intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực trạng và giải pháp cho hành vi gian lận trong giáo dục Việt Nam hiện nay qua tổng hợp các kết quả nghiên cứu thực tiễn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

56
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Thực trạng và giải pháp cho hành vi gian lận trong giáo dục Việt Nam hiện nay qua tổng hợp các kết quả nghiên cứu thực tiễn" nhận diện các biểu hiện của sự gian lận, giả dối ở mọi cấp học, bậc học, mọi đối tượng tham gia vào quá trình giáo dục – đào tạo thông qua nghiên cứu và tổng hợp thực trạng này từ nhiều kết quả nghiên cứu khác nhau, từ đó đề xuất những định hướng giải quyết phù hợp. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực trạng và giải pháp cho hành vi gian lận trong giáo dục Việt Nam hiện nay qua tổng hợp các kết quả nghiên cứu thực tiễn

  1. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO HÀNH VI GIAN LẬN TRONG GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY QUA TỔNG HỢP CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN TS. Đặng Thị Thanh Trâm* 1 Tóm tắt: Sau 15 năm thực hiện cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” cho đến nay, các hoạt động, hành vi gian lận trong giáo dục Việt Nam vẫn chưa có dấu hiệu cải thiện, để lại nhiều hệ lụy xấu cho xã hội. Điều này đang gióng lên sự cấp thiết của việc xây dựng nền giáo dục thực học. Bài viết nhận diện các biểu hiện của sự gian lận, giả dối ở mọi cấp học, bậc học, mọi đối tượng tham gia vào quá trình giáo dục – đào tạo thông qua nghiên cứu và tổng hợp thực trạng này từ nhiều kết quả nghiên cứu khác nhau, từ đó đề xuất những định hướng giải quyết phù hợp. Từ khóa: Thực trạng, giải pháp, gian lận, giả dối, giáo dục. ĐẶT VẤN ĐỀ Sau sự kiện thầy giáo Đỗ Việt Khoa tố cáo những gian lận trong kỳ thi Tốt nghiệp THPT 2005 - 2006 ở Hà Tây, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 33/2006/ CT-TTg ngày 08/9/2006 “Về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục”; Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Quyết định số 3859/QĐ-BGDĐT ngày 28/7/2006 ban hành Kế hoạch tổ chức cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”. Ngày 28 tháng 12 năm 2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành văn bản số 6122 /BGDĐT-TĐKT “Về việc khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục”. Trong 15 năm qua, đã có nhiều bài viết trên các diễn đàn, hội đàm, hội thảo, các công trình nghiên cứu khoa học chia sẻ các câu chuyện về thực trạng, quan điểm, đề xuất các giải pháp chữa “bệnh thành tích” và những tiêu cực trong giáo dục của các nhà giáo, nhà khoa học và các tầng lớp nhân dân. Song các hiện tượng tiêu cực, vẫn chưa thấy có dấu hiệu giảm xuống. Tổng hợp từ các kết quả nghiên cứu thực tiễn, chúng tôi phác họa những tiêu cực, gian lận đang tồn tại dai dẳng trong nền giáo dục – đào tạo của Việt Nam; chỉ ra những nguyên nhân và đề xuất các giải pháp để giải quyết vấn nạn này. Trường Đại học Mỏ - Địa chất. 1
