intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thông báo lâm sàng: Thức tỉnh muộn sau gây mê nội khí quản cắt túi mật nội soi

Chia sẻ: Ni Ni | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

84
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này thông báo một trường hợp thức tỉnh muộn sau phẫu thuật cắt túi mật nội soi. Nguyên nhân có lẽ do thời gian tác dụng của thuốc giãn cơ rocuronium kéo dài dẫn đến BN thức tỉnh muộn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thông báo lâm sàng: Thức tỉnh muộn sau gây mê nội khí quản cắt túi mật nội soi

TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2013<br /> <br /> THÔNG BÁO LÂM SÀNG: THỨC TỈNH MUỘN<br /> SAU GÂY MÊ NỘI KHÍ QUẢN CẮT TÚI MẬT NỘI SOI<br /> Nguyễn Trung Kiên*; Nguyễn Thị Thanh*; Nguyễn Ngọc Thạch*<br /> TÓM TẮT<br /> Gây mê nội khí quản là phương pháp vô cảm phổ biến cho phẫu thuật cắt túi mật nội soi. Sau<br /> phẫu thuật, bệnh nhân (BN) thường thức tỉnh nhanh và được rút ống nội khí quản sớm ngay tại<br /> phòng mổ. Tuy nhiên, chúng tôi xin thông báo một trường hợp thức tỉnh muộn sau phẫu thuật cắt túi<br /> mật nội soi. Nguyên nhân có lẽ do thời gian tác dụng của thuốc giãn cơ rocuronium kéo dài dẫn đến<br /> BN thức tỉnh muộn.<br /> * Từ khóa: Thức tỉnh muộn sau phẫu thuật; Rocuronium.<br /> <br /> CASE REPORT: DELAYED RECOVERY POST-LAPAROSCOPIC<br /> CHOLECYSTECTOMY<br /> summary<br /> General anesthesia is the common anesthesia method for laparoscopic cholecystectomy. Normally,<br /> the patients make postoperative quick recovery and are early extubated the endotracheal tube in<br /> operating room. However, we report a post-laparoscopic cholecystectomy delayed recovery case.<br /> The cause is proposed that prolonged effect of rocuronium causes delayed recovery.<br /> * Key words: Post-operative delayed recovery; Rocuronium.<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Gây mê nội khí quản là phương pháp vô<br /> cảm thường được sử dụng trong phẫu<br /> thuật nội soi cắt túi mật. Rocuronium với<br /> biệt dược esmeron, thuốc giãn cơ trung<br /> bình được sử dụng rộng rãi trong gây mê<br /> nội khí quản, là loại thuốc giãn cơ có nhiều<br /> ưu điểm như thời gian khởi phát nhanh và ít<br /> tác dụng phụ [5]. Hơn 25 năm trước đây, đã<br /> có những báo cáo cho thấy sự tồn dư kéo<br /> dài của thuốc giãn cơ sau phẫu thuật đối<br /> với BN sử dụng thuốc giãn cơ dài [6]. Sau<br /> <br /> đó, có những nghiên cứu chỉ ra rằng với<br /> thuốc giãn cơ trung bình như rocuronium<br /> cũng có trường hợp xảy ra tương tự [6].<br /> Với phẫu thuật cắt túi mật nội soi, BN<br /> thường thức tỉnh nhanh sau gây mê, cho<br /> phép rút ống nội khí quản ngay tại phòng<br /> mổ. Theo Hồ Văn Quang và CS (2011), thời<br /> gian gây mê (thời gian tính từ khi tiêm thuốc<br /> mê đến khi kết thúc phẫu thuật, phục hồi<br /> phản xạ mi mắt và mở mắt theo lệnh) trong<br /> phẫu thuật cắt túi mật nội soi là 42,5 ± 6,4<br /> phút, nhanh nhất 32 phút, lâu nhất 67 phút [4].<br /> <br /> * Bệnh viện 103<br /> Chịu trách nhiệm nội dung khoa học: GS. TS. Phạm Gia Khánh<br /> GS. TS. Lê Trung Hải<br /> <br /> 136<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2013<br /> Tuy nhiên, chúng tôi xin thông báo một<br /> trường hợp thức tỉnh muộn sau phẫu thuật<br /> cắt túi mật nội soi ngày 31 - 12 - 2012, mặc<br /> dù phẫu thuật chỉ diễn ra trong 90 phút,<br /> nhưng sau phẫu thuật kết thúc 280 phút,<br /> BN mới thức tỉnh hoàn toàn và cho phép rút<br /> ống nội khí quản. Nguyên nhân có lẽ do<br /> thời gian tác dụng của thuốc giãn cơ kéo<br /> dài dẫn đến BN thức tỉnh muộn.<br /> GIỚI THIỆU CA BỆNH<br /> BN Trương Tuấn C, nam, 51 tuổi, cao<br /> 1m65, nặng 50 kg, ASA II, tiền sử cắt thận<br /> phải do ứ niệu năm 2009, được chẩn đoán<br /> polýp túi mật và dự kiến cắt túi mật nội soi.<br /> Lâm sàng: nhịp tim đều 82 chu kỳ/phút,<br /> huyết áp động mạch 131/82 mmHg, không<br /> có tiếng tim bệnh lý, rì rào phế nang êm dịu<br /> hai phế trường, không có ran, tần số thở 14<br /> lần/phút, SpO2 100% bụng mềm, không u<br /> cục, gan lách không to, điểm túi mật không<br /> đau.<br /> Cận lâm sàng: hồng cầu 5,24 x 10 9/l,<br /> hemoglobin 153 g/l, hematocrit 0,472 l/l. Sinh<br /> hóa máu: albumin 39 g/l; protein 67 g/l; bilirubin<br /> toàn phần 12 μmol/l; bilirubin trực tiếp 2 μmol/l;<br /> creatinin 157 μmol/l; ure 5,4mmol/l; glucose<br /> 9,4 mmol/l; GOT 42 U/L; GPT 61 U/L; natri<br /> 130 mmol/l; kali 3,8 mmol/l. Siêu âm ổ bụng<br /> và X quang tim phổi bình thường.<br /> Tiêm thuốc tiền mê lúc 11 giờ 30 phút:<br /> atropin 0,01 mg/kg (0,5 mg), fentanyl 2 mcg/kg<br /> (100 mcg), tiêm tĩnh mạch chậm.<br /> Khởi mê lúc 11 giờ 45 phút: sử dụng hệ<br /> thống kiểm soát nồng độ đích (TCI - target<br /> controlled infusion) bằng propofol chế độ<br /> não nồng độ 4 mcg/ml (hệ thống bơm tiêm<br /> TCI của hãng Fresenius Kabi, Áo), thông<br /> khí bóp bóng qua máy, khi BN mất ý thức,<br /> <br /> tiêm tĩnh mạch rocuronium với biệt dược<br /> esmeron 1 mg/kg, sau 1 phút, đặt ống nội<br /> khí quản số 7,5 qua miệng một lần thuận lợi,<br /> tiêm tĩnh mạch fentanyl 4 mcg/kg (200 mcg).<br /> Phẫu thuật bắt đầu lúc 12 giờ 5 phút và<br /> BN được duy trì mê bằng propofol theo<br /> nồng độ đích chế độ não 3 - 5 mcg/ml,<br /> thông khí nhân tạo bằng máy gây mê datex<br /> omeda (CHLB Đức) với chế độ kiểm soát<br /> thể tích, thể tích khí lưu thông (Vt ) 500 ml,<br /> tần số hô hấp (f) 14 lần/phút, tỷ lệ thời gian<br /> thở vào/thở ra (I:E) 1:2, EtCO2 từ 35 - 38<br /> mmHg. Chúng tôi không bổ sung thêm<br /> fentanyl và rocuronium trong quá trình duy<br /> trì mê. Quá trình gây mê phẫu thuật diễn ra<br /> thuận lợi, huyết động ổn định với nhịp tim<br /> giao động 76 - 80 chu kỳ/phút, huyết áp động<br /> mạch dao động 100/78 đến 125/85 mmHg,<br /> SpO2 dao động 98 - 100%. Ngừng truyền<br /> propofol trước khi kết thúc phẫu thuật 10 phút<br /> và phẫu thuật kết thúc lúc 13 giờ 35 phút.<br /> Thời gian phẫu thuật cắt túi mật nội soi 1 giờ<br /> 30 phút.<br /> Tổng lượng thuốc và dịch truyền đã sử<br /> dụng trong quá trình gây mê và phẫu thuật<br /> như sau: propofol 350 mg, fentanyl 300 mcg,<br /> rocuronium 50 mg, NaCl 0,9% 1.000 ml,<br /> ringerlactat 500 ml.<br /> Ngay khi kết thúc gây mê, tiêm tĩnh mạch<br /> nikethamid 750 mg, truyền 500 ml glucose<br /> 10% có pha canxiclorid 1 g. Sau khi kết thúc<br /> phẫu thuật 15 phút, tiêm tĩnh mạch chậm<br /> neostigmin 1 mg. Tuy nhiên, BN chưa có dấu<br /> hiệu thức tỉnh, nhịp tim 78 chu kỳ/phút,<br /> huyết áp 120/75 mmHg, SpO2 100%, nhiệt<br /> độ nách 36,50C, tiếp tục duy trì thông khí<br /> nhân tạo và theo dõi sát BN.<br /> Đến 17 giờ 5 phút (210 phút sau khi kết<br /> thúc phẫu thuật), BN chưa có dấu hiệu thức<br /> <br /> 138<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2013<br /> tỉnh, chưa có phản ứng với kích thích đau,<br /> phản xạ đồng tử ánh sáng (+), nhịp tim 88<br /> chu kỳ/phút, huyết áp 130/88 mmHg, SpO2<br /> 100%, nhiệt độ nách 36,70C. Chúng tôi tiến<br /> hành xét nghiệm lại các chỉ số sinh hóa<br /> máu nhận thấy glucose 17,4 mmol/l; kali 3,7<br /> mmol/l; natri 127 mmol/l.<br /> Đến 17 giờ 45 phút (250 phút sau khi<br /> phẫu thuật kết thúc), BN bắt đầu có đáp<br /> ứng với kích thích đau, phản xạ đồng tử<br /> ánh sáng (+), đồng tử 2 bên đều 1,5 mm.<br /> Tiêm bổ sung tĩnh mạch neostigmin 1 mg,<br /> nikethamid 500 mg, BN có dấu hiệu thức<br /> tỉnh, gọi hỏi đáp ứng theo mệnh lệnh, nhưng<br /> còn chậm, tự thở qua ống nội khí quản 18<br /> lần/phút, SpO2 100%. 30 phút sau, BN tỉnh<br /> táo hoàn toàn (280 phút sau khi phẫu thuật<br /> kết thúc), nâng đầu trên 5 giây, mở mắt há<br /> mồm thè lưỡi theo mệnh lệnh, thể tích khí<br /> lưu thông thở ra 6 ml/kg và rút ống nội khí<br /> quản. Sau đó, chúng tôi tiếp tục theo dõi sát<br /> BN trên phòng mổ 1 giờ nữa rồi bàn giao về<br /> Khoa Phẫu thuật Bụng kèm monitor.<br /> BÀN LUẬN<br /> Nguyên nhân gây ra tình trạng thức tỉnh<br /> muộn sau phẫu thuật bao gồm yếu tố BN,<br /> yếu tố phẫu thuật (thời gian phẫu thuật) và<br /> các thuốc sử dụng trong gây mê.<br /> 1. Yếu tố BN.<br /> BN này có tiền sử cắt thận 1 bên, là một<br /> yếu tố ảnh hưởng tới quá trình chuyển hóa<br /> và đào thải các loại thuốc sử dụng trong<br /> quá trình gây mê, dẫn đến kéo dài thời gian<br /> tác dụng của các thuốc này. BN này không<br /> có tiền sử bệnh tăng đường huyết hoặc rối<br /> loạn chuyển hóa. Trước phẫu thuật có xét<br /> nghiệm natri máu 135 mmol/l; ure máu 5,4<br /> <br /> mmol/l ở giới hạn bình thường, Tuy nhiên,<br /> creatinin máu tăng (157 μmol/l) và glucose<br /> máu tăng (9,4 mmol/l). Sau kết thúc phẫu<br /> thuật 210 phút và sau khi đã được truyền<br /> 1.000 ml NaCl 0,9%; 500 ml ringerlactat và<br /> 500 ml glucose 10%, kết quả xét nghiệm<br /> cho thấy glucose máu tăng (17,4 mmol/l) và<br /> natri máu giảm (127 mmol/l). Tăng đường<br /> huyết nặng có thể kéo dài thời gian hồi tỉnh<br /> sau gây mê [7]. Mặc dù BN này xét nghiệm<br /> glucose máu tăng (17,4 mmol/l) sau khi kết<br /> thúc phẫu thuật 210 phút và sau khi đã<br /> truyền 500 ml glucose 10% nên chúng tôi<br /> không nghĩ tăng đường huyết là nguyên<br /> nhân khiến BN thức tỉnh muộn, vì BN này<br /> trước đó không có tiền sử mắc bệnh tăng<br /> đường huyết.<br /> Giảm natri máu nhẹ thường không có triệu<br /> chứng, nhưng nồng độ natri máu < 120 mmol/l<br /> sẽ gây ra nhầm lẫn và kích thích. Nồng độ<br /> natri máu < 110 mmol/l gây co giật, hôn mê<br /> [7]. Tuy nhiên, natri máu chỉ giảm nhẹ (127<br /> mmol/l), nên có lẽ đây không phải là nguyên<br /> nhân gây thức tỉnh muộn.<br /> Biến chứng thần kinh trong phẫu thuật<br /> như thiếu oxy não, xuất huyết não, nhồi máu<br /> não, tắc mạch não... có thể khiến BN thức<br /> tỉnh muộn [7]. Tuy nhiên, chúng tôi không nghĩ<br /> BN này bị biến chứng thần kinh, vì trước<br /> phẫu thuật, BN không có tiền sử mắc các<br /> bệnh lý tâm thần kinh, trong và sau phẫu<br /> thuật các chỉ số huyết động, hô hấp luôn<br /> được duy trì trong giới hạn bình thường.<br /> Trong suốt quá trình sau phẫu thuật, đồng<br /> tử hai bên cân đối 1,5 mm và phản xạ đồng<br /> tử ánh sáng (+). Khi BN tỉnh táo hoàn toàn,<br /> đáp ứng phản xạ kích thích đau đều hai chi<br /> trên và chi dưới, hơn nữa BN không bị liệt<br /> tứ chi.<br /> 139<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2013<br /> 2. Yếu tố phẫu thuật.<br /> Thời gian phẫu thuật cắt túi mật nội soi<br /> ở BN này kéo dài 90 phút. Trong khi đó<br /> Lê Công Khánh và CS (2010) thực hiện cắt<br /> túi mật nội soi có thời gian phẫu thuật trung<br /> bình 52 phút, nhanh nhất 25 phút và lâu<br /> nhất 95 phút [2]. Hồ Văn Quang và CS<br /> (2011) thông báo thời gian phẫu thuật cắt<br /> túi mật nội soi 37,6 ± 6,1 phút, nhanh nhất<br /> 28 phút và lâu nhất 61 phút [4]. Thời gian<br /> phẫu thuật ở BN này không quá dài, nên<br /> chúng tôi không nghĩ thời gian phẫu thuật<br /> ảnh hưởng đến thời gian thức tỉnh.<br /> 3. Các thuốc sử dụng trong gây mê.<br /> BN này được khởi mê và duy trì mê hoàn<br /> toàn bằng thuốc mê tĩnh mạch propofol. Nói<br /> chung, BN được sử dụng propofol hồi tỉnh<br /> nhanh hơn, chất lượng hồi tỉnh tốt hơn so<br /> với các thuốc mê khác, vì propofol nhanh<br /> chóng được gan chuyển hóa. Thời gian bán<br /> hủy tương đối nhanh (10 - 70 phút) và<br /> thuốc không gây tích lũy [1]. BN này được<br /> sử dụng propofol nồng độ đích chế độ não<br /> 3 - 5 mcg/ml, thời gian phẫu thuật chỉ kéo<br /> dài 90 phút và tổng liều propofol đã sử<br /> dụng là 350 mg. Về mặt lý thuyết, liều khởi<br /> mê của propofol ở người lớn khỏe mạnh là<br /> 1,5 - 2,5 mg/kg, tương đương với mức 2 - 6<br /> mcg/ml [1]. Hoàng Văn Bách (2012) thông<br /> báo thời gian thoát mê (thời gian tính từ khi<br /> ngừng thuốc đến khi phục hồi phản xạ mi<br /> mắt và mở mắt theo lệnh) khi gây mê<br /> propofol TCI là 12,65 ± 7,39 phút, nhanh<br /> nhất 4 phút và chậm nhất 37 phút, thời gian<br /> rút ống nội khí quản (thời gian tính từ khi<br /> ngừng thuốc mê đến khi BN tỉnh táo hoàn<br /> toàn, vận động theo lệnh, nâng đầu giữ<br /> được > 5 giây) là 16,88 ± 8,52 phút [1].<br /> <br /> Trong khi đó, theo Watson (2000), thời gian<br /> thoát mê là 11,5 ± 5,3 phút và thời gian rút<br /> nội khí quản 13,2 ± 6,5 phút [8] BN này sau<br /> khi kết thúc phẫu thuật 280 phút mới tỉnh<br /> táo hoàn toàn và rút ống nội khí quản,<br /> nhưng chúng tôi không nghĩ đến gây mê<br /> propofol TCI khiến BN thức tỉnh muộn,<br /> vì tổng liều propofol đã sử dụng không quá<br /> nhiều, chỉ có 350 mg trong 90 phút phẫu thuật.<br /> Ngoài thuốc mê tĩnh mạch propofol, chúng<br /> tôi còn sử dụng thuốc giảm đau fentanyl<br /> tiêm tĩnh mạch. Fentanyl có tác dụng tối đa<br /> sau 3 phút tiêm tĩnh mạch và kéo dài 20 30 phút nếu sử dụng liều duy nhất. Liều<br /> khởi mê của fentanyl là 5 - 7 mcg/kg và duy<br /> trì 1,2 - 2 mcg/kg [3]. Fentanyl ngoài tác<br /> dụng giảm đau, còn tác dụng làm dịu thờ ơ<br /> kín đáo. Tuy nhiên, ở BN này, chúng tôi không<br /> nghĩ tổng liều fentanyl 300 mcg ảnh hưởng<br /> đến thời gian thức tỉnh.<br /> Thuốc giãn cơ chúng tôi sử dụng cho BN<br /> này là rocuronium với biệt dược esmeron.<br /> Thuốc giãn cơ có thể kéo dài thời gian thức<br /> tỉnh sau phẫu thuật nếu thuốc giãn cơ tồn<br /> dư gây giảm thông khí [7]. Tình trạng hô<br /> hấp của BN này trong suốt quá trình gây<br /> mê, phẫu thuật và giai đoạn hồi tỉnh đều<br /> được duy trì ổn định với SpO2 dao động 98 100% và EtCO2 dao động từ 35 - 39 mmHg.<br /> Về mặt lý thuyết, khi đặt ống nội khí quản,<br /> tiêm tĩnh mạch rocuronium với liều 0,6 - 1,2<br /> mg/kg, có thời gian khởi phát 45 - 90 giây,<br /> tác dụng đỉnh 1 - 3 phút, thời gian tác dụng<br /> 15 - 150 phút, liều duy trì tiêm tĩnh mạch<br /> 0,06 - 0,6 mg/kg và được đào thải qua gan<br /> và thận [5]. BN này chỉ được tiêm tĩnh mạch<br /> một liều rocuronium duy nhất 1 mg/kg (50 mg)<br /> <br /> 140<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2013<br /> để đặt ống nội khí quản. Bằng phương pháp<br /> loại trừ, chúng tôi nghĩ tới nguyên nhân<br /> thức tỉnh muộn có lẽ do tác dụng của thuốc<br /> giãn cơ rocuronium bị kéo dài do BN bị<br /> cắt thận phải, vì sau khi sử dụng neostigmin,<br /> thuốc trung hòa giãn cơ, tiêm tĩnh mạch với<br /> tổng liều 2 mg, BN sau khi tỉnh lại thông báo<br /> với chúng tôi rằng BN nghe và biết các yêu<br /> cầu của chúng tôi (như mở mắt, há mồm,<br /> thè lưỡi ...), nhưng không thể đáp ứng theo<br /> mệnh lệnh được.<br /> KẾT LUẬN<br /> Gây mê nội khí quản là phương pháp vô<br /> cảm phổ biến cho phẫu thuật cắt túi mật nội<br /> soi. Với phẫu thuật cắt túi mật nội soi, BN<br /> thường thức tỉnh nhanh sau gây mê, cho<br /> phép rút ống nội khí quản ngay tại phòng<br /> mổ. Tuy nhiên, qua một trường hợp phẫu<br /> thuật cắt túi mật nội soi trên BN đã cắt thận<br /> phải, sau khi kết thúc phẫu thuật 280 phút,<br /> BN mới thức tỉnh hoàn toàn. Nguyên nhân<br /> có lẽ do thời gian tác dụng của thuốc giãn<br /> cơ rocuronium kéo dài, dẫn đến BN thức<br /> tỉnh muộn. Vì vậy, trong phòng mổ cần phải<br /> có máy theo dõi mức độ giãn cơ tồn dư sau<br /> phẫu thuật, cũng như nên có sugammadex,<br /> thuốc trung hòa giãn cơ đặc hiệu đối với<br /> thuốc giãn cơ rocuronium, nhằm hóa giải<br /> tình trạng giãn cơ tồn dư sau phẫu thuật,<br /> giúp BN sớm hồi tỉnh sau phẫu víi BN<br /> mắc các bệnh lý gan thận, nên xem xét sử<br /> dụng thuốc giãn cơ tự thoái giáng trong<br /> huyết tương theo chu trình hoffmann như<br /> atracurium.<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Hoàng Văn Bách. Nghiên cứu điều chỉnh<br /> độ mê theo điện não số hóa bằng nồng độ đích<br /> tại não hoặc nồng độ phế nang tối thiểu của<br /> thuốc mê. Luận án Tiến sỹ Y học. 2012, tr.119-120.<br /> 2. Lê Công Khánh, Trần Đình Minh Tú và CS.<br /> Cắt túi mật nội soi một trocar với kính nội soi<br /> phẫu thuật. Ngoại khoa. 2010, tập 60, số 4-5-6,<br /> tr.7-12.<br /> 3. Nguyễn Văn Lâm. Một số dẫn xuất<br /> morphin sử dụng trong lâm sàng. Bài giảng gây<br /> mê hồi sức tập 1. Bộ môn Gây mê Hồi sức.<br /> Trường Đại học Y Hà Nội. Nhà xuất bản Y học.<br /> 2006, tr.419-421.<br /> 4. Hồ Văn Quang, Lê Hồng Chính, Nguyễn<br /> Thanh Hương, Nguyễn Trâm Anh, Huỳnh Phước.<br /> Nghiên cứu ảnh hưởng của gây mê toàn thân<br /> trong phẫu thuật cắt túi mật nội soi ở người cao<br /> tuổi. Tạp chí Y học lâm sàng. 2011, số 9, tr.95-100.<br /> 5. Nguyễn Ngọc Thạch. Thuốc giãn cơ. Giáo<br /> trình gây mê hồi sức. Bộ môn Gây mê. Học viện<br /> Quân y. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân.<br /> 2012, tr.70-75.<br /> 6. Claudius C, Karacan H. Prolonged residual<br /> paralysis after a single intubating dose of<br /> rocuronium. British Journal of Anesthesia. 2007,<br /> 99 (4), pp.514-517.<br /> 7. Ronald CF Sinclair, Richard J Faleiro.<br /> Delayed recovery of consciousness after anesthesia.<br /> Continuing Education in Anesthesia, Critical Careand<br /> Pain. 2006, Vol 6 No 3, pp.114-118.<br /> 8. Watson K.R, Shah M.V. Clinical comparison<br /> of single agent anesthesia with sevoflurane<br /> versus target controlled infusion of propofol.<br /> British Journal of Anaesthesia. 2000, 85 (4),<br /> pp.541-516.<br /> <br /> 141<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0