intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực trạng công tác thanh tra và những vấn đề đang đặt ra

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

211
lượt xem
49
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tổ chức và hoạt động thanh tra hiện nay được thực hiện trên cơ sở Luật Thanh tra năm 2004 và các văn bản có liên quan như Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998... Tổ chức và hoạt động thanh tra hiện nay được thực hiện trên cơ sở Luật Thanh tra năm 2004 và các văn bản có liên quan như Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2005, 2006), Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2007)... với những mảng hoạt động chủ yếu về công tác...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực trạng công tác thanh tra và những vấn đề đang đặt ra

  1. Khoa học pháp lý Thực trạng công tác thanh tra và những vấn đề đang đặt ra
  2. Tổ chức và hoạt động thanh tra hiện nay được thực hiện trên cơ sở Luật Thanh tra năm 2004 và các văn bản có liên quan như Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998... Tổ chức và hoạt động thanh tra hiện nay được thực hiện trên cơ sở Luật Thanh tra năm 2004 và các văn bản có liên quan như Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2005, 2006), Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2007)... với những mảng hoạt động chủ yếu về công tác thanh tra; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; công tác phòng, chống tham nhũng. Ngoài ra, Thanh tra Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra. Kể từ khi Luật Thanh tra được ban hành, các tổ chức thanh tra đã được kiện toàn một bước và hoạt động thanh tra cũng đã có những kết quả nhất định, tuy nhiên cho đến nay đã nảy sinh những vấn đề bất cập cần nghiên cứu, sửa đổi bổ sung cho phù hợp. Đó cũng chính là những vấn đề mà bài viết này muốn đề cập. 1. Thực trạng hiệu lực hiệu quả của công tác thanh tra và những vấn đề đang đặt ra 1.1. Về công tác thanh tra Hằng năm, căn cứ vào chỉ đạo của Chính phủ và các yêu cầu phát sinh trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, Thanh tra Chính phủ xây
  3. dựng Kế hoạch thanh tra trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt. Dựa trên Kế hoạch thanh tra được phê duyệt, Thanh tra Chính phủ tiến hành xây dựng Chương trình kế hoạch công tác cho cơ quan Thanh tra Chính phủ và định hướng công tác thanh tra cho toàn ngành, gồm các cơ quan thanh tra bộ, ngành và theo cấp hành chính. Kế hoạch thanh tra hằng năm và Chương trình kế hoạch công tác của Thanh tra Chính phủ chủ yếu tập trung vào các chương trình, dự án trọng điểm quốc gia hoặc các bộ, ngành và uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố. Bên cạnh đó, Thanh tra Chính phủ chủ trì, hướng dẫn Thanh tra tỉnh, thành phố tiến hành thanh tra chuyên đề diện rộng về các nội dung nổi cộm trên toàn quốc và theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Trung bình hằng năm, Thanh tra Chính phủ tiến hành khoảng 30 đến 40 cuộc thanh tra theo chương trình, kế hoạch hoặc thanh tra đột xuất do Thủ tướng Chính phủ giao. Bên cạnh đó, Thanh tra Chính phủ cũng chủ trì, chỉ đạo các cơ quan thanh tra cấp tỉnh, thành phố tiến hành thanh tra theo khoảng 3 - 4 chuyên đề. Kết quả thanh tra tổng kết hằng năm thường tập trung về các nội dung, bao gồm tổng giá trị sai phạm (bằng tiền và hiện vật, như đất đai); tổng giá trị kiến nghị xử lý thu hồi với các hình thức như giảm trừ, xuất toán…; tổng giá trị thu hồi; tổng số các vụ việc và cá nhân kiến nghị xử lý hành chính; tổng số các vụ việc và cá nhân kiến nghị cơ quan điều tra xử lý hình sự. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động thanh tra, Thanh tra Chính phủ cũng đã giúp
  4. Chính phủ chấn chỉnh công tác quản lý trên các lĩnh vực tiến hành thanh tra. Tuy nhiên, qua tổng hợp kết quả thanh tra một số năm gần đây cho thấy một số vấn đề làm giảm hiệu quả hiệu lực của công tác thanh tra như sau: - Thứ nhất, Thanh tra Chính phủ và ngành Thanh tra thường gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực hiện được chương trình, kế hoạch của mình. Trên thực tế, Thanh tra Chính phủ và ngành Thanh tra nói chung còn phải tiến hành thêm nhiều cuộc thanh tra đột xuất theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. Nhiều cuộc thanh tra được triển khai từ cuối năm này và kết thúc trong năm kế tiếp. Tuy nhiên, việc điều chỉnh chương trình, kế hoạch thanh tra vẫn chưa được thực hiện. Các cuộc thanh tra thường kéo dài, trong quá trình thanh tra gặp nhiều khó khăn, giai đoạn kết thúc thường chậm và phức tạp nhất là khi các cơ quan có liên quan có ý kiến khác nhau. - Thứ hai, tỷ lệ thực hiện kiến nghị xử lý sau thanh tra thường không cao. Riêng đối với kiến nghị xử lý hành chính và hình sự đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm, chưa thống kê được chính thức. Trên thực tế, với quy định hiện hành về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, Thanh tra Chính phủ nói riêng và ngành Thanh tra nói chung cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc theo dõi và nắm thông tin về vấn đề này. - Thứ ba, việc đánh giá tác động của hoạt động thanh tra nhằm
  5. nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực đã tiến hành thanh tra chưa được thực hiện. Trên thực tế, trong từng kết luận thanh tra cụ thể và sau các cuộc thanh tra chuyên đề diện rộng, Thanh tra Chính phủ và cơ quan thanh tra đều đưa ra kiến nghị hoàn thiện về chủ trương, chính sách và pháp luật. Tuy nhiên, qua tổng hợp kết quả thanh tra trong một số năm trở lại đây cho thấy, chất lượng của các kiến nghị này thường không đồng đều, nhiều trường hợp, kiến nghị còn thiếu cụ thể, chưa thuyết phục. Việc theo dõi, đánh giá tác động tổng thể của hoạt động thanh tra đối với từng lĩnh vực quản lý nhà nước để từ đó tiếp tục có các biện pháp tăng cường chưa được thực hiện. Từ thực trạng phân tích trên, có thể thấy rằng, mặc dù hoạt động thanh tra được tiến hành thường xuyên, liên tục nhưng còn tương đối dàn trải, thiếu tính chủ động, hiệu lực thực hiện các kết luận thanh tra còn chưa cao, hiệu quả của công tác thanh tra đối với việc hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý còn có phần hạn chế. Có thể chỉ ra đây một số nguyên nhân của tính hình này như sau: Sự phụ thuộc của các cơ quan thanh tra nhà nước vào cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp cả về về tổ chức, nhân sự, kinh phí, trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra,* trong quá trình tiến hành thanh tra cũng như giai đoạn kết thúc, kết luận và kiến nghị xử lý. Tính chủ động và độc lập trong hoạt động thanh tra là điều kiện quan trọng để bảo đảm hiệu lực của hoạt động thanh tra. Các tổ
  6. chức thanh tra còn chưa thực sự chủ động trong công tác thanh tra, chương trình kế hoạch thanh tra nhiều khi còn bị động do phải thực hiện các nhiệm vụ đột xuất. Công tác chỉ đạo việc xây dựng kế hoạch cũng như thực hiện kế hoạch của Thanh tra Chính phủ nhằm bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động thanh tra của toàn ngành là hết sức khó khăn, những hướng dẫn hoặc chỉ đạo của Thanh tra Chính phủ thường không mang tính ràng buộc hoặc tính hiệu lực không cao. Các kết luận thanh tra, mặc dù Luật quy định thuộc quyền hạn của người ra quyết định thanh tra, nhưng trên thực tế vẫn phải chờ xin ý kiến của cấp trên vì thường liên quan đến trách nhiệm quản lý của các cán bộ chủ chốt. Bên cạnh đó, các kết luận kiến nghị của các tổ chức thanh tra chưa được các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan nghiêm chỉnh thực hiện trong khi đó chưa có cơ chế để bảo đảm việc thực hiện các kết luận kiến nghị này. 1.2. Trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo Theo quy định của pháp luật, các tổ chức thanh tra nhà nước có trách nhiệm giúp thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân và giải quyết các khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực hành chính. Trong năm qua, các cơ quan hành chính nhà nước đã tiếp nhận 216.515 đơn thư khiếu nại, tố cáo. Trong đó Thanh tra Chính phủ nhận 58.676 đơn, các bộ, ngành trung ương nhận 33.180 đơn, các địa phương nhận 124.459 đơn. Qua phân loại đơn cho thấy, có
  7. 79.258 vụ việc khiếu nại (tăng 21,24% so với năm 2006) và 9.860 vụ việc tố cáo (giảm 16,4% so với năm 2006)(1). Tổng hợp kết quả tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo cho thấy một số vấn đề sau: - Thứ nhất, tình hình khiếu kiện trong thời gian gần đây vẫn tiếp tục gia tăng, đặc biệt là khiếu kiện vượt cấp, khiếu kiện đông người, mặc dù Thanh tra Chính phủ đã có những biện pháp tháo gỡ, như trực tiếp làm việc với các địa phương. Điều đó cho thấy chất lượng của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo còn nhiều hạn chế từ khâu tiếp dân, đối thoại với dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. - Thứ hai, việc theo dõi, đôn đốc và bảo đảm thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại, xử lý tố cáo đã có hiệu lực pháp luật còn nhiều hạn chế. Sáu tháng đầu năm 2007, kết quả rà soát tình hình thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật cho thấy, trong 2.006 quyết định đã ban hành thì chỉ có 1.171 quyết định được thực hiện, còn tồn 835 quyết định chưa được thực hiện. Qua tổng kết thực tiễn, bước đầu có thể đưa ra một số nguyên nhân dẫn đến* hạn chế trong công tác này như sau: a) Hệ thống văn bản pháp luật về khiếu nại, tố cáo còn chưa hoàn thiện và thiếu đồng bộ Đây là nguyên nhân đầu tiên và quan trọng nhất. Qua rà soát, đánh giá cho thấy, hệ thống pháp luật về khiếu nại, tố cáo còn nhiều bất cập, đặc biệt là tình trạng mâu thuẫn giữa Luật Khiếu
  8. nại, tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành với các quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong các lĩnh vực quản lý nhà nước khác, như đất đai, tài nguyên môi trường liên quan đến quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại; thiếu đồng bộ và mâu thuẫn với Pháp lệnh giải quyết các vụ án hành chính (sửa đổi, bổ sung) cũng về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện trong lĩnh vực đất đai. b) Thiếu các biện pháp xem xét, đánh giá và xử lý trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan hành chính các cấp trong việc tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo dẫn đến việc đơn thư khiếu tố có xu hướng dồn lên trung ương Trên thực tế, có nhiều trường hợp, thủ trưởng cơ quan hành chính các cấp còn coi nhẹ công tác này, việc thực hiện các nghĩa vụ về phía cơ quan hành chính trong các quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo đã có hiệu lực pháp luật còn chưa kịp thời, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Tỷ lệ thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật còn hạn chế. Việc thiếu cơ chế xem xét, đánh giá và xử lý trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan hành chính các cấp trong công tác tiếp công dân chính là một trong các nguyên nhân làm giảm vai trò của Thanh tra Chính phủ trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thời gian vừa qua. c) Thiếu cơ chế bảo đảm tính độc lập, khách quan và chuyên nghiệp trong giải quyết khiếu nại hành chính Đây là nguyên nhân cơ bản nhất ảnh hướng đến vai trò của Thanh
  9. tra Chính phủ trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giải quyết khiếu nại hành chính. Theo mô hình hiện tại, người có thẩm quyền giải quyết các khiếu nại hành chính là thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức thanh tra nhà nước đóng vai trò giúp thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước trong công tác này. Mô hình này có ưu điểm là giúp cơ quan hành chính hoặc người có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, song lại tạo ra cho người khiếu nại những e ngại về tính khách quan trong quá trình giải quyết. Các tổ chức thanh tra trên thực tế là lực lượng chính giúp thủ trưởng các cơ quan nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại tố cáo, nhưng quyền hạn lại rất hạn chế. Đó là chưa kể trong một số trường hợp sự khác nhau về quan điểm giải quyết giữa cơ quan thanh tra với các cơ quan chuyên môn khiến cho việc giải quyết bị kéo dài. 1.3. Trong lĩnh vực phòng ngừa, chống tham nhũng Kể từ khi Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 có hiệu lực, bên cạnh việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng qua hoạt động thanh tra, Thanh tra Chính phủ đã tiến hành các cuộc thanh tra kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng. Bước đầu, qua kiểm tra, thanh tra đã giúp các Bộ, ngành và địa phương nâng cao hơn nữa công tác phòng, chống tham nhũng trên các lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước tương ứng. Công tác này cũng góp phần giúp các Bộ, ngành và địa phương tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể
  10. chế, chính sách về phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, việc thực hiện nhiệm vụ này còn có những điểm hạn chế như sau: - Thứ nhất, kết quả phòng chống tham nhũng của ngành chưa tương xứng với yêu cầu thực tiễn đặt ra. Các báo cáo về công tác phòng, chống tham nhũng thời gian vừa qua đều có một nhận định chung là khả năng phòng ngừa, phát hiện tham nhũng từ bên trong các cơ quan nhà nước thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra còn thấp. Đa số các vụ việc tham nhũng được phát hiện là thông qua tố cáo của người dân hoặc qua phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng. Kết quả đánh giá công tác thanh tra thời gian qua cho thấy đây là một thực tế cần khắc phục. Trong nhiều trường hợp, cơ quan thanh tra cũng đã phát hiện và đề xuất kiến nghị xử lý, song việc thực hiện các kết luận thanh tra còn nhiều hạn chế. Thêm vào đó, hoạt động thanh tra chưa tạo ra một cơ chế phòng ngừa thông qua việc theo dõi, giám sát và đánh giá tác động đối với hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực đã tiến hành thanh tra. - Thứ hai, việc thanh tra thực hiện quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng còn nhiều hạn chế. Trong năm 2007, Thanh tra Chính phủ mới chỉ thanh tra nhằm xem xét bước đầu về trách nhiệm của các bộ, ngành và uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trong quá trình triển khai Luật Phòng, chống tham nhũng. Nội dung thanh tra bước đầu tập trung vào các vấn đề, như việc ban hành các văn bản tổ chức thực hiện
  11. Luật; thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động; việc thực hiện chế độ thanh tra, kiểm tra nội bộ nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng. Kết quả thanh tra vẫn chưa làm rõ được những lĩnh vực có nguy cơ phát sinh tham nhũng thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của từng bộ, ngành hoặc uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố và các biện pháp đã được áp dụng để phòng ngừa, phát hiện. Hoạt động thanh tra cũng chưa đánh giá được những tác động từ việc thực hiện công khai, minh bạch ở các cơ quan, đơn vị là đối tượng thanh tra để từ đó đề xuất các biện pháp, kiến nghị khắc phục. Từ thực trạng phân tích trên, có thể thấy vai trò của Thanh tra Chính phủ nói riêng cũng như của ngành thanh tra nói chung trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng chưa được xác định rõ ràng nên hiệu quả phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng là chưa cao. Qua phân tích và đánh giá thực trạng cho thấy vấn đề nêu trên xuất phát từ một số nguyên nhân sau đây:* a) Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mô hình tổ chức công tác phòng, chống tham nhũng của ngành Thanh tra chưa được quy định rõ ràng Kể từ thời điểm Luật Phòng, chống tham nhũng có hiệu lực, một số chức năng, nhiệm vụ về phòng, chống tham nhũng của ngành Thanh tra đã được quy định cụ thể hơn, song những quy định này bước đầu mới chỉ quy định đối với Thanh tra Chính phủ, chưa quy định đối với cơ quan thanh tra các ngành, các cấp. Thực tiễn
  12. hơn một năm qua cho thấy, những kết quả đạt được thông qua hoạt động thanh tra việc thực hiện các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng vẫn còn rất nhiều hạn chế. Hoạt động thanh tra do Cục Chống tham nhũng tiến hành mới chỉ bước đầu được thực hiện ở một số bộ, ngành và ủy ban nhân dân một số tỉnh, thành phố. Rõ ràng, với cách làm này, việc đánh giá thực hiện Luật là chưa đầy đủ, đặc biệt là đối với các cấp chính quyền địa phương. b) Thiếu các phương thức và biện pháp đánh giá có hiệu quả việc thực hiện các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng Phạm vi điều chỉnh của Luật Phòng, chống tham nhũng bao trùm lên hầu hết các lĩnh vực quản lý nhà nước. Vì vậy, để hoạt động thanh tra việc thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng đạt hiệu quả cao, đòi hỏi công tác chuẩn bị trước, trong và sau khi tiến hành thanh tra phải tiến hành theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ và thống nhất. Bên cạnh đó, hoạt động này cũng đòi hỏi yêu cầu về chuyên môn và nghiệp vụ cao đối với những người làm công tác thanh tra. Thanh tra việc thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng không chỉ là xem xét những việc đã làm được theo quy định của Luật mà còn giúp chỉ ra được những lĩnh vực, công việc hoặc vị trí có nguy cơ phát sinh tham nhũng hoặc kiến nghị các biện pháp, cơ chế hiệu quả nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng trong mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị được tiến hành thanh tra. Để làm được việc đó, đòi hỏi phải có một quy trình chuẩn về thanh tra việc thực hiện Luật Phòng, chống tham
  13. nhũng. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, quá trình này còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là khi xác định nội dung, phương thức tiến hành thanh tra và ra kết luận thanh tra. 2. Các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra Xuất phát từ sự phân tích thực trạng công tác của ngànhX, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong từng lĩnh vực công tác của ngành thanh tra, để tăng cường hiệu lực thanh tra* cần thực hiện các giải pháp sau đây: 2.1. Về công tác thanh tra *- Một là, tăng cường tính chủ động của các cơ quan thanh tra từ việc lập chương trình kế hoạch, ban hành quyết định thanh tra đến quá trình tiến hành các cuộc thanh tra, đặc biệt là bảo đảm tính độc lập, khách quan, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan thanh tra trong việc ra các kết luận và kiến nghị xử lý. Đề cao trách nhiệm của thủ trưởng các cơ quan, tổ chức trong việc tạo điều kiện cho hoạt động thanh tra, không can thiệp vào hoạt động thanh tra, tôn trọng tính khách quan và độc lập trong hoạt động. *- Hai là, tăng cường tính hệ thống của các cơ quan hành chính bằng việc nâng cao vai trò của Thanh tra Chính phủ trong việc chỉ đạo công tác tổ chức, cán bộ và nghiệp vụ của các tổ chức thanh tra cấp tỉnh và cấp huyện; tiêu chuẩn hoá và thực hiện bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động… các cán bộ chủ chốt của cơ quan thanh tra.
  14. - Ba là, tăng cường thực hiện chức năng quản lý nhà nước và hoạt động thanh tra trách nhiệm của các cơ quan nhà nước nhằm bảo đảm việc chấp hành pháp luật trong việc thực hiện chức trách nhiệm vụ, công vụ. 2.2. Về lĩnh vực khiếu nại, tố cáo Trước mắt cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung để giải quyết sự mâu thuẫn chồng chéo trong các văn bản pháp luật quy định về lĩnh vực khiếu nại hành chính và tố cáo; nghiên cứu xây dựng và thực hiện cơ chế xử lý trách nhiệm đối với thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước vì thiếu trách nhiệm trong công tác này, nhất là những nơi để xảy ra tình trạng khiếu kiện dai dẳng, đông người vượt cấp lên trung ương. Hoàn thiện cơ chế phân công trách nhiệm giữa thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước với các cơ quan thanh tra và cơ quan chuyên môn trong quá trình giải quyết các vụ việc khiếu nại. Về lâu dài, cần nghiên cứu thiết lập hệ thống cơ quan tài phán hành chính để chuyên trách hoá hoạt động giải quyết khiếu nại hành chính, giải quyết tận gốc tình trạng lùng nhùng về thẩm quyền và trách nhiệm như hiện nay. Đây là những định hướng chủ yếu cho việc ban hành Luật Khiếu nại và giải quyết khiếu nại cũng như xây dựng Đề án thiết lập cơ quan tài phán hành chính. Về tố cáo, phải nghiên cứu để có những qui định thống nhất giữa các văn bản pháp luật về vấn đề này (giữa tố cáo theo qui định của Luật Tố cáo với quy định về tố cáo và xử lý tố cáo hành vi tham nhũng trong quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng,
  15. giữa tố cáo với tố giác và tin báo tội phạm quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự, giữa tố cáo, tố giác vi phạm pháp luật với tố cáo vi phạm kỷ luật đảng). Điều quan trọng nhất là phải tạo ra được cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc tiếp nhận và xử lý các vụ việc tố cáo (giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau, giữa cơ quan thanh tra với các cơ quan điều tra, viện kiểm sát, giữa các cơ quan nhà nước với cơ quan kiểm tra đảng trong việc xử lý tố cáo cán bộ, công chức là đảng viên…) 2.3. Về lĩnh vực phòng, chống tham nhũng Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan thanh tra trong lĩnh vực này chủ yếu là thực hiện chức năng quản lý nhà nước và thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm; phòng ngừa và phát hiện tham nhũng thông qua công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo... Về lâu dài, cần nghiên cứu để chuyển cơ quan thanh tra thành hệ thống cơ quan giám sát hành chính có chức năng giám sát các cơ quan quản lý nhà nước và các cấp chính quyền địa phương và có sự kết hợp về tổ chức và hoạt động với cơ quan kiểm tra của Đảng như định hướng tại Nghị quyết Trung ương III về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đói với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. (1) Trích số liệu trong Báo cáo công tác năm 2007. (Bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 156-thang-10-
  16. 2009 ngày 20/10/2009) ThS Đinh Văn Minh - Phó Viện trưởng Viện Khoa học thanh tra
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2