  2. Phần 2: DẠY THẬT, HỌC THẬT - BÀI HỌC TỪ THỰC TIỄN 325 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.1. Các khái niệm cơ bản “Bệnh thành tích” là việc cá nhân hoặc tập thể trong tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị suy nghĩ và hành động vì động cơ, mục đích chạy theo phong trào hoặc vì vụ lợi mà bằng mọi cách, mọi giá để có được những kết quả, thành tích giả, thành tích ảo, không thực chất không phải do sự nỗ lực phấn đấu mà có để được biểu dương, khen thưởng, suy tôn, công nhận không đúng, không xứng đáng, gây ra những hậu quả không tốt, không có lợi cho hiện tại và tương lai [4]. Những biểu hiện này, theo PGS.TS. Nguyễn Ngọc Phú là các hoạt động, hành động, hành vi gian lận trong giáo dục, đào tạo [6]. 2.2. Thực trạng hành vi gian lận, qua tổng hợp từ các công trình nghiên cứu Năm 2017, nhóm nghiên cứu Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam và năm 2019 nhóm nghiên cứu của Hội Khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam tổ chức các cuộc tọa đàm, khảo sát với các đối tượng là học sinh, sinh viên, cha mẹ học sinh, giáo viên, cán bộ quản lý, cán bộ Sở, Phòng Giáo dục – Đào tạo, chính quyền địa phương, cán bộ cộng đồng, các chuyên gia trong và ngoài ngành giáo dục ở các địa phương Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hưng Yên, Nghệ An, Hải Phòng, Thái Nguyên, Quảng Trị về “bệnh thành tích” trong giáo dục. Tổng hợp kết quả từ 2 công trình nghiên cứu này có thể đưa ra một phác họa những nét cơ bản về bức tranh giáo dục. Các hành vi gian lận, rất phong phú, đa dạng: có trường cố gắng làm nổi bật “thương hiệu” bằng những hoạt động như: nâng tỉ lệ học sinh khá giỏi, đẩy học sinh kém lên lớp để giảm bớt tỉ lệ lưu ban bằng cách sửa điểm, nâng điểm)… Trong các cuộc thi, nhất là thi tốt nghiệp THPT thì dùng đủ mọi biện pháp để trường mình có thứ bậc cao. Ở bậc đại học, các trường đại học tham gia kiểm định chất lượng nhưng một số trong số đó kết quả chưa thực chất. Đối với giáo viên, có biểu hiện không trung thực trong đánh giá kết quả học tập của học sinh lớp mình dạy/ chủ nhiệm để được nhà trường công nhận danh hiệu thi đua bằng nhiều cách; thiếu trung thực trong báo cáo kết quả công tác của mình để được nhận danh hiệu thi đua cao hơn thực tế; hoặc họ dung túng, bao che lỗi của học sinh do sợ ảnh hưởng thi đua hàng tuần của lớp. Ở bậc cao hơn, cũng có những hiện tượng tiêu cực trong đào tạo giáo dục. Đối với cha mẹ học sinh, hiện tượng xin điểm, chạy chứng chỉ, giấy khen, giải thưởng cho con mình để có hồ sơ học tập đẹp, để có thành tích cao hơn thực lực là tương đối phổ biến. Học sinh, sinh viên quá chú trọng các kỳ thi để lấy điểm số cao mà không chú tâm tới kiến thức mình thu nạp được. Hiện tượng dùng “phao” tài liệu, mua điểm; sao chép luận văn, luận án của người khác vẫn tồn tại ở một số trường. Đối với cấp lãnh đạo nhà trường, việc chỉ đạo xếp loại học lực, hạnh kiểm học sinh vào cuối kỳ, cuối năm cao hơn thực tế; báo cáo thiếu trung thực với cấp trên và cha mẹ học sinh; dung túng, tạo điều kiện cho cấp dưới thổi phồng,
  3. 326 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ngụy tạo thành tích, che giấu những hạn chế yếu kém; mua chuộc cấp trên và những người có chức, quyền để lấp liếm những yếu kém, hạn chế của cá nhân cũng như của nhà trường để nhà trường đạt danh hiệu thi đua và bản thân được khen thưởng hoặc tạo cơ sở để được đề bạt, cất nhắc cũng không phải là ít. Đến lượt mình, chính quyền địa phương cũng gây áp lực cho ngành giáo dục bằng các chỉ tiêu để khẳng định thành tích địa phương. Thực tế không như mong muốn thì vòng tròn của sự dung túng, làm ngơ, với những gian dối trong việc nâng khống thành tích báo cáo của các cơ quan quản lý giáo dục cấp dưới lại diễn ra. Vụ gian lận điểm thi tốt nghiệp THPT tại tỉnh Hà Giang, Hòa Bình, Sơn La năm 2019 [8]; vụ việc một số giáo viên ở Thanh Hóa có hành vi sửa điểm trong hồ sơ, học bạ mới bị phát hiện [7]; câu chuyện học sinh nhiều năm đạt học sinh giỏi ở Hà Nội nhưng không thi đỗ vào trường THPT mới đây là những minh chứng sinh động cho các hành vi gian lận, giả dối và kết quả của nó [13]. Giáo dục Việt Nam còn đối mặt với nạn tham nhũng, chẳng hạn để qua được một kỳ thi hoặc để được chấp thuận tham gia một chương trình học nào đó, suất hoặc được nhận vào học tại một trường điểm nào đó ở Việt Nam. Năm 2012, người dân Việt Nam nhận thức ngành giáo dục tham nhũng nhiều hơn người dân tại một số nước trong khu vực: Điểm số Việt Nam là 3,4/5 (với điểm 5 là rất tham nhũng) [13]. Tháng 01/2019, Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) công bố Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) năm 2018, xếp hạng 180 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam đạt 33/100 điểm, xếp hạng 117/180 toàn cầu. Xét trên thang điểm từ 0 – 100 của CPI (0 là rất tham nhũng và 100 là rất trong sạch). Trong lĩnh vực giáo dục công, người dân thường xuyên phải đối mặt và tiếp xúc với hối lộ và tham nhũng là 57% và 45% [14]. Đây là những con số, sự kiện gióng lên hồi chuông báo động tình trạng nguy cấp trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo. Câu hỏi đặt ra: Vì sao 15 năm qua tính từ khi Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thủ tướng Chính phủ đưa ra những biện pháp đấu tranh với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích nhưng tình hình không thuyên giảm mà mức độ của vấn nạn còn trầm trọng hơn? 2.3. Nguyên nhân của thực trạng Phân tích những nguyên nhân của tình trạng gian lận, trong giáo dục đòi hỏi phải toàn diện, đầy đủ, qua đó mới đề ra được giải pháp hiệu quả. Từ thực tiễn quan sát cuộc sống và phân tích các bài viết, công trình nghiên cứu của đồng nghiệp, chúng tôi cho rằng có một số nguyên nhân dẫn đến vấn nạn nhức nhối này: Dưới góc độ tâm lý xã hội, sự giả dối, gian lận đã quá phổ biến với thời gian đủ lâu ở nhiều đối tượng, nhiều ngành nghề, từ cấp trên xuống cấp dưới đến mức một số người không còn cảm thấy xấu hổ khi thực hiện những hành vi, hoạt động không chuẩn mực nữa. Trên thực tế, việc gọi tên “bệnh thành tích” và “những tiêu cực trong thi cử” hoặc có người chặt chẽ hơn gọi là bệnh sùng bái thành tích; bệnh hoang tưởng
  4. Phần 2: DẠY THẬT, HỌC THẬT - BÀI HỌC TỪ THỰC TIỄN 327 thành tích; bệnh thành tích ảo tồn tại bấy lâu nay từ trong các văn bản của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho đến các diễn đàn và nhiều công trình nghiên cứu vẫn thường dùng, có người cho rằng đó là cách gọi mỹ miều, là nói chữ mà chưa gọi đúng bản chất là giả dối, gian lận trong giáo dục. Cách gọi này không chỉ chưa phản ánh đúng, đầy đủ bản chất vấn đề mà một lần nữa còn phản ánh sự không trung thực, không dũng cảm thật sự trong tư duy của chúng ta khi đối diện với hiện trạng nguy cấp này. Có người cho rằng, sự giả dối không phải là căn tính của dân tộc ta mà đã nảy sinh từ môi trường xã hội. Trong bài viết này, chúng tôi không có chủ ý bàn về giả dối có phải là “căn tính dân tộc” hay không nhưng dựa trên những kết quả nghiên cứu nói về thói hư tật xấu của người Việt đầu thế kỷ XX [3], tác giả Vương Trí Nhàn nhận xét rằng “Thói xấu lớn nhất của người Việt là rất sợ nói về thói xấu của mình”. Trong khảo sát tại các địa phương, những người được hỏi đều cho rằng bệnh thành tích không có ở địa phương mình. Trong một bài viết khác, có người cho rằng sự gian lận, dối trá trong giáo dục bắt đầu từ khi chúng ta chuyển sang thời kỳ đổi mới. Nếu sự giả dối, gian lận mới chớm nở mà bị phê phán, lên án và bị trừng trị thì nó không có cơ hội phát triển. Ấy vậy mà, hiện nay sự giả dối, gian lận phổ biến đến mức người ta không xấu hổ, thậm chí được coi như một kỹ năng tồn tại. Giả dối trong suy nghĩ thì tự an ủi mình, giả dối trong lời nói được khen là khéo léo, giả dối trong hành động được xem là khôn ngoan. Trên thực tế, sự gian lận, giả dối này nằm ở mọi cấp, mọi lĩnh vực, ngành nghề, chỉ có khác biệt là ở các ngành khác sự giả dối, gian lận chính là các vụ tham ô, tham nhũng, rút ruột công trình… gây ra tổn thất tính bằng vật chất, tiền bạc hoặc tính mạng cụ thể. Số người liên quan, liên đới đến vụ việc được điều tra rất rõ ràng, nên thái độ lên án của xã hội với những hành vi này quyết liệt. Còn gian lận, giả dối trong giáo dục có thể ở mọi chủ thể từ các cấp quản lý chính quyền đến ngành giáo dục, một bộ phận giáo viên, phụ huynh, người học; nó được thỏa thuận và mang lại lợi ích cho nhiều bên; nó lại được nhân danh là “thành tích giáo dục”. Hậu quả của nó không “nhãn tiền”; nó gây bức xúc trong dư luận xã hội nhưng không gây chết người, không tính toán ra thành tiền bạc, vật chất. Nếu giả dối, gian lận không được ngăn chặn, đẩy lùi trong thời gian tới thì chúng tôi cho rằng tình trạng này rất dễ trở thành thói xấu phổ biến trong xã hội hiện nay. Một xã hội mà thói giả dối phổ biến như vậy luôn đi liền với thói háo danh, vụ lợi, hám lợi, thích phô trương, trọng hình thức, khoái khen thưởng. Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu Hội Khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam về động cơ của những hành vi gian lận, giả dối trong giáo dục như sau: Động cơ “muốn được đề bạt, cất nhắc”, xếp hạng cao nhất, sau đó xếp hạng thứ 2 là “Hám danh, sinh thành tích”; xếp hạng thứ 3 là “Muốn khẳng định tài năng của mình trước bạn bè, đồng nghiệp”; xếp
  5. 328 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP hạng thứ 4 là “Muốn được thưởng, tiền, vật chất, danh hiệu” và cuối cùng là “Hành vi gian lận lừa dối phục vụ cho lợi ích riêng của một số người nào đó, của cấp trên, nhưng dầu sao mình cũng được hưởng lợi từ việc này, nên cứ “ngậm miệng ăn tiền”, chẳng làm sao cả” [6]. Những động cơ này không chỉ là hệ quả của tâm lý ích kỷ, hạn hẹp mà sâu thẳm bên trong chính là sự hạn chế trong năng lực chuyên môn, phương pháp giảng dạy, bản lĩnh của một số thầy, cô giáo, lực lượng trực tiếp giảng dạy đưa đến chất lượng giáo dục chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Ngoài những nguyên nhân trên thì “tư duy nhiệm kỳ” [4] theo hướng tiêu cực trong quản lý nhà nước ở mọi lĩnh vực, trong đó bao gồm cả giáo dục – đào tạo đang “thúc đẩy nhanh từ sự suy thoái đạo đức, lối sống đến suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên, tạo nên sự giả dối, mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm, giữa phát biểu trong cuộc họp và đời sống hàng ngày. Khi điều này trở thành lối sống, ý chí của người lãnh đạo, yêu cầu toàn bộ cấp dưới phải thực hiện theo ý chí đó. Kết quả là tạo nên lối sống của một đội ngũ cán bộ, công chức theo xu hướng nhất thời, biết mà không nói, nghĩ khác, nói khác, làm khác dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” [4]. Đây chính là một nguyên nhân đưa đến thực trạng “Từ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến tổ chức thực hiện vẫn có một khoảng cách đáng lo ngại”[5]. Dưới góc độ vĩ mô, “thể chế” nói chung, thể chế giáo dục nói riêng chưa hoàn thiện, đầy đủ, đồng bộ trên các phương diện; chất lượng còn hạn chế chưa theo kịp với thực tiễn là yếu tố chủ yếu đưa đến những tồn tại, khiếm khuyết của giáo dục Việt Nam hiện nay. Trong đó, sự bất cập của các quy định về việc đánh giá, tuyển dụng, sắp xếp, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ; quy định về khen thưởng, thi đua trong bộ máy cơ quan nhà nước, chủ yếu dựa trên tiêu chí bằng cấp, chứng chỉ hoặc những chỉ tiêu số lượng xơ cứng mà không có những công cụ để kiểm tra, đánh giá năng lực, kỹ năng của cán bộ, giáo viên; sự thiếu hụt quy chế bảo vệ người đấu tranh, chống tiêu cực … là những nguyên nhân trực tiếp tác động theo chiều hướng tiêu cực đến tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình giáo dục – đào tạo. Sự tha hóa, xuống cấp về đạo đức; sự hạn chế và lệch lạc trong nhận thức, tư duy; sự thiếu hụt về năng lực, bản lĩnh của một bộ phận cán bộ, giáo viên và phụ huynh, học sinh đã tạo ra muôn hình vạn trạng biểu hiện của sự gian lận, giả dối, mà mỗi chủ thể trong cỗ máy giáo dục đó tùy vị trí của mình mà có biểu hiện khác nhau. 3. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP Trước hết, hành vi, hoạt động gian lận, lừa dối trong giáo dục như trên đã chỉ ra có căn nguyên từ nhiều yếu tố, biểu hiện rất phong phú, đa dạng; hậu quả của nó là khôn lường, bởi khi nhân cách con người bị méo mó từ chính “máy cái” giáo dục thì sẽ là thảm họa cho tương lai đất nước. Giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng này phải là tổng thể, phối hợp đồng thời nhiều giải pháp.
  6. Phần 2: DẠY THẬT, HỌC THẬT - BÀI HỌC TỪ THỰC TIỄN 329 Giải pháp 1: Phải tập trung xây dựng và để phát triển giáo dục. “Thể chế, thể chế và thể chế” là bí quyết thành công của các nền giáo dục phát triển cũng như từ các lĩnh vực khác. “Một thể chế tốt chắc chắn sẽ xúc tiến sự phát triển; nó khuyến khích sự sáng suốt chính trị với tư cách là nguồn gốc của mọi thành tựu trong quá trình lãnh đạo.” “Càng nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng thể chế, càng phải chống lại khuynh hướng sử dụng thành tích để hợp pháp hóa những mặt lạc hậu về thể chế” [16]. Và khi “Trong một xã hội mà thể chế tạo ra hai năng lực song song như vậy thì xã hội tự khắc phục những sai lầm của xã hội, cá nhân tự khắc phục những mặt cực đoan của mình và đó chính là một xã hội lành mạnh” [16]. Thực ra, trong 30 năm đổi mới, thể chế giáo dục nói chung, quản lý giáo dục nói riêng đã có nhiều đổi mới quan trọng và là một nguyên nhân chính mang lại những thành tựu của đổi mới giáo dục. Tuy nhiên, “với những nỗ lực cải cách thể chế giáo dục nửa vời cùng một chất lượng thể chế còn yếu kém” tụt hậu đang đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đẩy nhanh quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế giáo dục. Rà soát, bổ sung, chỉnh sửa lại các văn bản luật pháp, thông tư, nghị định đang hiện hành liên quan đến dạy và học, đánh giá chất lượng người học, người dạy, tổ chức thi cử, chế độ khen thưởng, thi đua, cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường; cơ chế kiểm tra, giám sát… cần phải được xây dựng, hoàn thiện cho phù hợp với hoàn cảnh khi nền giáo dục chuyển đổi sang cơ chế thị trường định hướng XHCN và hội nhập. Đồng thời, ở cấp độ vĩ mô, việc hoàn thiện thể chế về tuyển dụng, đề bạt, bồi dưỡng, bố trí cán bộ phải dựa trên năng lực, chứ không phải dựa trên tiêu chí bằng cấp, chứng chỉ; hoàn thiện luật định xử lý các hành động gian lận, giả dối và cơ chế bảo vệ, khen thưởng người đấu tranh với các hiện tượng giả dối, gian lận trong giáo dục; tránh để hiện tượng “Hoa thường héo, cỏ thường tươi” xảy ra trong “xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” mà chúng ta đang phấn đấu dựng xây. Giải pháp 2: Thực hiện biện pháp nêu gương. Cũng như bất kỳ lĩnh vực nào, người lãnh đạo đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo đảm thành công của đổi mới/ cải cách giáo dục, trong đó có việc phải ngăn chặn, đẩy lùi những gian lận, đang lan tràn trong toàn bộ bộ máy giáo dục. Một lĩnh vực chịu áp lực bởi những kỳ vọng từ trên xuống, và những đòi hỏi từ dưới lên, lãnh đạo ở mọi cấp, về giáo dục phải có tài năng, bản lĩnh, đạo đức để dẫn dắt quá trình cải cách, đấu tranh. Nghiên cứu của McKinsey cũng cho thấy tất cả 20 hệ thống giáo dục thành công đều gắn liền với những nhà lãnh đạo nhiệt huyết, bền bỉ và tài giỏi. Vì thế, sự nêu gương của những người đứng đầu ngành giáo dục và những người cộng sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong giai đoạn đẩy mạnh đổi mới giáo dục, xây dựng nền giáo dục thực học, thực tài hiện nay.
  7. 330 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Không chỉ bộ máy lãnh đạo ngành, mà ở các cơ sở giáo dục, tất cả các chủ thể như lực lượng quản lý, giáo viên đều có trách nhiệm nêu gương, tu dưỡng bản thân, trong đó vai trò nêu gương của hiệu trưởng là quan trọng nhất. Không thể yêu cầu học sinh, sinh viên, giáo viên phải tuân theo những chuẩn mực đạo đức hay về tầm quan trọng của sự trung thực, thẳng thắn đối với gia đình, xã hội và cuộc sống của đất nước khi thầy cô, hiệu trưởng - những tấm gương đạo đức không thực hiện. Vì thế, người lãnh đạo của các trường “phải làm cho những hành động lời nói thành thực, thẳng thắn, tự do, bình đẳng, yêu thương và biết tôn trọng người khác trở thành trào lưu chung trong môi trường trường học.”[1]. Và dĩ nhiên, vai trò nêu gương của thầy cô ở trường lớp là quan trọng nhưng không đủ khi thiếu sự nêu gương của phụ huynh học sinh, bởi thầy cô và cha mẹ luôn là chuẩn mực đạo đức đối với con cái. Giải pháp 3: Thực hiện biện pháp giáo dục, truyền thông. Trước khi bắt tay triển khai những bước cụ thể xây dựng nền giáo dục thực học, thực chất, thì công tác giáo dục truyền thông để tất cả các chủ thể tham gia vào guồng máy giáo dục thống nhất nhận thức đúng, đầy đủ một số vấn đề sau: Thứ nhất, phải