intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thành tựu lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của văn hóa, con người trong xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

6
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Thành tựu lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của văn hóa, con người trong xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới" góp phần làm rõ thành tựu lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò văn hóa, con người trong xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thành tựu lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của văn hóa, con người trong xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG THÀNH TỰU LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA, CON NGƯỜI TRONG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI Nguyễn Hạnh Quyển Học viện Chính trị khu vực II Tác giả liên hệ: Nguyễn Hạnh Quyển, email: hanhquyen3005@gmail.com Tóm tắt: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa còn là sức mạnh nội sinh, đóng vai trò là hệ điều tiết trong sự vận động mọi mặt của đời sống. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của văn hóa, con người, trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán phát triển văn hóa, con người là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để phát triển quốc gia, dân tộc. Đảng ta trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn đã ngày càng nhận thức đúng đắn, sâu sắc, toàn diện tầm quan trọng của văn hóa, con người trong điều kiện mới. Bài viết góp phần làm rõ thành tựu lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò văn hóa, con người trong xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới. Từ khóa: chủ nghĩa xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam; văn hóa; con người; thời kỳ đổi mới. 1. THÀNH TỰU LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA, CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH XÂY CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI 1.1. Thành tựu lý luận của Đảng về vai trò của văn hóa, con người trong quá trình xây chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ Đại hội VI đến Nghị quyết TW 5 khóa VIII Khi cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới, Đại hội toàn quốc lần thứ VI (1986), cùng với sự đổi mới tư duy về kinh tế, chính trị, Đảng ta cũng đã có những đổi mới quan trọng trong lĩnh vực văn hóa, coi văn hóa là một trong những bộ phận quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Nghị quyết 05-NQ/TW (1987) khoá VI của Bộ Chính trị khẳng định: “Văn hóa là bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng và văn hóa là một động lực mạnh mẽ đồng thời là một mục tiêu lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2010a, 479). Đây chính là tiền đề, góp phần đặt nền móng cho việc đổi 402
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” mới tư duy để phát triển đường lối văn hóa, con người của Đảng trong những năm sau này. Đến Đại hội VII (1991) Đảng ta nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa Việt Nam, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, 73). Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991) r a đờ i v à lần đầu xác định “nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta phấn đấu xây dựng. Bên cạnh đó, Hội nghị TW 4 khóa VII (1993) thể hiện tư duy sáng tạo, nổi bật trong nhận thức về văn hóa, con người của Đảng đã có bước chuyển, khẳng định vai trò quan trọng của văn hóa, con người trong sự nghiệp đổi mới: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2010b, 531). Nói văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, tức là Đảng ta muốn khẳng định nền móng căn bản hình thành nên đời sống tinh thần, văn hóa mang tính quy định nằm sâu trong cấu trúc của mỗi xã hội, nó có khả năng quy định chiều hướng vận động của cộng đồng, nó xây dựng năng lực, phẩm chất của con người trong quá trình phát triển xã hội. Có thể nói, đây là bước tiến đột phá trong tư duy lý luận của Đảng về xây dựng mô hình văn hóa, con người mới, thể hiện cái nhìn bao quát, toàn diện và phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước. Trên cơ sở đó, các kỳ Đại hội tiếp theo đã tiếp tục phát triển, làm rõ hơn vị trí, vai trò của văn hóa, con người gắn với sự vận động, phát triển theo tình hình thực tiễn của đất nước và những yêu cầu, nhiệm vụ mới đặt ra đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trước đòi hỏi của thực tiễn, Đại hội lần thứ VIII (1996) của Đảng đã có cách tiếp cận và nhận thức mới về vai trò của văn hóa, con người đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội nhấn mạnh muốn phát triển đất nước phải xây dựng, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng những con người nhân văn và tạo dựng được môi trường văn hóa lành mạnh: “Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội” (Đảng 403
