Thực nghiệm mô hình tôm sú - lúa luân canh trên vùng đất phèn nhiễm mặn ở huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang
lượt xem 3
download
Mô hình nuôi tôm sú - lúa luân canh được thực hiện tại xã Lương Nghĩa, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang từ năm 2017-2018 nhằm đánh giá hiệu quả và sự phù hợp với vùng đất phèn bị nhiễm mặn vào mùa khô. Vụ nuôi tôm bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 9, và vụ lúa Đông Xuân bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thực nghiệm mô hình tôm sú - lúa luân canh trên vùng đất phèn nhiễm mặn ở huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II THỰC NGHIỆM MÔ HÌNH TÔM SÚ - LÚA LUÂN CANH TRÊN VÙNG ĐẤT PHÈN NHIỄM MẶN Ở HUYỆN LONG MỸ, TỈNH HẬU GIANG Lê Kim Ngọc1*, Nguyễn Hoàng Tâm1, Phạm Công Lịnh1, Trần Văn Đẹp1, Sơn Ngọc Huyền1, Hứa Huy Bình1, Nguyễn Thị Thùy Lam1, Nguyễn Thị Cẩm Ngân1 TÓM TẮT Mô hình nuôi tôm sú - lúa luân canh được thực hiện tại xã Lương Nghĩa, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang từ năm 2017-2018 nhằm đánh giá hiệu quả và sự phù hợp với vùng đất phèn bị nhiễm mặn vào mùa khô. Vụ nuôi tôm bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 9, và vụ lúa Đông Xuân bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau. Tôm sú (PL16-PL20) được thuần hóa độ mặn xuống 3‰ và thả nuôi trong mô hình quảng canh (QC) với mật độ 2 con/m2, không cho ăn bổ sung, và mô hình quảng canh cải tiến (QCCT) thả với mật độ 4 con/m2, có cho ăn bổ sung. Sau 5 tháng nuôi trong điều kiện độ mặn thấp (dưới 4‰) và thời tiết nắng nóng, nhiệt độ nước trong ruộng cao (30,2-34,1oC), năng suất tôm đạt 104,0-128,7 kg/ha/vụ (mô hình QC) và 228,9-241,2 kg/ha/vụ (mô hình QCCT). Mặc dù, ở mô hình QC lợi nhuận bình quân (13,3 triệu đồng/ha) đạt thấp hơn mô hình QCCT (20,7 triệu đồng/ha) nhưng tỷ suất lợi nhuận (1,1) đạt cao hơn so với mô hình QCCT (0,7). Giống lúa lai BTE1 được sử dụng để gieo xạ ở vụ Đông Xuân, sau 110 ngày gieo trồng, lúa đạt năng suất từ 4,5-6,5 tấn/ha, lợi nhuận đạt từ 12,5-23,4 triệu đồng/ha. Như vậy có thể thấy mô hình nuôi tôm sú - lúa luân canh là lựa chọn phù hợp cho vùng đất phèn bị nhiễm mặn vào mùa khô, đã tận dụng được nguồn nước mặn xâm nhập như một tài nguyên quý giá cùng với đất đai đã mang lại thu nhập đáng kể cho người dân thay vì bỏ đất trống. Tuy nhiên, để mang lại hiệu quả kỹ thuật cũng như hiệu quả về kinh tế cần quản lý tốt các yếu tố môi trường và dịch hại. Từ khóa: đất phèn, Hậu Giang, tôm- lúa, xâm nhập mặn. I. GIỚI THIỆU Biên, tỉnh Kiên Giang cho thấy: (1) Mô hình Nuôi tôm sú luân canh với trồng lúa (tôm- nuôi tôm sú QC, mật độ 2,5 con/m2, không lúa) là hình thức nuôi tôm khá phổ biến ở Đồng cho ăn bổ sung, thời gian nuôi 120 ngày đạt bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), được bắt đầu tỷ lệ sống 35%, kích cỡ thu hoạch 30,5 con/ từ những năm 1970 và phát triển nhanh, nhất kg, năng suất tôm 267 kg/ha/vụ, chi phí đầu là từ sau năm 2000, khi Chính phủ có Nghị tư 16,3 triệu đồng/ha/vụ, lợi nhuận đạt 26,4 quyết cho phép chuyển đổi đất sản xuất kém triệu đồng/ha/vụ; và (2) Mô hình nuôi tôm sú hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản (Nghị quyết QCCT với mật độ 6,5 con/m2, có cho ăn bổ số 09/2000/NQ-CP). Diện tích nuôi tôm-lúa sung thức ăn công nghiệp, thời gian nuôi 100 năm 2000 là 71.000 ha, đã tăng lên hơn gấp ngày đạt tỷ lệ sống 45,3%, kích cỡ thu hoạch đôi vào năm 2014 với 152.977 ha. Mô hình 39,5 con/kg, năng suất tôm 1.164 kg/ha/vụ, QCCT tôm-lúa chiếm tỷ lệ cao ở các tỉnh chi phí đầu tư là 71,9 triệu đồng/ha/vụ và Kiên Giang, Cà Mau và Bạc Liêu, đây là mô lợi nhuận đạt 91,4 triệu đồng/ha/vụ (Trương hình đòi hỏi đầu tư thấp nhưng hiệu quả đầu Hoàng Minh và ctv., 2013). Kết quả điều tra tư cao, bền vững về môi trường (Viện Quản mô hình nuôi tôm QCCT cho thấy, mật độ lý và Phát triển Châu Á-AMDI, 2016). Kết tôm bình quân ở Sóc Trăng là 12,6 con/m2, quả thực nghiệm tại huyện An Minh và An Bạc Liêu 6,23 con/m2 và Cà Mau 4,04 con/m2; 1 Chi cục Thủy sản tỉnh Hậu Giang. * Email: lkngoc82@gmail.com 14 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II năng suất và lợi nhuận trung bình tương ứng này với vùng đất phèn bị nhiễm mặn vào mùa ở Sóc Trăng là 0,83 tấn/ha/năm và 17,5 triệu khô tại địa phương. đồng/ha/năm, Bạc Liêu là 0,42 tấn/ha/năm và 28,6 triệu đồng/ha/năm, Cà Mau là 0,21 tấn/ II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP ha/năm và 18,9 triệu đồng/ha/năm (Lê Thị Thực nghiệm được triển khai từ năm 2017- Phương Mai và ctv., 2016). 