intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực trạng nhu cầu về các hình thức tư vấn hướng nghiệp của học sinh một số trường trung học phổ thông tại thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: DanhVi DanhVi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

92
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tư vấn hướng nghiệp là hoạt động có ý nghĩa quan trọng đối với học sinh trung học phổ thông, giúp các em xác định được những phẩm chất và năng lực, sở thích và những điều kiện cần thiết phù hợp với ngành mà các em lựa chọn. Bài viết này trình bày về thực trạng nhu cầu của học sinh trung học phổ thông tại thành phố Hồ Chí Minh về các hình thức tư vấn hướng nghiệp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực trạng nhu cầu về các hình thức tư vấn hướng nghiệp của học sinh một số trường trung học phổ thông tại thành phố Hồ Chí Minh

VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 427 (Kì 1 - 4/2018), tr 15-18; 55<br /> <br /> THỰC TRẠNG NHU CẦU VỀ CÁC HÌNH THỨC TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP<br /> CỦA HỌC SINH MỘT SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG<br /> TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH<br /> Lê Duy Hùng - Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh<br /> Ngày nhận bài: 23/02/2018; ngày sửa chữa: 26/02/2018; ngày duyệt đăng: 06/03/2018.<br /> Abstract: Career counselling is an important activity for high school students, helping them to<br /> identify the qualities and abilities, interests, and conditions needed in their industry to choose.<br /> However, career counselling for students in our country still focuses on introducing the schools<br /> and their curriculum. This article presents the current state of the needs of high school students in<br /> Ho Chi Minh City on the vocational counselling as well as patterns of career counselling.<br /> Keywords: Need, high school students, vocational counselling.<br /> 1. Mở đầu<br /> Tư vấn hướng nghiệp (TVHN) là các hoạt động<br /> nhằm hỗ trợ mỗi cá nhân chọn lựa và phát triển chuyên<br /> môn nghề nghiệp phù hợp nhất với khả năng của cá nhân,<br /> đồng thời thỏa mãn nhu cầu nhân lực cho tất cả các lĩnh<br /> vực nghề nghiệp (thị trường lao động) ở cấp độ địa<br /> phương và quốc gia. TVHN giúp học sinh (HS) nắm bắt<br /> được khái niệm nghề, nhu cầu của xã hội về nguồn lao<br /> động, sự phù hợp của những đặc điểm tâm lí cá nhân đối<br /> với nghề mà các em định chọn. TVHN là “chiếc cầu nối”<br /> giúp HS dễ dàng nắm bắt được vấn đề mà bản thân đang<br /> trăn trở. Tuy nhiên, ở các trường phổ thông hiện nay, hoạt<br /> động TVHN đang bị “hiểu nhầm” là giới thiệu các<br /> chương trình đào tạo của các trường đại học, cao đẳng,<br /> dạy nghề (48,8%) [1; tr 41]) chứ chưa phải là giúp HS<br /> xác định được những phẩm chất, năng lực, sở thích và<br /> điều kiện kinh tế phù hợp với nghề nghiệp mà các em sẽ<br /> chọn. Thực chất, giới thiệu trường chỉ là một hình thức<br /> được tiến hành sau khi các em đã chọn được nghề, việc<br /> còn lại chỉ là chọn trường có nghề để theo học. Việc hiểu<br /> chưa đúng về hình thức TVHN và chưa tổ chức được<br /> những cách thức TVHN đáp ứng mong muốn của HS<br /> trung học phổ thông (THPT) đã làm cho các em chưa<br /> thấy được tầm quan trọng của hoạt động này trong việc<br /> định hướng nghề cho tương lai của bản thân. Vì những lí<br /> do trên, bài viết trình bày những hình thức TVHN mà<br /> hiện nay HS có nhu cầu được tổ chức.<br /> 2. Nội dung nghiên cứu<br /> 2.1. Tư vấn hướng nghiệp và nhu cầu về các hình thức<br /> tư vấn hướng nghiệp của học sinh phổ thông<br /> Theo chỉ thị 33/2003/CT-Bộ GD-ĐT: “Hướng nghiệp<br /> cho HS phổ thông bằng các hình thức: Tích hợp nội dung<br /> hướng nghiệp vào các môn học, lao động sản xuất và học<br /> nghề phổ thông, hoạt động sinh hoạt hướng nghiệp và các<br /> hoạt động ngoại khóa khác”. Có rất nhiều các hình thức<br /> TVHN khác nhau, mỗi hình thức có tác động tới một hoặc<br /> <br /> 15<br /> <br /> nhiều khía cạnh khác nhau trong quá trình chọn nghề của<br /> HS. Việc đáp ứng nhu cầu của HS về các hình thức TVHN<br /> sẽ giúp các em có cơ hội hiểu được nghề mà mình định<br /> chọn, khám phá khả năng, sở thích của bản thân, đồng thời<br /> đánh giá được nhu cầu lao động của xã hội hiện nay đối<br /> với các ngành nghề. Như vậy, nhu cầu của HS THPT về<br /> hình thức TVHN là những nhu cầu cần được trợ giúp bởi<br /> các hình thức TVHN trực tiếp hoặc gián tiếp để thỏa mãn<br /> nhu cầu TVHN của bản thân.<br /> Hình thức TVHN trực tiếp: - TVHN có thể tại văn<br /> phòng, trung tâm; - TVHN thông qua nhóm “Giúp HS<br /> khám phá sở thích, khả năng nghề nghiệp của bản thân;<br /> giúp HS biết liên hệ sự hiểu biết về bản thân với thông tin<br /> về thị trường tuyển dụng lao động, thông tin về ngành học<br /> hay nghề nghiệp ở các cơ sở đào tạo (trung cấp, cao đẳng,<br /> đại học...) để xác định hướng đi sau tốt nghiệp THPT...”<br /> [2; tr 9]; - TVHN thông qua các buổi sinh hoạt, lồng ghép<br /> qua học tập các môn văn hóa “Giúp HS biết được những<br /> yêu cầu về kiến thức và kĩ năng của một số ngành nghề<br /> trong các lĩnh vực liên quan đến môn học như lĩnh vực<br /> sinh học, vật lí, hóa học, nghệ thuật, công nghệ... Từ đó,<br /> HS có thông tin, cơ sở để lập kế hoạch chọn nghề tương<br /> lai...” [3; tr 56]; - Thông qua các hoạt động tham quan tại<br /> các trường cao đẳng, đại học, các cơ sở sản xuất, nghe<br /> những người đang làm các ngành nghề nói về công việc<br /> của họ... “HS có cơ hội khám phá khả năng, sở thích, cá<br /> tính và giá trị nghề nghiệp của bản thân. Việc tổ chức cho<br /> HS tham quan các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp, các<br /> cơ sở đào tạo nghề... nhằm tạo điều kiện cho HS được tận<br /> mắt quan sát cơ chế vận hành máy móc trong sản xuất,<br /> các hoạt động của người lao động. Nhờ đó, HS hiểu rõ<br /> hơn về đối tượng lao động, yêu cầu của ngành nghề mà<br /> trước đó các em mới biết qua sách vỡ” [3; tr 58]; - Thông<br /> qua việc học và thực hành một nghề nào đó trong quá trình<br /> học phổ thông “HS không những có cơ hội để thử sức<br /> mình trong một hoạt động lao động nghề nghiệp cụ thể mà<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 427 (Kì 1 - 4/2018), tr 15-18; 55<br /> <br /> còn có điều kiện khám phá khả năng, sở thích, cá tính và<br /> giá trị nghề nghiệp của bản thân, nâng cao các kĩ năng<br /> thiết yếu, nâng cao nhận thức nghề nghiệp, từ đó đưa ra<br /> quyết định chọn nghề tương lai sao cho phù hợp” [3; tr<br /> 57-58]. Việc tổ chức cho HS đi tham quan các trường đại<br /> học, cao đẳng, cơ sở dạy nghề hoặc các nhà máy, xí<br /> nghiệp, các viện nghiên cứu, bệnh viện; tổ chức cho HS<br /> được học và thực hành một nghề nào đó trong quá trình<br /> học phổ thông; nghe những người đang làm các ngành<br /> nghề nói về công việc của họ... là cách thức phù hợp với<br /> mong muốn của các em, bởi HS mong muốn có được<br /> những thông tin về các ngành nghề khác nhau thông qua<br /> các hoạt động mang tính trực quan/hành động (quan sát<br /> trực tiếp các cơ sở đào tạo nghề, hay trực tiếp thực hành<br /> nghề) mang tính sát thực và sát với những nhu cầu cụ thể<br /> của mỗi HS (tư vấn cá nhân).<br /> Hình thức TVHN gián tiếp - tức là các em được<br /> TVHN thông qua thư, điện thoại hoặc qua Internet... bởi<br /> ở mỗi HS có những đặc điểm tâm lí cũng như hoàn cảnh<br /> khác nhau, có thể do các em ngại phải đối mặt trực tiếp<br /> với nhà tư vấn, hoặc các em muốn được bí mật về thông<br /> tin cá nhân cũng như kết quả của việc tư vấn.<br /> 2.2. Khách thể và phương pháp nghiên cứu<br /> Để tìm hiểu thực trạng nhu cầu về hình thức TVHN<br /> của HS THPT trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, chúng tôi<br /> tiến hành khảo sát trên 421 HS ở 5 trường THPT gồm có:<br /> THPT Nguyễn Khuyến, THPT Nguyễn Hữu Thọ, THPT<br /> Bình Tân, THPT Trí Đức, THPT Bình Chánh, trên<br /> những quận, huyện khác nhau với mục đích đáp ứng các<br /> tiêu chí đó là trường ở địa bàn gần trung tâm thành phố<br /> và ngoại ô với những điều kiện kinh tế xã hội khác nhau,<br /> trường chất lượng và trường phổ thông đại trà, trường<br /> công lập và dân lập, trường có phòng tư vấn và trường<br /> không có phòng tư vấn nhằm phản ánh trung thực nhất<br /> thực trạng nhu cầu của HS THPT tại TP. Hồ Chí Minh<br /> về hình thức TVHN. Thời gian thực hiện học kì 1 năm<br /> học 2016-2017. Bên cạnh đó, đề tài còn tiến hành phỏng<br /> vấn sâu giáo viên, chuyên viên TVHN, HS nhằm làm rõ<br /> những biểu hiện và mức độ nhu cầu về hình thức TVHN<br /> của HS THPT.<br /> Phương pháp được sử dụng nghiên cứu như: điều tra<br /> bằng bảng hỏi, phỏng vấn sâu, phương pháp thống kê toán<br /> học để xử lí số liệu... Thang đo gồm 5 mức độ: Điểm thấp<br /> nhất là 1, cao nhất là 5, chia làm 5 mức, theo đó ta có thang<br /> điểm như sau: Mức rất thấp: 1  ĐTB < 1,8; Mức thấp:<br /> 1,8  ĐTB < 2,6; Mức trung bình: 2,6  ĐTB < 3,4; Mức<br /> khá: 3,4  ĐTB < 4,2; Mức cao: 4,2  ĐTB < 5,0.<br /> 2.3. Kết quả nghiên cứu<br /> 2.3.1. Thực trạng nhu cầu về hình thức tư vấn hướng<br /> nghiệp của học sinh trung học phổ thông (xem bảng 1)<br /> <br /> 16<br /> <br /> Bảng 1. Nhu cầu của HS THPT về các hình thức TVHN<br /> STT<br /> <br /> 1<br /> <br /> 2<br /> <br /> 3<br /> <br /> 4<br /> <br /> 5<br /> <br /> 6<br /> <br /> 7<br /> <br /> 8<br /> <br /> Biểu hiện nhu cầu<br /> về hình thức TVHN<br /> của HS<br /> Gián tiếp qua thư,<br /> email; đài truyền<br /> hình; điện thoại<br /> Các nhà chuyên<br /> môn làm việc trực<br /> tiếp cho cá nhân<br /> hoặc nhóm HS tại<br /> phòng tư vấn<br /> Tổ chức các buổi<br /> hội thảo với HS<br /> theo quy mô nhỏ<br /> (từ 10-20 HS)<br /> Học tập, tham quan<br /> thực tế tại các<br /> trường cao đẳng,<br /> đại học, cơ sở dạy<br /> nghề hoặc nhà máy<br /> Được học và thực<br /> hành một nghề nào<br /> đó trong quá trình<br /> học phổ thông<br /> Các thầy/cô lồng<br /> ghép giáo dục nghề<br /> trong quá trình dạy<br /> môn cơ bản<br /> Tổ chức cho HS<br /> nghe những người<br /> đang làm các ngành<br /> nghề nói về công<br /> việc của họ<br /> Các nhà chuyên<br /> môn làm việc với<br /> phụ huynh HS<br /> Tổng<br /> <br /> Điểm<br /> trung<br /> bình<br /> (ĐTB)<br /> <br /> Độ<br /> lệch<br /> chuẩn<br /> (ĐLC)<br /> <br /> Thứ<br /> bậc<br /> <br /> 3,10<br /> <br /> 1,22<br /> <br /> 8<br /> <br /> 4,20<br /> <br /> 0,99<br /> <br /> 3<br /> <br /> 3,90<br /> <br /> 0,98<br /> <br /> 7<br /> <br /> 4,36<br /> <br /> 0,82<br /> <br /> 1<br /> <br /> 4,34<br /> <br /> 0,90<br /> <br /> 2<br /> <br /> 4,00<br /> <br /> 0,96<br /> <br /> 6<br /> <br /> 4,05<br /> <br /> 0,87<br /> <br /> 4<br /> <br /> 4,02<br /> <br /> 1,05<br /> <br /> 5<br /> <br /> 3,78<br /> <br /> 0,47<br /> <br /> Bảng 1 cho thấy, những hình thức hướng nghiệp<br /> được HS lựa chọn là “Học tập, tham quan thực tế tại các<br /> trường cao đẳng, đại học, cơ sở dạy nghề hoặc nhà máy”<br /> (ĐTB = 4,36); “Được học và thực hành một nghề nào đó<br /> trong quá trình học phổ thông” (ĐTB = 4,34); “Các nhà<br /> chuyên môn làm việc trực tiếp cho cá nhân hoặc nhóm<br /> HS tại phòng tư vấn” (ĐTB = 4,20). Đây là ba hình thức<br /> TVHN được HS đánh giá ở mức “cao”, điều đó cho thấy<br /> HS mong muốn có được những thông tin về các ngành<br /> nghề khác nhau thông qua những hoạt động mang tính<br /> trực quan/hành động (tham quan thực tế tại các trường<br /> đại học, cao đẳng, cơ sở dạy nghề hoặc nhà máy, hay<br /> được học và thực hành một nghề nào đó trong quá trình<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 427 (Kì 1 - 4/2018), tr 15-18; 55<br /> <br /> học phổ thông) hoặc mang tính sát thực (nhà chuyên môn sẽ giúp cho chúng em hiểu năng lực, sở trường của bản<br /> làm việc trực tiếp với HS). Bên cạnh đó, hình thức “Tổ thân và hiểu về ngành mà chúng em định chọn”.<br /> chức cho HS nghe những người đang làm các ngành<br /> Khi hỏi “Em có mong muốn được học một nghề nào<br /> nghề nói về công việc của họ” (ĐTB = 4,05) cũng được đó trong trường phổ thông không?”, chúng tôi nhận<br /> HS đánh giá cao, bởi thông qua hình thức này các em sẽ được phản hồi của bạn Đ.M.N (lớp 12, Trường THPT<br /> có điều kiện được tư vấn sát với những nhu cầu cụ thể Bình Chánh) “Chúng em rất muốn được học một nghề<br /> của bản thân. Em M. K (lớp 11, Trường THPT Bình Tân) mà chúng em thích trong quá trình học ở trường phổ<br /> chia sẻ: “Em có ý định học ngành cơ khí chế tạo máy, thông. Nhưng việc học nghề ở trường phổ thông hiện nay<br /> nhưng em chưa hình dung ra hết công việc của ngành nên xem lại, vì ngoài mục đích để được cộng điểm tốt<br /> đó, nếu được tham quan nhà máy và được những người nghiệp thì chẳng giúp được gì cho chúng em có thể xin<br /> làm trong nghề nói về nghề đó sẽ giúp cho chúng em hiểu việc được để làm sau khi tốt nghiệp”. Đây cũng là ý kiến<br /> hơn về nghề mà em định chọn”. Một số HS lớp 12 trường chung của các em học sinh lớp 12 C1 Trường THPT Trí<br /> THPT Trí Đức, quận Tân Phú sau khi tham dự chương Đức, quận Tân Phú. Như vậy, mặc dù học nghề trong<br /> trình tham quan, hướng nghiệp “một ngày làm sinh viên” trường phổ thông là hình thức hướng nghiệp mà HS có<br /> cho biết “với sự hỗ trợ nhiệt tình của thầy cô và các anh nhu cầu nhưng cách làm hiện nay cần phải xem xét lại,<br /> chị tình nguyện viên đã giúp em hiểu thêm rất nhiều về vì thực tế hoạt động đó chưa thể mang lại lợi ích lâu dài<br /> ngành mà em dự định học”. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho các em.<br /> tại TP. Hồ Chí Minh cho thấy, không phải trường phổ<br /> Các hình thức còn lại cũng nhận được sự quan tâm<br /> thông nào cũng có thể tổ chức cho HS được học tập và của các em, tuy không ở mức cao như các hình thức nêu<br /> tham quan tại các trường đại học, cao đẳng và các nhà trên nhưng vẫn phản ánh mong muốn được tham gia<br /> máy xí nghiệp. Việc không được thỏa mãn đầy đủ các nhiều loại hình hướng nghiệp hơn nữa để có những hình<br /> hình thức TVHN sẽ có những ảnh hưởng không nhỏ đến dung thực sự rõ nét cho việc chọn nghề. Trong đó, đặc<br /> việc hiểu về các ngành nghề mà HS THPT định chọn.<br /> biệt hình thức “Gián tiếp qua thư, email; đài truyền hình;<br /> Nói về mong muốn được làm việc với các nhà chuyên điện thoại” (ĐTB = 3,10), được HS đánh giá thấp nhất ở<br /> môn, bạn N. C. A (lớp 11, Trường THPT Bình Tân) mức “trung bình”.<br /> “TVHN của trường em chủ yếu là thầy/cô chủ nhiệm làm, 2.3.2. Thực trạng nhu cầu về hình thức tư vấn hướng<br /> em rất mong muốn được thầy/cô có chuyên môn về nghiệp của học sinh trung học phổ thông so sánh theo<br /> TVHN tư vấn cho em, vì là những người có chuyên môn khối lớp (xem bảng 2)<br /> Bảng 2. So sánh nhu cầu về hình thức TVHN của HS THPT theo khối lớp<br /> STT<br /> <br /> 1<br /> 2<br /> 3<br /> 4<br /> 5<br /> 6<br /> 7<br /> 8<br /> <br /> 10<br /> <br /> Nội dung<br /> Gián tiếp qua thư, email; đài truyền hình; điện<br /> thoại<br /> Các nhà chuyên môn làm việc trực tiếp cho cá<br /> nhân hoặc nhóm HS tại phòng tư vấn<br /> Tổ chức các buổi hội thảo với HS theo quy mô<br /> nhỏ (từ 10-20 HS)<br /> Học tập, tham quan thực tế tại các trường cao<br /> đẳng, đại học, cơ sở dạy nghề hoặc nhà máy<br /> Được học và thực hành một nghề nào đó trong<br /> quá trình học phổ thông<br /> Các thầy/cô lồng ghép giáo dục nghề trong quá<br /> trình dạy môn cơ bản<br /> Tổ chức cho HS nghe những người đang làm các<br /> ngành nghề nói về công việc của họ<br /> Các nhà chuyên môn làm việc với phụ huynh HS<br /> Chung<br /> <br /> 17<br /> <br /> Khối lớp<br /> 11<br /> Thứ<br /> ĐTB<br /> bậc<br /> <br /> ĐTB<br /> <br /> Thứ<br /> bậc<br /> <br /> 3,06<br /> <br /> 8<br /> <br /> 3,02<br /> <br /> 4,20<br /> <br /> 4<br /> <br /> 4,10<br /> <br /> 12<br /> ĐTB<br /> <br /> Thứ<br /> bậc<br /> <br /> 8<br /> <br /> 2,93<br /> <br /> 8<br /> <br /> 3,78<br /> <br /> 5<br /> <br /> 4,17<br /> <br /> 2<br /> <br /> 6<br /> <br /> 3,61<br /> <br /> 7<br /> <br /> 3,96<br /> <br /> 5<br /> <br /> 4,46<br /> <br /> 1<br /> <br /> 4,28<br /> <br /> 3<br /> <br /> 4,34<br /> <br /> 1<br /> <br /> 4,34<br /> <br /> 2<br /> <br /> 4,30<br /> <br /> 1<br /> <br /> 4,17<br /> <br /> 2<br /> <br /> 4,12<br /> <br /> 5<br /> <br /> 4,08<br /> <br /> 4<br /> <br /> 3,79<br /> <br /> 7<br /> <br /> 4,25<br /> <br /> 3<br /> <br /> 4,29<br /> <br /> 2<br /> <br /> 4,03<br /> <br /> 4<br /> <br /> 3,70<br /> 3,57<br /> <br /> 7<br /> <br /> 3,63<br /> 3,42<br /> <br /> 6<br /> <br /> 3,88<br /> 3,45<br /> <br /> 6<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 427 (Kì 1 - 4/2018), tr 15-18; 55<br /> <br /> Bảng 2 chỉ ra nhu cầu của HS về các hình thức TVHN<br /> đều ở mức “khá”. Khi xem xét nhu cầu của HS về các<br /> hình thức TVHN cụ thể thì có những khác biệt giữa HS<br /> lớp 12 so với HS lớp 10 và 11. Chẳng hạn như: hình thức<br /> “Tổ chức cho HS nghe những người đang làm các ngành<br /> nghề nói về công việc của họ” có sự giảm đi đáng kể về<br /> nhu cầu ở khối 12, biểu hiện sự khác biệt có ý nghĩa<br /> thống kê giữa khối 11 và 12. Điều đó cho thấy, HS khối<br /> 11 có nhu cầu cao hơn khối 12. Những hình thức “Các<br /> nhà chuyên môn làm việc trực tiếp cho cá nhân hoặc<br /> nhóm HS tại phòng tư vấn” có sự khác biệt giữa khối 11<br /> với khối 10 và 12. Ở hình thức này, HS khối 10 và 12 có<br /> nhu cầu cao hơn khối 11.<br /> Tiếp đến là hình thức “Tổ chức các buổi hội thảo với<br /> HS theo quy mô nhỏ (từ 10-20 HS)”, ở hình thức này có<br /> sự khác biệt giữa khối 11 so với khối 10 và 12, HS khối<br /> 10 và 12 có nhu cầu cao hơn khối 11.<br /> Hình thức “Được học và thực hành một nghề nào đó<br /> trong quá trình học phổ thông”, mặc dù HS của cả 3 khối<br /> đều có nhu cầu ở mức “khá”. Tuy nhiên, nhu cầu của HS<br /> khối 12 giảm đi chút ít so với khối 10 và 11, thể hiện rõ<br /> sự khác biệt giữa khối 10 so với khối 12. Hình thức “Các<br /> thầy/cô lồng ghép giáo dục nghề trong quá trình dạy môn<br /> cơ bản” mặc dù HS có nhu cầu, nhưng giảm hẳn ở khối<br /> 11 và 12. Trên thực tế, đây là hình thức hướng nghiệp<br /> đang được áp dụng trong các trường phổ thông thông qua<br /> chương trình học môn nghề và hướng nghiệp của giáo<br /> viên bộ môn. Điều này cũng phản ánh về tính hiệu quả<br /> của hình thức hướng nghiệp mà lâu nay các trường phổ<br /> thông vẫn đang sử dụng.<br /> <br /> 2.3.3. Thực trạng nhu cầu về hình thức tư vấn hướng<br /> nghiệp của học sinh trung học phổ thông so sánh theo<br /> giới tính (xem bảng 3)<br /> Xét bình diện chung nhất, nhu cầu về hình thức<br /> TVHN của HS nam và nữ ở mức khá. Cả HS nam và nữ<br /> đều có nhu cầu cao về hình thức “Học tập, tham quan<br /> thực tế tại các trường cao đẳng, đại học, cơ sở dạy nghề<br /> hoặc nhà máy” và “Được học và thực hành một nghề<br /> nào đó trong quá trình học phổ thông”, điều đó cho thấy,<br /> cả HS nam và nữ đều mong muốn có những hình thức<br /> TVHN mang tính thực tế và trải nghiệm, chính điều này<br /> sẽ giúp các em thấy rõ những công việc chính của nghề,<br /> đồng thời là cơ hội để các em đánh giá năng lực, sở thích,<br /> đam mê đối với nghề mà bản thân các em có ý định chọn.<br /> Xem xét thứ bậc của từng hình thức TVHN theo giới<br /> tính, chỉ có hình thức “Các thầy/cô lồng ghép giáo dục<br /> nghề trong quá trình dạy môn cơ bản”, “Các nhà chuyên<br /> môn làm việc trực tiếp cho cá nhân hoặc nhóm học sinh<br /> tại phòng tư vấn” và “Tổ chức các buổi hội thảo với HS<br /> theo quy mô nhỏ (từ 10-20 HS)” là có sự khác biệt. Ở các<br /> hình thức này, HS nữ có nhu cầu cao hơn đối với HS<br /> nam; còn lại ở những hình thức TVHN khác thì không<br /> có sự khác biệt.<br /> 3. Kết luận<br /> Như vậy, HS THPT tại TP. Hồ Chí Minh có nhu cầu<br /> được TVHN với nhiều hình thức đa dạng và phong phú,<br /> những hình thức mà các em cần nhất là TVHN thông qua<br /> những hoạt động mang tính thực hành và quan sát (học<br /> tập, tham quan thực tế tại các trường cao đẳng, đại học,<br /> cơ sở dạy nghề hoặc nhà máy, xí nghiệp; được học và<br /> <br /> Bảng 3. So sánh nhu cầu về hình thức TVHN của HS THPT theo giới tính<br /> Giới tính<br /> STT<br /> 1<br /> 2<br /> 3<br /> 4<br /> 5<br /> 6<br /> 7<br /> 8<br /> <br /> Nội dung<br /> Gián tiếp qua thư, email; đài truyền hình; điện thoại<br /> Các nhà chuyên môn làm việc trực tiếp cho cá nhân hoặc<br /> nhóm HS tại phòng tư vấn<br /> Tổ chức các buổi hội thảo với HS theo quy mô nhỏ (từ 10-20<br /> HS)<br /> Học tập, tham quan thực tế tại các trường cao đẳng, đại học,<br /> cơ sở dạy nghề hoặc nhà máy<br /> Được học và thực hành một nghề nào đó trong quá trình học<br /> phổ thông<br /> Các thầy/cô lồng ghép giáo dục nghề trong quá trình dạy môn<br /> cơ bản<br /> Tổ chức cho HS nghe những người đang làm các ngành nghề<br /> nói về công việc của họ<br /> Các nhà chuyên môn làm việc với phụ huynh HS<br /> Chung<br /> <br /> ĐTB<br /> 2,92<br /> <br /> Nam<br /> Thứ bậc<br /> 8<br /> <br /> Nữ<br /> ĐTB<br /> 3,08<br /> <br /> Thứ bậc<br /> 8<br /> <br /> 3,95<br /> <br /> 4<br /> <br /> 4,13<br /> <br /> 5<br /> <br /> 3,83<br /> <br /> 5<br /> <br /> 3,94<br /> <br /> 6<br /> <br /> 4,27<br /> <br /> 1<br /> <br /> 4,43<br /> <br /> 1<br /> <br /> 4,25<br /> <br /> 2<br /> <br /> 4,41<br /> <br /> 2<br /> <br /> 3,83<br /> <br /> 5<br /> <br /> 4,14<br /> <br /> 4<br /> <br /> 4,13<br /> <br /> 3<br /> <br /> 4,25<br /> <br /> 3<br /> <br /> 3,76<br /> 3,40<br /> <br /> 7<br /> <br /> 3,91<br /> 3,55<br /> <br /> 7<br /> <br /> (Xem tiếp trang 55)<br /> <br /> 18<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 427 (Kì 1 - 4/2018), tr 53-55<br /> <br /> học cũng cần tiến hành lồng ghép những kiến thức thực<br /> tế tham khảo từ Internet, tivi, sách báo... để giúp cho SV<br /> liên hệ giữa bài học trên lớp với thực tiễn cuộc sống xã<br /> hội, cũng như tạo sự hứng thú hơn cho các em trong quá<br /> trình học tập. Để làm tốt nhiệm vụ này, GV phải am hiểu<br /> sâu sắc nội dung dạy học, làm chủ kiến thức, xây dựng<br /> kế hoạch bài giảng một cách khoa học, theo hướng “mở”<br /> để chủ động vận dụng linh hoạt thực hiện trong các tình<br /> huống sư phạm và truyền tải đến với SV một cách hiệu<br /> quả nhất. Trong quá trình tổ chức, hướng dẫn SV lĩnh hội<br /> tri thức cần vận dụng linh hoạt các PPDH tích cực, trình<br /> bày các nội dung, vấn đề bài học một cách ngắn gọn, súc<br /> tích; cần cụ thể hóa các hoạt động dạy học một cách chi<br /> tiết, nên xây dựng kế hoạch bài dạy theo hướng giảm lí<br /> thuyết, tăng thực hành, vì đây là một yêu cầu cần thiết,<br /> cho quá trình áp dụng PPDH tiếng Anh phù hợp với yêu<br /> cầu của việc đào tạo theo HCTC.<br /> 3. Kết luận<br /> Việc đổi mới PPDH theo HCTC và khung tham chiếu<br /> trình độ ngoại ngữ chung châu Âu là một việc rất cần<br /> thiết trong quá trình dạy học ngoại ngữ nói chung, dạy<br /> học tiếng Anh nói riêng ở các trường đại học Việt Nam<br /> hiện nay nhằm góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo đáp<br /> ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nguồn nhân lực cho thị<br /> trường lao động trong quá trình hội nhập. Để thực hiện<br /> có hiệu quả mục tiêu này, ngoài việc quan tâm chỉ đạo,<br /> của Đảng, Nhà nước, Bộ GD-ĐT với các chủ trương,<br /> đường lối định hướng ở cấp “vĩ mô”, mỗi trường đại học,<br /> cao đẳng, mỗi GV, SV cần nhận thức rõ vai trò và tầm<br /> quan trọng của việc đổi mới PPDH, nâng cao chất lượng<br /> đào tạo trong bối cảnh hội nhập quốc tế.<br /> Tài liệu tham khảo<br /> [1] Fink, Dee L. (1999). Active Learning. Reprinted<br /> with permission of Oklahoma Instructional<br /> Developmental Program.<br /> [2] Haugen, L. (1998). Teaching Tips: LearningCentered Syllabi Workshop (April 22 & April 29).<br /> http://www.cte.iastate.edu/tips/syllabi.html.<br /> [3] Johnson, D. W., et al (1994). The Nuts and Bolts of<br /> Cooperative Learning. Minnesota: Interaction<br /> BookCompany.<br /> [4] McCombs, Barbara L. (1997). The LearnerCentered Framework on Teaching and Learning As<br /> a Foundation for Electronically Networked<br /> Communities and Cultures.<br /> [5] Merlin, Arthur. Learner-Centered Versus TeacherCentered. Module 2: Adult Learning Theory.<br /> [6] Nunan, D. (1998). The learner-centered curriculum.<br /> New York: Cambridge University Press.<br /> <br /> 55<br /> <br /> MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ...<br /> (Tiếp theo trang 4)<br /> [4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Hồ Chí Minh<br /> Toàn tập, tập 10. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.<br /> [5] Đảng Cộng sản Việt Nam (1995). C.Mác Ph.Ăngghen toàn tập, tập 1. NXB Chính trị Quốc<br /> gia - Sự thật.<br /> [6] Đảng Cộng sản Việt Nam (1995). C.Mác Ph.Ăngghen toàn tập, tập 21. NXB Chính trị Quốc<br /> gia - Sự thật.<br /> [7] Đảng Cộng sản Việt Nam (1995). C.Mác Ph.Ăngghen toàn tập, tập 37. NXB Chính trị Quốc<br /> gia - Sự thật.<br /> [8] Đảng Cộng sản Việt Nam C.Mác - Ph.Ăngghen<br /> (1983). Bàn về thanh niên. NXB Thanh niên.<br /> [9] Lương Gia Ban - Nguyễn Thế Kiệt (2014). Giá trị<br /> truyền thống dân tộc với việc xây dựng nhân cách<br /> sinh viên Việt Nam hiện nay. NXB Chính trị Quốc<br /> gia - Sự thật.<br /> THỰC TRẠNG NHU CẦU VỀ CÁC HÌNH THỨC...<br /> (Tiếp theo trang 18)<br /> thực hành một nghề nào đó trong quá trình học phổ<br /> thông); được đánh giá năng lực, sở thích của HS (các nhà<br /> chuyên môn làm việc trực tiếp cho cá nhân hoặc nhóm<br /> HS tại phòng tư vấn) và mang tính thực tế (nhà chuyên<br /> môn làm việc trực tiếp với HS).<br /> Tài liệu tham khảo<br /> [1] Đỗ Thị Lệ Hằng (2009). Vài nét về thực trạng tư vấn<br /> hướng nghiệp tại Việt Nam. Tạp chí Tâm lí học, số<br /> 5, tr 40-49.<br /> [2] VVOB, Giáo dục vì sự phát triển (2013). Tổ chức tư<br /> vấn hướng nghiệp và tư vấn tuyển sinh cho nhóm lớn<br /> học sinh cấp trung học phổ thông. NXB Đại học<br /> Quốc gia Hà Nội.<br /> [3] Bộ GD-ĐT (2013). Tài liệu tập huấn đổi mới giáo<br /> dục hướng nghiệp trong trường trung học.<br /> [4] Claudia Crisana - Anisoara Paveleab - Oana<br /> Ghimbulutc (2014). A Need Assessment on<br /> Students’ Career Guidance. The 6th International<br /> Conference Edu World 2014 “Education Facing<br /> Contemporary World Issues”. 7th - 9th, November.<br /> [5] Phạm Tất Dong (chủ biên, 2000). Sự lựa chọn tương<br /> lai (tư vấn hướng nghiệp). NXB Thanh niên.<br /> [6] Quang Dương (2010). Tư vấn hướng nghiệp (tập 1<br /> và 2). NXB Trẻ.<br /> [7] Howard Figler - Richard Nelson Bolles (2009). The<br /> career counselor’s handbook. Ten speed press Berkeley.<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2