thứ hai: Xác định tương tự khác9. Quy định này thường có ở yêu cầu hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ là yêu các nước như Đức, Thụy Sĩ hoặc Áo. Theo cầu về kinh doanh thương mại đó, các bên trong thỏa thuận trọng tài sẽ là Trước đây, trong thực tiễn xét xử của (1) mỗi một cổ đông riêng lẻ và (2) công ty, Tòa án có những quan điểm trái chiều về do giám đốc đại diện, người mà cũng có thể việc liệt kê yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của là cổ đông. Đây là một thỏa thuận nhiều bên ĐHĐCĐ vào loại tranh chấp dân sự hay yêu điển hình10. cầu dân sự, vì Bộ luật TTDS năm 2004 đã Một vấn đề cần được làm rõ là thời được sửa đổi, bổ sung năm 2011 không có hiệu khởi kiện sẽ được xác định như thế nào. hướng dẫn cụ thể xác định loại việc này, dẫn Điều 147 Luật DN 2014 ấn định thời hạn tối đến sự lúng túng trong hoạt động xét xử. đa là 90 ngày, kể từ ngày nhận được biên Nhưng nay Bộ luật TTDS năm 2015 đã định bản họp ĐHĐCĐ hoặc biên bản kết quả hình rõ cho loại việc này là yêu cầu về kinh kiểm phiếu lấy ý kiến ĐHĐCĐ, cổ đông doanh, thương mại12. Xưa nay, Bộ luật thiểu số có quyền lựa chọn Tòa án hoặc TTDS và các văn bản quy phạm pháp luật Trọng tài xem xét, hủy bỏ nghị quyết hoặc hướng dẫn thi hành đều có sự phân chia rõ một phần nội dung nghị quyết của ĐHĐCĐ. ràng giữa tranh chấp dân sự và yêu cầu về Về vấn đề này, điều khoản trọng tài trong dân sự để xác định thẩm quyền giải quyết điều lệ của công ty Đức quy định về nghị của Tòa án. Việc cá nhân, tổ chức yêu cầu quyết cổ đông: Nếu một cổ đông nguyên Tòa án giải quyết tranh chấp kinh doanh đơn muốn yêu cầu tuyên bố nghị quyết cổ thương mại hay yêu cầu giải quyết việc kinh đông của công ty là vô hiệu thì người này sẽ doanh thương mại sẽ được thực hiện theo phải tiến hành thủ tục trọng tài phản đối lại những trình tự, thủ tục tố tụng khác nhau và công ty, bị đơn, trong vòng một tháng sau dẫn đến những hậu quả pháp lý khác nhau. khi nghị quyết được thông qua. Nếu quá thời Theo quy định của pháp luật thì có nhiều gian đó thì không được đưa ra yêu cầu tuyên tiêu chí để phân biệt tranh chấp về dân sự và bố nghị quyết cổ đông là vô hiệu11. Mặc dù yêu cầu về dân sự, tiêu chí cơ bản nhất để thời hạn yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của phân biệt là vụ việc có tranh chấp xảy ra hay 9 Điểm d khoản 2 Điều 16 Luật TTTM năm 2010. 10 Albert Jan Van Den Berg (Chủ biên) (2000), “Trọng tài quốc tế và Tòa án quốc gia: Câu chuyện không hồi kết”, Kỷ yếu Hội nghị lần thứ 10 Hội đồng Trọng tài Quốc tế ICCA, Nxb. Lao Động, Hà Nội, tr. 87. 11 Albert Jan Van Den Berg (Chủ biên) (2000), tldd, tr. 89. 12 Khoản 1 Điều 31, Điều 361 Bộ luật TTDS 2015. NGHIÏN CÛÁU 52 LÊÅP PHAÁP Söë 04(332) T2/2017
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT không có tranh chấp13. Đối với yêu cầu về lực ghi tại nghị quyết đó. (3) Trường hợp có dân sự thì không có nguyên đơn, bị đơn mà cổ đông, nhóm cổ đông yêu cầu Tòa án hoặc chỉ có người yêu cầu Tòa án giải quyết và Trọng tài hủy bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Xuất theo quy định tại Điều 147 của Luật này, thì phát từ yêu cầu của đương sự, Tòa án mở các nghị quyết đó vẫn có hiệu lực thi hành phiên họp giải quyết việc dân sự để công cho đến khi Tòa án, Trọng tài có quyết định nhận hoặc không công nhận một sự kiện khác, trừ trường hợp áp dụng biện pháp pháp lý nào đó. khẩn cấp tạm thời theo quyết định của cơ Điều 2 Luật TTTM đã giới hạn thẩm quan có thẩm quyền. Như vậy, trong thời quyền trọng tài chỉ được phép giải quyết các gian chờ đợi kết luận đúng/sai của cơ quan tranh chấp phát sinh khi giữa các bên có tài phán thì cổ đông thiểu số có trách nhiệm thỏa thuận trọng tài. Nếu cổ đông thiểu số chấp hành Nghị quyết ĐHĐCĐ. Nếu cơ dẫn chiếu đến khoản 3 Điều 2 Luật TTTM: quan tài phán bác yêu cầu của cổ đông thiểu “Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật số thì Nghị quyết ĐHĐCĐ sẽ tiếp tục có giá quy định được giải quyết bằng Trọng tài” để trị pháp lý ràng buộc đối với tất cả các cổ cho rằng trọng tài có thẩm quyền giải quyết đông. Ngược lại, nếu yêu cầu được chấp thì có lẽ không thuyết phục. Bởi vì, tranh nhận, thì trách nhiệm “miễn cưỡng” chấp chấp về kinh doanh thương mại có sự khác nhận Nghị quyết ĐHĐCĐ chấm dứt ngay tại biệt so với yêu cầu về kinh doanh thương thời điểm phán quyết có hiệu lực pháp luật, mại. Để hiểu thấu đáo vấn đề này, chúng tôi và tất cả cổ đông phải tuân thủ phán quyết. đưa ra 2 cách luận giải như sau: Mặt khác, khi giao dịch với đối tác thì người - Quan điểm thứ nhất: Hướng đến đại diện cho công ty có đầy đủ tính hợp pháp hình thức quan hệ pháp luật từ kết quả đã được ĐHĐCĐ thông qua và Theo chúng tôi, đối với loại việc này, đối tác cũng không cần quan tâm đến sự khi xây dựng Bộ luật TTDS năm 2015, có xung đột quyền lợi của các cổ đông. Vì vậy, lẽ các nhà lập pháp lấy yếu tố hình thức yếu tố không tranh chấp là đặc trưng của quan hệ pháp luật làm tiêu chí xác định loại loại việc yêu cầu về dân sự được diễn giải việc có tranh chấp hay không có tranh chấp. trong tình huống này có lẽ là sự đồng thuận Hình thức quan hệ pháp luật được xác định tạm thời của cổ đông thiểu số đối với tính trên cơ sở quyết định của số đông theo hợp pháp về mặt hình thức của Nghị quyết nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số. ĐHĐCĐ. Do đó, trong trường hợp này, cần Nghĩa là, khi biểu quyết, số đông cổ đông xác định đây là yêu cầu về dân sự, tư cách chấp thuận thông qua thì lẽ dĩ nhiên nghị tham gia tố tụng của cổ đông thiểu số là quyết của ĐHĐCĐ sẽ có giá trị pháp lý ràng người yêu cầu, công ty là người có quyền buộc đối với tất cả cổ đông ngay lập tức và lợi, nghĩa vụ liên quan. Luật TTTM hiện được thi hành trên thực tế, cổ đông thiểu số hành không điều chỉnh đối với loại việc yêu buộc phải “miễn cưỡng” chấp nhận tính hợp cầu về dân sự. pháp của nghị quyết ĐHĐCĐ. Do đó, Điều - Quan điểm thứ hai: Hướng đến nội 148 Luật DN năm 2014 quy định: (1) Các dung quan hệ pháp luật nghị quyết của ĐHĐCĐ có hiệu lực kể từ Trong quá trình hoạt động kinh doanh, ngày được thông qua hoặc từ thời điểm hiệu không phải lúc nào công ty cũng nhận được 13 Điều 361 Bộ luật TTDS 2015 quy định: “Việc dân sự là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân không có tranh chấp, nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động”. NGHIÏN CÛÁU Söë 04(332) T2/2017 LÊÅP PHAÁP 53
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT sự đồng thuận của tất cả cổ đông, và không thể quyết định tính hiệu lực một nghị quyết phải lúc nào ý kiến của đa số cổ đông cũng cổ đông? Theo Luật Trọng tài năm 1998 của đều sáng suốt, mà đôi khi xâm phạm đến Đức thì điều này là khả thi trong điều kiện quyền lợi của cổ đông thiểu số. Bản chất liên quan tới trường hợp tranh chấp nhiều mối quan hệ tranh chấp ở đây là giữa cổ bên đã giải quyết một cách phù hợp theo đông thiểu số với cổ đông đa số, được luật điều lệ hoặc nội quy của công ty. Trường hóa trở thành mối quan hệ tranh chấp giữa hợp tương tự cũng đã xảy ra tại Áo hoặc cổ đông thiểu số với công ty, vì công ty là Thụy Sĩ. Tất cả các cổ đông phải có cơ hội chủ thể pháp luật có nghĩa vụ phải thực hiện tham gia việc thành lập Hội đồng trọng tài nội dung nghị quyết của ĐHĐCĐ theo quy và trong quá trình giải quyết tranh chấp định của điều lệ công ty. Yếu tố tranh chấp bằng trọng tài. Nguyên tắc này được ra đời sẽ được kéo dài từ khi cổ đông thiểu số bày trên cơ sở quyết định của Tòa sơ thẩm của tỏ ý kiến phản đối cho đến khi phán quyết Pháp đối với vụ Ducto15. Tuy nhiên, trong tuyên chấp nhận yêu cầu. Hướng luận giải trường hợp nguyên đơn là nhóm cổ đông này là tương thích với pháp luật các nước thiểu số sẽ phát sinh những vấn đề pháp lý trên thế giới khi liệt kê loại tranh chấp này mới liên quan như lựa chọn Trung tâm vào nhóm tranh chấp nội bộ trong công ty. Trọng tài, chỉ định Trọng tài viên,… nếu Điều khoản trọng tài trong điều lệ của công trong nội bộ nhóm cổ đông có sự không ty Đức quy định về nghị quyết cổ đông nêu đồng thuận, vì Luật TTTM hiện hành của rằng: Tất cả tranh chấp từ, hoặc liên quan tới nước ta chưa dự liệu được những tình Điều lệ sẽ được giải quyết duy nhất bằng một huống này nên không có tiêu chí nào để giải hội đồng trọng tài. Hội đồng trọng tài sẽ quyết thấu đáo sự việc. quyết định các công việc cụ thể về: (i) Tính 3. Kiến nghị hiệu lực của Điều lệ, nội dung và sự giải thích; (ii) Bất cứ một tranh chấp nào giữa Hiện nay, trong BLDS năm 2015, Bộ công ty hoặc một trong các thành viên và cổ luật TTDS năm 2015, Luật DN năm đông; (iii) Tranh chấp giữa cổ đông; (iv) 2014,… đang có sự không thống nhất về Tranh chấp quyết định tuyên bố của cổ đông phạm vi thẩm quyền trọng tài. Những lỗ là bị vô hiệu hoặc bị tuyên bố không có hiệu hổng pháp lý này cần sớm được khắc phục lực; (v) Tranh chấp giải thể công ty14. để đảm bảo quyền lựa chọn phương thức Rõ ràng, với các quy định của pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và sự an luật hiện hành, các Trung tâm Trọng tài ở toàn của phán quyết trọng tài, đặc biệt là khi Việt Nam sẽ lúng túng nếu nhận được đơn các đạo luật quan trọng đã, đang và sẽ phát kiện về yêu cầu xem xét, hủy bỏ nghị quyết sinh hiệu lực trong thực tiễn. Luật TTTM của ĐHĐCĐ và nguy cơ phán quyết trọng cần mở rộng phạm vi thẩm quyền giải quyết tài bị Tòa án tuyên hủy là việc khó tránh của Trọng tài đối với các tranh chấp dân sự khỏi. Cách xây dựng thẩm quyền giải quyết và một số yêu cầu về dân sự nhất định để tranh chấp của Trọng tài theo pháp luật hiện phù hợp với yêu cầu thực tiễn, tạo sự đồng hành ở Việt Nam vẫn còn mang tính bị động bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật, nên cần phải xem xét lại cho phù hợp với cũng như phải đảm bảo tối đa quyền tự định yêu cầu thực tiễn. Thực tế đã có tranh luận đoạt của các bên trong việc lựa chọn hình xảy ra ở Đức là liệu Hội đồng trọng tài có thức tài phán n 14 Albert Jan Van Den Berg (Chủ biên) (2000), tldd, tr. 88. 15 Albert Jan Van Den Berg (Chủ biên) (2000), tldd, tr. 87. NGHIÏN CÛÁU 54 LÊÅP PHAÁP Söë 04(332) T2/2017
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Những vấn đề lý luận về tranh chấp quốc tế và giải quyết tranh chấp quốc tế
50 p | 763 | 151
-
Giải quyết tranh chấp thương mại và Luật thương mại: Phần 2
257 p | 254 | 69
-
Bài giảng Luật kinh tế - Chương 6: Giải quyết tranh chấp kinh tế
71 p | 296 | 56
-
Bài giảng Giải quyết tranh chấp, yêu cầu trong kinh doanh, thương mại
54 p | 136 | 15
-
Hợp đồng thương mại quốc tế và các biện pháp giải quyết tranh chấp: Phần 2
216 p | 102 | 13
-
Công ước luật Biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc với cơ chế giải quyết tranh chấp trên biển
19 p | 110 | 10
-
Thực tiễn giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế của trọng tài ICSID và kinh nghiệm cho Việt Nam
7 p | 157 | 9
-
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng khi các bên vừa có thỏa thuận trọng tài, vừa có thỏa thuận tòa án
6 p | 72 | 7
-
Câu hỏi thực tế và giải đáp trong thủ tục giải quyết tranh chấp dân sự: Phần 1
159 p | 31 | 7
-
Câu hỏi thực tế và giải đáp trong thủ tục giải quyết tranh chấp dân sự: Phần 2
64 p | 41 | 6
-
Một số vấn đề luật sư cần lưu ý khi tư vấn giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại
4 p | 75 | 6
-
Giải quyết tranh chấp hành chính với việc kiểm soát quyền lực nhà nước
6 p | 67 | 5
-
Xác định thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết tranh chấp lao động về hoàn trả chi phí đào tạo
4 p | 58 | 3
-
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại và Toà án ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
8 p | 14 | 3
-
Giải quyết tranh chấp - Quyển 5
16 p | 14 | 2
-
Đề cương chi tiết học phần Giải quyết tranh chấp theo cơ chế tổ chức thương mại thế giới – WTO
9 p | 1 | 1
-
Đề cương chi tiết học phần Kỹ năng giải quyết tranh chấp lao động và đình công
13 p | 10 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn