Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br />
<br />
<br />
<br />
THÀNH TỰU NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HÓA<br />
TỘC NGƯỜI TỪ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY*<br />
Đặng Thị Hoa(1)<br />
<br />
N ghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số luôn là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan<br />
tâm. Đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về các khía cạnh trong đời sống văn hóa<br />
tộc người, đáng chú ý là các công trình nghiên cứu về văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, lễ hội, nghi<br />
lễ chu kỳ đời người,… Tuy nhiên, nhìn lại thành tựu nghiên cứu về văn hóa tộc người từ 1986 đến nay<br />
cho thấy, các công trình nghiên cứu có sự thiên lệch giữa cơ quan trung ương và địa phương, giữa<br />
các vùng miền và đặc biệt là giữa các tộc người. Có những khoảng trống trong nghiên cứu văn hóa<br />
tộc người còn chưa được khỏa lấp, rất cần có những nghiên cứu tiếp theo trong thời gian tới.<br />
Từ khóa: Văn hóa tộc người; Văn hóa dân tộc thiểu số; Thành tựu nghiên cứu từ đổi mới đến nay;<br />
Thành tựu nghiên cứu; Đời sống văn hóa tộc người.<br />
<br />
I. Khái quát thành tựu nghiên cứu về văn hóa quản lý các di tích văn hóa và các quan điểm về di<br />
tộc người từ 1986 đến nay sản văn hóa của các tộc người thiểu số.<br />
Khái niệm văn hóa và văn hóa tộc người luôn là Một số nhà nghiên cứu cũng đặt ra câu hỏi, quản<br />
một trong những khái niệm gây ra nhiều tranh cãi lý nhà nước về văn hóa truyền thống thì quản lý cái<br />
và có nội hàm rộng. Do vậy, trong phần hệ thống gì và quản lý như thế nào? Quản lý văn hóa phải đặt<br />
hóa này, chúng tôi chỉ giới hạn những thành tố văn trong sự phát triển xã hội, văn hóa phải là động lực<br />
hóa cơ bản của văn hóa tộc người theo như phân phát triển xã hội, do vậy quản lý văn hóa là quản<br />
loại đã có hiện nay như: Văn hóa vật chất (bao gồm lý phát triển (Hoàng Sơn Cường, 1995). Mục đích<br />
nhà ở, trang phục, ẩm thực) và văn hóa tinh thần của quản lý văn hóa truyền thống là phải làm cho<br />
(phong tục tập quán, cưới xin, tang ma, nghệ thuật nó phát triển theo định hướng lý tưởng chính trị<br />
dân gian, lễ hội...) và thẩm mỹ của xã hội, phải phát huy được tiềm<br />
Nghiên cứu về văn hóa là một chủ đề luôn được năng sáng tạo những giá trị văn hóa mới theo những<br />
các nhà nghiên cứu quan tâm, đặc biệt là đối với các chuẩn mực đúng đắn (Đình Quang, 1996). Một số<br />
dân tộc thiểu số. Khó có thể thống kê hết tất cả các công trình mang tính định hướng của văn hóa truyền<br />
công trình nghiên cứu về văn hóa tộc người kể từ thống trong quá trình phát triển như “Văn hóa bản<br />
năm 1986 đến nay. Tuy nhiên, trong quá trình tìm địa Việt Nam- khuynh hướng phát triển hiện đại”<br />
đọc tài liệu, chúng tôi có thể hệ thống lại như sau: (Nguyễn Thanh Tuấn, 2012); “Nền văn hóa mới của<br />
Việt Nam” (Phan Ngọc, 2013) nêu lên những vấn<br />
1.Nhóm các công trình nghiên cứu lý luận về đề nhận thức và quan điểm của Hồ Chí Minh trong<br />
văn hóa tộc người công cuộc xây dựng nền văn hóa mới; “Văn hóa<br />
Một số công trình đã tập trung giới thiệu, phân Việt Nam trên con đường giải phóng, đổi mới, hội<br />
tích những vấn đề lý luận trong nghiên cứu văn hóa. nhập và phát triển” (Đỗ Huy, 2013),…<br />
Đáng chú ý là một số công trình đã đi sâu đề cập Mạc Đường (2005), “Vấn đề dân tộc thiểu số ở<br />
đến cơ sở lý luận trong nghiên cứu về văn hóa, vai nước ta trong tầm nhìn đến năm 2020”, Tạp chí Dân<br />
trò của văn hóa trong phát triển như: “Triết lý phát tộc học, số 2, đã đưa ra những nhận định, đánh giá<br />
triển ở Việt Nam, mấy vấn đề cốt yếu” của Phạm về vấn đề dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay với<br />
Xuân Nam, 2005. Trong các công trình nghiên cứu, những đặc điểm, thực trạng, tồn tại, đồng thời dự<br />
nhiều nhà nghiên cứu khẳng định, bản sắc văn hóa báo xu hướng phát triển đến năm 2020, khi nước ta<br />
thường là bất biến trong quá trình phát triển của cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đặc biệt,<br />
lịch sử. Nhưng cái bất biến ấy lại có những thay đổi tác giả cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải giữ vững<br />
trong các môi trường sống, tiếp xúc văn hóa hay do quyền bình đẳng của các dân tộc thiểu số trong xu<br />
tác động của các yếu tố bên ngoài. Do vậy, bảo vệ thế phát triển chung của cả nước. Phan Đăng Nhật<br />
văn hóa nhằm mục đích phát triển đất nước luôn đặt (2009), “Văn hoá các dân tộc thiểu số - Những giá<br />
ra những nhiệm vụ cấp bách của nhà nước (Phan trị đặc sắc”, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, đã<br />
Ngọc, 2006). Vấn đề quản lý văn hóa và phát triển giới thiệu diện mạo văn học dân gian các dân tộc<br />
văn hóa cũng được phân tích, đề cập qua các văn thiểu số Việt Nam, sự chuyển biến từ văn học truyền<br />
kiện của Đảng, các chính sách quản lý nhà nước về miệng đến văn học thành văn; Một số thành tố văn<br />
văn hóa, đặc biệt là các quan điểm quản lý lễ hội, hoá dân gian qua lễ hội; luật tục, ngữ nghĩa, ứng xử<br />
Ngày nhận bài: 22/8/2018; Ngày phản biện: 25/8/2018; Ngày duyệt đăng: 31/8/2018<br />
(1)<br />
Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới; e-mail: danghoadth@gmail.com<br />
Số 23 - Tháng 9 năm 2018<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br />
<br />
văn hoá, đời sống sinh hoạt của các dân tộc thiểu ngữ, chữ viết và giáo dục.<br />
số Việt Nam. Năm 2011, tác giả Hoàng Nam xuất Nghiên cứu về các lễ hội, phải kể đến một số<br />
bản cuốn sách “Tổng quan văn hóa truyền thống các công trình mang tính cơ bản về các lễ hội tiêu biểu<br />
dân tộc Việt Nam”. Cuốn sách đã đề cập đến các của các tộc người thiểu số ở Việt Nam của Lê Trung<br />
vấn đề dân số, lịch sử cư trú, kinh tế truyền thống, Vũ (2005); “Lễ hội dân gian Ê Đê” (1996),… Tác<br />
văn hóa truyền thống của 53 dân tộc ở Việt Nam. giả Lê Hồng Lý đã có khá nhiều công trình nghiên<br />
Năm 2012, Hoàng Nam đã xuất bản cuốn sách “Đại cứu về lễ hội của một số tộc người: ‘‘Lễ hội ở một<br />
cương nhân học văn hóa Việt Nam”, trong đó tác vùng biên giới” đã làm nổi bật một số lễ hội tiêu biểu<br />
giả nghiên cứu văn hóa truyền thống các dân tộc các của các tộc người Tày, Nùng ở Lạng Sơn (1993),<br />
nhóm ngôn ngữ ở nước ta…. “Lễ hội của người Dao Họ ở Lào Cai” (1997), “Hội<br />
2. Nhóm các công trình nghiên cứu chung, bản Lồng Tồng ở Lào Cai” (1998), “Văn hóa dân gian<br />
sắc văn hóa tộc người Việt Nam. ở người Mạ, Bảo Lộc, Lâm Đồng” (2002), “Tìm<br />
Có thể điểm qua một số công trình như: “Văn hiểu lễ hội dân gian của người Mường ở Hòa Bình”<br />
hóa các dân tộc Tây Bắc – thực trạng và những vấn (2004); Năm 2012, Đặng Thị Oanh, cùng với nhiều<br />
đề đặt ra” của Trần Văn Bính; “Bảo tồn và phát tác giả xuất bản cuốn sách “Lễ hội dân gian các dân<br />
huy văn hóa văn hóa truyền thống của các dân tộc tộc thiểu số tỉnh Điện Biên” đã giới thiệu một số<br />
thiểu số” của Nguyễn Khoa Điềm; “Đặc trưng văn lễ hội và nghi lễ dân gian tiêu biểu của các dân tộc<br />
hóa cổ truyền các dân tộc Việt Nam” của Hoàng thiểu số tỉnh Điện Biên, trong đó có lễ hội của tộc<br />
Nam; “Văn hóa Việt Nam đa tộc người, Các dân người Thái Đen (Xên bản, cúng bản, Hạn khuống,<br />
tộc ít người ở Việt Nam” của Đặng Nghiêm Vạn;.... Cúng cơm mới).<br />
Trong đó, một số công trình nghiên cứu mang tính Về quản lý lễ hội, Lê Hữu Tầng (1993), cho rẳng<br />
bản lề về văn hóa như “Văn hóa Việt Nam đa tộc vai trò của hội lễ truyền thống trong đời sống xã hội<br />
người” của Đặng Nghiêm Vạn, giới thiệu những nét hiện đại hết sức quan trọng và cần có những phương<br />
văn hóa kinh tế, văn hóa vật chất, văn hóa tổ chức thức quản lý phù hợp. Trong cuốn “Lễ hội truyền<br />
xã hội, văn hóa tinh thần của các cư dân sinh sống thống trong đời sống xã hội hiện đại”; Nguyễn Văn<br />
trên đất nước theo phương pháp dân tộc học; gồm Mạnh (2002), “Giá trị của lễ hội truyền thống trong<br />
các phần: Văn hóa và văn hóa dân tộc, tộc người; xã hội hiện đại”, Phạm Quang Nghị (2002), “Lễ hội<br />
Văn hóa kinh tế; Văn hóa vật chất; Tổ chức xã hội; và ứng xử của người làm công tác quản lý lễ hội<br />
Văn hóa tinh thần. Cuốn “Các dân tộc ít người ở hiện nay”; Tác giả Lê Hồng Lý cũng đã có một số<br />
Việt Nam” của GS Đặng Nghiêm Vạn đã giới thiệu công trình đi sâu về lĩnh vực quản lý lễ hội như:<br />
những nét khái quát nhất về những lịch sử tộc người “Thử nhìn nhận những hoạt động lễ hội trong thời<br />
dân tộc ở Việt Nam. Tìm hiểu một cách toàn diện về gian qua” (2005); “Khai thác các giá trị văn hóa và<br />
văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, kinh tế, xã hội, lễ hội truyền thống ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu<br />
tôn giáo tín ngưỡng, hôn nhân gia đình.... của các Long phục vụ phát triển du lịch” (2006); “Sự tác<br />
dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc Thái, Chăm, động của kinh tế thị trường vào lễ hội, tín ngưỡng”<br />
Khmer. “Các tộc người ở Việt Nam” của Bùi Xuân (2008);… cũng đã nêu rõ tầm quan trọng của công<br />
Đính, sau khi khái quát lại những vấn đề chung về tác quản lý lễ hội trong việc bảo tồn và phát huy các<br />
dân tộc học; từ đối tượng, nhiệm vụ, lịch sử ra đời đến giá trị truyền thống của các tộc người.<br />
khái quát các tộc người ở Việt Nam. Cuốn sách dành Trong giai đoạn này cũng đã có một số công<br />
ra từng phần lớn đề cập đến một số tộc người như tộc trình chuyên khảo mô tả toàn diện về tộc người,<br />
người Việt, các tộc người vùng Đông Bắc, các tộc trong đó ít nhiều có đề cập đến đặc điểm gia đình<br />
người vùng Tây Bắc và miền núi Thanh – Nghệ, các như: “Người Dao ở Việt Nam” của nhóm tác giả Bế<br />
tộc người vùng duyên hải Trung và Nam trung Bộ, Viết Đẳng và cộng sự, 1971; “Những nhóm dân tộc<br />
các tộc người vùng Trường Sơn – Tây Nguyên, các thuộc ngữ hệ Nam - Á ở Tây Bắc Việt Nam” của<br />
tộc người vùng Nam Bộ. Trong mỗi phần đều dành ra nhóm tác giả Đặng Nghiêm Vạn và cộng sự, 1972;<br />
một dung lượng nhất định trình bày văn hóa đặc trưng “Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam” của Cầm Trọng,<br />
nhất của một số tộc người, trong đó có người Thái, 1978. Đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của<br />
Chăm, Khmer... từ văn hóa vật chất, mối quan hệ xã Viện Dân tộc học: “Các dân tộc ít người ở Việt Nam<br />
hội, văn hóa tâm linh, biến đổi văn hóa tín ngưỡng. (các tỉnh phía Bắc)” xuất bản năm 1978 và “Các<br />
Phạm Quang Hoan (chủ biên, 2012), “Văn hóa các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam)”<br />
tộc người vùng lòng hồ và vùng tái định cư thủy xuất bản năm 1984. Tuy nhiên, nội dung nghiên cứu<br />
điện Sơn La”, đã phác họa khá chi tiết và cụ thể các về gia đình được đề cập trong các cuốn sách này<br />
đặc điểm văn hóa của các tộc người sinh sống ở khu rất sơ lược, bước đầu nhận diện một số đặc điểm<br />
vực Tây Bắc, đặc biệt là ở khu vực tái định cư của cơ bản của gia đình trong văn hoá tộc người. Các<br />
người Thái, Lự, Kinh, Hoa, Kháng, La Ha, Khơ mú, tác giả bước đầu tìm hiểu về hình thái và các mối<br />
Mảng, Dao, Mông trên các chiều cạnh như: sinh kế, quan hệ trong gia đình đặt trong bối cảnh chung là<br />
văn hóa vật chất, văn hóa xã hội, văn hóa tâm linh một đơn vị xã hội tộc người. Một số nghi lễ gia đình<br />
và tôn giáo, tín ngưỡng, tri thức địa phương, ngôn cũng được đề cập, chủ yếu là các nghi lễ hôn nhân,<br />
<br />
Số 23 - Tháng 9 năm 2018 107<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br />
<br />
tang ma và tín ngưỡng thờ cúng trong gia đình. dân tộc thiểu số, mối quan hệ trong gia đình, phân<br />
3. Nhóm các công trình nghiên cứu về hôn nhân, công lao động, địa vị của phụ nữ, nam giới trong<br />
gia đình gia đình, chăm sóc trẻ em và người cao tuổi, chăm<br />
sóc sức khoẻ, phong tục tập quán, kinh tế hộ gia<br />
Từ năm 1985, chủ đề nghiên cứu về gia đình các đình 3,…<br />
dân tộc thiểu số được nhiều nhà nghiên cứu khoa<br />
học xã hội Việt Nam quan tâm. Trong các thập niên Đặc biệt, khá nhiều công trình nghiên cứu trong<br />
80, 90 của thế kỷ XX, khá nhiều nhà nghiên cứu những năm gần đây tập trung về lĩnh vực hôn nhân<br />
Dân tộc học, xã hội học quan tâm nghiên cứu gia và gia đình các dân tộc thiểu số, trong đó nổi lên các<br />
đình các dân tộc thiểu số ở nhiều nội dung của gia vấn đề liên quan đến tập quán trong hôn nhân và gia<br />
đình như: cấu trúc, chức năng và đặc trưng văn hoá, đình như: tảo hôn, nghi lễ hôn nhân, nghi lễ tang<br />
nghi lễ trong gia đình, có thể khái quát lại như sau: ma, sinh đẻ, chăm sóc và nuôi dạy con cái, quan hệ<br />
thân tộc, thích tộc,...4<br />
- Các nghiên cứu phân loại hình thái gia đình:<br />
một số tác giả đã trình bày quan điểm của mình Đáng chú ý là, trong những năm gần đây, chủ<br />
trong nhận định về các hình thái gia đình của các đề nghiên cứu về gia đình các dân tộc thiểu số cũng<br />
tộc người thiểu số ở Việt Nam. Trong đó, quan điểm được các học viên cao học và nghiên cứu sinh ở các<br />
về các loại hình gia đình với các hình thái gia đình ngành Dân tộc học, Xã hội học, Văn hoá học đặc<br />
lớn phụ hệ, gia đình lớn mẫu hệ, gia đình song hệ biệt quan tâm. Đã có khá nhiều luận văn, luận án lựa<br />
chọn chủ đề nghiên cứu về gia đình của các dân tộc<br />
hay quá trình tan rã của các gia đình lớn được phân<br />
thiểu số ở nhiều cơ sở đào tạo tại các viện nghiên<br />
tích, đánh giá một cách khá sâu sắc1..<br />
cứu, học viện, trường đại học trong cả nước. Theo<br />
- Một số công trình nghiên cứu đã đi sâu tìm số liệu thống kê, có tới hàng chục luận án tiến sĩ và<br />
hiểu về đặc điểm gia đình một số dân tộc thiểu số ở luận văn thạc sĩ liên quan đến chủ đề về gia đình<br />
Việt Nam. Đặc trưng cấu trúc gia đình các tộc người dân tộc thiểu số như biến đổi về quy mô gia đình,<br />
được phản ánh qua các chỉ số về số cặp vợ chồng, các nghi lễ trong gia đình, chăm sóc sức khoẻ, sinh<br />
số thế hệ, số nhân khẩu, số con cái và các mối quan kế của hộ gia đình,...<br />
hệ trong gia đình là thân tộc hay thích tộc. Mô hình Điểm lại các nghiên cứu về gia đình các dân<br />
sống chung nhiều thế hệ (3 đến 4 thế hệ; nhiều cặp tộc thiểu số cho thấy, các công trình nghiên cứu đã<br />
vợ chồng cùng chung sống trong một mái nhà của được thực hiện trong thời gian khá dài nhưng đều là<br />
gia đình các dân tộc thiếu số đang dần thay đổi sang những công trình nghiên cứu nhỏ, lẻ mô tả ở một số<br />
gia đình mở rộng chỉ còn từ 2 đến 3 thế hệ. Phân ít tộc người. Cho đến nay vẫnchưa có những nghiên<br />
tích các yếu tố tác động tới những đặc điểm cấu cứu mang lại những hiểu biết tổng thể và toàn diện<br />
trúc của gia đình, một số nghiên cứu cho rằng số về gia đình các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Đặc<br />
con trong gia đình các dân tộc thiểu số nhiều hơn biệt, vẫn thiếu vắng các công trình nghiên cứu<br />
gia đình người Việt là do chế độ hôn nhân của các mang tính lý luận về cách phân loại hình thái gia<br />
dân tộc thiểu số còn chịu ảnh hưởng nặng nề của đình, đặc điểm văn hoá và những biến đổi gia đình<br />
nhận thức, quan niệm, đặc trưng văn hóa tộc người, của các tộc người thiểu số trong bối cảnh phát triển<br />
phong tục tập quán,...2. và hội nhập hiện nay.<br />
Từ năm 2000 trở lại đây, vấn đề gia đình được 4. Nhóm các công trình nghiên cứu về văn hóa của<br />
các nhà nghiên cứu khoa học xã hội quan tâm và tộc người cụ thể<br />
được triển khai với nhiều đề tài, chương trình với<br />
Có thể nói, đây là nhóm các công trình nghiên<br />
quy mô lớn cấp quốc gia. Tuy nhiên, chủ đề nghiên cứu về văn hóa tộc người đồ sộ và rất khó thống kê<br />
cứu về gia đình các dân tộc thiểu số thì lại được được hiện có bao nhiêu công trình nghiên cứu về<br />
nghiên cứu khá khiêm tốn trong các bài viết nhỏ lẻ văn hóa của tất cả các dân tộc cho đến thời điểm<br />
của các đề tài luận văn, luận án hay các bài viết tạp hiện nay. Theo bảng số liệu thống kê sơ bộ, có<br />
chí chuyên ngành. 1374 công trình được hệ thống hóa, trong đó, các<br />
Nội dung nghiên cứu về gia đình dân tộc thiểu công trình sách là 674 cuốn (chiếm 49%); 125 công<br />
số trong giai đoạn này chủ yếu vẫn là những phần trình nghiên cứu từ các đề tài cấp cơ sở, cấp Bộ<br />
viết mô tả về đặc điểm gia đình của các cuốn sách và cấp Nhà nước (9%); 575 các bài báo, luận văn<br />
chuyên khảo về các tộc người như dân tộc Lô lô, của các nhà nghiên cứu được đăng tải trên các tạp<br />
dân tộc Sán Chay, dân tộc Pà Thẻn,…. Tuy nhiên, chí chuyên ngành Dân tộc học, Văn hóa dân gian,<br />
một số bài viết, công trình nghiên cứu cũng được Văn học nghệ thuật, Đông Nam Á,... Trong số các<br />
mở rộng và đi sâu vào những nội dung cụ thể. Một 3.<br />
La Công Ý, 1992; Vũ Đình Lợi, 1996; Nguyễn Văn Huy, 2005 a, b; Vi Văn<br />
số vấn đề nổi lên về gia đình được các nhà nghiên An, 2006; Trần Văn Hà và Cs, 2008; Nguyễn Thẩm Thu Hà, 2009; Bế Văn<br />
cứu đặc biệt quan tâm như: Đặc điểm gia đình các Hậu, 2014, Trần Văn Hà và Cs, 2014, Đặng Thị Hoa, 2014<br />
4.<br />
Nguyễn Doãn Hương, 1997; Đỗ Thúy Bình, 2004; Nguyễn Ngọc Thanh,<br />
1.<br />
Phạm Quang Hoan, 1985; 1988; 1990; Đặng Nghiêm Vạn, 1991, Vũ Đình 2005; Đỗ Ngọc Tấn, Đặng Thị Hoa, 2005; Nguyễn Văn Chính, 2006; Vi Văn<br />
Lợi, 1994 An, 2006; Nguyễn Thị Song Hà, 2010; Phạm Thị Kim Oanh, 2010; Hoàng<br />
2.<br />
Phạm Quang Hoan, 1990, 1992; Nguyễn Thị Hoà, 1990; Đỗ Thúy Bình, Phương Mai, 2011; Nguyễn Thị Minh Phương, 2011, Lê Hải Đăng, 2011,<br />
1991, 1992; Sần Cháng, 1998; Đào Trang Thái, 1997.... Nguyễn Văn Thắng, 2014...<br />
<br />
<br />
108 Số 23 - Tháng 9 năm 2018<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br />
<br />
công trình nghiên cứu về văn hóa, đáng chú ý nhất song với việc giáo dục ngôn ngữ phổ thông8. Năm<br />
là các nghiên cứu về phong tục tập quán của các tộc 2011, với nghiên cứu “Những vấn đề chính sách<br />
người thiểu số được quan tâm nhiều hơn cả. Tiếp ngôn ngữ và giáo dục ngôn ngữ vùng dân tộc thiểu<br />
đến là mảng văn học nghệ thuật các tộc người với số Việt Nam” (Language policy and education in<br />
các nghiên cứu sưu tầm về truyện cổ dân gian, sự ethnic minorities region of Vietnam), đã giới thiệu<br />
tích, ... và các nghiên cứu về ngôn ngữ tộc người. một số văn bản thể hiện chính sách ngôn ngữ, giáo<br />
Các nghiên cứu về văn hóa vật chất khá khiêm tốn, dục ngôn ngữ vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam và<br />
chỉ tập trung ở một số tộc người có dân số đông như những công trình nghiên cứu về vấn đề này.<br />
Tày, Nùng, Dao, Thái, Mông. Vẫn còn tới hơn 20 6. Nhóm các công trình nghiên cứu về văn hóa<br />
dân tộc chưa có công trình nghiên cứu riêng biệt vật chất:<br />
nào về văn hóa vật chất như ẩm thực, trang phục<br />
Một số công trình nghiên cứu có tính chuyên<br />
và nhà ở. Hầu hết, các nghiên cứu tập trung nhiều<br />
sâu về các thành tố văn hóa vật chất của tộc người.<br />
hơn về văn hóa tinh thần, bao gồm các mảng vấn đề<br />
Chẳng hạn, các nghiên cứu về nhà ở và trang phục<br />
như phong tục tập quán, nghi lễ chu kỳ đời người,<br />
của Nguyễn Khắc Tụng về người Dao và một số tộc<br />
lễ hội, tang ma, hôn nhân và gia đình.... Đặc biệt, có<br />
người ở miền núi phía Bắc như:<br />
32 công trình nghiên cứu về luật tục và các quy ước<br />
làng bản, dòng họ, gia đình của các tộc người trong “Nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam” (1994<br />
quản lý xã hội và duy trì, bảo tồn văn hóa. và 1996), “Nhà ở của người Dao xưa và nay”<br />
(1996). Một số công trình xuất bản gần đây cũng<br />
5. Nhóm các công trình nghiên cứu về văn hóa<br />
có đề cập đến nhà ở của người Dao, chẳng hạn như<br />
dưới góc độ ngôn ngữ học<br />
các công trình như “Phong tục tập quán của người<br />
Có khá nhiều công trình nghiên cứu về ngôn ngữ Dao Thanh Hóa” của Đào Thị Vinh (2001), “Người<br />
các tộc người thiểu số, tuy nhiên dưới góc độ văn Dao ở Lạng Sơn” của Lý Dương Liễu (2004). Tác<br />
hóa, một số công trình khá nổi bật trình bày cơ sở lí phẩm “Nhà sàn truyền thống của người Tày ở vùng<br />
luận của việc bảo tồn và phát triển văn hoá, ngôn ngữ Đông Bắc Việt Nam” của tác giả Ma Ngọc Dung. Tư<br />
một số dân tộc thiểu số ở Việt Bắc. Đánh giá thực liệu điền dã năm 1990 của tác giả Hoàng Minh Lợi<br />
trạng văn hoá, ngôn ngữ của một số dân tộc thiểu số về “Nhà cửa và trang phục của người Tày và Nùng<br />
vùng Việt Bắc trong giai đoạn hiện nay và công tác ở Cao Bằng, Lạng Sơn” hay Luận án tiến sỹ Văn<br />
bảo tồn, phát triển ở các địa phương; phương hướng hóa học của tác giả Lê Thị Thúy Hoàn về “Nhà sàn<br />
và điều kiện bảo tồn, phát triển văn hoá, ngôn ngữ truyền thống của cư dân Tày ở Chiêm Hóa (Tuyên<br />
các dân tộc thiểu số5. Có công trình đã đánh giá Quang)” là những công trình nghiên cứu thể hiện rõ<br />
thực trạng sử dụng ngôn ngữ tộc người trong mối sự tích ứng của các tộc người thiểu số với môi trường<br />
tương quan với ngôn ngữ phổ thông ở môi trường tự nhiên xung quanh thông qua ngôi nhà truyền<br />
gia đình và cộng đồng tại 8 điểm nghiên cứu của thống. Công trình nghiên cứu “Ngôi nhà của người<br />
5 dân tộc ở 2 tỉnh Lạng Sơn và Thái Nguyên, trên Tày trong khu trưng bày ngoài trời của Bảo tàng Dân<br />
cơ sở đó, đã xây dựng những chỉ báo quan trọng tộc học Việt Nam” của tác giả La Công Ý (2010), lại<br />
về sự biến đổi và mức độ bền vững của ngôn ngữ đưa ra vấn đề bảo tồn ngôi nhà truyền thống như thế<br />
tộc người. Cũng qua bài viết này, tác giả đi tới kết nào. Nhà ở của người Tày còn được đề cập đến trong<br />
luận: để phát triển bền vững văn hóa tộc người, một một số đề tài nghiên cứu khoa học như đề tài: “Văn<br />
trong những vấn đề rất quan trọng chính là việc giữ hóa truyền thống một số dân tộc tỉnh Tuyên Quang”,<br />
gìn ngôn ngữ tộc người6. Một số công trình, đã nêu do Sở Văn hóa Thông tin Tuyên Quang thực hiện<br />
đặc điểm chung của ngôn ngữ các dân tộc thiểu số năm 2001. Trong đề tài này, nhà ở của người Tày<br />
Việt Nam. Danh sách các ngôn ngữ dân tộc thiểu được đề cập đến một cách khái quát với hình dáng,<br />
số Việt Nam hiện nay. Quan hệ họ hàng, chữ viết, kiến trúc, các công trình phụ trợ, khuôn viên và cách<br />
giáo dục song ngữ trong các dân tộc thiểu số Việt bố trí nội thất trong ngôi nhà. Ngoài ra, nhà ở của<br />
Nam hiện nay7. Hoặc đề cập đến những vấn đề lý các dân tộc thiểu số nói chung và của người Tày nói<br />
luận về giáo dục ngôn ngữ vùng dân tộc miền núi riêng còn được đề cập đến trong nhiều công trình,<br />
Việt Nam. Thực trạng giáo dục ngôn ngữ vùng dân nhiều bài nghiên cứu công bố trên các báo, tạp chí<br />
tộc miền núi ở 3 tỉnh Nghệ An, Sơn La và Tuyên như: “Một số vấn đề nghiên cứu về nhà ở của các<br />
Quang. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số kiến dân tộc (đặc trưng và mối quan hệ văn hóa)”, của<br />
nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tác giả Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn đăng trên tạp<br />
ngôn ngữ tại 3 vùng dân tộc thiểu số này, trong đó chí Dân tộc học; “Vài nét về sự thay đổi cấu trúc nhà<br />
đặc biệt nhấn mạnh tới yêu cầu đảm bảo quyền sử sàn người Tày ở Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang” của<br />
dụng ngôn ngữ bản địa của các dân tộc này song tác giả Lê Thị Thúy Hoàn đăng trên tạp chí Văn hóa<br />
5.<br />
Nguyễn Văn Lộc, (chủ biên, 2010), Nghiên cứu bảo tồn và phát triển ngôn dân gian. Cũng tìm hiểu về văn hóa vật chất, Đinh<br />
ngữ, văn hoá một số dân tộc thiểu số ở Việt Bắc Thị Thơm (2012) với bài viết “Đôi nét về kiến trúc<br />
6.<br />
Vương Xuân Tình, (2010): Biến đổi văn hóa của các tộc người vùng Đông<br />
Bắc từ góc nhìn sử dụng ngôn ngữ, Tạp chí Dân tộc học, số 5-2010 Năm 2004: Thực trạng giáo dục ngôn ngữ ở vùng dân tộc miền núi ba tỉnh<br />
8.<br />
<br />
7.<br />
Trần Trí Dõi, (2000): Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam: Những kiến nghị và giải pháp, NXB. Đại học<br />
Việt Nam, NXB. Văn hoá Dân tộc, Hà Nội Quốc gia Hà Nội<br />
<br />
Số 23 - Tháng 9 năm 2018 109<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br />
<br />
nhà ở của người Pà Thẻn xã Tân Trịnh, huyện Bắc một dân tộc đa văn hóa, đa sắc màu. Nếu coi thống<br />
Quang, tỉnh Hà Giang” đã miêu tả các loại hình nhà nhất văn hóa từ đa dạng, thì muốn củng cố sự thống<br />
ở, kết cấu kỹ thuật, bố trí mặt bằng sinh hoạt, quá nhất ấy, phải trên cơ sở bảo tồn và phát triển tính đa<br />
trình dựng nhà cũng như một số tập tục liên quan dạng của văn hóa, mà ở đây thể hiện rõ nhất là đa<br />
đến nhà ở. dạng văn hóa tộc người và văn hóa địa phương 9.<br />
Về trang phục, các nghiên cứu về trang phục Trên thực tế, bảo tồn được văn hóa của các tộc<br />
khiêm tốn hơn so với nhà ở. Một số công trình đáng người thiểu số, nhất là các tộc người có dân số ít<br />
chú ý như: “Nghệ thuật trang phục Thái” của Lê Ngọc thì mới có cơ hội duy trì và phát triển tộc người đó<br />
Thắng giới thiệu khá chi tiết về các họa tiết hoa văn trong quá trình phát triển hướng tới sự bền vững.<br />
mang tính nghệ thuật trên các trang phục của phụ nữ Quá trình đồng hóa văn hóa, thích ứng văn hóa<br />
dân tộc Thái; “Trang phục các tộc người nhóm ngôn trong phát triển là những khái niệm được nhiều nhà<br />
ngữ Môn – Khmer” của Đỗ Thị Hòa giới thiệu trang nghiên cứu đưa ra và khẳng định, cần có sự đa dạng<br />
phục 21 tộc người nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer ở văn hóa, chống lại quá trình đồng hóa văn hóa để<br />
cả ba vùng miền Bắc, miền Trung và Tây Nguyên, bảo tồn được những khác biệt văn hóa của các dân<br />
đồng bằng Nam bộ bao gồm cả trang phục người già, tộc thiểu số ở nước ta hiện nay. Điều này có ý nghĩa<br />
trẻ em, nam, nữ; trang phục thường ngày và lễ hội; ngày càng quan trọng trong một thế giới đang bị<br />
cuốn sách đã có những đánh giá những giá trị lịch sử, chia rẽ bởi những xung đột sắc tộc, xung đột tín<br />
văn hóa trong trang phục các tộc người nhóm ngôn ngưỡng, tôn giáo mang đậm màu sắc văn hóa10.<br />
ngữ Môn – Khmer. Trong cuốn “Trang phục và nghệ Biến đổi văn hóa hay thích nghi văn hóa là quá<br />
thuật trang trí trên trang phục của người Dao đỏ ở trình tất yếu khách quan của các cộng đồng tộc<br />
Lào Cai” của Phan Thị Phượng với những tìm hiểu người. Sự biến đổi văn hóa cùng với những biến đổi<br />
về trang phục và nghệ thuật trên trang phục của về kinh tế - xã hội ở các tộc người thiểu số đang đặt<br />
người Dao đỏ ở Lào Cai; với bốn nội dung chính: ra những vấn đề cấp bách hiện nay, đó là trong quá<br />
khái quát về người Dao đỏ ở tỉnh Lào Cai; nguyên trình biến đổi và thích nghi văn hóa, văn hóa của<br />
vật liệu của trang phục và các kỹ thuật khâu; các tộc người thiểu số có dân số ít thường tiếp nhận từ<br />
dạng trang phục của người Dao đỏ; nghệ thuật trang văn hóa của một số tộc người khác có dân số đông<br />
trí trên trang phục. hơn trong vùng như Mông, Dao, Tày, Nùng, Việt,...<br />
7. Nhóm nghiên cứu về văn hóa tinh thần Điểm đáng chú ý là, mức độ và tốc độ biến đổi diễn<br />
Trước hết, chúng tôi cũng phải nói rằng, khó có ra không tương đồng giữa các thành tố văn hóa và<br />
thể đánh giá được một cách đầy đủ về các nghiên giữa các nhóm tộc người có dân số ít. Xu hướng<br />
cứu văn hóa tinh thần của các tộc người thiểu số, tiếp nhận, ảnh hưởng văn hóa giữa người có dân<br />
bởi lẽ các nghiên cứu này khá đa dạng, ở nhiều lĩnh số ít với các tộc người láng giềng biểu hiện khá rõ<br />
vực trong đời sống tinh thần của 53 dân tộc thiểu số. trong hoạt động kinh tế, văn hóa vật chất; Còn ở<br />
Tuy nhiên, cũng có thể thấy rõ rằng, đời sống tinh lĩnh vực văn hóa tinh thần, văn hóa xã hội thì sự<br />
thần của các tộc người thiểu số được thể hiện trong biến đổi diễn ra chậm hơn nhiều. Dù biến đổi ở các<br />
các công trình nghiên cứu thực sự là phong phú và dạng thức, khác nhau, xu hướng cố kết và khẳng<br />
đa dạng. Hầu hết, các nghiên cứu đã mô tả, miêu định bản lĩnh, bản sắc văn hóa tộc người vẫn là chủ<br />
thuật lại đời sống tinh thần của từng tộc người thiểu đạo. Đây chính là động lực thúc đẩy sự phát triển<br />
số từ các thói quen trong sinh hoạt hàng ngày đến của dân tộc có dân số ít trong điều kiện mới. Tuy<br />
nghi lễ trong chu kỳ đời người, tang ma, cưới xin nhiên, xu hướng đồng hóa văn hóa của một số tộc<br />
của phong tục tập quán, đến lễ hội, luật tục mang người có dân số đông trong vùng cũng thể hiện rất<br />
những nét đặc sắc của văn hóa tộc người. Có thể rõ nét và rất cần có các nghiên cứu cụ thể để đánh<br />
nói, đây là kho báu về văn hóa của các tộc người giá một cách khoa học và khách quan11.<br />
thiểu số cần bảo lưu, gìn giữ thông qua các công Biến đổi văn hóa còn chịu ảnh hưởng của quá<br />
trình nghiên cứu để có thể lưu lại cho đời sau. trình biến đổi kinh tế - xã hội trong địa bàn vùng dân<br />
II. Những vấn đề cơ bản, cấp bách về văn hóa tộc thiểu số. Đối với các giá trị văn hóa truyền thống<br />
tộc người qua tổng quan nghiên cứu của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, Tây Trung<br />
Bộ đang phải chịu tác động mạnh mẽ từ những biến<br />
Một trong những quan điểm được nhiều nhà<br />
đổi của môi trường sống (rừng, nguồn nước, động<br />
nghiên cứu đề cập đến vấn đề cơ bản, cấp bách về<br />
thực vật...) mà cụ thể ở đây là quá trình định cư của<br />
văn hóa tộc người, đó là cần phải bảo tồn sự đa dạng<br />
vùng ngập lòng hồ của các công trình thủy điện như<br />
văn hóa tộc người trong bối cảnh phát triển, đô thị<br />
công trình thủy điện Sơn La, Lai Châu,…12<br />
hóa và toàn cầu hóa hiện nay.<br />
Một vấn đề được cho là hết sức quan trọng và cấp<br />
Với đặc thù của một quốc gia có đa dạng thành<br />
phần tộc người, đa dạng về văn hóa thì việc bảo tồn 9.<br />
Ngô Đức Thịnh, 2013; Phan Ngọc, 2014<br />
văn hóa đang trở thành một điều kiện để phát triển, 10.<br />
Vương Xuân Tình, 2009, 2012;Nguyễn Thị Đức, 2015<br />
11.<br />
Phạm Quang Hoan, 2003; Vương Xuân Tình, 2014; Hoàng Sơn, 2008;<br />
là động lực cho phát triển. Văn hóa Việt Nam có sự Đặng Thị Hoa, 2014, 2017<br />
thống nhất trong đa dạng, đó là bản sắc văn hóa của 12.<br />
Hoàng Sơn, 2006, Phạm Quang Hoan, 2014, Đặng Thị Hoa, 2012<br />
<br />
<br />
110 Số 23 - Tháng 9 năm 2018<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br />
<br />
bách hiện nay là, làm thế nào để quản lý được văn khái quát cao cho từng vùng, từng nhóm tộc người<br />
hóa và biến đổi văn hóa. Nhiều công trình nghiên hay tổng quát chung cho cả nước. Đặc biệt, vẫn còn<br />
cứu về quản lý văn hóa và biến đổi văn hóa đã chỉ thiếu vắng các công trình nghiên cứu gắn bảo tồn<br />
ra rằng, thật khó có thể cấm được các hoạt động văn văn hóa của các tộc người thiểu số vào việc hoạch<br />
hóa và quản lý văn hóa không thể chỉ dùng theo định các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở<br />
cách quản lý hành chính thông thường. các tộc người, các địa phương, nhất là với các tộc<br />
Giao lưu văn hóa và sự hội nhập giữa các cộng người, địa phương còn ở trình độ phát triển chậm,<br />
đồng vốn là quy luật chung của sự phát triển văn hóa mang nhiều nét đặc thù.<br />
nhân loại. Tuy nhiên, để giao lưu và hội nhập thực 2. Các nghiên cứu về quản lý nhà nước trong<br />
sự trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển văn hóa phạm vi hoạt động văn hóa, chẳng hạn như quản<br />
và xã hội của một cộng đồng, thì bản thân văn hóa lý lễ hội, quản lý di tích hay bảo tồn các giá trị văn<br />
của mỗi cộng đồng ấy phải bảo tồn và phát huy bản hóa truyền thống của các tộc người gắn với các hoạt<br />
sắc, sắc thái văn hóa của mình13. Việc giao lưu văn động văn hóa hiện nay ở cấp cộng đồng và văn hóa<br />
hóa diễn ra rất nhanh và mạnh. Cùng với sự bùng nổ cơ sở còn hạn chế. Một số công trình nghiên cứu có<br />
thông tin nhờ công nghệ hiện đại, sản phẩm văn hóa đề cập đến vấn đề quản lý lễ hội, quản lý di tích hay<br />
từ khắp nơi cũng tràn đến núi rừng. Trong lúc việc việc biên soạn, quản lý các kịch bản nghệ thuật dân<br />
bảo tồn chưa kịp thời, chưa đáp ứng yêu cầu thì việc gian tại các địa phương (trừ các di tích - lễ hội lớn,<br />
tiếp thu văn hóa mới lại thiếu chọn lọc, chính vì vậy cấp quốc gia hoặc cấp đặc biệt) chưa nhiều. Thực tế<br />
đã gây ảnh hưởng xấu tới văn hóa truyền thống các cho thấy, các hoạt động lễ hội đang bùng nổ trong<br />
dân tộc thiểu số (DTTS). Đồng bào các dân tộc ít những năm gần đây đặt ra khá nhiều vấn đề trong<br />
mặc trang phục truyền thống, không còn say mê bài quản lý và nghiên cứu các phương án bảo tồn văn<br />
hát, điệu nhảy âm nhạc của dân tộc mình. Quá trình hóa truyền thống của các tộc người. Do thiếu vắng<br />
đô thị hóa cũng làm mất dần nhà sàn, nhà rông, nhà các công trình nghiên cứu mang tính khoa học, cơ<br />
dài... Do vậy, quản lý văn hóa cần nhìn nhận từ chủ bản dẫn tới tình trạng trước khi lễ hội diễn ra, các<br />
trương, chính sách đến việc triển khai thực hiện trên cấp quản lý cơ sở (thường là cấp huyện, cấp xã) là<br />
thực tế, cả trong khâu chỉ đạo điều hành đến việc nơi xây dựng “kịch bản lễ hội” hoặc trực tiếp duyệt<br />
triển khai thực hiện các dự án can thiệp hỗ trợ. kịch bản từ các làng/xã gửi tới. Cũng bởi vậy, ở khá<br />
Việc bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống nhiều trường hợp, kịch bản của một lễ hội tại làng/<br />
của lễ hội các dân tộc là cần thiết, tuy nhiên, trước xã lại chính là sản phẩm của nhà quản lý văn hóa<br />
tình trạng lễ hội đang bị mai một như hiện nay, cũng các huyện hoặc của các trung tâm quản lý di tích,<br />
không nhất thiết phải tìm cách phục hồi lại các lễ chính quyền sở tại mà thiếu cái nhìn khoa học. Từ<br />
hội nếu không cần thiết mà nên tìm biện pháp củng đó, có nguy cơ dẫn đến sự áp đặt cho cộng đồng<br />
cố, xây dựng trung tâm văn hóa nhiều hoạt động những “kịch bản” mang tính phi truyền thống và<br />
thích hợp vừa mang tính dân tộc vừa hiện đại. Tại thiếu tính khoa học, phải có ý thức tôn trọng lịch sử,<br />
các trung tâm văn hóa cộng đồng đó, có thể lựa tôn trọng sáng tạo văn hóa trong cộng đồng.<br />
chọn các lễ hội truyền thống phù hợp với xu thế 3. Lĩnh vực nghiên cứu về văn hóa tộc người và<br />
hiện nay14. Trong việc tổ chức phục hồi các giá trị biến đổi văn hóa tộc người đã có khá nhiều. Khối<br />
truyền thống của văn hóa các tộc người thiểu số, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này khá đồ<br />
cần rút ngắn khoảng cách chênh lệch khá lớn về đời sộ. Nhiều nghiên cứu đã có tính bao quát về một<br />
sống văn hóa và mức hưởng thụ văn hóa giữa các tộc người hay một nhóm tộc người, làm rõ những<br />
vùng, miền... nét đặc trưng trong bản sắc văn hóa của một số tộc<br />
III. Những khoảng còn trống trong nghiên người. Tuy nhiên, các nghiên cứu mang tính lý luận<br />
cứu văn hóa tộc người về biến đổi văn hóa và quản lý Nhà nước về văn hóa<br />
các tộc người thiểu số thì chưa nhiều. Đây là một<br />
1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa tộc<br />
khoảng trống trong nghiên cứu về văn hóa, biến đổi<br />
người khá đồ sộ và đề cập đến nhiều lĩnh vực khác<br />
văn hóa các tộc người thiểu số ở nước ta hiện nay.<br />
nhau trong đời sống văn hóa của các tộc người thiểu<br />
Các nghiên cứu về quản lý nhà nước về văn hóa, vai<br />
số. Tuy nhiên, xuất phát từ quan điểm bảo tồn các<br />
trò quản lý của nhà nước trong bảo tồn, phát huy các<br />
giá trị văn hóa truyền thống và phát triển bền vững<br />
giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người thiểu<br />
thì vấn đề nghiên cứu, tìm hiểu, phát hiện tính đặc<br />
số chủ yếu tập trung ở lễ hội, còn ở các thành tố văn<br />
thù và bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi địa<br />
hóa khác còn khá khiêm tốn. Đặc biệt, các nghiên<br />
phương lại chưa được thực hiện một cách hệ thống<br />
cứu đánh giá hiệu quả, tác động của chính sách bảo<br />
và có tính khái quát mang tầm cỡ quốc gia. Hầu hết,<br />
tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống từ<br />
các nghiên cứu vẫn mang tính nhỏ lẻ, chuyên sâu<br />
1986 đến nay làm cơ sở khoa học phục vụ cho việc<br />
vào từng vấn đề, từng tộc người mà chưa có tính<br />
hoàn thiện chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị<br />
13.<br />
Ngô Đức Thịnh, (2003), Tìm hiểu luật tục các tộc người ở Việt Nam, NXB. văn hóa truyền thống của các tộc người thiểu số còn<br />
Khoa học Xã hội<br />
14.<br />
Hoàng Lương, (2002), Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số ở miền nhiều hạn chế. Việc nhận diện những vấn đề biến<br />
Bắc Việt Nam, NXB. Văn hoá Dân tộc. đổi văn hóa truyền thống của các tộc người và xác<br />
<br />
Số 23 - Tháng 9 năm 2018 111<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br />
<br />
định những vấn đề đặt ra trong quản lý Nhà nước Việt Nam - Những kiến nghị và giải pháp, NXB. Đại<br />
về văn hóa nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn học Quốc gia;<br />
hóa truyền thống của các tộc người là rất cần thiết [11] Ma Ngọc Dung, (2004), Nhà sàn truyền<br />
và cấp bách. thống của người Tày ở Đông Bắc Việt Nam, NXB.<br />
Khoa học Xã hội;<br />
* Bài viết là sản phẩm nghiên cứu của đề tài [12] Phan Văn Dốp, Nguyễn Thị Nhung, (2006),<br />
khoa học cấp Quốc gia “Hệ thống hóa, đánh giá Cộng đồng người Chăm Hồi giáo ở Nam Bộ trong<br />
các công trình nghiên cứu về dân tộc và công tác quan hệ giới và phát triển, NXB. Nông nghiệp;<br />
dân tộc từ năm 1986 đến nay”. Mã số: CTDT [13] Ma Ngọc Dung, (2007), Văn hóa ẩm thực<br />
02.16/16-20. của người Tày ở Việt Nam, NXB. Khoa học Xã hội;<br />
Tài liệu tham khảo [14] Bùi Xuân Đính, (2010), Một số vấn đề cơ<br />
[1] Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp, bản của các dân tộc vùng Đông Bắc, Báo cáo đề tài<br />
(1991), Văn hoá Chăm, NXB. Khoa học Xã hội; cấp Bộ;<br />
[2] Đỗ Thuý Bình, (1994), Hôn nhân và gia đình [15] Đỗ Thị Hoà, (2003), Trang phục các tộc<br />
các dân tộc Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam, NXB. người thiểu số nhóm ngôn ngữ Việt - Mường và Tày<br />
Khoa học Xã hội; - Thái, NXB. Văn hoá Dân tộc;<br />
[3] Phan Hữu Dật, Ngô Đức Thịnh, Lê Ngọc [16] Đặng Thị Hoa, (2009), Tác động của yếu<br />
Thắng, Nguyễn Xuân Độ (Ban chủ nhiệm đề tài) tố truyền thống tới quản lý xã hội ở cơ sở vùng dân<br />
(1998), Sắc thái văn hóa địa phương và tộc người tộc miền Tây Thanh Hóa - Nghệ An, đề tài cấp Bộ<br />
trong chiến lược phát triển đất nước, Chương trình 2008- 2009;<br />
nghiên cứu khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX- [17] Đặng Thị Hoa, (2014), Một số đặc điểm gia<br />
06: “Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ đình các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong bối cảnh<br />
xã hội”, NXB. Khoa học Xã hội; hội nhập và phát triển, Trong cuốn: “Gia đình Việt<br />
[4] Trần Bình, (2002), Về văn hoá Xinh mun, Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa<br />
NXB. Khoa học Xã hội; và hội nhập từ cách tiếp cận so sánh”, NXB. Khoa<br />
[5] Diệp Trung Bình, (chủ biên, 2002), Lễ hội cổ học Xã hội;<br />
truyền các dân tộc Hoa, Sán Dìu ở Việt Nam, NXB. [18] Đặng Thị Hoa, (2016), Hôn nhân xuyên biên<br />
Văn hoá Dân tộc; giới với phát triển xã hội, NXB. Khoa học Xã hội;<br />
[6] Nịnh Văn Độ, (chủ biên, 2003), Văn hoá [19] Phạm Quang Hoan, (2009), Những vấn đề<br />
truyền thống các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu ở Tuyên dân tộc- tôn giáo nhằm phát triển bền vững vùng<br />
Quang, NXB. Văn hoá Dân tộc; Tây Bắc đến năm 2015, Báo cáo tổng hợp kết quả<br />
[7] Trần Văn Bính, (chủ biên, 2004), Văn hoá nghiên cứu đề tài cấp bộ năm 2007- 2009, do PGS.<br />
các dân tộc Tây Nam Bộ - thực trạng và những vấn TS. Phạm Quang Hoan làm chủ nhiệm, lưu tại Thư<br />
đề đặt ra, NXB. Chính trị Quốc gia; viện Viện Dân tộc học);<br />
[8] Trần Văn Bính, (chủ biên, 2006), Đời sống [20] Phạm Quang Hoan, Đoàn Đình Thi, (2009),<br />
văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá trình công Một số vấn đề cấp bách trong nghiên cứu dân tộc<br />
nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB. Lý luận Chính trị; học hiện nay, Thông báo dân tộc học năm 2008;<br />
[9] Trương Bi, (chủ biên, 2007), Văn hóa mẫu [21] Phạm Quang Hoan, (2010), Nghiên cứu<br />
hệ Mnông, NXB. Văn hóa Dân tộc; người Hmông ở vùng biên giới Lào - Việt (Báo<br />
[10] Trần Trí Dõi, (2004), Thực trạng giáo dục cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp bộ năm<br />
ngôn ngữ ở vùng dân tộc miền núi ba tỉnh phía Bắc 2008- 2010, do PGS.TS. Phạm Quang Hoan làm chủ<br />
nhiệm, Tài liệu lưu tại Thư viện Viện Dân tộc học).<br />
<br />
<br />
THE ACHIEVEMENTS OF RESEARCH ON ETHNIC CULTURE<br />
SINCE INNOVATION UP TO NOW<br />
Dang Thi Hoa<br />
Abstract: Research on ethnic minority cultures has always been a concerned topic for many researchers.<br />
There are quite many researchs on the aspects of ethnic cultural life, notably the researchs of material<br />
culture, spiritual culture, festivals, rituals of life cycle now... However, looking back at the research<br />
achievements on ethnic culture from 1986 to present showed that the researchs has a bias between central<br />
and local agencies, between regions and especially among ethnic minoririty groups. There are gaps in the<br />
ethnic culture researchs that have not yet been filled, and further research is needed in the near future.<br />
Keywords: Research achievement; Ethnic cultural life; Ethnic culture; Ethnic minority culture; The<br />
research achievement since innovation up to now.<br />
<br />
112 Số 23 - Tháng 9 năm 2018<br />