Thông tin Quốc tế về GDĐH số 12-2014<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
QUẢN LÝ NHỮNG GÌ KHÔNG THỂ QUẢN LÝ<br />
Quản lý<br />
Hoạt động Nghiên cứu<br />
trong các trường đại học nghiên cứu<br />
2<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Lời giới thiệu<br />
Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa<br />
học (NCKH) là một công việc khó<br />
khăn phức tạp, và ngày càng đòi hỏi<br />
tính chất chuyên nghiệp. Công việc<br />
này đặc biệt quan trọng ở những<br />
trường được xem là, hay có mục tiêu<br />
trở thành trường ĐH nghiên cứu<br />
(ĐHNC).<br />
<br />
Luật GDĐH 2012 đã xác định chủ<br />
trương xây dựng một hệ thống GDĐH<br />
phân tầng trong đó có những trường<br />
sẽ được giao cho sứ mạng trở thành<br />
trường ĐHNC. Bên cạnh việc xác<br />
định các tiêu chuẩn nhằm định vị các<br />
trường phù hợp với sứ mạng, việc<br />
chuẩn bị nguồn lực và nhất là tri thức<br />
cho việc xây dựng các trường ĐHNC<br />
là rất cấp bách.<br />
<br />
Bản tin Thông tin Quốc tế số 12 của<br />
GDĐH xin giới thiệu bài viết Quản lý<br />
những gì không thể quản lý: Quản lý<br />
Hoạt động Nghiên cứu trong các<br />
trường đại học nghiên cứu của John<br />
Taylor, Trường ĐH Southampton,<br />
nhằm phục vụ cho nhu cầu xây dựng<br />
ĐHNC của Việt nam, mà trước hết là<br />
cho hai Đại học Quốc gia. Tuy nhiên,<br />
với những mức độ khác nhau, tất cả<br />
các trường đều cần có hoạt động<br />
nghiên cứu khoa học, vì vậy bài viết<br />
này cũng sẽ giúp ích cho nhiều trường<br />
khác trong việc sử dụng nguồn lực cho<br />
NCKH một cách hiệu quả hơn.<br />
<br />
Chúng tôi xin cảm ơn tác giả đã cho<br />
phép sử dụng bài viết và xin giới<br />
thiệu cùng bạn đọc.<br />
<br />
Ban Biên tập.<br />
Thông tin Quốc tế về GDĐH số 12-2014 3<br />
<br />
<br />
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU<br />
TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGHIÊN CỨU<br />
<br />
John Taylor<br />
University of Southampton, United Kingdom<br />
Khắp nơi trên thế giới, chính phủ mọi nước, giới doanh nghiệp và các bên liên quan đều công nhận<br />
tầm quan trọng của trường đại học nghiên cứu (ĐHNC). Quả thật, có thể nói đóng góp của GDĐH<br />
trong việc tạo ra ý tưởng mới, tri thức mới, và với tư cách là động lực của nền kinh tế, chưa bao giờ lớn<br />
lao đến thế. Cùng lúc đó, các trường ĐH cũng đang đối diện với một môi trường thay đổi nhanh chóng,<br />
dưới ảnh hưởng của áp lực về ngân sách, của việc nhấn mạnh quy trình đảm bảo chất lượng, và tác<br />
động ngày càng lớn của toàn cầu hóa, thị trường hóa và công nghệ mới. Áp lực phải thay đổi đặt trọng<br />
tâm cụ thể vào nhu cầu quản lý các trường sao cho có hiệu quả. Bài viết này nhằm kết nối hai chủ đề<br />
trên trong khi xem xét việc quản lý các trường ĐHNC. Đâu là đặc điểm cốt lõi trong công tác quản lý<br />
của một số trường ĐH NC hàng đầu thế giới? Có chăng những mô hình cụ thể của việc tổ chức nội bộ,<br />
của sự lãnh đạo, phân bổ nguồn lực và quản lý nhân sự đã tạo ra thành công trong việc khích lệ hoạt<br />
động nghiên cứu?Hơn nữa, những cách tiếp cận đó có mối quan hệ như thế nào với những khó khăn<br />
cố hữu của việc quản lý hoạt động nghiên cứu?<br />
<br />
<br />
Quản lý nckh: một bài toán hóc búa<br />
Nghiên cứu là một hoạt động<br />
cực kỳ cá nhân, phụ thuộc rất<br />
nhiều vào ý tưởng và khả năng<br />
tưởng tượng của một cá nhân<br />
hay một nhóm nghiên cứu. Giới<br />
giảng viên có cảm giác sở hữu<br />
cá nhân rất sâu sắc với kết quả<br />
nghiên cứu của họ; những thành<br />
quả đó quyết định sự nghiệp<br />
tương lai của họ, cũng như địa<br />
vị của họ trong giới hàn lâm.<br />
Hoạt động nghiên cứu gắn kết<br />
tuyệt đối với niềm tin cơ bản về<br />
tự do học thuật và cơ hội thách<br />
thức những định kiến đã tồn tại<br />
từ lâu. Hơn thế nữa, nghiên cứu,<br />
từ trong bản chất của nó, là một<br />
hoạt động không thể nào dự<br />
đoán trước được. Nó có thể tiến<br />
tới những phương hướng mà ta<br />
không thấy trước được và mang<br />
lại những hệ quả có thể ta<br />
không ngờ tới hay không mong<br />
đợi. Chính sự không thể dự<br />
đoán trước ấy lại thường khi<br />
mang đến những kết quả quan<br />
trọng nhất và bởi vậy được<br />
hoan nghênh thay vì bị kìm chế.<br />
4<br />
Nghiên cứu, bởi thế không “Quan điểm phản bác việc<br />
thích hợp với việc bị kiểm soát quản lý nghiên cứu theo lối kế<br />
và quản lý.Tuy vậy, trong thế hoạch tập trung là một ý kiến<br />
giới cạnh tranh và thay đổi nhiều người chia sẻ, nhưng<br />
nhanh chóng của GDĐH ngày chẳng có gì dễ đánh giá hơn<br />
nay, có những ràng buộc đòi thế. Mục đích của việc lên kế<br />
hỏi phải áp dụng ít nhiều hình hoạch là xác định ưu tiên cho<br />
thức quản lý. Việc tài trợ cho phát triển và tác động đến<br />
nghiên cứu và vấn đề chất việc triển khai nguồn lực.<br />
lượng đòi hỏi có sự đồng Ngày nay các trường vận<br />
thuận. Nguồn lực tương xứng hành trong một môi trường<br />
cần được sử dụng theo cách cạnh tranh cao độ và không<br />
tối ưu, cũng như có những yêu thể hy vọng sẽ mạnh trong<br />
cầu kiểm soát về đạo đức mọi lĩnh vực nghiên cứu. Nếu<br />
nghiên cứu và về pháp lý phải họ không tập trung vào thế<br />
được tuân thủ. Nghiên cứu mạnh của mình và xây dựng<br />
cũng có thể chứa đựng nhiều cho nó phát triển, họ sẽ khiến<br />
rủi ro, đối với các trường hồ sơ thành tích của nhà<br />
ĐHNC hiện đại, chấp nhận trường bị bất lợi một cách<br />
rủi ro là một phần không thể nghiêm trọng. Quan điểm<br />
thiếu, nhưng rủi ro cũng cần ngược lại dựa trên nền tảng Cách thông thường vượt qua<br />
phải được nhận thức rõ và một quan niệm đúng đắn cho những mâu thuẫn ấy là thử làm<br />
được quản lý. Hogan và Clark rằng những đề xướng trong cả hai– đặt ra một ít lĩnh vực<br />
miêu tả bài toán hóc búa này nghiên cứu nảy sinh từ cá ưu tiên và duy trì kinh phí phát<br />
như sau: nhân các nhà khoa học, triển cho những sáng kiến đề<br />
những người đi tiên phong và xướng tốt nhất nảy sinh ngoài<br />
bảo vệ cho dự án của họ. Nếu những lĩnh vực được coi là ưu<br />
không nắm bắt được những tiên– chừng nào khả năng tài<br />
cơ hội tốt nhất khi nó đến, thì chính còn cho phép làm thế”<br />
những sáng kiến đề xướng đó (Hogan and Clark, in Warner<br />
có thể sẽ bị dập tắt và kế and Palfreyman, 1996, p.<br />
hoạch nghiên cứu sẽ gặp 128). Bởi vậy, có vẻ như<br />
nguy cơ trở thành phản tác không thể bỏ mặc hoạt động<br />
dụng. nghiên cứu mà không quản lý<br />
nó. Như Fox đã nhận xét:<br />
“Các trường không làm nghiên<br />
cứu, chỉ có các cá nhân mới<br />
làm nghiên cứu mà thôi.<br />
Nhưng điều kiện nghiên cứu ở<br />
các trường thì tác động tới<br />
năng suất của họ” (1992, p.<br />
105). Vấn đề cốt lõi là làm<br />
thế nào quản lý có hiệu quả<br />
theo một cách nào đó duy trì<br />
được một môi trường làm việc<br />
trong đó hoạt động nghiên<br />
cứu có thể nảy nở và đơm hoa<br />
kết trái. Bài viết này tìm hiểu<br />
xem điều đó đã đạt được như<br />
thế nào trong 6 trường ĐHNC<br />
hàng đầu thế giới.<br />
Thông tin Quốc tế về GDĐH số 12-2014<br />
5<br />
Thế nào là ĐHNC ?<br />
Bài này về cơ bản nói đến Đặc điểm tiếp theo là sự tồn Có thể nói, khái niệm “trường<br />
các trường “đại học nghiên tại của nghiên cứu cơ bản bên ĐH nghiên cứu” đã được phát<br />
cứu”. Hoạt động nghiên cứu cạnh những nghiên cứu ứng triển tốt nhất ở Mỹ. Ở đây, Hệ<br />
được thực hiện bởi nhiều người dụng, hay nói cách khác có thống Carnegie về phân loại<br />
dưới nhiều hình thức, văn hóa bề rộng chuyên ngành. Bởi các trường ĐH đã đưa ra hai<br />
và truyền thống khác nhau. Có vậy, Nhóm Các Trường định nghĩa:<br />
người cho rằng tất cả các ĐHNC hàng đầu của châu Âu Doctoral/Research Universities<br />
trường ĐH đều phải gắn với đã khẳng định rằng: – Extensive: Đào tạo cử nhân<br />
nghiên cứu và sự tương tác “Nghiên cứu cơ bản (…) tạo đa ngành, từ cử nhân cho đến<br />
giữa nghiên cứu và giảng dạy ra những tri thức là cội nguồn tiến sĩ. Đào tạo được từ 50<br />
là một thứ raison d’être (lý do cho hầu hết mọi sáng tạo đổi tiến sĩ trở lên mỗi năm trong ít<br />
tồn tại) của trường ĐH. Hơn mới trong kinh tế, xã hội và nhất 15 chuyên ngành.<br />
thế nữa trong những năm gần văn hóa,và mang lại một Doctoral/Research Universities<br />
đây, định nghĩa về “nghiên khuôn khổ cho hoạt động đào – Intensive: Đào tạo cử nhân<br />
cứu” đã được mở rộng, ví dụ tạo qua đó thái độ hoài nghi đa ngành, từ cử nhân cho đến<br />
để bao hàm bốn loại tri thức<br />
khoa học, sự sáng tạo và tiến sĩ. Đào tạo được từ 10<br />
mà Boyer đã nêu ra (Boyer,<br />
năng lực trình độ cao rất cần tiến sĩ trở lên mỗi năm trong ít<br />
1990) và sự hình thành những<br />
cho xã hội sẽ được hợp nhất, nhất 3 chuyên ngành, hoặc<br />
chuyên ngành mới trên cơ sở<br />
được thể hiện trong con người tổng cộng 20 bằng tiến sĩ mỗi<br />
sáng tạo hoặc thực tiễn chuyên<br />
mà nhà trường tạo ra” năm nói chung.<br />
ngành (ví dụ như những nghề<br />
liên quan tới sức khỏe, y tế, “Các trường ĐHNC đồng thời (Carnegie Foundation, 2001)<br />
hay nghệ thuật và thiết kế). gắn những nghiên cứu đẳng<br />
Vậy thì, cái gì là đặc điểm cấp quốc tế với việc giảng<br />
phân biệt của một trường “đại dạy đào tạo, là những đơn vị Một đặc điểm khác của các<br />
học nghiên cứu”? Một điểm để mang lại phương tiện hiệu trường ĐHNC hàng đầu là<br />
khởi đầu cho định nghĩa này quả nhất để kết hợp giữa mức độ tập trung của nguồn<br />
là sự nổi trội của hoạt động nghiên cứu cơ bản và đào tạo thu từ công nghiệp và thương<br />
nghiên cứu trong sứ mạng của trên cơ sở nghiên cứu.” mại hóa kết quả nghiên cứu.<br />
nhà trường; bởi vậy mới có “Các trường ĐHNC là nơi có Tuy những nguồn thu này ít<br />
những thuật ngữ kiểu như những chuyên ngành rộng, chịu ảnh những thước đo khác<br />
“trường ĐH tập trung nghiên thường xuyên định hình lại để đánh giá chất lượng của<br />
cứu” hay “ĐH định hướng những nỗ lực nghiên cứu của hoạt động nghiên cứu<br />
nghiên cứu”. Điều này không mình nhằm giải quyết những (Shattock, 2003, pp. 134-<br />
có nghĩa là nhà trường không nhu cầu và cơ hội mới.Nghiên 135).<br />
gắn kết với giảng dạy hay cứu cơ bản cần được nở rộ Tóm lại, sau đây là những đặc<br />
không thực hiện vai trò phục vụ cùng với nghiên cứu ứng dụng điểm cốt yếu của các trường<br />
cộng đồng và xã hội; mà chỉ và thực tiễn chuyên ngành. ĐHNC:<br />
có nghĩa là bản chất và nội (LERU, 2004) • Có cả khoa học cơ bản và<br />
dung của những hoạt động khoa học ứng dụng.<br />
khác của nhà trường sẽ được • Giảng dạy dào tạo trên<br />
định hình trên cái nền nghiên nền tảng nghiên cứu.<br />
cứu. • Có bề rộng của các chuyên<br />
ngành.<br />
• Các chương trình đào tạo<br />
sau ĐH có tỉ lệ cao<br />
• Thu nhập từ bên ngoài có<br />
mức độ lớn.<br />
• Có một quan điểm quốc tế.<br />
6<br />
<br />
Quản lý các trường ĐHNC<br />
Cho đến nay, chưa hề có một Cũng như vậy, Shattock đã “Các khoa là bộ phận cốt yếu<br />
thử nghiệm nào nhằm đánh giá phân tích đặc điểm của những tạo ra thành công của nhà<br />
việc quản lý hoạt động nghiên trường ĐH được xem là thành trường vì vậy cơ chế quản lý<br />
cứu trong các trường ĐHNC. công. Những phát hiện chính nên nối kết trực tiếp các khoa<br />
Tuy vậy, điều quan trọng là liên của ông có thể tóm tắt trong với bộ phận lãnh đạo trung<br />
hệ tới một số công trình nghiên một số điểm sau đây: tâm của nhà trường thay vì<br />
cứu có liên quan, ta có thể thấy “Quản lý các trường ĐH như vòng vèo qua nhiều lớp trung<br />
vài manh mối. Một số nghiên thế là một quy trình toàn diện. gian. Điều này sẽ mang lại<br />
cứu nêu ra những kiểu loại Chức năng của một trường ĐH con đường ngắn nhất để<br />
trường ĐH có đặc điểm trùng đan cài vào nhau và phụ thuộc truyền thông và làm tăng tốc<br />
lặp với các trường ĐHNC. lẫn nhau cho nên những chỗ quá trình ra quyết định”.<br />
Một điểm khởi đầu quan trọng yếu trong chức năng này có thể<br />
là tác phẩm của Burton Clark, tác động đến hiệu quả của “Đặc điểm của bộ máy lãnh<br />
về trường ĐHNC lẫn trường ĐH chức năng khác, cũng như chỗ đạo trung tâm, các bộ phận<br />
theo định hướng doanh nghiệp. mạnh trong những chức năng cấu thành nó là điều quyết<br />
Clark đưa ra một định nghĩa rất chính yếu có thể tăng cường định thành công của nhà<br />
nổi tiếng về năm con đường sức mạnh qua lại cho những trường. Sự lãnh đạo là một<br />
quản lý đối với việc xây dựng chức năng khác. Công nhận nhân tố cốt yếu, nhưng nó cần<br />
những trường ĐH theo định bản chất hội nhập lẫn nhau được phân công thay vì mang<br />
hướng doanh nghiệp (Clark, này của trường ĐH là một bí<br />
1998): tính chất cá nhân hay tập<br />
quyết của thành công.” trung vào một nhân vật thủ<br />
• Củng cố bộ phận lãnh đạo<br />
“Duy trì ổn định tài chính là lãnh có quyền năng đặc biệt<br />
cốt lõi.<br />
một yếu tố quan trọng để đạt Chúa ban. Năng lực lãnh đạo<br />
• Mở rộng phát triển vùng<br />
đến thành công trong khoa chắc chắn là nhân tố tạo ra<br />
ngoại biên.<br />
học, nhưng trong thời hiện đại kết quả hoạt động tốt và lâu<br />
• Đa dạng hóa nguồn tài<br />
chính. ngày nay điều này chỉ đạt được bền của nhà trường.”<br />
• Đội ngũ khoa học là những với cái nền tài chính đa dạng<br />
người truyền cảm hứng và trong đó nguồn tài trợ của nhà “Cơ chế quản trị tốt sẽ đóng<br />
được xem là tâm điểm của nhà nước không phải là chủ yếu. Để góp tích cực cho thành công<br />
trường. quản lý điều này, phải phổ của nhà trường, khi những bộ<br />
• Hội nhập vớivăn hóa doanh biến rộng rãi những kiến thức phận ngoài chuyên môn trong<br />
nghiệp, theo nghĩa dám nghĩ, sơ đẳng về tài chính và khuyến hệ thống quản trị, bộ phận<br />
dám làm, dám chịu và hưởng khích một mức độ đạo đức nhất điều hành, và bộ phận hoạt<br />
kết quả tùy theo những gì đạt định trong những vấn đề liên động chuyên môn làm việc<br />
được. quan đến tiền bạc”. chặt chẽ với nhau; mặt khác<br />
“Tinh thần cộng sự là một công sự tiến bộ sẽ bị hạn chế nếu<br />
Nền tảng bên trong luận điểm cụ quản lý hữu hiệu hơn nhiều một trong các bộ phận này trở<br />
của Clark’s là sự thúc đẩy trong công việc đào tạo và nên quá lấn át”<br />
quyền tự chủ, tự định hướng, nghiên cứu, bởi vậy nó nên là (Shattock, 2003, p. 176)<br />
thường khiến ta liên tưởng tới một định hướng của quản lý.”<br />
hình ảnh những trường ĐH dựa<br />
vào chính mình,trực diện đương<br />
đầu với khó khăn để mở ra<br />
những con đường mới, giống<br />
như các doanh nghiệp. Trường<br />
ĐH theo lối doanh nghiệp như<br />
thế và trường ĐHNC không<br />
nhất thiết là một, nhưng có lẽ là<br />
có nhiều điểm chung xét về mặt<br />
quản lý.<br />
Thông tin Quốc tế về GDĐH số 12-2014<br />
7<br />
Một lần nữa, “trường ĐHNC”, • Lãnh đạo với sự am hiểu sâu Cuối cùng, tổ chức OECD đã<br />
và “trường ĐH được xem là sắc về hoạt động nghiên cứu có đóng góp rất quan trọng<br />
thành công” không nhất thiết và có kỹ năng khởi xướng một trong việc nâng cao hiểu biết<br />
là một; thực ra, bản thân cấu trúc tổ chức thích hợp của chúng ta về công tác quản<br />
Shattock đã dẫn ra khả năng cũng như thực thi quản lý theo lý NCKH, thông qua một dự<br />
sự thành công được định cách đảm bảo cho nhiều bên án do Helen Connell lãnh<br />
nghĩa dựa trên những tiêu tham gia vào quá trình ra đạo, nhằm phân tích sự đáp<br />
chuẩn liên quan đến sinh viên. quyết định. ứng của các trường trong việc<br />
Tuy nhiên, có vẻ như làm vậy Năm 2002, Di Sarli (p. 11) quản lý NCKH trước những<br />
sẽ trùng lặp phần lớn với xác định những bài học kinh thách thức nảy sinh do môi<br />
những trường ĐH không phải nghiệm tốt sau đây trong việc trường giáo dục đang thay<br />
là ĐHNCvà điều quan trọng quản lý hoạt động nghiên cứu đổi. Kết luận của dự án này<br />
là phải xem xét xem liệu ở cấp trường: (Connell, 2004, pp. 55-57)<br />
những đặc điểm đó cũng có • Xác định rõ ràng sứ mạng nhấn mạnh ba lĩnh vực trọng<br />
trong các trường ĐHNC khác của nhà trường. yếu:<br />
hay không. • Xác định rõ những lĩnh vực • Chuyên môn hóa và chuyên<br />
Xem xét cụ thể việc quản lý nghiên cứu ưu tiên. nghiệp hóa việc quản lý<br />
hoạt động nghiên cứu, Bland • Xác định rõ những chính NCKH, bao gồm việc bổ<br />
and Ruffin(1992, p. 385) xác sách nhằm cân đối nghiên cứu nhiệm cả những cán bộ quản<br />
định 12 đặc điểm của một khoa học cơ bản và nghiên lý và người làm khoa học vào<br />
môi trường nghiên cứu tốt như cứu ứng dụng. những vị trí quản lý khoa học<br />
sau: • Xác định rõ những chính cụ thể và nâng cấp năng lực<br />
• Có những mục tiêu rõ ràng sách nhằm hỗ trợ sự phát triển đội ngũ trong cả trường nhằm<br />
nhằm phục vụ chức năng phối của địa phương quản lý tốt hơn hoạt động<br />
hợp • Xác định rõ những chính nghiên cứu.<br />
• Nhấn mạnh hoạt động sách về minh bạch mọi hoạt • Lập kế hoạch chiến lược cho<br />
nghiên cứu. động và trách nhiệm giải trình hoạt động nghiên cứu dựa trên<br />
• Văn hóa nghiên cứu đặc với xã hội trong việc sử dụng kế hoạch tổng thể của nhà<br />
biệt. tài chính công cũng như tư. trường, trong đó có việc thiết<br />
• Không khí làm việc nhóm lập những ưu tiên nghiên cứu<br />
tích cực. Bushaway định nghĩa quản lý và xây dựng kế hoạch nghiên<br />
• Cơ chế quản trị có sự tham hoat động nghiên cứu ở cấp cứu của nhà trường, phân bổ<br />
gia của nhiều bên, khuyến trường như là “những bổn nguồn lực cho nghiên cứu,<br />
khích tự khẳng định phận và trách nhiệm tương đánh giá chất lượng nghiên<br />
• Tổ chức được phân quyền. xứng với việc thực hiện thành cứu, cả đánh giá nội bộ và<br />
• Giao tiếp thường xuyên. công chiến lược nghiên cứu đánh giá từ bên ngoài, tạo ra<br />
• Có những nguồn lực có thể cũng như ý nghĩa của những khuôn khổ đạo đức nghiên cứu<br />
tiếp cận được (đặc biệt là việc hàng ngày, việc kiểm cho nhà trường và quyết định<br />
nguồn lực con người) soát và điều phối những dự án nhà trường sẽ đi xa đến đâu<br />
• Có quy mô vừa đủ, có các nghiên cứu cụ thể, giám sát trong việc thương mại hóa kết<br />
nhóm nghiên cứu đa dạng và chất lượng của nó, và những quả nghiên cứu.<br />
bao gồm nhiều lứa tuổi. nhiệm vụ liên quan nhằm hỗ Những kết luận này rõ ràng là<br />
• Có chế độ khen thưởng trợ cho hoạt động quản lý”. liên quan trực tiếp tới việc<br />
thích hợp. (Bushaway, 2003,p. 142). quản lý các trường ĐHNC.<br />
• Tập trung vào việc tuyển Cuốn sách của ông đưa ra Tuy nhiên, nghiên cứu của<br />
dụng và lựa chọn nhân sự nhiều mức độ hoạt động, ở OECD, cũng như của Di Sarli,<br />
cấp trường và cấp khoa. Tuy bao gồm nhiều loại trường ĐH<br />
nhiên, nó thiên về hướng dẫn kể cả những trường có thành<br />
thực tế về công việc quản lý tích nghiên cứu không lấy gì<br />
khoa học nói chung hơn là làm mạnh và cũng không coi<br />
phân tích về những đặc điểm nghiên cứu là đặc điểm và<br />
trọng yếu của trường ĐHNC. trọng tâm của mình.<br />
8<br />
<br />
Về công trình nghiên cứu này<br />
Để khảo sát việc quản lý ở các trường ĐHNC, chúng tôi đã thực hiện một loạt phỏng vấn ở 6 trường<br />
ĐHNC nổi bật: một ở Canada (tạm gọi Trường ĐH A), một ở Hoa Kỳ (tạm gọi Trường ĐH B), hai trường<br />
ở UK (tạm gọi là C và D), và hai trường ở Australia (tạm gọi E và F). Việc lựa chọn dựa trên thành tích<br />
nổi bật trong các tiêu chí được công bố (ấn phẩm khoa học và thu nhập từ nghiên cứu), dựa trên uy tín<br />
và vị trí so sánh (bảng xếp hạng các trường tinh hoa và sự cam kết của nhà trường với hoạt động nghiên<br />
cứu, thể hiện trong tuyên ngôn sứ mạng. Phỏng vấn được thực hiện trong năm 2004, 2005 với các<br />
Hiệu Trưởng và cán bộ lãnh đạo cao cấp (các Phó Hiệu Trưởng, Trưởng Phòng NCKH), và giảng viên.<br />
Bất cứ ai cũng sẽ lập tức công nhận cả sáu trường này đều là những trường ĐHNC hàng đầu trên thế<br />
giới.<br />
Trong phần còn lại của bài này, chúng tôi sẽ thảo luận một số kết quả nghiên cứu chính, là điều sẽ dẫn<br />
tới việc xác định một số đặc điểm chung cho hoạt động quản lý khoa học ở các trường ĐHNC hàng<br />
đầu.<br />
<br />
<br />
Triết lý quản lý<br />
Những khó khăn và mâu NCKH quan trọng đối với nhà<br />
thuẫn trong việc quản lý hoạt trường đến nỗi nó thấm vào<br />
động nghiên cứu đã được nêu mọi yếu tố của quản lý. Điều<br />
ra và chắc chắn là cả sáu quan trọng là kiểu quản lý<br />
trường đều có trải nghiệm. Rất nào thì thích hợp: khích lệ, hỗ<br />
nhiều người được phỏng vấn trợ và giám sát, nhưng không<br />
cùng nêu lên một ý nhấn chỉ dẫn và kiểm soát, trừ<br />
mạnh rằng họ không cố trường hợp đặc biệt.<br />
“quản lý” hoạt động NCKH. Hai trường của UK có quan<br />
Ở Trường B chẳng hạn, một điểm hơi khác. Cả hai đều<br />
cán bộ lãnh đạo cao cấp chia sẻ mối quan ngại chính<br />
khẳng định rằng “Chúng tôi về quản lý hoạt động NCKH.<br />
không và không thể quản lý Tuy vậy, phong cách quản lý<br />
việc nghiên cứu. Chúng tôi bổ của họ chủ động và cởi mở<br />
nhiệm những người tốt nhất và hơn. Điều này phản ánh môi<br />
để họ làm công việc của họ”. trường bên ngoài mà họ đang<br />
Trường A, E và F cũng đều hoạt động, và cụ thể là sự tồn<br />
biểu lộ quan điểm tương tự. tại của tổ chức chính phủ RAE<br />
Tuy nhiên, trong khi thảo luận, (Research Assessment Exercise<br />
thì mọi sự nhanh chóng trở ) thực hiện việc đánh giá khoa<br />
nên rõ ràng là, trong thực tế, họcvà có ảnh hưởng quan<br />
việc nghiên cứu đã được quản trọng tới quyết định phân bổ<br />
lý; điều khẳng định trên đây kinh phí nghiên cứu của nhà<br />
chỉ phần nào biểu hiện sự lẫn nước. Cơ chế đánh giá này<br />
lộn giữa quản lý NCKH và tự lấn át cách suy nghĩ của cả<br />
do học thuật; và phần khác hai trường, không phải chỉ vì<br />
là biểu hiện sự phủ nhận lối nó trực tiếp tác động tới ngân<br />
tiếp cận theo lối quản lý quá sách hoạt động của trường,<br />
đáng không thích hợp với văn mà còn vì những hệ quả rộng<br />
hóa khoa học. Trong thực tế, lớn hơn trong việc xác định<br />
NCKH không hề nằm ngoài cương vị của nhà trường và<br />
lãnh địa của việc quản lý nhà điều này lại liên quan tới việc<br />
trường. Thực ra, điều ngược tuyển sinh, tuyển dụng và lưu<br />
lại mới là sự thật: dụng nhân sự.<br />
Thông tin Quốc tế về GDĐH số 12-2014<br />
9<br />
Hai trường của UK có quan điểm hơi khác. Cả hai đều chia sẻ mối quan ngại chính về quản lý hoạt<br />
động NCKH. Tuy vậy, phong cách quản lý của họ chủ động và cởi mở hơn. Điều này phản ánh môi<br />
trường bên ngoài mà họ đang hoạt động, và cụ thể là sự tồn tại của tổ chức chính phủ RAE (Research<br />
Assessment Exercise ) thực hiện việc đánh giá khoa họcvà có ảnh hưởng quan trọng tới quyết định phân<br />
bổ kinh phí nghiên cứu của nhà nước. Cơ chế đánh giá này lấn át cách suy nghĩ của cả hai trường,<br />
không phải chỉ vì nó trực tiếp tác động tới ngân sách hoạt động của trường, mà còn vì những hệ quả<br />
rộng lớn hơn trong việc xác định cương vị của nhà trường và điều này lại liên quan tới việc tuyển sinh,<br />
tuyển dụng và lưu dụng nhân sự.<br />
<br />
Một người lãnh đạo cao cấp của Trường C bình luận: “Việc quản lý hoạt động NCKH đáng lẽ phải<br />
rộng hơn chứ không chỉ là những gì RAE đang làm. Thật đáng buồn, chúng tôi bị ám ảnh bởi cơ chế<br />
đánh giá này. Khi mới ra đời, cơ chế này bắt chúng tôi phải phát triển hoạt động quản lý khoa học–<br />
chúng tôi cần phải thay đổi. Nhưng nay thì “cái đuôi đang vẫy con chó” .<br />
<br />
Hai trường của Anh về mặt nào đó quả có khác biệt. Cả hai trường đều biểu lộ nhu cầu biện minh cho<br />
hoạt động NCKH của mình đối với môi trường bên ngoài, nhằm bảo vệ những trọng tâm nghiên cứu<br />
của họ trước nhà nước, trước các doanh nghiệp và nhà tuyển dụng, trước sinh viên và các bên liên quan<br />
khác. Điều này dẫn đến kết quả một cách tiếp cận có tính chất can thiệp nhiều hơn trong việc quản lý.<br />
<br />
Cả sáu trường đều công nhận sự tồn tại của bốn lãnh vực tri thức mà Boyer đã nêu:<br />
<br />
• Tri thức của những nghiên cứu mang tính chất khám phá.<br />
• Tri thức về hội nhập, kể cả tri thức để viết sách giáo khoa.<br />
• Tri thức có tính phục vụ, như đem kiến thức ứng dụng vào thực tế.<br />
• Tri thức về việc giảng dạy.<br />
<br />
Tuy nhiên, một điều rất rõ là cả<br />
sáu trường đều đặc biệt nhấn<br />
mạnh và đánh giá cao loại tri<br />
thức của những nghiên cứu khám<br />
phá. Trong từng trường, loại này<br />
đều được coi là nghiên cứu<br />
“nguyên thủy”, là “sự sáng tạo tri<br />
thức mới”, là tâm điểm của nhà<br />
trường và mang lại nguồn dưỡng<br />
chất không thể thiếu để nuôi<br />
sống tất cả mọi hoạt động và<br />
hình thức khác của tri thức. Điều<br />
này lại ảnh hưởng tới cách phân<br />
bổ kinh phí nghiên cứu , quản lý<br />
hoạt động và nhân sự, và được<br />
coi là một đặc điểm phân biệt<br />
nổi bật của một trường ĐHNC<br />
thực sự.<br />
<br />
<br />
“cái đuôi đang vẫy con chó” (the<br />
tail is wagging the dog.”) thành ngữ<br />
ý nói một bộ phận nhỏ đang kiểm<br />
soát toàn bộ một tổng thể trong khi<br />
lẽ ra phải ngược lại (Chú thích của<br />
người dịch).<br />
10<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Xem cả sáu trường như một nhóm, ta sẽ thấy tầm quan trọng của việc quản lý hoạt động NCKH là rất<br />
rõ ràng. Trong thực tế, không thể nghi ngờ gì về thực trạng này. Sự khác biệt chủ yếu nằm trong cách<br />
tiếp cận, quản lý một cách chủ động hay thụ động, mà điều này lại là kết quả của môi trường làm việc<br />
bên ngoài. Cả hai hình thức quản lý này đều đem lại sự hỗ trợ, khích lệ hoạt động NCKH cũng như xem<br />
xét chất lượng của những hoạt động ấy. Quản lý thụ động có khuynh hướng dựa vào bên ngoài, dựa<br />
vào những lực lượng thị trường trong việc hình thành, duy trì, hay dẹp bỏ các nhóm nghiên cứu. Các<br />
nhóm nghiên cứu mới sẽ xuất hiện khi người ta thấy có khoảng cách giữa nhu cầu và thực tế trong thị<br />
trường NCKH và muốn khai thác nó. Họ hầu như hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn tài trợ từ bên ngoài<br />
và do đó nổi lên hay tàn đi do nỗ lực của chính họ. Trường ĐH có thể giúp hỗ trợ, và sẽ làm mọi thứ có<br />
thể để tạo môi trường hiệu quả, nhưng rút cục thì các nhà nghiên cứu phải sinh tồn bằng nỗ lực của chính<br />
họ, và khả năng tồn tại này phản ánh chất lượng và tính thiết yếu của những nghiên cứu ấy. Ngược lại,<br />
cách quản lý chủ động vừa hỗ trợ vừa khuyến khích bằng cách trực tiếp xác định nên phát triển lĩnh vực<br />
nghiên cứu nào và phân bổ kinh phí cho những ưu tiên ấy để duy trì bền vững hiệu quả của các quyết<br />
định này. Những quyết định như thế sẽ được đưa ra như thế nào, ở cấp trường hay cấp khoa, bộ môn,<br />
có thể khác nhau tùy nơi, nhưng nó tiêu biểu cho sự dự đoán và điều phối những ảnh hưởng của thị<br />
trường NCKH, cũng như nhằm xây dựng một hồ sơ thành tích quân bình trong cả nhà trường. Cả hai<br />
mô hình quản lý đều muốn khuyến khích những sáng kiến đề xuất, những động lực của cá nhân các nhà<br />
nghiên cứu, và cả hai mô hình đều nhằm vào việc khích lệ động lực, khả năng tưởng tượng của những<br />
nhà khoa học tài năng và có tham vọng. Sự khác biệt của hai mô hình liên quan tới khuôn khổ làm việc<br />
và mức độ tương tác xét về mặt quản lý trong nhà trường.<br />
Thông tin Quốc tế về GDĐH số 12-2014<br />
11<br />
Cơ chế tổ chức<br />
Việc quản lý và khích lệ hoạt Các trường ĐH A, C, D và E Bởi vậy, sáu trường này đã<br />
động NCKH là một nhân tố có cơ chế rất khác, dựa vào cho thấy bốn mô hình quản lý<br />
cốt lõi xác định cơ chế tổ chức các trường trực thuộc thay vì khác nhau. Trong mỗi trường<br />
của cả sáu trường. Không có các khoa. Một trường là một hợp, các trường đều cho rằng<br />
một mô hình độc nhất nào. đơn vị tổ chức lớn hơn, thường cấu trúc hiện hữu đã phản ánh<br />
Theo truyền thống, các khoa có một số ngành gần nhau nhu cầu của việc quản lý<br />
được xem là đơn vị tổ chức hay có liên quan với nhau ví NCKH sao cho có hiệu quả.<br />
chính yếu để thực hiện nghiên dụ như Trường Khoa học Rõ ràng là không có mô hình<br />
cứu, đào tạo, phục vụ về mặt Nhân văn, hay Trường Kỹ nào là sai hay đúng! Cơ cấu<br />
quản lý, và là môi trường văn thuật chẳng hạn. Một lần nữa, của một tổ chức cần phải<br />
hóa trí tuệ cho giới hàn lâm, có thể có hoặc không có quản phản ánh bối cảnh địa<br />
tức cá nhân các nhà khoa học lý cấp trung ở các khoa. Trong phương, nhất là lịch sử và văn<br />
hay các nhóm nghiên cứu. Với các trường, giảng viên có thể hóa của nhà trường, và phạm<br />
trường B và F, các khoa vẫn là tụ lại trong các nhóm nghiên vi của các chuyên ngành. Tuy<br />
đơn vị tổ chức cơ bản, dựa cứu. Tồn tại song song với các thế, những người trả lời phỏng<br />
trên các chuyên ngành riêng trường hoặc trong phạm vi các vấn cũng đã trình bày những<br />
biệt, thí dụ như Khoa Chính trị trường có thể là các trung tâm yêu cầu chung từ đó họ đi<br />
hay Khoa Kỹ nghệ Dân sự. Tuy hay viện nghiên cứu. Vị trí đến những câu trả lời khác<br />
nhiên chức năng quản lý thì ít pháp định của các trung tâm nhau:<br />
nhiều có khác. hay viện nghiên cứu, trọng tâm • Tốc độ đáp ứng – khả năng<br />
Ở trường B, các khoa có vai của hoạt động NCKH là điều đi đến quyết định nhanh<br />
trò lấn át trong việc lên kế được thực thi ở cả sáu trường chóng để đáp ứng kịp thời với<br />
hoạch chiến lược cho NCKH, nhất là trong quan hệ của họ những cơ hội đến từ bên<br />
tìm tài trợ, quản lý và bảo với các khoa hay các trường ngoài. Tất cả các trường đều<br />
đảm chất lượng, và là đầu trực thuộc. Họ có đặc điểm nhấn mạnh nhu cầu nhanh<br />
mối báo cáo cho ban lãnh nhận dạng riêng biệt không? chân chớp lấy cơ hội. Điều<br />
đạo nhà trường. Ở trường F, Họ được cấp kinh phí NCKH này đòi hỏi cơ chế ra quyết<br />
các khoa có gắn bó trực tiếp như thế nào? Vấn đề đầu mối định phải ngắn gọn và các<br />
hơn với việc quản lý NCKH, quản lý được giải quyết ra cấu trúc ban bệ chính thức<br />
với vai trò chủ động trong sao? Trong một số trường phải ít nhất có thể.<br />
phân bổ kinh phí và quản lý hợp, các trung tâm nghiên • Linh hoạt – tiềm năng điều<br />
nhân sự. cứu có một cương vị độc lập chỉnh và tái cấu trúc nguồn lực<br />
gần giống như các khoa (kể cả nguồn nhân lực khoa<br />
(Trường D); trong trường hợp học) mà không phá vỡ tỉ lệ<br />
khác, các trung tâm tồn tại cân xứng. Điều này bao gồm<br />
bên trong các khoa. Điều cốt thành lập và giải thể những<br />
yếu ở tất cả các trường là trung tâm mới khi cần, nhằm<br />
những căng thẳng về mặt phản ánh những đòi hỏi từ bên<br />
quản lý đều được nhận biết và ngoài và những thay đổi trong<br />
giải quyết; bởi những sự các lĩnh vực chuyên ngành<br />
không chắc chắn tiếp diễn (hình thành những chuyên<br />
mãi sẽ dẫn đến không hiệu ngành hay bộ môn mới và suy<br />
quả trong NCKH. tàn những chuyên ngành<br />
khác).<br />
12<br />
<br />
• Số đông đủ lớn – quy mô • Ủy thác trách nhiệm – Tất • Quản lý có hiệu quả –<br />
của một đơn vị tổ chức. Các cả sáu trường đều cho rằng sự Trong tất cả các cuộc phỏng<br />
nhà quản lý cao cấp của cả ủy thác ở mức độ cao trong vấn với những nhà quản lý cấp<br />
sáu trường thường trực dẫn việc quản lý sẽ khích lệ những cao và đội ngũ giảng viên,<br />
chiếu tới tầm quan trọng của sáng kiến đổi mới và giúp ra đã có sự nhấn mạnh thấy rõ<br />
quy mô, cả về mặt hiệu quả quyết định nhanh hơn với đầy đến việc truyền thông giao tiếp<br />
vận hành (chia sẻ chi phí quản đủ thông tin hơn. Điều này và chia sẻ thông tin sao cho<br />
lý NCKH và giảm việc trùng không hề phủ nhận trách có hiệu quả. Cơ hội tham gia<br />
lặp các hoạt động phục vụ hỗ nhiệm tổng thể của nhà trường vào quá trình ra quyết định là<br />
trợ), và về mặt sự hiện diện đối với những chiến lược và một điều quan trọng. Cảm<br />
học thuật (kích thích tương tác thành tựu rộng lớn hơn, mà giác về sự “có liên quan”, cảm<br />
giữa một số lớn giảng viên và điều cốt lõi quan trọng là giác mình là một bộ phận của<br />
tăng cường trải nghiệm nghiên người nghiên cứu có tự do để tổ chức là điều phổ biến ở cả<br />
cứu cho giảng viên cũng như làm việc với sự can thiệp và sáu trường. Tuy vậy, cùng lúc<br />
nghiên cứu sinh. Trong cả sáu làm xao nhãng tối thiểu do thủ đó, có một quan điểm cũng<br />
trường, có một quan điểm tục hành chính quan liêu. không kém mạnh mẽ cho rằng<br />
được nhất trí là những khoa • Sự lãnh đạo mạnh mẽ – “các nhà quản lý cần phải<br />
quy mô nhỏ không còn có thể Các trường ĐHNC được định được phép thực thi công tác<br />
phát triển bền vững như một nghĩa bởi một sự kết hợp giữa quản lý”, và rằng các nhà<br />
đơn vị tổ chức cơ bản trong sự lãnh đạo có tầm nhìn, có nghiên cứu không nên xía vào<br />
một trường ĐHNC như trước sức mạnh với một sự cam kết những chi tiết vụn vặt của việc<br />
được nữa. Có một quan điểm vững chắc không giao động quản lý nhà trường hay quản<br />
chung là ngày nay việc nghiên với sứ mạng nghiên cứu , và sự lý các khoa.<br />
cứu đòi hỏi phải có một nhóm ủy thác trách nhiệm trong việc<br />
tổ chức. Tuy cá nhân các nhà vận hành công việc cụ thể. Sự<br />
nghiên cứu có thể sống sót lãnh đạo mạnh mẽ gắn liền<br />
được trong một số lĩnh vực với sự nhất quán trong mục<br />
nhất định, họ vẫn cần phải hội đích, với tầm nhìn chiến lược<br />
nhập vào một nhóm hay một và khả năng đưa ra những<br />
tập thể rộng hơn. quyết định khó khăn. Một sự<br />
• Nghiên cứu liên ngành – lãnh đạo như thế rất cần có ở<br />
Cả sáu trường đều chia sẻ một cấp cao nhất của nhà trường,<br />
quan điểm chung cho rằng nhưng cũng cần ở cả các<br />
những nghiên cứu quan trọng khoa hay các trường con.<br />
nhất ngày nay đang diễn ra ở<br />
giao điểm của các chuyên<br />
ngành khoa học truyền thống.<br />
Nhu cầu khích lệ và tạo điều<br />
kiện cho những nghiên cứu liên<br />
ngành như thế do vậy là đặc<br />
điểm quyết định của cơ cấu tổ<br />
chức. Ở trường D chẳng hạn,<br />
một phần chủ yếu trong lý do<br />
chuyển từ cấu trúc khoa sang<br />
trường con là mong muốn<br />
khuyến khích những nghiên cứu<br />
liên ngành.<br />
Thông tin Quốc tế về GDĐH số 12-2014<br />
13<br />
<br />
<br />
Bên dưới những ý kiến này là • Điều phối – Mỗi trường đều có một cán bộ quản lý cao cấp,<br />
quan điểm được chia sẻ rộng thường là Phó Hiệu Trưởng phụ trách NCKH. Trong thực tế vai trò<br />
rãi trong cả sáu trường, cho của họ khác nhau khá nhiều. Ở trường F, vị trí này chủ yếu là điều<br />
rằng mô hình cộng sự trong phối chung và làm chính sách; một “nhà vận động, người bảo vệ,<br />
việc quản lý không còn là hình bênh vực cho hoạt động NCKH trong nhà trường”, nhưng ít có vai<br />
thức thích hợp nhất cho các trò trực tiếp trong việc lập kế hoạch chiến lược hay phân bổ<br />
trường ĐHNC hiện đại. Cho nguồn lực. Trái lại, ở trường F, người giữ vị trí này trực tiếp kiểm<br />
rằng các cơ hội được duy trì soát một nguồn lực lớn được dùng cho hoạt động NCKH và khích<br />
để mang lại cảm giác có liên lệ những sáng kiến mới. Trong trường hợp này, người giữ phận sự<br />
đới, và quan trọng nhất để có Phó Hiệu Trưởng phụ trách NCKH cũng sẽ rất chủ động trong việc<br />
được sự tương tác học thuật, khởi xướng quy trình rà soát và xem xét đánh giá hoạt động<br />
các nhà quản lý (cả những NCKh ở các khoa. Tầm quan trọng của người lãnh đạo về NCKH<br />
người thuộc và không thuộc là rõ ràng, vừa như một hình ảnh trung tâm, vừa đem lại hướng đi<br />
giới hàn lâm) cần được tự do chung cho trường hay cho đơn vị.<br />
trong việc quản lý, dựa trên<br />
trách nhiệm giải trình của họ.<br />
Bởi vậy cho nên, trong các<br />
trường ĐHNC, giới hàn lâm<br />
ngày càng (và tự nguyện)<br />
dành một phần thời gian cho<br />
công việc quản lý có liên đới<br />
với vị trí khoa học của họ (ví<br />
dụ như phục vụ trong các hội<br />
đồng mọi loại, tham gia tuyển<br />
sinh, quản lý tài chính, v.v.)<br />
14<br />
<br />
Phòng Hỗ trợ NCKH<br />
Các trường ĐHNC nhấn mạnh • Hỗ trợ và hướng dẫn mọi đôi khi gây ra không hài lòng<br />
việc tạo ra một môi trường làm thủ tục liên quan đến chi phí. nhưng nó được coi là điều cần<br />
việc sẵn sàng giúp đỡ trong Các Phòng NCKH thực hiện làm để tránh hoặc để kiểm<br />
đó việc nghiên cứu được tổ tính toán chi tiết các chi phí soát việc tổn thất tiền bạc cho<br />
chức thực hiện. Về việc này, của dự án nghiên cứu, nói một các tài trợ hay các hợp đồng<br />
cả sáu trường đều có Phòng cách cụ thể, họ có một vai trò NCKH, để bảo đảm chất<br />
Hỗ trợ NCKH. Những hoạt đặc biệt trong việc thanh toán lượng phù hợp và sự điều phối<br />
động cụ thể thì khác nhau ít các chi phí không trực tiếp. nhất quán (ví dụ như để tránh<br />
nhiều giữa các trường, nhưng Trong một thế giới ngày càng nhiều hồ sơ xin tài trợ khác<br />
thông thường bao gồm: cạnh tranh và dựa trên thị nhau cùng nộp cho một cơ<br />
• Điều phối chiến lược NCKH trường, họ ngày càng gắn kết quan tài trợ về cùng một vấn<br />
tổng thể của cả trường. Thật với việc tính toán giá cả chi đề).<br />
thú vị, mức độ tham gia của phí cho NCKH. Một yếu tố quan trọng khác<br />
Phòng NCKH vào việc hình • Điều phối các dự án NCKH trong công việc của các Phòng<br />
thành chiến lược này khác chính yếu. NCKH ở các trường A, E và F,<br />
nhau khá nhiều giữa các • Tư vấn những vấn đề liên là việc dùng “người viết hồ sơ<br />
trường, nó phụ thuộc vào quan đến yếu tố pháp lý và dự án chuyên nghiệp”, những<br />
người lãnh đạo phòng và đạo đức trong NCKH, về người sẽ làm việc cùng các<br />
những người chịu trách nhiệm quyền sở hữu trí tuệ, kể cả việc nhà nghiên cứu để xây dựng<br />
về kế hoạch hoạt động học thực hiện những quy định của dự án mới. Cả sáu trường đều<br />
thuật của nhà trường. nhà trường. Vai trò này có thể nhấn mạnh nhu cầu chuyên<br />
• Thông tin và tư vấn – cung bao gồm cả sự can dự chủ nghiệp hóa dịch vụ hỗ trợ<br />
cấp thông tin về các cơ hội động trong việc thương lượng NCKH nhằm có thể giảm nhẹ<br />
xin tài trợ. Cả sáu trường đều các khoản tài trợ và hợp đồng gánh nặng hành chính cho các<br />
nhấn mạnh chức năng này là NCKH. Mỗi trường đều có nhà khoa học, đồng thời có thể<br />
chủ động, tích cực tìm kiếm các chuyên gia về khai thác khảo sát được những phát triển<br />
các cơ hội tài trợ và hướng kết quả NCKH, chuyển giao mới trong NCKH. Tầm quan<br />
dẫn cụ thể về ưu tiên nghiên công nghệ, kể cả các chuyên trọng của mạng lưới thường<br />
cứu cũng như thủ tục xin tài gia về bằng sáng chế, cấp xuyên được nhắc đến, nhất là<br />
trợ. Nhiều trường đã thường phép và xây dựng các công ty trong việc cạnh tranh để giành<br />
xuyên dẫn chiếu tới nhu cầu của nhà trường. nguồn tài trợ. Quan trọng<br />
biết rõ thông tin bên trong và • Xây dựng bộ quy tắc xử sự không kém là nhu cầu đối với<br />
hiểu rõ những sáng kiến về việc thực hiện NCKH (lưu nhân viên Phòng NCKH: là<br />
nghiên cứu mới trước khi người giữ, bảo quản hồ sơ nghiên những nhà tư vấn xây dựng,<br />
ngoài biết tới nó. cứu như thế nào), phòng tránh hữu ích, là bạn, là thành viên<br />
việc đạo văn. Hầu hết những đương nhiên của nhóm nghiên<br />
việc này về bản chất mang cứu chứ không chỉ là người ra<br />
tính chất tư vấn. Tuy nhiên ở quy định hay bắt buộc người ta<br />
các trường A, C và E, giảng thi hành các quy định. Về mặt<br />
viên muốn xin tài trợ NCKH này cả sáu trường đều tuyển<br />
phải nộp hồ sơ thông qua văn dụng được những người có<br />
phòng này. Sự bắt buộc này kinh nghiệm cá nhân trong<br />
NCKH để làm công việc của<br />
Phòng NCKH.<br />
Thông tin Quốc tế về GDĐH số 12-2014<br />
15<br />
<br />
Quy trình phân bổ nguồn lực<br />
Quy trình chi tiết về việc phân • Khích lệ – Tất cả sáu trường trường thứ sáu là trường tư<br />
bổ nguồn lực được áp dụng đều công nhận tầm quan trọng không vì lợi nhuận. Tuy nhiên,<br />
khác nhau ở mỗi trường, phản của việc đưa ra khích lệ về tài cả sáu trường đều cho thấy sự<br />
ánh sự khác biệt trong cơ chế chính đối với các khoa hay pha trộn nhiều nguồn tài chính<br />
tài trợ NCKH khác nhau giữa trường trực thuộc, và với cá khác nhau từ chính phủ và từ<br />
các nước. Hầu hết dựa trên nhân các nhà nghiên cứu. các nguồn tư nhân, từ các<br />
thu nhập với những trách Những khích lệ như thế thường doanh nghiệp, từ các quỹ<br />
nhiệm tài chính được ủy có liên quan tới tỉ lệ chi phí thiện nguyện, trong nước và<br />
nhiệm. Cụ thể là, các trường gián tiếp của người được tài ngoài nước. Cả sáu trường<br />
thường xuyên nhấn mạnh nhu trợ hay các khoa. Một lựa biểu lộ nhiều hoạt động rất<br />
cầu của các khoa hay các chọn khác là dùng trọng số phong phú trong việc tạo ra<br />
đơn vị trực thuộc được tự do với nghiên cứu sinh và giảm thu nhập, từ lập quỹ hiến tặng<br />
quản lý nguồn lực dành cho chi phí chính một khi thu nhập cho đến vận hành các công ty<br />
hoạt động NCKH của họ từ bên ngoài đạt đến một mức riêng trực thuộc nhà trường,<br />
nhằm tăng cường hiệu quả. độ nhất định. Trường E vận cho thuê cơ sở vật chất và<br />
Tuy nhiên, các cuộc phỏng hành một hệ thống tập trung khai thác bất động sản của<br />
vấn cho thấy có một số hơn khi mọi khoản tài trợ nhà trường. Cả sáu trường đều<br />
nguyên tắc chung có thể áp NCKH đều được tập trung ở lão luyện trong việc quản lý tài<br />
dụng cho các trường ĐHNC: cấp trường và tái phân phối chính. Đa dạng hóa nguồn thu<br />
để khen thưởng cho những mang lại nguồn lực bổ sung<br />
thành công trong việc công bố cho việc đầu tư vào NCKH và<br />
bài báo khoa học và/hoặc giúp nhà trường có thể tiếp tục<br />
thu nhập từ các hoạt động hỗ trợ cho nghiên cứu. Nó<br />
NCKH. giúp các trường có thể lên kế<br />
• Đa dạng hóa nguồn tài trợ hoạch cho tương lai mà không<br />
– Các trường ĐHNC chia sẻ bị phụ thuộc vào một nguồn<br />
một số đặc điểm về mặt tài nào. Hầu hết thu nhập từ<br />
chính nhưng đa dạng hóa NCKH là những khoản “vào<br />
nguồn tài trợ là một nhân tố rồi lại ra”, sử dụng cho một<br />
trọng yếu. Năm trong sáu hợp đồng hay một hoạt động<br />
trường là trường công; được tài trợ nào đó, nhưng sự<br />
đa dạng nguồn thu sẽ mang<br />
lại tiền tươi thóc thật cho các<br />
trường sử dụng theo ý họ. Sự<br />
tự do này thường là rất quan<br />
trọng trong việc phát triển<br />
những hoạt động nghiên cứu<br />
mới mà không phải phụ thuộc<br />
vào việc liệu nó có tạo ra thu<br />
nhập lập tức hay không. Luận<br />
điểm này là cơ sở cho việc<br />
duy trì tài trợ chính phủ cho<br />
NCKH, một điểm đặc biệt<br />
được nhấn mạnh ở các trường<br />
UK và Australia.<br />
16<br />
• Chấp nhận rủi ro – Gắn với • Ý thức về chi phí: Một đặc Trường nào cũng nhấn mạnh<br />
việc sẵn có các nguồn tiền điểm về quản lý tài chính ở cả đến nhu cầu tạo ra nhận thức<br />
được tự do sử dụng là nhu cầu sáu trường ĐHNC này là họ ấy để tránh những thử nghiệm<br />
chấp nhận những khả năng rủi nhận thức rất sâu sắc về chi gánh lấy những việc rẻ tiền bất<br />
ro. Đó có thể là những quyết phí liên quan đến tất cả những kể áp lực đặt ra, thường là do<br />
định đầu tư vào một lĩnh vực gì có can dự đến việc quản lý bản thân các nhà khoa học tự<br />
mới, thiết bị mới hay nhân sự và chuyển giao hoạt động chuốc lấy, những việc mà<br />
mới, hoặc quyết định duy trì NCKH. Cụ thể là, nhu cầu khoản tiền được tài trợ không<br />
một lĩnh vực mà hoạt động bảo đảm những chi phí gián xứng với công sức bỏ ra.<br />
của nó rõ ràng là không đạt tiếp thường xuyên được nhấn Cả sáu trường này đều được<br />
nếu so với một chiến lược phát mạnh, nếu toàn bộ chi phí người ta coi là những trường<br />
triển rõ ràng. Rủi ro phải được không được bảo đảm, nó phải “nhà giàu”. Điều này có thể<br />
quản lý và cân nhắc thận được biết tới một cách rõ ràng gây ra cảm giác không thoải<br />
trọng, nhưng cán bộ cao cấp cùng với những hậu quả. mái cho những trường đang có<br />
của cả sáu trường (nhất là A, Trong hầu hết mọi trường hợp, tham vọng đạt đến địa vị<br />
D, E và F) đều nhấn mạnh nhận thức này, rõ ràng là tạo ĐHNC và có quá nhiều chứng<br />
những đầu tư trước đây trong ra ưu tiên cao cho việc quản cứ ở những trường nhà giàu<br />
các lãnh vực đầy rủi ro đều đã lý, tiêu biểu cho kết quả của này cho thấy nguồn lực mạnh<br />
gặt hái được kết quả xứng việc những nghiên cứu trước đã cho phép họ tiếp tục nâng<br />
đáng về mặt kết quả nghiên đây đã không được tài trợ đầy cao vị trí hơn nữa. Họ có thể<br />
cứu. Quy trình chính thức để đủ bởi các tổ chức tài trợ bên đầu tư vào những thiết bị mới,<br />
quản lý rủi ro đều đã được ngoài, một xu hướng khiến hạ tầng mới, thu hút những<br />
thiết lập ở năm trong sáu các trường gắn mình với người tài giỏi nhất, thường là<br />
trường. những hành động đáng ngờ. lôi kéo từ những trường khác<br />
• Quỹ đầu tư – Cả sáu trường về, bằng cách đó làm cho<br />
đều vận hành một hệ thống tài Trong cả sáu trường có một sự mình mạnh hơn với cái giá mà<br />
chính ủy thác trách nhiệm, công nhận rằng những nghiên người khác phải trả. Tuy thế,<br />
nhưng họ cũng duy trì những cứu không được tài trợ đầy đủ cả sáu trường đều thực thi việc<br />
quỹ phát triển tập trung hoặc như thế không thể nào tồn tại quản lý với sự khôn ngoan và<br />
là bằng “lớp trên cùng” hoặc lâu dài. Cả hai trường của UK thực sự hỗ trợ cho nghiên cứu.<br />
bằng hệ thống thuế nội bộ. chẳng hạn, đều chỉ ra rằng Những thành công đã và<br />
Những quỹ này được dùng kết quả của quy trình rà soát đang đạt được của họ cho<br />
đặc biệt cho việc phát triển minh bạch gần đây đã có tác thấy những gì mà một cơ chế<br />
những lĩnh vực nghiên cứu mới. dụng nổi bật trong việc quản quản lý NCKH có hiệu quả có<br />
Nó cũng được dùng khá phổ lý tài chính đối với NCKH. thể đạt được. Đây là một cuộc<br />
biến cho những chi phí mang Quy trình rà soát này đã nhấn tranh luận đang tiếp diễn, nhất<br />
tính cơ hội, ví dụ để hỗ trợ cho mạnh những trường hợp là ở UK và Australia, nơi đang<br />
việc mời những nhà khoa học