2018 với hai mô hình trên diện tích 6,1 ha, trong Hậu Giang là tỉnh nội đồng nằm ở vị trí đó mô hình nuôi tôm sú QC luân canh với lúa trung tâm vùng Tây sông Hậu của ĐBSCL, (mô hình QC) trên diện tích 3,25 ha (03 hộ) và có địa hình trũng thấp, lòng chảo, vừa chịu tác mô hình nuôi tôm sú QCCT luân canh với lúa động mạnh của chế độ triều biển Đông (nhật (mô hình QCCT) trên diện tích 2,85 ha (03 hộ). triều), lại vừa chịu ảnh hưởng mạnh bởi chế độ Các mô hình được triển khai trên 2 vụ gồm: triều biển Tây (bán nhật triều). Những năm gần i) Vụ nuôi tôm bắt đầu từ tháng 3 đến tháng đây, tỉnh Hậu Giang chịu sự tác động lớn của 9 (dương lịch) và ii) Vụ trồng lúa bắt đầu từ biến đổi khí hậu-nước biển dâng, đặc biệt là tháng 10 đến tháng 2 năm sau (dương lịch). Mật năm 2016 tình trạng xâm nhập mặn diễn ra gay độ tôm nuôi trong mô hình QC là 2 con/m2 và gắt trong mùa khô đã ảnh hưởng rất lớn đến sản không bổ sung thức ăn; trong mô hình QCCT xuất và đời sống của nhân dân, nhất là người là 4 con/m2 và có bổ sung thêm thức ăn; tôm sú dân ở huyện Long Mỹ. giống cỡ PL16-PL20, chỉ thả giống 01 lần vào đầu Huyện Long Mỹ nằm phía Tây Nam của vụ; lúa lai BTE1 được gieo sạ trong cả hai mô tỉnh và chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi hình với mật độ 30 kg/ha. khí hậu, xâm nhập mặn thời gian qua. Tại một Các chỉ tiêu môi trường như nhiệt độ, pH, số xã thuộc huyện Long Mỹ, số liệu đo độ mặn hàm lượng oxy hòa tan (DO) trong ruộng nuôi ghi nhận được cho thấy độ mặn dao động từ 0,2- tôm được theo dõi và kiểm tra 1-2 ngày/lần; độ 7,0 ‰ trong tháng 01/2016 và tăng dần trong kiềm, độ trong, độ mặn được theo dõi và kiểm các tháng tiếp theo, độ mặn đạt ngưỡng cao tra 1 tuần/lần. Độ mặn và nhiệt độ được đo bằng nhất trong tháng 4-5, dao động trong khoảng máy đo độ mặn AZ8602, pH được đo bằng bút 10,0-19,7 ‰, sau đó độ mặn giảm dần khi đo pH Hach Pocket Pro, DO và độ kiềm được chuyển sang mùa mưa (Trạm Thủy lợi huyện đo bằng bộ test-kit, độ trong được đo bằng đĩa Long Mỹ, 2016). Do đó, trong mùa khô ở khu secchi. Định kỳ hàng tháng kiểm tra khối lượng vực ngoài đê bao ngăn mặn, các hộ dân không tôm, mỗi lần 25 cá thể/ruộng. Sản lượng tôm, thể sản xuất vụ lúa Hè Thu và thường bỏ ruộng lúa, chi phí và thu nhập của vụ tôm và vụ lúa trống. Vì vậy, để khai thác được tiềm năng đất cũng được theo dõi và ghi nhận. đai, tận dụng nguồn nước mặn xâm nhập trong Ruộng nuôi tôm được thiết kế với mương mùa khô, góp phần tạo việc làm, tăng thêm thu bao quanh chiếm khoảng 15-30% diện tích nhập cho người dân vùng bị nhiễm mặn, mô ruộng, có độ rộng 1,5-3 m, sâu 1,2-1,5 m, bờ bao hình tôm-lúa được đề xuất thực hiện tại khu cao hơn mặt ruộng 1-1,5 m, mặt bờ rộng 1,5-3 vực ngoài đê bao ngăn mặn thuộc địa bàn ấp m (Hình 1). Trước khi thả giống, ruộng được cải 6, xã Lương Nghĩa, huyện Long Mỹ. Qua đó, tạo, diệt tạp và bón phân gây màu nước. đánh giá hiệu quả và sự phù hợp của mô hình TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 15
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Hình 1. Sơ đồ mặt cắt ruộng nuôi tôm. Tôm sú giống cỡ PL16-PL20 được thuần hóa Ruộng sau khi thu hoạch tôm xong được độ mặn đến 3‰ tại trại giống và được kiểm dịch tiến hành rửa mặn, làm đất và gieo sạ vụ lúa trước khi thả nuôi. Sau 3 tháng nuôi tôm bắt đầu Đông Xuân. được thu tỉa, mỗi đợt thu liên tục 2-3 ngày và thu Các bước của quy trình kỹ thuật áp dụng cho hoạch toàn bộ sau khoảng 5 tháng nuôi. từng vụ sản xuất được thực hiện theo sơ đồ sau: Vụ nuôi tôm Vụ trồng lúa Sửa chữa, gia cố công trình ruộng nuôi tôm Rửa mặn, cải tạo đất (san bằng mặt ruộng, ↓7-10 ngày diệt ốc, bón vôi, bón phân) Cải tạo ruộng (ngâm rửa thuốc BVTV còn lại ↓10-15 ngày trên ruộng, sên vét bùn, bón vôi, diệt tạp, gây Chọn mua giống, ngâm ủ và gieo sạ màu nước tạo thức ăn tự nhiên) ↓ 3-5 ngày ↓ 20-30 ngày Chăm sóc, quản lý Chọn mua và thả giống tôm ↓ 105-115 ngày ↓ 3 ngày Thu hoạch lúa Chăm sóc, quản lý ↓ 4-6 tháng Thu hoạch tôm Số liệu được xử lý và phân tích bằng ruộng nuôi tôm QC và QCCT được trình bày thống kê mô tả (trung bình, độ lệch chuẩn, giá trong Hình 2 cho thấy, nhiệt độ nước ruộng trị nhỏ nhất và lớn nhất), so sánh sự khác biệt nuôi tôm QC dao động từ 30,6-32oC vào buổi giá trị trung bình giữa hai mô hình bằng kiểm sáng và 32,9-34oC vào buổi chiều; trong ruộng định mẫu độc lập (Independent Sample T-test, nuôi tôm QCCT dao động từ 30,2-30,9oC vào p
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II khả năng bắt mồi của tôm giảm 30-50%, tôm tôm QC và QCCT đều cao hơn khoảng nhiệt độ sẽ giảm hoạt động tạo điều kiện cho mầm bệnh thích hợp cho tôm sinh trưởng, có khả năng ảnh tấn công. Như vậy, nhiệt độ trong cả ruộng nuôi hưởng đến tốc độ tăng trưởng của tôm nuôi. Hình 2. Biến động nhiệt độ trung bình trong mô hình QC (A) và mô hình QCCT (B). 3.1.2. Sự biến động pH được định kỳ bón vôi và bón phân để duy trì Yếu tố pH nước ruộng nuôi tôm trong mô lượng thức ăn tự nhiên đã góp phần kiểm soát hình QC dao động từ 7,5-8,0 vào buổi sáng và pH nước. Theo Chanratchakool (1995) pH nước 7,9-8,5 vào buổi chiều; trong mô hình QCCT, ao nuôi rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp hoặc pH buổi sáng nằm trong khoảng 7,3-7,8 và buổi gián tiếp đến tôm nuôi, pH thích hợp cho tôm chiều từ 7,7-8,4 (Hình 3). Nhìn chung, pH trong nuôi từ 7,5-8,5 và khoảng dao động hàng ngày cả hai mô hình biến động không đáng kể trong không vượt quá 0,5 đơn vị pH. Do đó, pH trong suốt vụ nuôi, giữa buổi sáng và buổi chiều dao ruộng nuôi biến động trong khoảng thích hợp động không quá 0,5 và có xu hướng tăng dần cho tôm nuôi. vào cuối vụ nuôi. Trong suốt vụ nuôi, các ruộng Hình 3. Biến động pH trung bình trong mô hình QC (A) và mô hình QCCT (B). 3.1.3. Sự biến động hàm lượng oxy hòa buổi chiều. Theo Swingle (1969) hàm lượng tan (DO) DO trong nước lý tưởng cho nuôi tôm sú là trên Kết quả đo DO trong các ruộng nuôi tôm 5 mg/L (trích dẫn bởi Phạm Thị Tuyết Ngân và được ghi nhận và trình bày ở Hình 4 cho thấy Trương Quốc Phú, 2010) và không vượt quá 15 DO tương đối thấp vào buổi sáng và tăng lên mg/L (Whetston và ctv., 2002). DO là yếu tố môi vào buổi chiều, số liệu DO ghi nhận được trong trường quan trọng trong nuôi tôm, ảnh hưởng rõ ruộng nuôi tôm QC dao động từ 3,1-4,5 mg/L rệt đến tỷ lệ sống của tôm nuôi ngay trong 10 vào buổi sáng và 4,9-6,2 mg/L vào buổi chiều; ngày đầu vì sau khi thả giống tôm thường bị yếu trong ruộng nuôi tôm QCCT dao động từ 3,1- hơn do quá trình vận chuyển và phải thích nghi 4,4 mg/L vào buổi sáng và 4,5-6,2 mg/L vào với môi trường sống mới. Khi thiếu oxy làm vi TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 17
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II khuẩn gây bệnh phát triển, tôm sau lột xác dễ nuôi ở cả hai mô hình QC và QCCT đã phần chết, giảm hiệu quả sử dụng thức ăn. Vì vậy, nào ảnh hưởng đến tăng trưởng và tỷ lệ sống DO tương đối thấp vào buổi sáng trong suốt vụ của tôm nuôi. Hình 4. Biến động DO trung bình trong mô hình QC (A) và mô hình QCCT (B). 3.1.4. Sự biến động độ trong Theo Trương Quốc Phú (2006), độ trong thích Kết quả ở Hình 5 cho thấy, trong tháng đầu hợp cho nuôi tôm là từ 30-45 cm. Như vậy, độ tiên độ trong trong mô hình QC dao động từ 32,4- trong ở cả hai mô hình tương đối thấp, độ trong 32,5 cm và mô hình QCCT dao động từ 38,6- giảm từ tháng nuôi thứ 2 trở đi là do khoảng thời 40,8 cm, sau đó trong cả hai mô hình độ trong gian này có xuất hiện nhiều đợt mưa lớn, nước giảm nhiều, dao động trong khoảng 24,5-29,5 cm mưa rửa trôi các vật chất từ trên bờ xuống làm ở mô hình QC và 24,6-28,8 cm ở mô hình QCCT. giảm độ trong của nước trong ruộng. Hình 5. Biến động độ trong trung bình trong mô hình QC và QCCT. 3.1.5. Sự biến động độ mặn và độ kiềm thấp. Theo Yake và ctv., (2001) độ muối tối ưu Kết quả theo dõi độ mặn trong ruộng nuôi cho sự sinh trưởng và phát triển của tôm là 15- tôm QC và QCCT ở Hình 6 (A) cho thấy độ 25‰. Chanratchakool và ctv., (2003) cho rằng mặn bình quân trong ruộng nuôi tôm QC dao tôm nuôi ở nồng độ muối thấp thì bệnh ít xảy ra, động từ 0,5-3,3‰ và ruộng nuôi tôm QCCT dao nhưng độ muối không nhỏ hơn 7‰. Nếu nồng động từ 0,4-3,6‰. Độ mặn biến động theo xu độ muối thấp hơn sẽ làm tôm bị còi, mềm vỏ, tỷ hướng giảm dần từ đầu vụ tôm đến cuối vụ tôm, lệ sống thấp, khi tôm đạt trọng lượng từ 10-12 độ măn đạt rất thấp vào các tháng cuối vụ, độ g thì có thể nuôi ở nồng độ muối thấp mà ít ảnh mặn đã giảm thấp hơn 3‰ từ sau tháng nuôi hưởng đến sự sinh trưởng. Kết quả nghiên cứu đầu tiên và gần như ngọt hoàn toàn vào tháng của Đoàn Xuân Diệp và ctv., (2009) cho rằng có nuôi thứ năm, do thời điểm này lượng mưa ngày thể nuôi tôm sú trong khoảng độ mặn 3-35‰, ở càng nhiều làm cho độ mặn trong ruộng giảm độ mặn 3‰ tăng trưởng của tôm nhanh hơn so 18 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II với ở các độ mặn 15‰, 25‰, 35‰ nhưng tỷ lệ hưởng đến sinh trưởng, phát triển và tỷ lệ sống sống thấp. Như vậy, có thể thấy độ mặn trong của tôm nuôi trong mô hình. ruộng nuôi tôm QC và QCCT giảm thấp sẽ ảnh Hình 6. Biến động độ mặn (A) và độ kiềm (B) trung bình trong mô hình QC và QCCT. Hình 6 (B) cho thấy độ kiềm trong mô hình 7-15 ngày/lần để nâng độ kiềm đạt khoảng thích QC dao động từ 64-94 mgCaCO3/L và mô hình hợp cho tôm, tuy nhiên vào các tháng cuối vụ QCCT dao động từ 58-102 mgCaCO3/L. Độ nuôi, độ mặn nước trong ruộng giảm quá thấp kiềm biến động theo xu hướng tương tự như độ nên chỉ có thể duy trì độ kiềm trong khoảng 58- mặn, giảm dần từ đầu vụ tôm đến cuối vụ tôm. 70 mg CaCO3/L. Theo Nguyễn Mỹ Hoa và ctv., (2010) thì khi 3.2. Kết quả vụ nuôi tôm độ mặn nước ao thấp trong điều kiện ao nuôi Kết quả ở Bảng 1 cho thấy trong hai tháng trên nền đất phèn đã làm cho các ion gây chua đầu, khối lượng trung bình của tôm nuôi trong phóng thích từ đất phèn trung hòa carbonate và mô hình QC cao hơn mô hình QCCT, từ tháng bicarbonate làm giảm độ kiềm; độ kiềm thấp thứ 3 đến tháng thứ 5 thì tôm trong mô hình trong ao nuôi đã ảnh hưởng trực tiếp và gián QCCT có khối lượng trung bình cao hơn mô tiếp đến sinh trưởng của tôm nuôi, làm tôm hình QC. Tuy nhiên, sự chênh lệch về khối mềm vỏ. Trần Văn Hòa và ctv., (2002) cho rằng lượng trung bình của tôm ở 2 mô hình QC và độ kiềm để tôm sú sống được phải cao hơn 20 QCCT từ tháng thứ 1 đến tháng thứ 4 là khác mg CaCO3/L, độ kiềm tối ưu để tôm phát triển biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05), chỉ tốt là 80-120 mg CaCO3/L. Do đó, trong suốt vụ đến tháng thứ 5 thì khối lượng trung bình của nuôi, các ruộng nuôi tôm được bón vôi định kỳ tôm mới khác biệt có ý nghĩa (p
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Sau 90 ngày nuôi, tôm trong mô hình QC và ctv., (2016), thời gian bắt đầu thu tỉa tôm nuôi QCCT có khối lượng cao nhất lần lượt đạt 23,87 QCCT ở Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau trung g/con và 24,1 g/con, tương ướng với 41,96 con/ bình là 121 ngày với kích cỡ tôm thu tỉa bình kg và 41,81 con/kg. Tại thời điểm này tôm sú quân đạt 33,6 con/kg. Tăng trưởng của tôm trên thị trường có giá cao nên các hộ nuôi tiến trong hai mô hình QC và QCCT thấp chủ yếu hành thu tỉa những tôm đạt kích cỡ từ 40-50 là do độ mặn trong ruộng giảm thấp hơn 3‰ con/kg. Việc thu tỉa được duy trì cho đến cuối chỉ sau tháng nuôi đầu tiên, hơn nữa tại thời vụ nuôi với tần suất 2 đợt/tháng, mỗi đợt thu từ điểm đó nước mặn ngoài sông cũng có độ mặn 2-3 ngày theo con nước. Sau 120 ngày nuôi kích thấp, dưới 2,5‰ sau ngày 05/5/2017 (Trạm cỡ tôm thu tỉa bình quân đạt 39,7 con/kg ở mô Thủy lợi huyện Long Mỹ, 2017) nên việc cấp hình QC và 37,3 con/kg ở mô hình QCCT, thấp thêm nước mặn hay thay nước cho ruộng nuôi hơn kết quả điều tra của Lê Thị Phương Mai và đều rất hạn chế. Bảng 2. Năng suất và kích cỡ thu hoạch tôm nuôi trong mô hình QC và QCCT. Năng suất (kg/ha) Tỷ lệ sống (%) Thu hoạch Mô hình GTTB ± SD Cao Thấp GTTB ± SD Cao Thấp Kích cỡ Tỷ lệ (*) nhất nhất (*) nhất nhất (con/kg) (%) 35 - 40 64,2 Mô hình QC 115,1 ± 12,5a 128,7 104,0 27,2 ± 8,5a 36,9 21,6 40 - 50 35,8 35 - 40 88,6 Mô hình QCCT 237,0 ± 7,0b 241,2 228,9 22,5 ± 18,7a 43,2 6,8 40 - 50 11,4 Ghi chú: (*) giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn; các giá trị trên cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II sống và năng suất tôm nuôi trong cả hai mô tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm; ngoài ra, các hình đạt được thấp, nguyên nhân chủ yếu là do ruộng nuôi xuất hiện nhiều cá tạp, cạnh tranh tại thời điểm thực hiện (năm 2017, 2018) các không gian sống, cạnh tranh thức ăn với tôm và yếu tố môi trường không thuận lợi cho sự sinh có khả năng ăn tôm khi lột xác. trưởng và phát triển của tôm, nhiệt độ luôn ở Tỷ lệ tôm đạt kích cỡ 35-40 con/kg đạt cao mức cao 30,2-34,1 C, độ mặn giảm xuống dưới hơn ở mô hình QCCT với 88,6% so với mô o 3‰ và độ trong giảm xuống dưới 30 cm kể từ hình QC chỉ đạt 64,2%; tôm cỡ 40-50 con/kg sau tháng nuôi đầu tiên và độ kiềm ở các tháng đạt 35,8% ở mô hình QC và 11,4% ở mô hình cuối cũng giảm xuống dưới 80 mg CaCO3/L; QCCT (Bảng 2). Yếu tố này cũng tác động đến quá trình nuôi tôm có xuất hiện một số bệnh như thu nhập của mô hình. đóng rong, mòn phụ bộ, đỏ thân cũng làm giảm Bảng 3. Hạch toán kinh tế vụ nuôi tôm trong mô hình QC và QCCT. Chỉ tiêu ĐVT Mô hình QC Mô hình QCCT Tổng chi triệu đồng/ha 12,2 ± 2,5 a 30,9 ± 6,3b - Chi phí cố định (đã tính khấu hao) % 7,7 3,8 - Tôm giống % 19,7 15,5 - Thức ăn % 0 25,1 - Vật tư (vôi, phân, thuốc, hóa chất,…) % 64,4 51,0 - Nhiên liệu % 8,2 4,6 Năng suất kg/ha/vụ 115,1 ± 12,5a 237,0 ± 7,0b 1.000 đồng/ Giá thành 105,4 ± 11,0a 130,6 ± 26,1a kg 1.000 đồng/ Giá bán 201,2 ± 5,1a 203,4 ± 1,4a kg Tổng thu triệu đồng/ha 25,5 ± 3,4a 51,6 ± 1,8b - Tôm % 91,1 93,3 - Thủy sản khác (tép, cá…) % 8,9 6,7 Lợi nhuận triệu đồng/ha 13,3 ± 1,8a 20,7 ± 5,8a Tỷ suất lợi nhuận (LN/TC) 1,1 ± 0,2a 0,7 ± 0,3a Ghi chú: (*) giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn; các giá trị trên cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p0,05). Kết quả thực lợi nhuận đạt thấp hơn (0,5). TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 21
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Khi xét đến cơ cấu chi phí thì khoản chi và độ kiềm, do vậy đã làm tăng chi phí cho vụ mua vôi, phân, thuốc, hóa chất chiếm tỷ trọng nuôi. Về tỷ lệ chi phí thức ăn trong mô hình rất cao, 64,4% ở mô hình QC và 51,0% ở mô QCCT chiếm 25,1%, thấp hơn nghiên cứu của hình QCCT. Kết quả này cao hơn kết quả thực Trương Hoàng Minh và ctv., (2013) với 49%. nghiệm của Trương Hoàng Minh và ctv., (2013) 3.3. Kết quả vụ lúa Đông Xuân với khoản chi phân, thuốc, hóa chất chỉ chiếm Sau vụ nuôi tôm, ruộng được rửa mặn và 25,2% ở mô hình QC và 12,5% ở mô hình chuẩn bị đất gieo sạ vụ lúa Đông Xuân. Với QCCT. Nguyên nhân chi phí vôi, phân, thuốc, giống lúa lai BTE1 (giống lúa của tập đoàn hóa chất cao là do ruộng nuôi trên nền đất phèn Bayer) thì sau 110 ngày gieo sạ, lúa được thu cộng thêm độ mặn thấp trong suốt vụ nuôi nên hoạch và kết quả được trình bày ở Bảng 4. cần tăng cường bón vôi để điều chỉnh độ pH Bảng 4. Hạch toán kinh tế vụ lúa Đông Xuân trong mô hình lúa tôm QC và QCCT. Mô hình Mô hình Chỉ tiêu ĐVT Bình quân QC QCCT Tổng chi triệu đồng/ha 15,3 ± 2,8 a 17,2 ± 2,6a 16,1 ± 2,7 - Chi phí cải tạo đất % 4,0 7,2 5,7 - Chi phí giống % 22,3 19,3 20,7 - Chi phí phân bón % 14,6 20,0 17,5 - Chi phí thuốc BVTV % 21,1 25,3 23,3 - Chi phí chăm sóc và thu hoạch % 36,2 25,5 30,5 - Chi phí nhiên liệu % 1,8 2,7 2,3 Năng suất tấn/ha/vụ 4,5 ± 1,5 a 6,5 ± 1,7a 5,5 ± 1,8 Giá thành đồng/kg 3.413 ± 483a 2.570 ± 199a 2.992 ± 568 Giá bán đồng/kg 5.800 ± 529a 5.733 ± 426a 5.767 ± 446 Tổng thu triệu đồng/ha 27,6 ± 6,0a 40,7 ± 10,0a 34,1 ± 10,3 - Lúa % 93,6 96,2 95,2 - Thu khác (bán rơm) % 6,4 3,8 4,8 Lợi nhuận triệu đồng/ha 12,5 ± 3,3 a 23,4 ± 7,7a 18,0 ± 8,0 Tỷ suất lợi nhuận (LN/TC) 0,8 ± 0,1a 1,4 ± 0,3a 1,1 ± 0,3 Ghi chú: (*) giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn; các giá trị trên cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p0,05). Mau (4-4,2 tấn/ha), Kiên Giang và Trà Vinh Chi phí sản xuất lúa Đông Xuân bình quân (4-5 tấn/ha) (Viện Quản lý và Phát triển Châu là 16,1 triệu đồng/ha, trong đó, chi phí ở mô Á, 2016). Khi so sánh giữa vụ lúa Đông Xuân hình QC (15,0 triệu đồng/ha) thấp hơn ở mô trong mô hình QC và QCCT thì năng suất lúa ở hình QCCT (17,2 triệu đồng/ha) nhưng khác mô hình QCCT (6,5 tấn/ha) đạt cao hơn ở mô biệt không có ý nghĩa (p>0,05). So với kết quả hình QC (4,5 tấn/ha). Sự chênh lệch về năng điều tra của Đỗ Văn Xê (2010) về mô hình lúa 22 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II tôm năm 2008 tại huyện Gò Quao, Kiên Giang, sóc tốt đồng ruộng, kịp thời phát hiện và xử lý vụ lúa Đông Xuân có chi phí bình quân (14,5 bệnh hại, chi phí phân bón, thuốc BVTV vì vậy triệu đồng/ha) thấp hơn trong nghiên cứu này, cũng cao hơn. chỉ bằng 84-96,3%. Với thu nhập 40,7 triệu đồng/ha thì vụ trồng Xét về cơ cấu chi phí thì chi phí phân bón lúa trong mô hình QCCT đã đem lại lợi nhuận bình quân trong nghiên cứu này chiếm 17,5%, là 23,4 triệu đồng/ha và tỷ suất lợi nhuận là 1,4, thấp hơn trong nghiên cứu của Đỗ Văn Xê cao hơn so với vụ trồng lúa trong mô hình QC (2010) với chi phí phân bón vụ Đông Xuân ở cho lợi nhuận là 12,5 triệu đồng/ha và tỷ suất lợ mô hình 2 lúa chiếm 30,1% (6,0 triệu đồng/ha). nhuận là 0,8. Tuy nhiên, lợi nhuận và tỷ suất lợi Điều này cho thấy khi nuôi tôm luân canh trên nhuận giữa hai mô hình khác biệt không có ý ruộng lúa, chất thải vụ nuôi tôm để lại đã góp nghĩa thống kê (p>0,05). phần giảm lượng phân bón cho vụ lúa. Theo Xét đến hiệu quả kinh tế của toàn hệ thống logic này thì mô hình QCCT với mật độ tôm tôm – lúa (Bảng 5) cho thấy, ở mô hình QC chi nuôi cao hơn và có bổ sung thức ăn sẽ có lượng phí đầu tư 27,2 triệu đồng/ha, doanh thu 53,0 bùn thải nhiều hơn và chi phí phân bón cho vụ triệu đồng/ha và lợi nhuận 25,8 triệu đồng/ha, lúa cũng sẽ giảm hơn nhưng thực tế ghi nhận thấp hơn so với mô hình QCCT với chi phí, chi phí phân bón vẫn chiếm tỷ lệ (20%) cao hơn doanh thu và lợi nhuận tương ứng là 48,2 triệu ở mô hình QC (14,6%). Qua ghi nhận thực tế, đồng/ha, 92,3 triệu đồng/ha và 44,1 triệu đồng/ trong thời gian gieo trồng vụ lúa Đông Xuân ha và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p0,05). Bảng 5. Hiệu quả kinh tế của mô hình lúa - tôm QC và QCCT. Chỉ tiêu Mô hình QC Mô hình QCCT Bình quân Năng suất tôm (kg/ha/vụ) 115,1 ± 12,5 a 237,0 ± 7,0 b 176 ± 67,3 Năng suất lúa (tấn/ha/vụ) 4,5 ± 1,5a 6,5 ± 1,7a 5,5 ± 1,8 Chi phí lúa - tôm (triệu đồng/ha) 27,2 ± 5,3a 48,2 ± 8,8b 37,7 ± 13,2 Doanh thu lúa - tôm (triệu đồng/ha) 53,0 ± 9,2a 92,3 ± 10,4b 72,7 ± 23,2 Lợi nhuận lúa - tôm (triệu đồng/ha) 25,8 ± 4,4a 44,1 ± 2,0b 35,0 ± 10,5 Tỷ suất lợi nhuận lúa - tôm (LN/TC) 0,95 ± 0,12a 0,94 ± 0,13a 0,94 ± 0,11 Ghi chú: (*) giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn; các giá trị trên cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II tạp, có thể giúp nông dân chuyển đổi mô hình LỜI CẢM ƠN sản xuất để thích ứng với xâm nhập mặn, góp Nghiên cứu là một phần của dự án khoa phần tăng thêm thu nhập trên cùng một đơn vị học cấp tỉnh “Xây dựng và phát triển mô hình diện tích đất canh tác. Do đó, việc phát triển mô tôm – lúa luân canh trên vùng đất phèn nhiễm hình luân canh tôm sú-lúa là xu hướng tất yếu mặn ở huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang”. Nhóm cho vùng bị xâm nhập mặn, đồng thời cũng phù tác giả xin chân thành cảm ơn Sở Khoa học và hợp với định hướng phát triển của ngành nhằm Công nghệ tỉnh Hậu Giang đã cấp kinh phí thực thực hiện Quyết định số 79/QĐ-TTg ngày 18 hiện; cảm ơn Ban Lãnh đạo Sở Nông nghiệp tháng 01 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ và PTNT đã quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thuận lợi để triển khai dự án; cảm ơn Phòng phát triển ngành tôm Việt Nam đến năm 2025 Nông nghiệp và PTNT và Trạm khuyến nông và Quyết định 3475/QĐ-BNN-TCTS ngày 30 huyện Long Mỹ, UBND xã Lương Nghĩa đã tháng 8 năm 2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát phối hợp tốt trong quá trình triển khai thực hiện. triển nông thôn phê duyệt Đề án tổng thể phát triển ngành công nghiệp tôm nước lợ Việt Nam TÀI LIỆU THAM KHẢO đến năm 2030. Theo đó, chỉ tiêu phân bổ cho Tài liệu tiếng Việt tỉnh Hậu Giang đến năm 2025 là 500 ha nuôi Đỗ Văn Xê, 2010. So sánh hiệu quả kinh tế của tôm nước lợ QC, QCCT. hai mô hình canh tác nông nghiệp tại huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang. Tạp chí khoa học Trường IV. KẾT LUẬN Đại học Cần Thơ, 2010:13, 120-125. Đoàn Xuân Diệp, Đỗ Thị Thanh Hương và Nguyễn Nuôi tôm sú ở mô hình QC (mật độ 2 con/ Thanh Phương, 2009. Ảnh hưởng của độ mặn lên m và không cho ăn bổ sung) đạt năng suất 2 điều hòa áp suất thẩm thấu và tăng trưởng của tôm 104,0-128,7 kg/ha/vụ, lợi nhuận bình quân 13,3 sú (Penaeus monodon). Tạp chí khoa học Trường triệu đồng/ha, thấp hơn mô hình QCCT (mật độ Đại học Cần Thơ, 2009:11, trang 206 – 216. 4 con/m2 và có cho ăn bổ sung) với năng suất Lê Thị Phương Mai, Võ Nam Sơn, Dương Văn Ni và 228,9-241,2 kg/ha/vụ, lợi nhuận bình quân 20,7 Trần Ngọc Hải, 2016. Đánh giá tác động của biến triệu đồng/ha. Tuy nhiên, tỷ suất lợi nhuận ở mô đổi khí hậu và giải pháp ứng phó trong mô hình hình QC (1,1) cao hơn ở mô hình QCCT (0,7). tôm sú quảng canh cải tiến ở Đồng bằng sông Giống lúa lai BTE1 thích hợp với vùng Cửu Long. Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần đất phèn bị nhiễm mặn vào mùa khô, năng suất Thơ, 2016:42a, trang 28-39. vụ Đông Xuân dao động từ 4,5-6,5 tấn/ha, lợi Nguyễn Mỹ Hoa, Tạ Văn Phương và Phan Thanh nhuận đạt từ 12,5-23,4 triệu đồng/ha. Bằng, 2010. Khảo sát tính chất môi trường Mô hình nuôi tôm sú luân canh với trồng đất, nước của mô hình nuôi tôm sú (Penaeus lúa phù hợp với vùng đất phèn bị nhiễm mặn monodon) kết hợp với lúa, màu trên vùng đất vào mùa khô. Mô hình đã tận dụng được nguồn phèn nhiệm mặn ở Hậu Giang. Phần I: Tính chất môi trường nước. Tạp chí khoa học Trường Đại nước mặn xâm nhập như một tài nguyên quý học Cần Thơ, 2010:16b, trang 80-87. giá cùng với đất đai đã mang lại thu nhập đáng Trạm Thủy lợi huyện Long Mỹ, 2016. Báo cáo diễn kể cho người dân thay vì bỏ đất trống trong mùa biến tình hình xâm nhập mặn trên địa bàn huyện khô. Tuy nhiên, để mang lại hiệu quả kỹ thuật Long Mỹ từ tháng 01 đến tháng 05 năm 2016, cũng như hiệu quả về kinh tế cần quản lý tốt các Hậu Giang. yếu tố môi trường, dịch hại. Trạm Thủy lợi huyện Long Mỹ, 2017. Báo cáo diễn 24 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II biến tình hình xâm nhập mặn trên địa bàn huyện for Aquaculture and Aquatic Environments Long Mỹ từ tháng 01 đến tháng 05 năm 2017, Alabama Agriculture Experiment Station Auburn Hậu Giang. University, Auburn, Alabama. 37p. Trần Văn Hòa, Trần Văn Đởm và Đặng Văn Khiêm, Chanratchakool, P., 1995. White patch disease of 2002. Kỹ thuật nuôi thâm canh tôm sú. Tái bản black tiger shrimp (Penaeus monodon). AAHRI lần thứ 2. 101 câu hỏi thường gặp trong sản xuất Newsletter. 4, 3. nông nghiệp. Nhà xuất bản Tuổi trẻ, 2002, 122 Chanratchakool, P., J.F., Turnbull, S.J., Funge- trang, trang 8-53. Smith, I.H., Macrae and C., Limsuwan, 2003. Trương Hoàng Minh, Trần Hoàng Tuân và Trần Trọng Quản lý sức khỏe tôm trong ao nuôi. Tái bản Tân, 2013. So sánh hiệu quả sản xuất của hai mô lần 4. Người dịch: Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn hình tôm sú - lúa luân canh truyền thống và cải Thanh Phương, Đặng Thị Hoàng Oanh và Trần tiến ở tỉnh Kiên Giang. Tạp chí khoa học Trường Ngọc Hải. Danida-Bộ Thủy sản 2003. 153p. Đại học Cần Thơ, 2013:28b, trang 143-150. Whetstone, J.M., G.D., Treece, C.L.B. and A.D., Trương Quốc Phú, 2006. Giáo trình Quản lý chất Stokes, 2002. Opportunities and Constrains in lượng nước. Khoa Thủy sản, Trường Đại học Marine Shrimp Farming. Southern Regional Cần Thơ. 201p. Aquaculture Center (SRAC) publication Viện Quản lý và Phát triển Châu Á, 2016. Hiện trạng No.2600 USDA. phát triển tôm-lúa vùng ĐBSCL. 74 trang, Hà Nội. Yake, W.M., T.B., Ratnayate, R.M.T.K and Tài liệu tiếng Anh Edirisinghe, 2001. Experiment culture of tiger Boyd, C.E., 1998. Water Quality for Pond shrimp (Penaeus monodon) in low salinity Aquaculture. Research and Development Series enviroment in Srilanka. Asian Fisheris Forum, No. 43 August 1998. International Center Kaohsing (Taiwan). TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 25
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II TRIAL THE SHRIMP - RICE ROTATIONAL FARMING MODEL ON SALINE – AFFECTED ACID SULPHATE SOILS IN LONG MY DISTRICT, HAU GIANG PROVINCE Le Kim Ngoc1*, Nguyen Hoang Tam1, Pham Cong Linh1, Tran Van Dep1, Son Ngoc Huyen1, Hua Huy Binh1, Nguyen Thi Thuy Lam1, Nguyen Thi Cam Ngan1 ABSTRACT The shrimp-rice rotational farming model was carried out in Luong Nghia commune, Long My district, Hau Giang province between 2017 and 2018 to evaluate the efficiency and suitability of this model on saline – affected acid sulphate soils during the dry season. Shrimp farming crop began from March to September, and the rice crop practiced between October and February of the following year. Black tiger shrimp (Penaeus monodon) (PL16-PL20) was domesticated salinity until approximately of 3‰, and shrimp stocked in the extensive system (ES) with a density of 2 PL/m2, without feeding supplements and in the improved-extensive system (IES) with a density of 4 PL/m2 and adding feed during production cycle. After 5 months of grow-out farming in low salinity conditions (≤ 4‰) and hot weather, high temperature of pond water in the rice-fields (30.2 – 34.1oC), shrimp yield reached 104.0 – 128.7 kg/ha/crop in ES and 228.9 – 241.2 kg/ha/crop in IES. Although average profit of the ES (13.3 million VND/ha) was lower than that of the IES (20.7 million VND/ha), its the cost benefit ratio (1.1) was higher than that of the IES (0.7). BTE1 hybrid rice seeds were used to sow in the rice crop, after 110 days of planting, the rice yield was 4.54 – 6.49 tons/ha, the profit was 12.5 – 23.4 million VND/ha. Thus, it demonstrates that the shrimp-rice rotational farming model could be an appropriate choice for saline – affected acid sulfate soil in the dry season; the water-saline intrusion source that is a valuable natural resource and an available local rice field source are exploited, and it contributes significant income for local people, instead of empty rice-fields in this season. However, in order to bring the technical efficiency as well as economic efficiency, it is required good management measurements of environmental factors and pests. Keywords: acid sulphate soil, Hau Giang, salinity intrusion, shrimp – rice. Người phản biện: PGS. TS. Võ Nam Sơn Người phản biện: TS. Phan Thanh Lâm Ngày nhận bài: 02/4/2020 Ngày nhận bài: 02/4/2020 Ngày thông qua phản biện: 30/4/2020 Ngày thông qua phản biện: 29/4/2020 Ngày duyệt đăng: 25/5/2020 Ngày duyệt đăng: 25/5/2020 1 Hau Giang Fisheries Department. * Email: lkngoc82@gmail.com 26 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Mô hình sản xuất giống và nuôi cá bống tượng công nghiệp
8 p | 215 | 44
-
NUÔI THÂM CANH TÔM ĐẢM BẢO AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM THEO MÔ HÌNH GAqP part 4
13 p | 99 | 9
-
Cá điêu hồng sống cùng tôm sú
9 p | 101 | 9
-
Phòng virus đốm trắng bằng cách cho tôm sú (Penaeus monodon) ăn vi khuẩn có chứa VP28dsRNA
2 p | 89 | 9
-
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong tự động hóa nhận dạng bệnh trên tôm sú
7 p | 13 | 7
-
Giải pháp kiểm soát khí độc ammonia, hydrogen sulfide trong mô hình nuôi tôm sú thâm canh trên đất phèn tỉnh Cà Mau
8 p | 90 | 7
-
Ảnh hưởng của việc kết hợp hai khẩu phần thức ăn lên hoạt động sinh sản ở tôm sú nuôi, Penaeus monodon
2 p | 77 | 7
-
Thực nghiệm nuôi thâm canh tôm sú (Penaeus monodon) kết hợp cá nâu (Scatophagus argus) ở các mật độ khác nhau
7 p | 61 | 5
-
Quản lý ao trong nuôi tôm thay nước ít
4 p | 83 | 4
-
Nuôi tôm sú nước lạt và vấn đề môi trường
4 p | 110 | 4
-
Tạp chí Nghề cá sông Cửu Long: Số 13/2019
108 p | 46 | 4
-
Thực nghiệm mô hình luân canh tôm sú – lúa xen canh tôm càng xanh toàn đực
11 p | 46 | 4
-
Đánh giá hiệu quả môi trường và tài chính mô hình quảng canh cải tiến nuôi ghép cá măng biển (Chanos chanos) với tôm sú (Penaeus monodon) tại huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang
13 p | 12 | 4
-
Hiện trạng nghề nuôi tôm sú Penaeus monodon (Fabricius, 1798) trong mương khóm Ananas comosus tại Gò Quao – Kiên Giang và ảnh hưởng của mật độ nuôi đến hiệu quả nuôi tôm của mô hình
10 p | 7 | 3
-
Yếu tố ảnh hưởng đến thiệt hại do bệnh trong nuôi Tôm Sú (Penaeus monodon Fabricius, 1798) tại tỉnh Sóc Trăng
8 p | 66 | 3
-
Đánh giá hiệu quả của một số phương pháp cải tạo đất nhiễm mặn điều kiện thí nghiệm trong nhà lưới
9 p | 11 | 2
-
Sở thích của nông dân đối với nuôi tôm công nghệ cao theo vùng sản xuất
9 p | 5 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn