intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thành tựu nghiên cứu về văn hóa tộc người từ đổi mới đến nay

Chia sẻ: ViSamurai2711 ViSamurai2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

43
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số luôn là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về các khía cạnh trong đời sống văn hóa tộc người, đáng chú ý là các công trình nghiên cứu về văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, lễ hội, nghi lễ chu kỳ đời người.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thành tựu nghiên cứu về văn hóa tộc người từ đổi mới đến nay

Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br /> <br /> <br /> <br /> THÀNH TỰU NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HÓA<br /> TỘC NGƯỜI TỪ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY*<br /> Đặng Thị Hoa(1)<br /> <br /> N ghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số luôn là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan<br /> tâm. Đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về các khía cạnh trong đời sống văn hóa<br /> tộc người, đáng chú ý là các công trình nghiên cứu về văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, lễ hội, nghi<br /> lễ chu kỳ đời người,… Tuy nhiên, nhìn lại thành tựu nghiên cứu về văn hóa tộc người từ 1986 đến nay<br /> cho thấy, các công trình nghiên cứu có sự thiên lệch giữa cơ quan trung ương và địa phương, giữa<br /> các vùng miền và đặc biệt là giữa các tộc người. Có những khoảng trống trong nghiên cứu văn hóa<br /> tộc người còn chưa được khỏa lấp, rất cần có những nghiên cứu tiếp theo trong thời gian tới.<br /> Từ khóa: Văn hóa tộc người; Văn hóa dân tộc thiểu số; Thành tựu nghiên cứu từ đổi mới đến nay;<br /> Thành tựu nghiên cứu; Đời sống văn hóa tộc người.<br /> <br /> I. Khái quát thành tựu nghiên cứu về văn hóa quản lý các di tích văn hóa và các quan điểm về di<br /> tộc người từ 1986 đến nay sản văn hóa của các tộc người thiểu số.<br /> Khái niệm văn hóa và văn hóa tộc người luôn là Một số nhà nghiên cứu cũng đặt ra câu hỏi, quản<br /> một trong những khái niệm gây ra nhiều tranh cãi lý nhà nước về văn hóa truyền thống thì quản lý cái<br /> và có nội hàm rộng. Do vậy, trong phần hệ thống gì và quản lý như thế nào? Quản lý văn hóa phải đặt<br /> hóa này, chúng tôi chỉ giới hạn những thành tố văn trong sự phát triển xã hội, văn hóa phải là động lực<br /> hóa cơ bản của văn hóa tộc người theo như phân phát triển xã hội, do vậy quản lý văn hóa là quản<br /> loại đã có hiện nay như: Văn hóa vật chất (bao gồm lý phát triển (Hoàng Sơn Cường, 1995). Mục đích<br /> nhà ở, trang phục, ẩm thực) và văn hóa tinh thần của quản lý văn hóa truyền thống là phải làm cho<br /> (phong tục tập quán, cưới xin, tang ma, nghệ thuật nó phát triển theo định hướng lý tưởng chính trị<br /> dân gian, lễ hội...) và thẩm mỹ của xã hội, phải phát huy được tiềm<br /> Nghiên cứu về văn hóa là một chủ đề luôn được năng sáng tạo những giá trị văn hóa mới theo những<br /> các nhà nghiên cứu quan tâm, đặc biệt là đối với các chuẩn mực đúng đắn (Đình Quang, 1996). Một số<br /> dân tộc thiểu số. Khó có thể thống kê hết tất cả các công trình mang tính định hướng của văn hóa truyền<br /> công trình nghiên cứu về văn hóa tộc người kể từ thống trong quá trình phát triển như “Văn hóa bản<br /> năm 1986 đến nay. Tuy nhiên, trong quá trình tìm địa Việt Nam- khuynh hướng phát triển hiện đại”<br /> đọc tài liệu, chúng tôi có thể hệ thống lại như sau: (Nguyễn Thanh Tuấn, 2012); “Nền văn hóa mới của<br /> Việt Nam” (Phan Ngọc, 2013) nêu lên những vấn<br /> 1.Nhóm các công trình nghiên cứu lý luận về đề nhận thức và quan điểm của Hồ Chí Minh trong<br /> văn hóa tộc người công cuộc xây dựng nền văn hóa mới; “Văn hóa<br /> Một số công trình đã tập trung giới thiệu, phân Việt Nam trên con đường giải phóng, đổi mới, hội<br /> tích những vấn đề lý luận trong nghiên cứu văn hóa. nhập và phát triển” (Đỗ Huy, 2013),…<br /> Đáng chú ý là một số công trình đã đi sâu đề cập Mạc Đường (2005), “Vấn đề dân tộc thiểu số ở<br /> đến cơ sở lý luận trong nghiên cứu về văn hóa, vai nước ta trong tầm nhìn đến năm 2020”, Tạp chí Dân<br /> trò của văn hóa trong phát triển như: “Triết lý phát tộc học, số 2, đã đưa ra những nhận định, đánh giá<br /> triển ở Việt Nam, mấy vấn đề cốt yếu” của Phạm về vấn đề dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay với<br /> Xuân Nam, 2005. Trong các công trình nghiên cứu, những đặc điểm, thực trạng, tồn tại, đồng thời dự<br /> nhiều nhà nghiên cứu khẳng định, bản sắc văn hóa báo xu hướng phát triển đến năm 2020, khi nước ta<br /> thường là bất biến trong quá trình phát triển của cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đặc biệt,<br /> lịch sử. Nhưng cái bất biến ấy lại có những thay đổi tác giả cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải giữ vững<br /> trong các môi trường sống, tiếp xúc văn hóa hay do quyền bình đẳng của các dân tộc thiểu số trong xu<br /> tác động của các yếu tố bên ngoài. Do vậy, bảo vệ thế phát triển chung của cả nước. Phan Đăng Nhật<br /> văn hóa nhằm mục đích phát triển đất nước luôn đặt (2009), “Văn hoá các dân tộc thiểu số - Những giá<br /> ra những nhiệm vụ cấp bách của nhà nước (Phan trị đặc sắc”, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, đã<br /> Ngọc, 2006). Vấn đề quản lý văn hóa và phát triển giới thiệu diện mạo văn học dân gian các dân tộc<br /> văn hóa cũng được phân tích, đề cập qua các văn thiểu số Việt Nam, sự chuyển biến từ văn học truyền<br /> kiện của Đảng, các chính sách quản lý nhà nước về miệng đến văn học thành văn; Một số thành tố văn<br /> văn hóa, đặc biệt là các quan điểm quản lý lễ hội, hoá dân gian qua lễ hội; luật tục, ngữ nghĩa, ứng xử<br /> Ngày nhận bài: 22/8/2018; Ngày phản biện: 25/8/2018; Ngày duyệt đăng: 31/8/2018<br /> (1)<br /> Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới; e-mail: danghoadth@gmail.com<br /> Số 23 - Tháng 9 năm 2018<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br /> <br /> văn hoá, đời sống sinh hoạt của các dân tộc thiểu ngữ, chữ viết và giáo dục.<br /> số Việt Nam. Năm 2011, tác giả Hoàng Nam xuất Nghiên cứu về các lễ hội, phải kể đến một số<br /> bản cuốn sách “Tổng quan văn hóa truyền thống các công trình mang tính cơ bản về các lễ hội tiêu biểu<br /> dân tộc Việt Nam”. Cuốn sách đã đề cập đến các của các tộc người thiểu số ở Việt Nam của Lê Trung<br /> vấn đề dân số, lịch sử cư trú, kinh tế truyền thống, Vũ (2005); “Lễ hội dân gian Ê Đê” (1996),… Tác<br /> văn hóa truyền thống của 53 dân tộc ở Việt Nam. giả Lê Hồng Lý đã có khá nhiều công trình nghiên<br /> Năm 2012, Hoàng Nam đã xuất bản cuốn sách “Đại cứu về lễ hội của một số tộc người: ‘‘Lễ hội ở một<br /> cương nhân học văn hóa Việt Nam”, trong đó tác vùng biên giới” đã làm nổi bật một số lễ hội tiêu biểu<br /> giả nghiên cứu văn hóa truyền thống các dân tộc các của các tộc người Tày, Nùng ở Lạng Sơn (1993),<br /> nhóm ngôn ngữ ở nước ta…. “Lễ hội của người Dao Họ ở Lào Cai” (1997), “Hội<br /> 2. Nhóm các công trình nghiên cứu chung, bản Lồng Tồng ở Lào Cai” (1998), “Văn hóa dân gian<br /> sắc văn hóa tộc người Việt Nam. ở người Mạ, Bảo Lộc, Lâm Đồng” (2002), “Tìm<br /> Có thể điểm qua một số công trình như: “Văn hiểu lễ hội dân gian của người Mường ở Hòa Bình”<br /> hóa các dân tộc Tây Bắc – thực trạng và những vấn (2004); Năm 2012, Đặng Thị Oanh, cùng với nhiều<br /> đề đặt ra” của Trần Văn Bính; “Bảo tồn và phát tác giả xuất bản cuốn sách “Lễ hội dân gian các dân<br /> huy văn hóa văn hóa truyền thống của các dân tộc tộc thiểu số tỉnh Điện Biên” đã giới thiệu một số<br /> thiểu số” của Nguyễn Khoa Điềm; “Đặc trưng văn lễ hội và nghi lễ dân gian tiêu biểu của các dân tộc<br /> hóa cổ truyền các dân tộc Việt Nam” của Hoàng thiểu số tỉnh Điện Biên, trong đó có lễ hội của tộc<br /> Nam; “Văn hóa Việt Nam đa tộc người, Các dân người Thái Đen (Xên bản, cúng bản, Hạn khuống,<br /> tộc ít người ở Việt Nam” của Đặng Nghiêm Vạn;.... Cúng cơm mới).<br /> Trong đó, một số công trình nghiên cứu mang tính Về quản lý lễ hội, Lê Hữu Tầng (1993), cho rẳng<br /> bản lề về văn hóa như “Văn hóa Việt Nam đa tộc vai trò của hội lễ truyền thống trong đời sống xã hội<br /> người” của Đặng Nghiêm Vạn, giới thiệu những nét hiện đại hết sức quan trọng và cần có những phương<br /> văn hóa kinh tế, văn hóa vật chất, văn hóa tổ chức thức quản lý phù hợp. Trong cuốn “Lễ hội truyền<br /> xã hội, văn hóa tinh thần của các cư dân sinh sống thống trong đời sống xã hội hiện đại”; Nguyễn Văn<br /> trên đất nước theo phương pháp dân tộc học; gồm Mạnh (2002), “Giá trị của lễ hội truyền thống trong<br /> các phần: Văn hóa và văn hóa dân tộc, tộc người; xã hội hiện đại”, Phạm Quang Nghị (2002), “Lễ hội<br /> Văn hóa kinh tế; Văn hóa vật chất; Tổ chức xã hội; và ứng xử của người làm công tác quản lý lễ hội<br /> Văn hóa tinh thần. Cuốn “Các dân tộc ít người ở hiện nay”; Tác giả Lê Hồng Lý cũng đã có một số<br /> Việt Nam” của GS Đặng Nghiêm Vạn đã giới thiệu công trình đi sâu về lĩnh vực quản lý lễ hội như:<br /> những nét khái quát nhất về những lịch sử tộc người “Thử nhìn nhận những hoạt động lễ hội trong thời<br /> dân tộc ở Việt Nam. Tìm hiểu một cách toàn diện về gian qua” (2005); “Khai thác các giá trị văn hóa và<br /> văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, kinh tế, xã hội, lễ hội truyền thống ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu<br /> tôn giáo tín ngưỡng, hôn nhân gia đình.... của các Long phục vụ phát triển du lịch” (2006); “Sự tác<br /> dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc Thái, Chăm, động của kinh tế thị trường vào lễ hội, tín ngưỡng”<br /> Khmer. “Các tộc người ở Việt Nam” của Bùi Xuân (2008);… cũng đã nêu rõ tầm quan trọng của công<br /> Đính, sau khi khái quát lại những vấn đề chung về tác quản lý lễ hội trong việc bảo tồn và phát huy các<br /> dân tộc học; từ đối tượng, nhiệm vụ, lịch sử ra đời đến giá trị truyền thống của các tộc người.<br /> khái quát các tộc người ở Việt Nam. Cuốn sách dành Trong giai đoạn này cũng đã có một số công<br /> ra từng phần lớn đề cập đến một số tộc người như tộc trình chuyên khảo mô tả toàn diện về tộc người,<br /> người Việt, các tộc người vùng Đông Bắc, các tộc trong đó ít nhiều có đề cập đến đặc điểm gia đình<br /> người vùng Tây Bắc và miền núi Thanh – Nghệ, các như: “Người Dao ở Việt Nam” của nhóm tác giả Bế<br /> tộc người vùng duyên hải Trung và Nam trung Bộ, Viết Đẳng và cộng sự, 1971; “Những nhóm dân tộc<br /> các tộc người vùng Trường Sơn – Tây Nguyên, các thuộc ngữ hệ Nam - Á ở Tây Bắc Việt Nam” của<br /> tộc người vùng Nam Bộ. Trong mỗi phần đều dành ra nhóm tác giả Đặng Nghiêm Vạn và cộng sự, 1972;<br /> một dung lượng nhất định trình bày văn hóa đặc trưng “Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam” của Cầm Trọng,<br /> nhất của một số tộc người, trong đó có người Thái, 1978. Đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của<br /> Chăm, Khmer... từ văn hóa vật chất, mối quan hệ xã Viện Dân tộc học: “Các dân tộc ít người ở Việt Nam<br /> hội, văn hóa tâm linh, biến đổi văn hóa tín ngưỡng. (các tỉnh phía Bắc)” xuất bản năm 1978 và “Các<br /> Phạm Quang Hoan (chủ biên, 2012), “Văn hóa các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam)”<br /> tộc người vùng lòng hồ và vùng tái định cư thủy xuất bản năm 1984. Tuy nhiên, nội dung nghiên cứu<br /> điện Sơn La”, đã phác họa khá chi tiết và cụ thể các về gia đình được đề cập trong các cuốn sách này<br /> đặc điểm văn hóa của các tộc người sinh sống ở khu rất sơ lược, bước đầu nhận diện một số đặc điểm<br /> vực Tây Bắc, đặc biệt là ở khu vực tái định cư của cơ bản của gia đình trong văn hoá tộc người. Các<br /> người Thái, Lự, Kinh, Hoa, Kháng, La Ha, Khơ mú, tác giả bước đầu tìm hiểu về hình thái và các mối<br /> Mảng, Dao, Mông trên các chiều cạnh như: sinh kế, quan hệ trong gia đình đặt trong bối cảnh chung là<br /> văn hóa vật chất, văn hóa xã hội, văn hóa tâm linh một đơn vị xã hội tộc người. Một số nghi lễ gia đình<br /> và tôn giáo, tín ngưỡng, tri thức địa phương, ngôn cũng được đề cập, chủ yếu là các nghi lễ hôn nhân,<br /> <br /> Số 23 - Tháng 9 năm 2018 107<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br /> <br /> tang ma và tín ngưỡng thờ cúng trong gia đình. dân tộc thiểu số, mối quan hệ trong gia đình, phân<br /> 3. Nhóm các công trình nghiên cứu về hôn nhân, công lao động, địa vị của phụ nữ, nam giới trong<br /> gia đình gia đình, chăm sóc trẻ em và người cao tuổi, chăm<br /> sóc sức khoẻ, phong tục tập quán, kinh tế hộ gia<br /> Từ năm 1985, chủ đề nghiên cứu về gia đình các đình 3,…<br /> dân tộc thiểu số được nhiều nhà nghiên cứu khoa<br /> học xã hội Việt Nam quan tâm. Trong các thập niên Đặc biệt, khá nhiều công trình nghiên cứu trong<br /> 80, 90 của thế kỷ XX, khá nhiều nhà nghiên cứu những năm gần đây tập trung về lĩnh vực hôn nhân<br /> Dân tộc học, xã hội học quan tâm nghiên cứu gia và gia đình các dân tộc thiểu số, trong đó nổi lên các<br /> đình các dân tộc thiểu số ở nhiều nội dung của gia vấn đề liên quan đến tập quán trong hôn nhân và gia<br /> đình như: cấu trúc, chức năng và đặc trưng văn hoá, đình như: tảo hôn, nghi lễ hôn nhân, nghi lễ tang<br /> nghi lễ trong gia đình, có thể khái quát lại như sau: ma, sinh đẻ, chăm sóc và nuôi dạy con cái, quan hệ<br /> thân tộc, thích tộc,...4<br /> - Các nghiên cứu phân loại hình thái gia đình:<br /> một số tác giả đã trình bày quan điểm của mình Đáng chú ý là, trong những năm gần đây, chủ<br /> trong nhận định về các hình thái gia đình của các đề nghiên cứu về gia đình các dân tộc thiểu số cũng<br /> tộc người thiểu số ở Việt Nam. Trong đó, quan điểm được các học viên cao học và nghiên cứu sinh ở các<br /> về các loại hình gia đình với các hình thái gia đình ngành Dân tộc học, Xã hội học, Văn hoá học đặc<br /> lớn phụ hệ, gia đình lớn mẫu hệ, gia đình song hệ biệt quan tâm. Đã có khá nhiều luận văn, luận án lựa<br /> chọn chủ đề nghiên cứu về gia đình của các dân tộc<br /> hay quá trình tan rã của các gia đình lớn được phân<br /> thiểu số ở nhiều cơ sở đào tạo tại các viện nghiên<br /> tích, đánh giá một cách khá sâu sắc1..<br /> cứu, học viện, trường đại học trong cả nước. Theo<br /> - Một số công trình nghiên cứu đã đi sâu tìm số liệu thống kê, có tới hàng chục luận án tiến sĩ và<br /> hiểu về đặc điểm gia đình một số dân tộc thiểu số ở luận văn thạc sĩ liên quan đến chủ đề về gia đình<br /> Việt Nam. Đặc trưng cấu trúc gia đình các tộc người dân tộc thiểu số như biến đổi về quy mô gia đình,<br /> được phản ánh qua các chỉ số về số cặp vợ chồng, các nghi lễ trong gia đình, chăm sóc sức khoẻ, sinh<br /> số thế hệ, số nhân khẩu, số con cái và các mối quan kế của hộ gia đình,...<br /> hệ trong gia đình là thân tộc hay thích tộc. Mô hình Điểm lại các nghiên cứu về gia đình các dân<br /> sống chung nhiều thế hệ (3 đến 4 thế hệ; nhiều cặp tộc thiểu số cho thấy, các công trình nghiên cứu đã<br /> vợ chồng cùng chung sống trong một mái nhà của được thực hiện trong thời gian khá dài nhưng đều là<br /> gia đình các dân tộc thiếu số đang dần thay đổi sang những công trình nghiên cứu nhỏ, lẻ mô tả ở một số<br /> gia đình mở rộng chỉ còn từ 2 đến 3 thế hệ. Phân ít tộc người. Cho đến nay vẫnchưa có những nghiên<br /> tích các yếu tố tác động tới những đặc điểm cấu cứu mang lại những hiểu biết tổng thể và toàn diện<br /> trúc của gia đình, một số nghiên cứu cho rằng số về gia đình các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Đặc<br /> con trong gia đình các dân tộc thiểu số nhiều hơn biệt, vẫn thiếu vắng các công trình nghiên cứu<br /> gia đình người Việt là do chế độ hôn nhân của các mang tính lý luận về cách phân loại hình thái gia<br /> dân tộc thiểu số còn chịu ảnh hưởng nặng nề của đình, đặc điểm văn hoá và những biến đổi gia đình<br /> nhận thức, quan niệm, đặc trưng văn hóa tộc người, của các tộc người thiểu số trong bối cảnh phát triển<br /> phong tục tập quán,...2. và hội nhập hiện nay.<br /> Từ năm 2000 trở lại đây, vấn đề gia đình được 4. Nhóm các công trình nghiên cứu về văn hóa của<br /> các nhà nghiên cứu khoa học xã hội quan tâm và tộc người cụ thể<br /> được triển khai với nhiều đề tài, chương trình với<br /> Có thể nói, đây là nhóm các công trình nghiên<br /> quy mô lớn cấp quốc gia. Tuy nhiên, chủ đề nghiên cứu về văn hóa tộc người đồ sộ và rất khó thống kê<br /> cứu về gia đình các dân tộc thiểu số thì lại được được hiện có bao nhiêu công trình nghiên cứu về<br /> nghiên cứu khá khiêm tốn trong các bài viết nhỏ lẻ văn hóa của tất cả các dân tộc cho đến thời điểm<br /> của các đề tài luận văn, luận án hay các bài viết tạp hiện nay. Theo bảng số liệu thống kê sơ bộ, có<br /> chí chuyên ngành. 1374 công trình được hệ thống hóa, trong đó, các<br /> Nội dung nghiên cứu về gia đình dân tộc thiểu công trình sách là 674 cuốn (chiếm 49%); 125 công<br /> số trong giai đoạn này chủ yếu vẫn là những phần trình nghiên cứu từ các đề tài cấp cơ sở, cấp Bộ<br /> viết mô tả về đặc điểm gia đình của các cuốn sách và cấp Nhà nước (9%); 575 các bài báo, luận văn<br /> chuyên khảo về các tộc người như dân tộc Lô lô, của các nhà nghiên cứu được đăng tải trên các tạp<br /> dân tộc Sán Chay, dân tộc Pà Thẻn,…. Tuy nhiên, chí chuyên ngành Dân tộc học, Văn hóa dân gian,<br /> một số bài viết, công trình nghiên cứu cũng được Văn học nghệ thuật, Đông Nam Á,... Trong số các<br /> mở rộng và đi sâu vào những nội dung cụ thể. Một 3.<br /> La Công Ý, 1992; Vũ Đình Lợi, 1996; Nguyễn Văn Huy, 2005 a, b; Vi Văn<br /> số vấn đề nổi lên về gia đình được các nhà nghiên An, 2006; Trần Văn Hà và Cs, 2008; Nguyễn Thẩm Thu Hà, 2009; Bế Văn<br /> cứu đặc biệt quan tâm như: Đặc điểm gia đình các Hậu, 2014, Trần Văn Hà và Cs, 2014, Đặng Thị Hoa, 2014<br /> 4.<br /> Nguyễn Doãn Hương, 1997; Đỗ Thúy Bình, 2004; Nguyễn Ngọc Thanh,<br /> 1.<br /> Phạm Quang Hoan, 1985; 1988; 1990; Đặng Nghiêm Vạn, 1991, Vũ Đình 2005; Đỗ Ngọc Tấn, Đặng Thị Hoa, 2005; Nguyễn Văn Chính, 2006; Vi Văn<br /> Lợi, 1994 An, 2006; Nguyễn Thị Song Hà, 2010; Phạm Thị Kim Oanh, 2010; Hoàng<br /> 2.<br /> Phạm Quang Hoan, 1990, 1992; Nguyễn Thị Hoà, 1990; Đỗ Thúy Bình, Phương Mai, 2011; Nguyễn Thị Minh Phương, 2011, Lê Hải Đăng, 2011,<br /> 1991, 1992; Sần Cháng, 1998; Đào Trang Thái, 1997.... Nguyễn Văn Thắng, 2014...<br /> <br /> <br /> 108 Số 23 - Tháng 9 năm 2018<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br /> <br /> công trình nghiên cứu về văn hóa, đáng chú ý nhất song với việc giáo dục ngôn ngữ phổ thông8. Năm<br /> là các nghiên cứu về phong tục tập quán của các tộc 2011, với nghiên cứu “Những vấn đề chính sách<br /> người thiểu số được quan tâm nhiều hơn cả. Tiếp ngôn ngữ và giáo dục ngôn ngữ vùng dân tộc thiểu<br /> đến là mảng văn học nghệ thuật các tộc người với số Việt Nam” (Language policy and education in<br /> các nghiên cứu sưu tầm về truyện cổ dân gian, sự ethnic minorities region of Vietnam), đã giới thiệu<br /> tích, ... và các nghiên cứu về ngôn ngữ tộc người. một số văn bản thể hiện chính sách ngôn ngữ, giáo<br /> Các nghiên cứu về văn hóa vật chất khá khiêm tốn, dục ngôn ngữ vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam và<br /> chỉ tập trung ở một số tộc người có dân số đông như những công trình nghiên cứu về vấn đề này.<br /> Tày, Nùng, Dao, Thái, Mông. Vẫn còn tới hơn 20 6. Nhóm các công trình nghiên cứu về văn hóa<br /> dân tộc chưa có công trình nghiên cứu riêng biệt vật chất:<br /> nào về văn hóa vật chất như ẩm thực, trang phục<br /> Một số công trình nghiên cứu có tính chuyên<br /> và nhà ở. Hầu hết, các nghiên cứu tập trung nhiều<br /> sâu về các thành tố văn hóa vật chất của tộc người.<br /> hơn về văn hóa tinh thần, bao gồm các mảng vấn đề<br /> Chẳng hạn, các nghiên cứu về nhà ở và trang phục<br /> như phong tục tập quán, nghi lễ chu kỳ đời người,<br /> của Nguyễn Khắc Tụng về người Dao và một số tộc<br /> lễ hội, tang ma, hôn nhân và gia đình.... Đặc biệt, có<br /> người ở miền núi phía Bắc như:<br /> 32 công trình nghiên cứu về luật tục và các quy ước<br /> làng bản, dòng họ, gia đình của các tộc người trong “Nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam” (1994<br /> quản lý xã hội và duy trì, bảo tồn văn hóa. và 1996), “Nhà ở của người Dao xưa và nay”<br /> (1996). Một số công trình xuất bản gần đây cũng<br /> 5. Nhóm các công trình nghiên cứu về văn hóa<br /> có đề cập đến nhà ở của người Dao, chẳng hạn như<br /> dưới góc độ ngôn ngữ học<br /> các công trình như “Phong tục tập quán của người<br /> Có khá nhiều công trình nghiên cứu về ngôn ngữ Dao Thanh Hóa” của Đào Thị Vinh (2001), “Người<br /> các tộc người thiểu số, tuy nhiên dưới góc độ văn Dao ở Lạng Sơn” của Lý Dương Liễu (2004). Tác<br /> hóa, một số công trình khá nổi bật trình bày cơ sở lí phẩm “Nhà sàn truyền thống của người Tày ở vùng<br /> luận của việc bảo tồn và phát triển văn hoá, ngôn ngữ Đông Bắc Việt Nam” của tác giả Ma Ngọc Dung. Tư<br /> một số dân tộc thiểu số ở Việt Bắc. Đánh giá thực liệu điền dã năm 1990 của tác giả Hoàng Minh Lợi<br /> trạng văn hoá, ngôn ngữ của một số dân tộc thiểu số về “Nhà cửa và trang phục của người Tày và Nùng<br /> vùng Việt Bắc trong giai đoạn hiện nay và công tác ở Cao Bằng, Lạng Sơn” hay Luận án tiến sỹ Văn<br /> bảo tồn, phát triển ở các địa phương; phương hướng hóa học của tác giả Lê Thị Thúy Hoàn về “Nhà sàn<br /> và điều kiện bảo tồn, phát triển văn hoá, ngôn ngữ truyền thống của cư dân Tày ở Chiêm Hóa (Tuyên<br /> các dân tộc thiểu số5. Có công trình đã đánh giá Quang)” là những công trình nghiên cứu thể hiện rõ<br /> thực trạng sử dụng ngôn ngữ tộc người trong mối sự tích ứng của các tộc người thiểu số với môi trường<br /> tương quan với ngôn ngữ phổ thông ở môi trường tự nhiên xung quanh thông qua ngôi nhà truyền<br /> gia đình và cộng đồng tại 8 điểm nghiên cứu của thống. Công trình nghiên cứu “Ngôi nhà của người<br /> 5 dân tộc ở 2 tỉnh Lạng Sơn và Thái Nguyên, trên Tày trong khu trưng bày ngoài trời của Bảo tàng Dân<br /> cơ sở đó, đã xây dựng những chỉ báo quan trọng tộc học Việt Nam” của tác giả La Công Ý (2010), lại<br /> về sự biến đổi và mức độ bền vững của ngôn ngữ đưa ra vấn đề bảo tồn ngôi nhà truyền thống như thế<br /> tộc người. Cũng qua bài viết này, tác giả đi tới kết nào. Nhà ở của người Tày còn được đề cập đến trong<br /> luận: để phát triển bền vững văn hóa tộc người, một một số đề tài nghiên cứu khoa học như đề tài: “Văn<br /> trong những vấn đề rất quan trọng chính là việc giữ hóa truyền thống một số dân tộc tỉnh Tuyên Quang”,<br /> gìn ngôn ngữ tộc người6. Một số công trình, đã nêu do Sở Văn hóa Thông tin Tuyên Quang thực hiện<br /> đặc điểm chung của ngôn ngữ các dân tộc thiểu số năm 2001. Trong đề tài này, nhà ở của người Tày<br /> Việt Nam. Danh sách các ngôn ngữ dân tộc thiểu được đề cập đến một cách khái quát với hình dáng,<br /> số Việt Nam hiện nay. Quan hệ họ hàng, chữ viết, kiến trúc, các công trình phụ trợ, khuôn viên và cách<br /> giáo dục song ngữ trong các dân tộc thiểu số Việt bố trí nội thất trong ngôi nhà. Ngoài ra, nhà ở của<br /> Nam hiện nay7. Hoặc đề cập đến những vấn đề lý các dân tộc thiểu số nói chung và của người Tày nói<br /> luận về giáo dục ngôn ngữ vùng dân tộc miền núi riêng còn được đề cập đến trong nhiều công trình,<br /> Việt Nam. Thực trạng giáo dục ngôn ngữ vùng dân nhiều bài nghiên cứu công bố trên các báo, tạp chí<br /> tộc miền núi ở 3 tỉnh Nghệ An, Sơn La và Tuyên như: “Một số vấn đề nghiên cứu về nhà ở của các<br /> Quang. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số kiến dân tộc (đặc trưng và mối quan hệ văn hóa)”, của<br /> nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tác giả Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn đăng trên tạp<br /> ngôn ngữ tại 3 vùng dân tộc thiểu số này, trong đó chí Dân tộc học; “Vài nét về sự thay đổi cấu trúc nhà<br /> đặc biệt nhấn mạnh tới yêu cầu đảm bảo quyền sử sàn người Tày ở Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang” của<br /> dụng ngôn ngữ bản địa của các dân tộc này song tác giả Lê Thị Thúy Hoàn đăng trên tạp chí Văn hóa<br /> 5.<br /> Nguyễn Văn Lộc, (chủ biên, 2010), Nghiên cứu bảo tồn và phát triển ngôn dân gian. Cũng tìm hiểu về văn hóa vật chất, Đinh<br /> ngữ, văn hoá một số dân tộc thiểu số ở Việt Bắc Thị Thơm (2012) với bài viết “Đôi nét về kiến trúc<br /> 6.<br /> Vương Xuân Tình, (2010): Biến đổi văn hóa của các tộc người vùng Đông<br /> Bắc từ góc nhìn sử dụng ngôn ngữ, Tạp chí Dân tộc học, số 5-2010 Năm 2004: Thực trạng giáo dục ngôn ngữ ở vùng dân tộc miền núi ba tỉnh<br /> 8.<br /> <br /> 7.<br /> Trần Trí Dõi, (2000): Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam: Những kiến nghị và giải pháp, NXB. Đại học<br /> Việt Nam, NXB. Văn hoá Dân tộc, Hà Nội Quốc gia Hà Nội<br /> <br /> Số 23 - Tháng 9 năm 2018 109<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br /> <br /> nhà ở của người Pà Thẻn xã Tân Trịnh, huyện Bắc một dân tộc đa văn hóa, đa sắc màu. Nếu coi thống<br /> Quang, tỉnh Hà Giang” đã miêu tả các loại hình nhà nhất văn hóa từ đa dạng, thì muốn củng cố sự thống<br /> ở, kết cấu kỹ thuật, bố trí mặt bằng sinh hoạt, quá nhất ấy, phải trên cơ sở bảo tồn và phát triển tính đa<br /> trình dựng nhà cũng như một số tập tục liên quan dạng của văn hóa, mà ở đây thể hiện rõ nhất là đa<br /> đến nhà ở. dạng văn hóa tộc người và văn hóa địa phương 9.<br /> Về trang phục, các nghiên cứu về trang phục Trên thực tế, bảo tồn được văn hóa của các tộc<br /> khiêm tốn hơn so với nhà ở. Một số công trình đáng người thiểu số, nhất là các tộc người có dân số ít<br /> chú ý như: “Nghệ thuật trang phục Thái” của Lê Ngọc thì mới có cơ hội duy trì và phát triển tộc người đó<br /> Thắng giới thiệu khá chi tiết về các họa tiết hoa văn trong quá trình phát triển hướng tới sự bền vững.<br /> mang tính nghệ thuật trên các trang phục của phụ nữ Quá trình đồng hóa văn hóa, thích ứng văn hóa<br /> dân tộc Thái; “Trang phục các tộc người nhóm ngôn trong phát triển là những khái niệm được nhiều nhà<br /> ngữ Môn – Khmer” của Đỗ Thị Hòa giới thiệu trang nghiên cứu đưa ra và khẳng định, cần có sự đa dạng<br /> phục 21 tộc người nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer ở văn hóa, chống lại quá trình đồng hóa văn hóa để<br /> cả ba vùng miền Bắc, miền Trung và Tây Nguyên, bảo tồn được những khác biệt văn hóa của các dân<br /> đồng bằng Nam bộ bao gồm cả trang phục người già, tộc thiểu số ở nước ta hiện nay. Điều này có ý nghĩa<br /> trẻ em, nam, nữ; trang phục thường ngày và lễ hội; ngày càng quan trọng trong một thế giới đang bị<br /> cuốn sách đã có những đánh giá những giá trị lịch sử, chia rẽ bởi những xung đột sắc tộc, xung đột tín<br /> văn hóa trong trang phục các tộc người nhóm ngôn ngưỡng, tôn giáo mang đậm màu sắc văn hóa10.<br /> ngữ Môn – Khmer. Trong cuốn “Trang phục và nghệ Biến đổi văn hóa hay thích nghi văn hóa là quá<br /> thuật trang trí trên trang phục của người Dao đỏ ở trình tất yếu khách quan của các cộng đồng tộc<br /> Lào Cai” của Phan Thị Phượng với những tìm hiểu người. Sự biến đổi văn hóa cùng với những biến đổi<br /> về trang phục và nghệ thuật trên trang phục của về kinh tế - xã hội ở các tộc người thiểu số đang đặt<br /> người Dao đỏ ở Lào Cai; với bốn nội dung chính: ra những vấn đề cấp bách hiện nay, đó là trong quá<br /> khái quát về người Dao đỏ ở tỉnh Lào Cai; nguyên trình biến đổi và thích nghi văn hóa, văn hóa của<br /> vật liệu của trang phục và các kỹ thuật khâu; các tộc người thiểu số có dân số ít thường tiếp nhận từ<br /> dạng trang phục của người Dao đỏ; nghệ thuật trang văn hóa của một số tộc người khác có dân số đông<br /> trí trên trang phục. hơn trong vùng như Mông, Dao, Tày, Nùng, Việt,...<br /> 7. Nhóm nghiên cứu về văn hóa tinh thần Điểm đáng chú ý là, mức độ và tốc độ biến đổi diễn<br /> Trước hết, chúng tôi cũng phải nói rằng, khó có ra không tương đồng giữa các thành tố văn hóa và<br /> thể đánh giá được một cách đầy đủ về các nghiên giữa các nhóm tộc người có dân số ít. Xu hướng<br /> cứu văn hóa tinh thần của các tộc người thiểu số, tiếp nhận, ảnh hưởng văn hóa giữa người có dân<br /> bởi lẽ các nghiên cứu này khá đa dạng, ở nhiều lĩnh số ít với các tộc người láng giềng biểu hiện khá rõ<br /> vực trong đời sống tinh thần của 53 dân tộc thiểu số. trong hoạt động kinh tế, văn hóa vật chất; Còn ở<br /> Tuy nhiên, cũng có thể thấy rõ rằng, đời sống tinh lĩnh vực văn hóa tinh thần, văn hóa xã hội thì sự<br /> thần của các tộc người thiểu số được thể hiện trong biến đổi diễn ra chậm hơn nhiều. Dù biến đổi ở các<br /> các công trình nghiên cứu thực sự là phong phú và dạng thức, khác nhau, xu hướng cố kết và khẳng<br /> đa dạng. Hầu hết, các nghiên cứu đã mô tả, miêu định bản lĩnh, bản sắc văn hóa tộc người vẫn là chủ<br /> thuật lại đời sống tinh thần của từng tộc người thiểu đạo. Đây chính là động lực thúc đẩy sự phát triển<br /> số từ các thói quen trong sinh hoạt hàng ngày đến của dân tộc có dân số ít trong điều kiện mới. Tuy<br /> nghi lễ trong chu kỳ đời người, tang ma, cưới xin nhiên, xu hướng đồng hóa văn hóa của một số tộc<br /> của phong tục tập quán, đến lễ hội, luật tục mang người có dân số đông trong vùng cũng thể hiện rất<br /> những nét đặc sắc của văn hóa tộc người. Có thể rõ nét và rất cần có các nghiên cứu cụ thể để đánh<br /> nói, đây là kho báu về văn hóa của các tộc người giá một cách khoa học và khách quan11.<br /> thiểu số cần bảo lưu, gìn giữ thông qua các công Biến đổi văn hóa còn chịu ảnh hưởng của quá<br /> trình nghiên cứu để có thể lưu lại cho đời sau. trình biến đổi kinh tế - xã hội trong địa bàn vùng dân<br /> II. Những vấn đề cơ bản, cấp bách về văn hóa tộc thiểu số. Đối với các giá trị văn hóa truyền thống<br /> tộc người qua tổng quan nghiên cứu của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, Tây Trung<br /> Bộ đang phải chịu tác động mạnh mẽ từ những biến<br /> Một trong những quan điểm được nhiều nhà<br /> đổi của môi trường sống (rừng, nguồn nước, động<br /> nghiên cứu đề cập đến vấn đề cơ bản, cấp bách về<br /> thực vật...) mà cụ thể ở đây là quá trình định cư của<br /> văn hóa tộc người, đó là cần phải bảo tồn sự đa dạng<br /> vùng ngập lòng hồ của các công trình thủy điện như<br /> văn hóa tộc người trong bối cảnh phát triển, đô thị<br /> công trình thủy điện Sơn La, Lai Châu,…12<br /> hóa và toàn cầu hóa hiện nay.<br /> Một vấn đề được cho là hết sức quan trọng và cấp<br /> Với đặc thù của một quốc gia có đa dạng thành<br /> phần tộc người, đa dạng về văn hóa thì việc bảo tồn 9.<br /> Ngô Đức Thịnh, 2013; Phan Ngọc, 2014<br /> văn hóa đang trở thành một điều kiện để phát triển, 10.<br /> Vương Xuân Tình, 2009, 2012;Nguyễn Thị Đức, 2015<br /> 11.<br /> Phạm Quang Hoan, 2003; Vương Xuân Tình, 2014; Hoàng Sơn, 2008;<br /> là động lực cho phát triển. Văn hóa Việt Nam có sự Đặng Thị Hoa, 2014, 2017<br /> thống nhất trong đa dạng, đó là bản sắc văn hóa của 12.<br /> Hoàng Sơn, 2006, Phạm Quang Hoan, 2014, Đặng Thị Hoa, 2012<br /> <br /> <br /> 110 Số 23 - Tháng 9 năm 2018<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br /> <br /> bách hiện nay là, làm thế nào để quản lý được văn khái quát cao cho từng vùng, từng nhóm tộc người<br /> hóa và biến đổi văn hóa. Nhiều công trình nghiên hay tổng quát chung cho cả nước. Đặc biệt, vẫn còn<br /> cứu về quản lý văn hóa và biến đổi văn hóa đã chỉ thiếu vắng các công trình nghiên cứu gắn bảo tồn<br /> ra rằng, thật khó có thể cấm được các hoạt động văn văn hóa của các tộc người thiểu số vào việc hoạch<br /> hóa và quản lý văn hóa không thể chỉ dùng theo định các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở<br /> cách quản lý hành chính thông thường. các tộc người, các địa phương, nhất là với các tộc<br /> Giao lưu văn hóa và sự hội nhập giữa các cộng người, địa phương còn ở trình độ phát triển chậm,<br /> đồng vốn là quy luật chung của sự phát triển văn hóa mang nhiều nét đặc thù.<br /> nhân loại. Tuy nhiên, để giao lưu và hội nhập thực 2. Các nghiên cứu về quản lý nhà nước trong<br /> sự trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển văn hóa phạm vi hoạt động văn hóa, chẳng hạn như quản<br /> và xã hội của một cộng đồng, thì bản thân văn hóa lý lễ hội, quản lý di tích hay bảo tồn các giá trị văn<br /> của mỗi cộng đồng ấy phải bảo tồn và phát huy bản hóa truyền thống của các tộc người gắn với các hoạt<br /> sắc, sắc thái văn hóa của mình13. Việc giao lưu văn động văn hóa hiện nay ở cấp cộng đồng và văn hóa<br /> hóa diễn ra rất nhanh và mạnh. Cùng với sự bùng nổ cơ sở còn hạn chế. Một số công trình nghiên cứu có<br /> thông tin nhờ công nghệ hiện đại, sản phẩm văn hóa đề cập đến vấn đề quản lý lễ hội, quản lý di tích hay<br /> từ khắp nơi cũng tràn đến núi rừng. Trong lúc việc việc biên soạn, quản lý các kịch bản nghệ thuật dân<br /> bảo tồn chưa kịp thời, chưa đáp ứng yêu cầu thì việc gian tại các địa phương (trừ các di tích - lễ hội lớn,<br /> tiếp thu văn hóa mới lại thiếu chọn lọc, chính vì vậy cấp quốc gia hoặc cấp đặc biệt) chưa nhiều. Thực tế<br /> đã gây ảnh hưởng xấu tới văn hóa truyền thống các cho thấy, các hoạt động lễ hội đang bùng nổ trong<br /> dân tộc thiểu số (DTTS). Đồng bào các dân tộc ít những năm gần đây đặt ra khá nhiều vấn đề trong<br /> mặc trang phục truyền thống, không còn say mê bài quản lý và nghiên cứu các phương án bảo tồn văn<br /> hát, điệu nhảy âm nhạc của dân tộc mình. Quá trình hóa truyền thống của các tộc người. Do thiếu vắng<br /> đô thị hóa cũng làm mất dần nhà sàn, nhà rông, nhà các công trình nghiên cứu mang tính khoa học, cơ<br /> dài... Do vậy, quản lý văn hóa cần nhìn nhận từ chủ bản dẫn tới tình trạng trước khi lễ hội diễn ra, các<br /> trương, chính sách đến việc triển khai thực hiện trên cấp quản lý cơ sở (thường là cấp huyện, cấp xã) là<br /> thực tế, cả trong khâu chỉ đạo điều hành đến việc nơi xây dựng “kịch bản lễ hội” hoặc trực tiếp duyệt<br /> triển khai thực hiện các dự án can thiệp hỗ trợ. kịch bản từ các làng/xã gửi tới. Cũng bởi vậy, ở khá<br /> Việc bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống nhiều trường hợp, kịch bản của một lễ hội tại làng/<br /> của lễ hội các dân tộc là cần thiết, tuy nhiên, trước xã lại chính là sản phẩm của nhà quản lý văn hóa<br /> tình trạng lễ hội đang bị mai một như hiện nay, cũng các huyện hoặc của các trung tâm quản lý di tích,<br /> không nhất thiết phải tìm cách phục hồi lại các lễ chính quyền sở tại mà thiếu cái nhìn khoa học. Từ<br /> hội nếu không cần thiết mà nên tìm biện pháp củng đó, có nguy cơ dẫn đến sự áp đặt cho cộng đồng<br /> cố, xây dựng trung tâm văn hóa nhiều hoạt động những “kịch bản” mang tính phi truyền thống và<br /> thích hợp vừa mang tính dân tộc vừa hiện đại. Tại thiếu tính khoa học, phải có ý thức tôn trọng lịch sử,<br /> các trung tâm văn hóa cộng đồng đó, có thể lựa tôn trọng sáng tạo văn hóa trong cộng đồng.<br /> chọn các lễ hội truyền thống phù hợp với xu thế 3. Lĩnh vực nghiên cứu về văn hóa tộc người và<br /> hiện nay14. Trong việc tổ chức phục hồi các giá trị biến đổi văn hóa tộc người đã có khá nhiều. Khối<br /> truyền thống của văn hóa các tộc người thiểu số, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này khá đồ<br /> cần rút ngắn khoảng cách chênh lệch khá lớn về đời sộ. Nhiều nghiên cứu đã có tính bao quát về một<br /> sống văn hóa và mức hưởng thụ văn hóa giữa các tộc người hay một nhóm tộc người, làm rõ những<br /> vùng, miền... nét đặc trưng trong bản sắc văn hóa của một số tộc<br /> III. Những khoảng còn trống trong nghiên người. Tuy nhiên, các nghiên cứu mang tính lý luận<br /> cứu văn hóa tộc người về biến đổi văn hóa và quản lý Nhà nước về văn hóa<br /> các tộc người thiểu số thì chưa nhiều. Đây là một<br /> 1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa tộc<br /> khoảng trống trong nghiên cứu về văn hóa, biến đổi<br /> người khá đồ sộ và đề cập đến nhiều lĩnh vực khác<br /> văn hóa các tộc người thiểu số ở nước ta hiện nay.<br /> nhau trong đời sống văn hóa của các tộc người thiểu<br /> Các nghiên cứu về quản lý nhà nước về văn hóa, vai<br /> số. Tuy nhiên, xuất phát từ quan điểm bảo tồn các<br /> trò quản lý của nhà nước trong bảo tồn, phát huy các<br /> giá trị văn hóa truyền thống và phát triển bền vững<br /> giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người thiểu<br /> thì vấn đề nghiên cứu, tìm hiểu, phát hiện tính đặc<br /> số chủ yếu tập trung ở lễ hội, còn ở các thành tố văn<br /> thù và bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi địa<br /> hóa khác còn khá khiêm tốn. Đặc biệt, các nghiên<br /> phương lại chưa được thực hiện một cách hệ thống<br /> cứu đánh giá hiệu quả, tác động của chính sách bảo<br /> và có tính khái quát mang tầm cỡ quốc gia. Hầu hết,<br /> tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống từ<br /> các nghiên cứu vẫn mang tính nhỏ lẻ, chuyên sâu<br /> 1986 đến nay làm cơ sở khoa học phục vụ cho việc<br /> vào từng vấn đề, từng tộc người mà chưa có tính<br /> hoàn thiện chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị<br /> 13.<br /> Ngô Đức Thịnh, (2003), Tìm hiểu luật tục các tộc người ở Việt Nam, NXB. văn hóa truyền thống của các tộc người thiểu số còn<br /> Khoa học Xã hội<br /> 14.<br /> Hoàng Lương, (2002), Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số ở miền nhiều hạn chế. Việc nhận diện những vấn đề biến<br /> Bắc Việt Nam, NXB. Văn hoá Dân tộc. đổi văn hóa truyền thống của các tộc người và xác<br /> <br /> Số 23 - Tháng 9 năm 2018 111<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br /> <br /> định những vấn đề đặt ra trong quản lý Nhà nước Việt Nam - Những kiến nghị và giải pháp, NXB. Đại<br /> về văn hóa nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn học Quốc gia;<br /> hóa truyền thống của các tộc người là rất cần thiết [11] Ma Ngọc Dung, (2004), Nhà sàn truyền<br /> và cấp bách. thống của người Tày ở Đông Bắc Việt Nam, NXB.<br /> Khoa học Xã hội;<br /> * Bài viết là sản phẩm nghiên cứu của đề tài [12] Phan Văn Dốp, Nguyễn Thị Nhung, (2006),<br /> khoa học cấp Quốc gia “Hệ thống hóa, đánh giá Cộng đồng người Chăm Hồi giáo ở Nam Bộ trong<br /> các công trình nghiên cứu về dân tộc và công tác quan hệ giới và phát triển, NXB. Nông nghiệp;<br /> dân tộc từ năm 1986 đến nay”. Mã số: CTDT [13] Ma Ngọc Dung, (2007), Văn hóa ẩm thực<br /> 02.16/16-20. của người Tày ở Việt Nam, NXB. Khoa học Xã hội;<br /> Tài liệu tham khảo [14] Bùi Xuân Đính, (2010), Một số vấn đề cơ<br /> [1] Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp, bản của các dân tộc vùng Đông Bắc, Báo cáo đề tài<br /> (1991), Văn hoá Chăm, NXB. Khoa học Xã hội; cấp Bộ;<br /> [2] Đỗ Thuý Bình, (1994), Hôn nhân và gia đình [15] Đỗ Thị Hoà, (2003), Trang phục các tộc<br /> các dân tộc Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam, NXB. người thiểu số nhóm ngôn ngữ Việt - Mường và Tày<br /> Khoa học Xã hội; - Thái, NXB. Văn hoá Dân tộc;<br /> [3] Phan Hữu Dật, Ngô Đức Thịnh, Lê Ngọc [16] Đặng Thị Hoa, (2009), Tác động của yếu<br /> Thắng, Nguyễn Xuân Độ (Ban chủ nhiệm đề tài) tố truyền thống tới quản lý xã hội ở cơ sở vùng dân<br /> (1998), Sắc thái văn hóa địa phương và tộc người tộc miền Tây Thanh Hóa - Nghệ An, đề tài cấp Bộ<br /> trong chiến lược phát triển đất nước, Chương trình 2008- 2009;<br /> nghiên cứu khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX- [17] Đặng Thị Hoa, (2014), Một số đặc điểm gia<br /> 06: “Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ đình các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong bối cảnh<br /> xã hội”, NXB. Khoa học Xã hội; hội nhập và phát triển, Trong cuốn: “Gia đình Việt<br /> [4] Trần Bình, (2002), Về văn hoá Xinh mun, Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa<br /> NXB. Khoa học Xã hội; và hội nhập từ cách tiếp cận so sánh”, NXB. Khoa<br /> [5] Diệp Trung Bình, (chủ biên, 2002), Lễ hội cổ học Xã hội;<br /> truyền các dân tộc Hoa, Sán Dìu ở Việt Nam, NXB. [18] Đặng Thị Hoa, (2016), Hôn nhân xuyên biên<br /> Văn hoá Dân tộc; giới với phát triển xã hội, NXB. Khoa học Xã hội;<br /> [6] Nịnh Văn Độ, (chủ biên, 2003), Văn hoá [19] Phạm Quang Hoan, (2009), Những vấn đề<br /> truyền thống các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu ở Tuyên dân tộc- tôn giáo nhằm phát triển bền vững vùng<br /> Quang, NXB. Văn hoá Dân tộc; Tây Bắc đến năm 2015, Báo cáo tổng hợp kết quả<br /> [7] Trần Văn Bính, (chủ biên, 2004), Văn hoá nghiên cứu đề tài cấp bộ năm 2007- 2009, do PGS.<br /> các dân tộc Tây Nam Bộ - thực trạng và những vấn TS. Phạm Quang Hoan làm chủ nhiệm, lưu tại Thư<br /> đề đặt ra, NXB. Chính trị Quốc gia; viện Viện Dân tộc học);<br /> [8] Trần Văn Bính, (chủ biên, 2006), Đời sống [20] Phạm Quang Hoan, Đoàn Đình Thi, (2009),<br /> văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá trình công Một số vấn đề cấp bách trong nghiên cứu dân tộc<br /> nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB. Lý luận Chính trị; học hiện nay, Thông báo dân tộc học năm 2008;<br /> [9] Trương Bi, (chủ biên, 2007), Văn hóa mẫu [21] Phạm Quang Hoan, (2010), Nghiên cứu<br /> hệ Mnông, NXB. Văn hóa Dân tộc; người Hmông ở vùng biên giới Lào - Việt (Báo<br /> [10] Trần Trí Dõi, (2004), Thực trạng giáo dục cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp bộ năm<br /> ngôn ngữ ở vùng dân tộc miền núi ba tỉnh phía Bắc 2008- 2010, do PGS.TS. Phạm Quang Hoan làm chủ<br /> nhiệm, Tài liệu lưu tại Thư viện Viện Dân tộc học).<br /> <br /> <br /> THE ACHIEVEMENTS OF RESEARCH ON ETHNIC CULTURE<br /> SINCE INNOVATION UP TO NOW<br /> Dang Thi Hoa<br /> Abstract: Research on ethnic minority cultures has always been a concerned topic for many researchers.<br /> There are quite many researchs on the aspects of ethnic cultural life, notably the researchs of material<br /> culture, spiritual culture, festivals, rituals of life cycle now... However, looking back at the research<br /> achievements on ethnic culture from 1986 to present showed that the researchs has a bias between central<br /> and local agencies, between regions and especially among ethnic minoririty groups. There are gaps in the<br /> ethnic culture researchs that have not yet been filled, and further research is needed in the near future.<br /> Keywords: Research achievement; Ethnic cultural life; Ethnic culture; Ethnic minority culture; The<br /> research achievement since innovation up to now.<br /> <br /> 112 Số 23 - Tháng 9 năm 2018<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2