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Cộng sản Việt Nam, 1996, 110-111). Trên tinh thần đó, Nghị quyết TW 5 khóa VIII (1998) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ra đời, định hướng chiến lược cho phát triển văn hóa, con người nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp. Nghị quyết khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, 29) và “Văn hóa là kết quả của kinh tế, đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỹ cương... biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1998, 55). Tư duy lý luận về văn hóa, con người của Đảng ta trong Nghị quyết TW 5 khóa VIII, một mặt thể hiện rõ ở những quan điểm chỉ đạo cơ bản về văn hoá, con người quan trọng là các quan điểm xem văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc...; mặt khác, thể hiện một cách cụ thể qua những nhiệm vụ, những giải pháp, định hướng phát triển văn hóa trong điều kiện đất nước hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết TW 5 khóa VIII là nghị quyết đầu tiên về văn hóa nhìn nhận vị thế, vai trò của văn hóa, con người một cách sâu sắc, toàn diện. Không chỉ vậy, Nghị quyết đã tạo ra một thành tựu mới trong tư duy lý luận của Đảng mang hơi thở của thời đại, đưa đến cái nhìn mới về vị trí, vai trò của văn hóa, con người trong đời sống xã hội. Đây là văn kiện mang tính cương lĩnh của Đảng trên mặt trận văn hóa trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. 1.2. Thành tựu lý luận của Đảng về vai trò của văn hóa trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ Đại hội IX đến Đại hội XIII Tiếp nối những thành tựu đạt được, các kỳ Đại hội tiếp theo của Đảng đã định vị văn hóa một cách nhất quán hơn, văn hóa được xem một trong những trụ cột quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước. Đại hội IX (2004) chỉ rõ: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 144). Đại hội xác định nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Mọi hoạt động về văn hóa phải nhằm phát triển con người Việt Nam toàn diện cả trí lực 404
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” lẫn thể lực. Văn hóa phải trở thành môi trường nuôi dưỡng, giáo dục con người hoàn thiện nhân cách, kế thừa, phát huy các giá trị tuyền thống dân tộc, có ý thức, trách nhiệm trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước phát triển trong quan điểm của Đảng về văn hóa thời kỳ này là nhấn mạnh mục tiêu hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Đến Đại hội X (2006), Đảng ta ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của văn hóa, coi là một trong ba bộ phận (kinh tế, xây dựng Đảng, văn hóa) trụ cột cho sự phát triển bền vững của đất nước và chủ trương phát triển văn hóa sâu, rộng, đồng bộ với phát triển kinh tế - xã hội. Văn kiện Đại hội nhấn mạnh nhận thức: “Phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa ngày càng thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, 106) nhằm “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, 231). Đại hội lần này tiếp tục đặc biệt chú trọng xây dựng, hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Kế thừa và phát triển định hướng về xây dựng văn hóa, con người của Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011) đã chỉ ra phương hướng cơ bản: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 71-72). Đồng thời, nêu rõ: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển, kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và 405
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao...” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 76). Có thể nói, Cương lĩnh đã thể hiện bước tiến vượt bậc trong tư duy của Đảng về văn hóa, con người, mục tiêu phát triển văn hóa gắn với mục tiêu phát triển con người bởi phát triển văn hóa, con người chính là sự phát triển của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa. Đại hội XI (2011) tiếp tục khẳng định văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội, mà nhận định cùng với kinh tế, chính trị, văn hóa là một trong ba lĩnh vực tạo nên sự phát triển bền vững của đất nước. Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (2014), một bước tiến quan trọng trong lý luận của Đảng về văn hóa, con người tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận và chỉ ra mục tiêu của nền văn hóa: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (2014) một bước tiến quan trọng trong lý luận của Đảng về văn hóa, tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận về văn hóa: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2014, 48). Tức là phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Văn hóa gắn bó mật thiết với con người, phát triển kinh tế, văn hóa không nằm ngoài mục đích phát triển con người. Từ đó, “văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2014, 46-47). Đây là nhận thức sâu sắc của Đảng ta về mối quan hệ giữa văn hóa, kinh tế, chính trị; đánh dấu sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về vai trò của văn hóa, con người trong phát triển bền vững theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội XII (2016), Đảng ta nhận thức đầy đủ hơn vai trò của văn hóa, con người đối với phát triển bền vững của đất nước, gắn xây dựng con người với xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cùng với đó, Đảng ta tiếp tục nhất quán đường lối xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc 406
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” xã hội chủ nghĩa với mục tiêu: “Làm cho văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 216). Trong đó, xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam phát triển toàn diện là một trong những mục tiêu của chiến lược phát triển. Tiếp nối thành công trong đường lối phát triển văn hóa, con người từ các Đại hội trước, Đại hội XIII (2021) của Đảng xác định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 330). Đây là quan điểm đúng đắn của Đảng về mối quan hệ cơ hữu giữa văn hóa với con người, nhấn mạnh vai trò của con người với tư cách là chủ thể, là mục đích của phát triển văn hóa. Phát triển văn hóa là phương tiện phát triển con người và ngược lại. Mặt khác, bên cạnh việc phát triển kinh tế - xã hội, làm tốt công tác xây dựng Đảng, củng cố vững chắc an ninh, quốc phòng, thì việc giữ gìn, phát huy văn hóa cũng góp phần quan trọng trong sự phát triển bền vững của đất nước. Hay nói cách khác, văn hóa là một trong bốn trụ cột phát triển đất nước trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Văn kiện Đại hội XIII (2021) nêu rõ: “Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 33-34). Việc thực hiện đồng bộ và hợp lý cả bốn lĩnh vực trên là điều kiện bảo đảm sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Như vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội giai đoạn đổi mới, nhận thức và tư duy lý luận của Đảng về vai trò của văn hóa, con người ngày càng đúng đắn, sâu sắc và toàn diện. Đảng ta luôn xác định mặt trận văn hoá là mặt trận ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn vong và phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán tư duy văn hóa là nguồn 407
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG lực nội sinh, là mục tiêu và động lực phát triển bền vững đất nước, đó là nền tảng vững chắc để tạo ra những chuyển biến tích cực trong xây dựng nền văn hóa, con người hiện nay. Từ nhận thức ấy, Đảng chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong lý luận lẫn trên thực tế, văn hóa ngày càng được coi trọng, đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, được coi như một yếu tố điều tiết các mối quan hệ xã hội và yêu cầu phát triển văn hóa trong mối quan hệ chặt chẽ, gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội. 2. NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI 2.1. Tư duy, quan niệm của Đảng về bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, hơn hết cần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa Việt Nam như: “lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý; cần cù sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1998, 56). Thứ nhất, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc là nhiệm vụ trọng tâm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc là bảo tồn, giữ gìn thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Cùng với đó, tiếp tục hoạt động giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng phát triển, hoàn thiện mình. Trong giai đoạn hiện nay, các giá trị văn hóa đó tiếp tục là điểm tựa, là hành trang để đưa dân tộc Việt Nam xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội. Văn kiện Đại hội XIII nêu rõ: “Vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 47). Thứ hai, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc là nền tảng để giữ gìn, bảo vệ bản sắc văn hóa Việt Nam trong điều kiện mới. Nhắc đến bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam, tức là nói đến những tinh hoa, những giá trị bền vững được 408
  8. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” hun đúc, vun đắp trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Những giá trị ấy đã tạo nên những nét đặc sắc riêng chỉ có ở dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Hiện nay, bên cạnh những thành tựu to lớn trên lĩnh vực kinh tế từ việc giao lưu, hội nhập mang lại nhất là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ có thể tạo ra những “làn sóng xâm lăng văn hóa” khiến cho các giá trị truyền thống có nguy cơ bị suy yếu, mai một dần. Do đó, việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống chính là yếu tố mấu chốt để bảo tồn, phát huy bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Nhận thức sâu sắc vấn đề trên, Đảng ta chủ trương: “Trong quá trình mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng với việc tập trung xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam đương đại, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, bắt kịp sự phát triển của thời đại” (Lưu & Võ, 2015). Thứ ba, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc nhằm nâng cao sức mạnh nội sinh của dân tộc, tạo động lực để phát triển đất nước bền vững. Giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc giúp giữ được tính độc đáo, đảm bảo tính thống nhất, khơi dậy, phát triển tự hào dân tộc tạo nên sự gắn bó, đoàn kết - sức mạnh nội sinh quan trọng cho sự phát triển. Sự kết nối quá khứ và hiện tại chính là cơ sở, nền tảng, hành trang cho tương lai của dân tộc, đất nước. Hiện nay, việc phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp trên cơ sở những yêu cầu, chuẩn mực mới của thời đại chính là nhằm đáp ứng với quá trình phát triển đất nước bền vững. Văn kiện khẳng định: “Khát vọng vì một Việt Nam thịnh vượng, ý chí tự lực, tự cường là sức mạnh nội sinh cho đất nước phát triển nhanh và bền vững trong thời gian tới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 129-130). 2.2. Tư duy, quan niệm của Đảng về xây dựng, phát triển con người Việt Nam toàn diện Trước bối cảnh mới, con người Việt Nam phát triển toàn diện phải là con người có văn hóa, thấm nhuần bản sắc văn hóa dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng, phát triển con người đối với sự phát triển văn hóa nói riêng và phát triển bền vững đất nước nói chung, nội dung này được biểu hiện như sau: 409
  9. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Thứ nhất, con người là “hạt nhân” của sự phát triển và kiên định phát triển con người Việt Nam toàn diện. Theo quan điểm Mác-xít, con người là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên và là sản phẩm của lao động. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người không ngừng lao động, sáng tạo, tác động vào tự nhiên, cải biến tự nhiên và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. C.Mác viết: “Toàn bộ cái gọi là lịch sử toàn thế giới chẳng qua chỉ là sự sáng tạo của con người kinh qua lao động của con người, sự sinh thành của tự nhiên cho con người” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2000, 182). Phát triển con người trong cách mạng xã hội chủ nghĩa với tư cách là lực lượng vật chất, là điều kiện cơ bản để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Vì thế, Đảng ta chủ trương: “Coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 215-216). Hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, tạo nền tảng vững chắc để thực hiện mục tiêu: “Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 36). Việc đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển và kiên định phát triển con người toàn diện là tất yếu khách quan góp phần xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh. Thứ hai, thực hiện tốt chính sách an sinh, đảm bảo phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân. Bảo đảm cung cấp và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là đối với người nghèo, người yếu thế trong xã hội, đồng thời quan tâm chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Đại hội lần thứ XIII của Đảng chủ trương: “Có chính sách cụ thể phát triển văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 202). Hơn nữa, cần quan tâm bảo đảm quyền con người, quyền công dân và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Đồng thời, coi trọng vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong điều kiện mới. Với chủ trương đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân 410
  10. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế Đại hội chỉ rõ: “Ưu tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 54). Thứ ba, thực hiện đồng bộ cơ chế, chính sách và coi trọng giáo dục, đào tạo tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện. Văn kiện của Đảng chỉ rõ: “Có kế hoạch, cơ chế và giải pháp xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống dân tộc trong xây dựng con người, phát triển kinh tế - xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 145). Đảng ta chú trọng, coi trọng giáo dục, đào tạo luôn cụ thể hóa quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu” để phát triển con người đáp ứng yêu cầu mới trong sự nghiệp cách mạng của đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định con người là mục tiêu, động lực của phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời phải là những con người vừa có tài, vừa có đức, vừa “hiền”, vừa “minh”. Vì vậy, việc giáo dục, đào tạo, phát triển con người một cách toàn diện cả thể lực lẫn trí lực là điều tất yếu. 2.3. Tư duy, quan niệm của Đảng về xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh phù hợp với điều kiện mới Môi trường văn hóa là một bộ phận của môi trường xã hội, vì thế, nó có vai trò to lớn đối với sự ổn định, phát triển và tiến bộ của kinh tế - xã hội. Trong Văn kiện của Đảng quán triệt: “Xây dựng môi trường văn hóa một cách toàn diện ở gia đình, nhà trường, cộng đồng dân cư, trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp để văn hóa thực sự là động lực, đột phá phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 262). Môi trường văn hóa lành mạnh góp phần giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống của con người trong sáng, lành mạnh, đảm bảo con người phát triển toàn diện. Mặt khác, môi trường văn hóa lành mạnh sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo ra những sản phẩm văn hóa có giá trị. Để xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với điều kiện mới, hội nhập quốc tế cần thực hiện tốt những vấn đề sau: Một là, tiếp tục củng cố, hoàn thiện thể chế văn hóa, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho việc xây dựng môi trường văn hóa phù hợp với điều kiện mới. Xây 411
  11. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG dựng, ban hành các tiêu chí đánh giá đối với các môi trường văn hóa khác nhau, góp phần xây dựng nếp sống văn minh trong các không gian văn hóa cụ thể. Cùng với đó là hoàn thiện, nâng cao các thiết chế văn hóa, các hoạt động giải trí, văn nghệ góp phần làm phong phú đời sống tinh thần và thể chất của nhân dân. Thường xuyên tổng kết, đánh giá, đổi mới nội dung, cách thức xây dựng môi trường văn hóa để kịp thời điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Vì vậy, Đảng ta chỉ đạo: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường...” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 114). Hai là, phát huy vai trò của văn học, nghệ thuật “chú trọng nâng cao giá trị tư tưởng, nghệ thuật, đồng thời bảo đảm tự do, dân chủ trong sáng tạo văn học, nghệ thuật” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 145). Bởi văn học, nghệ thuật là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo dựng nên nền tảng tinh thần của xã hội, phát triển văn hóa, bồi dưỡng lập trường, tư tưởng chính trị, đánh thức khát vọng con người Việt Nam. Văn học, nghệ thuật là hành trình đi tìm cái đẹp và bản thân cái đẹp thường chứa đựng những giá trị đạo đức. Do đó, văn học, nghệ thuật có vai trò bồi dưỡng, hoàn thiện phẩm chất, nhân cách con người, giáo dục con người bằng những chuẩn mực thẩm mỹ, đạo đức, phát huy năng lực sáng tạo, năng lực thẩm mỹ của con người. Chính vì vậy, các tác phẩm văn học, nghệ thuật phải trở thành công cụ thật sắc bén để giáo dục nhân cách, phẩm chất, lối sống của mỗi người, hướng con người vươn tới khát vọng chân, thiện, mỹ. Ba là, tiếp tục phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng môi trường văn hóa. Gia đình là cái nôi quan trọng nhất trong việc giáo dục, hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa của mỗi con người. Gia đình là tế bào của xã hội, môi trường văn hóa gia đình tốt thì xã hội mới phát triển. Cần “xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 263) và nâng cao vai trò của nhà trường trong xây dựng môi trường văn hóa. Mỗi trường học phải trở thành một không gian văn hóa góp phần quan trọng trong giáo dục, đào tạo, rèn luyện con người về lý tưởng, nhân cách, phẩm chất, lối sống. Đồng thời, xây dựng đời sống văn hóa ở mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị để mỗi nơi đều là một môi trường văn hóa lành mạnh góp phần điều chỉnh các cá nhân, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Văn kiện Đại hội Đảng khẳng định: “Xây dựng môi trường văn hóa một 412
  12. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” cách toàn diện ở gia đình, nhà trường, cộng đồng dân cư, trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp để văn hóa thực sự là động lực, đột phá phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 262). 2.4. Tư duy, quan niệm của Đảng về khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam là một sức mạnh nội sinh phi thường, là cội nguồn tạo nên những đột phá trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Do đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII xác định: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 215). Để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước cần tập trung thực hiện hiệu quả một số giải pháp sau: Thứ nhất, phát huy sức mạnh các yếu tố tinh thần của con người. Sức mạnh tinh thần của con người biểu hiện qua sức mạnh của tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí, khả năng sáng tạo... Các yếu tố trên có ý nghĩa quyết định, tạo sự phát triển đột phá, làm thay đổi vị thế, vận mệnh của một quốc gia, dân tộc. Một dân tộc phát triển cần có nhiều “hiền tài”, một đất nước giàu mạnh cần có những con người thông minh, sáng tạo, một đội ngũ người lao động có năng lực nhận thức và thực tiễn hiệu quả. Phát huy các yếu tố tinh thần của con người trước hết phải tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để con người học tập, rèn luyện, phát triển về mọi mặt. Bên cạnh đó, việc bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo cũng là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở đó, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước,... Chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài; có chính sách vượt trội để thu hút, trọng dụng nhân tài, chuyên gia cả trong và ngoài nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 220-221). Thứ hai, phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là yếu tố quan trọng khơi dậy khát vọng phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc. Nhiệm kỳ Đại hội XIII chú trọng: “Tập trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn 413
  13. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG dân tộc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 47). Ngoài tiềm lực kinh tế, tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết dân tộc là chỗ dựa và điều kiện để mở rộng quan hệ hợp tác, hội nhập quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, việc phát huy các giá trị nói trên góp phần giữ vững môi trường hòa bình, tận dụng cơ hội và hóa giải những thách thức đối với độc lập, hòa bình và phát triển của dân tộc. Để phát huy các giá trị ấy, dù trong thời đại nào cũng phải dựa vào dân, “lấy dân làm gốc”; tin vào sức mạnh phi thường của quần chúng nhân dân. Tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết dân tộc là điều kiện tiên quyết tạo nên sức mạnh để phát triển kinh tế - xã hội. Thứ ba, để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có nhiệm vụ lan tỏa tinh thần này ra cộng đồng. Cuộc Cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin làm cho thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc, tạo nhiều đột phá mọi lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức cho mọi quốc gia, dân tộc. Vì vậy, để phát triển và không bị “hòa tan” trong thời đại mới cần phải làm sâu sắc, lan tỏa khát vọng tự cường phát triển của dân tộc Việt Nam - một đất nước Việt Nam giàu mạnh, phát triển, hạnh phúc. Để làm tốt nhiệm vụ này, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược phải là người tiên phong, đi đầu trong việc khơi dậy và lan tỏa khát vọng này, phải là tấm gương thông qua chính lời nói, hành động của bản thân. Một khi tinh thần này được lan tỏa sâu rộng, nó sẽ trở thành động lực thôi thúc mạnh mẽ, trở thành khát khao, ý chí thôi thúc mỗi người hướng đến hiện thực hóa mục tiêu phát triển của đất nước tiến tới chủ nghĩa xã hội. Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Phải biết rằng tình hình khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng đắn, hôm sau đã không hợp thời nữa,...” (Hồ, 2011, 28), Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên tổng kết thực tiễn để kịp thời sửa chữa, bổ sung, phát triển lý luận về văn hóa, con người một cách sâu sắc và toàn diện phù hợp với điều kiện mới song song với khẳng định những giá trị lý luận đúng đắn, bền vững tạo nên những thành quả trong xây dựng và phát huy vai trò của văn hóa, con người qua các kỳ Đại hội, Hội nghị của Đảng. Bên cạnh đó, Đảng ta coi trọng phát huy vai trò của văn hóa, con người và xác định đây là trong những nhiệm vụ trọng tâm, là chìa khóa góp phần thực hiện thành công các mục tiêu, đường lối, khát vọng phát triển phồn vinh, hạnh phúc. 414
  14. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, việc cụ thể hóa hơn nữa nội dung đường lối và phương thức phát huy vai trò của văn hóa, con người trong thực tiễn cần phải tiếp tục nghiên cứu, làm rõ cả chiều rộng lẫn chiều sâu, để có thể phát huy một cách tối đa vai trò của văn hóa, con người trong sự nghiệp phát triển đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, “lập nên kỳ tích phát triển mới vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, cùng tiến bước sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc ta” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 341). TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 42). (2000). Chính trị quốc gia. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Chính trị quốc gia. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1996). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Chính trị quốc gia. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1998). Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII. Chính trị quốc gia. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Chính trị quốc gia. [6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Chính trị quốc gia. [7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2010a). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 48). Chính trị quốc gia. [8]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2010b). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 52). Chính trị quốc gia. [9]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Chính trị quốc gia. [10]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2014). Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa XI. Chính trị quốc gia. 415
  15. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG [11]. Đảng Cộng sản Việt Nam,. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Chính trị Quốc gia. [12]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 2). Chính trị quốc gia Sự thật. [13]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021b). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [14]. Hồ, C. M. (2011). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia. [15]. Lưu T. L., & Võ V. B. (2015). “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”: (Văn kiện của Đảng về văn hóa). Chính trị quốc gia. 416
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2