VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 431 (Kì 1 - 6/2018), tr 54-56; bìa 3<br />
<br />
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG NGỮ LIỆU THẬT<br />
TRONG VIỆC THÚC ĐẨY SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC<br />
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NÓI TIẾNG ANH<br />
Nguyễn Thị Thanh Hồng<br />
Trường Đại học Y Dược - Đại học Thái Nguyên<br />
Ngày nhận bài: 15/12/2017; ngày sửa chữa: 27/12/2017; ngày duyệt đăng: 27/12/2017.<br />
Abstract: This research aims at investigating the reality of using authentic materials in improving<br />
speaking competency of the students at Thai Nguyen University of Medicine and Pharmacy<br />
(TUMP) with the aim to propose some solutions for increasing the efficiency of using real language<br />
in developing students’ English speaking skills. To do so, a descriptive method with questionnaires<br />
was carried out at the university on 294 second-year students in nursing, pharmacy and medicine.<br />
The results of the study showed that majority of students have positive attitude toward authentic<br />
materials and they are of almost importance in speaking classes. It helps to bring contact in the<br />
classroom. However, it is concluded that a large number of students don’t use authentic materials<br />
outside classroom. The paper also proposes suggestions to help both teacher and students improve<br />
students’ English speaking competency.<br />
Keywords: Authentic material, speaking classes, speaking competency, real language.<br />
1. Mở đầu<br />
Theo tác giả Nunan (1989), ngữ liệu thật là văn bản<br />
được soạn không nhằm mục đích giảng dạy, là những gì<br />
lấy từ cuộc sống thực do người bản xứ thực hiện và khi<br />
đưa vào lớp học nó được giữ nguyên hình dáng, thể thức,<br />
không có một thay đổi nào so với hiện trạng ban đầu [1].<br />
Tomlinson (1998) cho rằng, tài liệu có thể dưới dạng một<br />
cuốn sách giáo khoa, một cuốn sách làm việc, một băng<br />
cassette, một đĩa CD ROM, một video, bản sao chép, tờ<br />
báo, đoạn viết trên bảng trắng hoặc bất cứ thứ gì đại diện<br />
hoặc thông báo cho ngôn ngữ được học. Mục đích của<br />
nó là để cho phép học sinh nghe, đọc, nói và tạo ra ngôn<br />
ngữ giống như trong văn hoá đích. Theo tác giả Herod<br />
(2002), ngữ liệu và hoạt động học tập thật được thiết kế<br />
để bắt chước lại các tình huống trong thế giới thật [2].<br />
Trong những năm gần đây, thực tế giảng dạy và sự<br />
hiện diện của các ngữ liệu thật trong chương trình ngoại<br />
ngữ đã chỉ ra rằng chúng đóng một vai trò vô cùng quan<br />
trọng trong việc giảng dạy với tính năng giúp người học<br />
có khả năng giao tiếp chủ đạo. Tác giả Hadley (2001)<br />
trong nghiên cứu của mình đã khẳng định việc sử dụng<br />
các tài liệu du lịch thực tế hoặc mô phỏng, mẫu đăng kí<br />
khách sạn, tờ dữ liệu tiểu sử, thực đơn của nhà hàng, nhãn<br />
hiệu, bảng hiệu, báo và tạp chí... sẽ làm cho sinh viên<br />
(SV) làm quen với ngôn ngữ thật hơn so với bất kì tài liệu<br />
nào [3]. Hơn nữa, ngữ liệu thật còn tốt hơn bất kì vật liệu<br />
giảng dạy nào khác, đáp ứng đầy đủ nhu cầu và động cơ<br />
của người học. Người ta tin rằng ngữ liệu thật có rất nhiều<br />
lợi thế trong việc giảng dạy ngoại ngữ mà chúng ta không<br />
<br />
54<br />
<br />
thể phủ nhận chúng, một trong những đặc điểm chính là<br />
ngôn ngữ sử dụng trong loại tài liệu này hoàn toàn xác<br />
thực và giao tiếp. Do vậy, trong nghiên cứu của mình,<br />
Brandl (2008) cho rằng các ngữ liệu thực phản ánh tình<br />
huống thực tế cuộc sống. Theo ông, các tài liệu thực giúp<br />
học sinh tiếp xúc với ngôn ngữ thực sự trong ngữ cảnh<br />
mà nó tự nhiên xảy ra; liên quan chặt chẽ hơn đến nhu<br />
cầu của học sinh và tạo ra sự kết nối giữa lớp học và nhu<br />
cầu của học sinh trong thế giới thực; hỗ trợ cách tiếp cận<br />
sáng tạo hơn để giảng dạy, cho phép giáo viên phát triển<br />
tiềm năng đầy đủ của họ, thiết kế các hoạt động và nhiệm<br />
vụ phù hợp hơn với phong cách giảng dạy của giáo viên<br />
và phong cách học tập của học sinh [4].<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
Mục tiêu của việc học ngoại ngữ không chỉ dừng lại ở<br />
chỗ hiểu hay diễn đạt được những cấu trúc hay câu văn đúng<br />
văn phạm mà là người học phải lĩnh hội được các kĩ năng<br />
cần thiết cho việc sử dụng đúng chuẩn mực một ngôn ngữ.<br />
Người học phải tự tìm ra những cách thức diễn dạt trong quá<br />
trình hoạt động nhận thức nối tiếp nhau của quá trình quan<br />
sát sự vật hiện tượng. Chính vì vậy, theo Gilmore, A. (2007),<br />
việc để SV tiếp xúc và làm việc với ngữ liệu thật, tiếp xúc<br />
với những tình huống giao tiếp thực sự và cụ thể là điều hết<br />
sức cần thiết vì nó giúp SV đặt ra những giả thiết diễn đạt<br />
phù hợp, đúng ngữ cảnh, là điều kiện để SV đạt được mục<br />
tiêu kĩ năng giao tiếp. Và đó cũng là những gì mà các giảng<br />
viên (GV) của Bộ môn Ngoại ngữ đã và đang làm với mong<br />
muốn nâng cao được năng lực nói tiếng Anh của SV<br />
Trường Đại học Y Dược - Đại học Thái Nguyên.<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 431 (Kì 1 - 6/2018), tr 54-56; bìa 3<br />
<br />
Với những lí do nêu trên, năm học 2016-2017, chúng<br />
tôi đã tiến hành nghiên cứu Thực trạng sử dụng các ngữ<br />
liệu thật trong việc thúc đẩy SV trường Đại học Y Dược<br />
phát triển năng lực nói tiếng Anh với mục đích đề xuất<br />
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng ngữ<br />
liệu thật để phát triển kĩ năng nói (KNN) tiếng Anh của<br />
SV. Đối tượng nghiên cứu bao gồm 294 SV năm thứ hai<br />
ngành điều dưỡng, dược, bác sĩ đa khoa và 7 GV có nhiều<br />
kinh nghiệm giảng dạy tiếng Anh tại Trường Đại học Y<br />
Dược sẵn sàng tham gia nghiên cứu.<br />
Để đạt được mục đích của nghiên cứu và thu thập các<br />
dữ liệu cần thiết cho nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng<br />
bảng hỏi cho GV và SV năm thứ hai tại Trường Đại học<br />
Y Dược. Kết quả như sau:<br />
2.1. Thái độ của sinh viên đối với các ngữ liệu thật (xem<br />
bảng 1)<br />
Bảng 1. Thái độ của SV đối với các ngữ liệu thật<br />
Thái độ Hoàn<br />
toàn<br />
đồng<br />
ý<br />
<br />
Câu hỏi<br />
1. Tôi thích sử dụng các ngữ<br />
liệu tiếng Anh thật hơn là nói<br />
những ngữ liệu đã được cung<br />
cấp trong sách giáo khoa.<br />
2. Ngữ liệu nói thật giúp tôi<br />
cải thiện năng lực ngôn ngữ<br />
của mình.<br />
3. Các ngữ liệu thật tôi đã nói<br />
trên lớp dễ dàng và thú vị hơn<br />
các ngữ liệu có sẵn trong sách.<br />
4. Các ngữ liệu nói thật giúp<br />
phát triển khả năng nói của tôi<br />
nhiều hơn các ngữ liệu có sẵn<br />
trong sách.<br />
5. Các ngữ liệu nói thật làm<br />
tăng sự quen thuộc của tôi với<br />
việc sử dụng các quy tắc ngữ<br />
pháp trong ngữ cảnh gốc và<br />
kiến thức về các từ vựng mà<br />
tôi cần trong thực tế.<br />
6. Ngữ liệu thật giúp tôi phát<br />
triển sự tự tin trong giao tiếp.<br />
<br />
Đồng<br />
ý<br />
<br />
Hoàn<br />
Không<br />
toàn<br />
đồng<br />
không<br />
ý<br />
đồng ý<br />
<br />
5,1% 91,2% 4,7%<br />
<br />
0%<br />
<br />
26,1% 72,8% 1,1%<br />
<br />
0%<br />
<br />
39,8% 60,2%<br />
<br />
0%<br />
<br />
0%<br />
<br />
18,8% 81,2%<br />
<br />
0%<br />
<br />
0%<br />
<br />
7,1% 91,2% 1,7%<br />
<br />
0%<br />
<br />
15,6% 82,7% 1,7%<br />
<br />
0%<br />
<br />
gia nghĩ rằng các ngữ liệu thật không giúp họ cải thiện<br />
khả năng nói của mình.<br />
Về thái độ của HS đối với các ngữ liệu thật so với các<br />
ngữ liệu không thật hoặc có sẵn trong sách, tất cả các SV<br />
đồng ý và nhất trí rằng các ngữ liệu thật mà họ nói trong lớp<br />
học là dễ dàng và thú vị hơn các ngữ liệu có sẵn trong sách.<br />
Đối với tính hữu dụng của ngữ liệu thật, 81,2% số SV<br />
được hỏi đều đồng ý và 18,8% hoàn toàn đồng ý rằng các<br />
ngữ liệu thật giúp phát triển khả năng nói tiếng Anh hơn là<br />
các ngữ liệu không xác thực, được cung cấp sẵn. Các kết<br />
quả từ bảng điều tra cũng chỉ ra rằng một số lượng lớn SV<br />
đồng ý và hoàn toàn đồng ý rằng các ngữ liệu nói thật làm<br />
tăng sự quen thuộc của SV với việc sử dụng các quy tắc<br />
ngữ pháp trong ngữ cảnh gốc và kiến thức về các từ vựng<br />
mà họ cần trong thực tế (91,2% và 7,1%). Trong khi đó,<br />
một số nhỏ các SV không đồng ý với quan điểm này.<br />
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, phần lớn SV<br />
(15,6% và 82,7%) đồng ý và hoàn toàn đồng ý cho rằng<br />
ngữ liệu thật giúp phát triển sự tự tin trong giao tiếp. Điều<br />
này dẫn đến kết luận rằng SV phải được tiếp xúc với các<br />
tài liệu này để nâng cao sự tự tin và lưu loát của SV.<br />
2.2. Việc sử dụng các ngữ liệu thật của sinh viên<br />
2.2.1. Hoạt động nào bạn thích hơn khi luyện tập trong<br />
các buổi học nói (xem bảng 2)<br />
Bảng 2. Các hoạt động trong buổi học nói<br />
Đóng<br />
vai<br />
N<br />
%<br />
<br />
Bảng 1 cho thấy, đa số (91,2% và 5,1%) SV đồng ý<br />
và hoàn toàn đồng ý rằng họ thích sử dụng các ngữ liệu<br />
tiếng Anh thật hơn là nói những ngữ liệu đã được cung<br />
cấp trong sách giáo khoa. Chỉ 4,7% SV không đồng ý với<br />
ý kiến này; 72,8% và 26,1% SV đã chọn “đồng ý” và<br />
“hoàn toàn đồng ý” có nghĩa là các ngữ liệu thật có ảnh<br />
hưởng đến việc nâng cao khả năng nói của họ sau khi họ<br />
tiếp xúc với các tài liệu đó, họ không chỉ rèn luyện KNN<br />
mà còn thực hành các kĩ năng khác. Trong khi chỉ có<br />
1,1% chọn “không đồng ý” có thể là những người tham<br />
<br />
55<br />
<br />
204<br />
69,4%<br />
<br />
Giao tiếp<br />
và thảo<br />
luận<br />
73<br />
24,8%<br />
<br />
Nghe<br />
bài hát<br />
5<br />
1,7%<br />
<br />
Nghe<br />
Tổng số<br />
băng âm<br />
12<br />
4,1%<br />
<br />
294<br />
<br />
Bảng 2 cho thấy, 69,4% SV trả lời đã tham gia đóng<br />
vai. Điều này có thể là do các vấn đề cơ bản của hoạt<br />
động này. 24,8% ủng hộ giao tiếp và thảo luận, vì GV sử<br />
dụng hoạt động này. Điều này giải thích việc gia tăng sự<br />
quan tâm và động lực học của một bộ phận SV, trong khi<br />
1,7% số người thích nghe băng âm; có thể, nó là cơ hội<br />
tự do để được tiếp xúc với ngôn ngữ thật. Mặt khác, chỉ<br />
có 5 SV thích nghe bài hát, có thể điều đó phụ thuộc vào<br />
tâm trạng của SV đối với bài hát.<br />
2.2.2. Giảng viên của bạn thường xuyên sử dụng/giới<br />
thiệu ngữ liệu thật trong các bài học nói không? (xem<br />
bảng 3)<br />
Bảng 3<br />
<br />
N<br />
%<br />
<br />
Luôn<br />
luôn<br />
197<br />
67%<br />
<br />
Thỉnh<br />
thoảng<br />
95<br />
32,3%<br />
<br />
Hiếm<br />
khi<br />
2<br />
0,7%<br />
<br />
Không<br />
bao giờ<br />
0<br />
0%<br />
<br />
Tổng<br />
số<br />
294<br />
<br />
Bảng 3 cho thấy, đa số GV luôn luôn sử dụng và<br />
giới thiệu các ngữ liệu thật (67%), trong khi 32,3% số<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 431 (Kì 1 - 6/2018), tr 54-56; bìa 3<br />
<br />
SV chọn “thỉnh thoảng”. Tuy nhiên, chỉ có 2 SV chọn<br />
“hiếm khi”.<br />
2.2.3. Bạn thường xuyên sử dụng ngữ liệu thật bên ngoài<br />
lớp học để cải thiện kĩ năng nói của mình như thế nào?<br />
(xem bảng 4)<br />
Bảng 4<br />
<br />
N<br />
%<br />
<br />
Luôn<br />
luôn<br />
24<br />
8,2%<br />
<br />
Thỉnh<br />
thoảng<br />
57<br />
19,4%<br />
<br />
Hiếm<br />
khi<br />
106<br />
36%<br />
<br />
Không<br />
bao giờ<br />
107<br />
36,4%<br />
<br />
Tổng<br />
số<br />
294<br />
<br />
Băng âm<br />
<br />
Bảng 4 cho thấy, 36,4% SV trả lời rằng họ không bao<br />
giờ được sử dụng các ngữ liệu thật ở bên ngoài lớp học<br />
để nâng cao KNN và 36% nói rằng hiếm khi sử dụng,<br />
trong khi 19,4% SV khiêm tốn trả lời rằng đôi khi họ sử<br />
dụng các ngữ liệu thật bên ngoài lớp học. Điều đáng chú<br />
ý là chỉ có 8,2% số SV được hỏi đã trả lời rằng họ luôn<br />
thực hành KNN ngoài lớp học với các ngữ liệu thật. Đó<br />
cũng là một trong những nguyên nhân của tình trạng<br />
phần lớn SV không biết phải bắt đầu việc nói của mình<br />
như thế nào, thiếu ý tưởng, không thể vận dụng kiến thức<br />
ngữ pháp, từ vựng và cấu trúc câu đã học.<br />
2.3. Việc sử dụng ngữ liệu thật trong dạy kĩ năng nói<br />
của giảng viên<br />
2.3.1. Theo anh/chị, ngữ liệu thật trong các bài học nói<br />
(xem bảng 5)<br />
Bảng 5<br />
<br />
N<br />
%<br />
<br />
Tạo<br />
động lực<br />
và thú vị<br />
7<br />
100%<br />
<br />
Có<br />
hiệu<br />
quả<br />
7<br />
100%<br />
<br />
Buồn<br />
chán<br />
<br />
Không<br />
cần thiết<br />
<br />
Tổng<br />
số<br />
<br />
0<br />
0%<br />
<br />
0<br />
0%<br />
<br />
7<br />
<br />
Bảng 5 cho thấy, 100% GV đồng ý rằng các ngữ thật<br />
luôn tạo động lực và hứng thú cho SV, cũng như mang lại<br />
hiệu quả trong việc cải thiện KNN cho SV. Chúng có ý nghĩa<br />
quan trọng vì những ảnh hưởng tích cực đối với quá trình<br />
giảng dạy; chúng tích hợp ngôn ngữ thật và môi trường học.<br />
2.3.2. Bạn thường xuyên sử dụng ngữ liệu thật khi dạy kĩ<br />
năng nói như thế nào? (xem bảng 6)<br />
Bảng 6<br />
Thường<br />
xuyên<br />
N<br />
%<br />
<br />
2<br />
28,57%<br />
<br />
Rất<br />
thường<br />
xuyên<br />
3<br />
42,86%<br />
<br />
Thỉnh<br />
thoảng<br />
<br />
Hiếm<br />
khi<br />
<br />
Tổng<br />
số<br />
<br />
2<br />
28,57%<br />
<br />
0<br />
0%<br />
<br />
7<br />
<br />
xuyên sử dụng. Tuy nhiên, chỉ có 2 GV đôi khi sử dụng<br />
chúng trong lớp học. Với câu hỏi này, chúng tôi muốn<br />
biết được tần suất sử dụng ngữ liệu thật của GV và thái<br />
độ của họ đối với việc sử dụng các ngữ liệu thật như là<br />
một công cụ giúp nâng cao KNN cho SV.<br />
2.3.3. Bạn thường sử dụng dụng cụ trợ giảng nào nhất?<br />
(xem bảng 7)<br />
Bảng 7<br />
<br />
Tất cả GV đồng ý rằng ngữ liệu thật là một trong<br />
những công cụ để nâng cao KNN của SV trong lớp học.<br />
Điều đáng chú ý là sự phân biệt rõ ràng trong việc sử<br />
dụng ngữ liệu thật gần như giống nhau. 2 GV thường<br />
xuyên sử dụng chúng 28,57%, và 3 trong số rất thường<br />
<br />
56<br />
<br />
N<br />
%<br />
<br />
1<br />
14,28%<br />
<br />
Thiết bị<br />
nghe nhìn<br />
5<br />
71,42%<br />
<br />
Giáo cụ<br />
trực quan<br />
1<br />
14,28%<br />
<br />
Tổng<br />
số<br />
7<br />
<br />
Bảng 7 cho thấy, 71,42% GV thường sử dụng thiết bị<br />
trợ giúp nghe nhìn trong giảng dạy KNN. Câu hỏi trên<br />
nhằm mục đích xác định xem GV có sử dụng giáo cụ trực<br />
quan hay âm thanh hay thiết bị nghe nhìn hay không. Chỉ<br />
1 GV sử dụng giáo cụ trực quan và băng âm.<br />
2.3.4. Trong số các loại ngữ liệu thật sau đây, bạn nghĩ<br />
sinh viên thích cái nào? (xem bảng 8)<br />
Bảng 8<br />
Băng âm<br />
N<br />
%<br />
<br />
1<br />
14,28%<br />
<br />
Thiết bị<br />
nghe nhìn<br />
5<br />
71,42%<br />
<br />
Giáo cụ<br />
trực quan<br />
1<br />
14,28%<br />
<br />
Tổng số<br />
7<br />
<br />
Bảng 8 cho thấy, đa số GV thấy rằng SV của họ thực<br />
sự tham gia vào việc sử dụng thiết bị hình ảnh nghe nhìn<br />
(chiếm 71,42%) rõ ràng là do SV phản ứng nhiều hơn<br />
với một cái gì đó được nghe và nhìn thấy. Ngược lại, chỉ<br />
có một người chọn dùng băng âm và một GV khác chọn<br />
giáo cụ trực quan (chiếm 14,28%).<br />
2.3.5. Hoạt động nào sau đây bạn thường áp dụng khi<br />
dạy kĩ năng nói cho sinh viên? (xem bảng 9)<br />
Bảng 9<br />
<br />
N<br />
%<br />
<br />
Hoạt<br />
động<br />
đóng vai<br />
<br />
Làm<br />
việc<br />
nhóm<br />
<br />
Hội<br />
thoại<br />
<br />
5<br />
71,42%<br />
<br />
1<br />
14,28%<br />
<br />
1<br />
14,28%<br />
<br />
Nghe<br />
nhạc,<br />
xem<br />
phim<br />
0<br />
0%<br />
<br />
Tổng<br />
số<br />
7<br />
<br />
Bảng 9 cho thấy, hoạt động đóng vai được đa số GV<br />
(71,42%) sử dụng nhiều nhất khi dạy KNN. Không có<br />
bất kì nghi ngờ gì việc đóng vai cho phép SV mô phỏng<br />
tình huống thực tế trong lớp học, và đó là một cách học<br />
có ý nghĩa. Hoạt động đóng vai cung cấp SV có cơ hội<br />
thể hiện mình trong khi không có GV nào sử dụng phim<br />
hay các bài hát khi dạy nói cho SV.<br />
(Xem tiếp bìa 3)<br />
<br />