gọi tên đúng bản chất vấn đề khi nói về các hoạt động, hành động không trung thực trong mọi hoạt động của bộ máy giáo dục là gian lận, giả dối chứ không phải là “bệnh thành tích” hay tiêu cực. Sự gian lận, giả dối này phải bị xử lý nghiêm bởi các luật định. Thứ hai, nhận thức đúng về chỉ tiêu thi đua. Thi đua dạy tốt - học tốt về mục đích là một chủ trương đúng đắn. Song bấy lâu nay, đã có sự lẫn lộn biến những thước đo định lượng thành những mục tiêu cho giáo dục – đào tạo. Quy luật Goodhart đã chứng minh “một khi người ta đặt ra những tiêu chuẩn định lượng với những cái ngưỡng con số cụ thể thì chắc chắn sẽ có người tìm cách đạt được tiêu chuẩn đó” mà con số chỉ là tín hiệu, chứ nó không phản ánh hoàn toàn sự thật. Lệ thuộc vào con số, vào những “chỉ tiêu” và nhầm lẫn những chỉ số là mục tiêu là một sai lầm nghiêm trọng [17]. Thay vì đề ra những tiêu chuẩn định lượng (như tỉ lệ tốt nghiệp, tỉ lệ lên lớp, học sinh khá giỏi, số bài báo, sáng kiến), các nhà quản lí cần phải có những đánh giá định tính; có “nhóm chứng”, và dựa vào đánh giá của các chuyên gia độc lập. Việc xây dựng được các chế độ và phương pháp nhận biết để khen thưởng các trường tốt, hiệu trưởng giỏi và giáo viên giỏi cũng như xây dựng chế độ nhận biết và xử phạt những người vô trách nhiệm trong dạy học và quản lý, khi cần thiết phải khai trừ vì thế là hết sức cần thiết. Thứ ba, việc xây dựng hệ giá trị phẩm chất đạo đức con người Việt Nam và giáo dục, định vị những phẩm chất đạo đức ấy phải chú trọng đến lòng tự trọng, sự trung thực, biết trọng danh dự, nghĩa khí, tình yêu nước trong thời bình. Thứ tư, một mặt, phải lên án mạnh mẽ sự gian lận, giả dối trong giáo dục, mặt khác truyền thông rộng rãi về giá trị của sự thực học, thực tài, thực nghiệp đối với
  8. Phần 2: DẠY THẬT, HỌC THẬT - BÀI HỌC TỪ THỰC TIỄN 331 bản thân, gia đình và xã hội. Chất lượng của đội ngũ giảng viên, nhà quản lý là yếu tố quyết định nhất của chất lượng giáo dục – đào tạo. Vì thế, trước khi cải cách, đổi mới chương trình, phương pháp hay bất cứ thứ gì khác thì đội ngũ này phải được “cải cách” thực chất bằng sự thực học, thực nghiệp, thực tâm, thực tài. Năm 1983, Ủy ban Chất lượng cao của Mỹ đưa ra tuyên bố “Đất nước lâm nguy”, một tuyên bố sốc cho cả quốc gia trước khi bước vào cải cách giáo dục nước Mỹ. Bằng phương pháp truyền thông hiệu quả về sự cấp thiết của cải cách giáo dục, Ủy ban này còn giáo dục, truyền thông rất tốt đến các đối tượng liên quan, trong đó có phụ huynh, học sinh, chúng tôi nhận thấy sự tương đồng mà chúng ta có thể học tập. Chúng ta phải truyền thông cho các bậc phụ huynh về quyền lợi mà con cái họ được tiếp nhận nền giáo dục tốt nhất trong khả năng của đất nước mình, quyết không chấp nhận, thỏa mãn với thành tích thấp kém; đề cao vai trò của phụ huynh trong việc giáo dục, định hướng con cái theo những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp; khích lệ con học hành chuyên cần hơn, không được thỏa mãn trước những thành tích học bình thường; tạo dựng thói quen học tập cho con; động viên con học theo các chương trình học tư duy nhiều hơn chứ không phải là những chương trình học không tốn sức; bồi dưỡng tính sáng tạo và sự tự tin cho con; tích cực tham gia vào các công việc của nhà trường. Điều quan trọng hơn là phụ huynh cũng phải có niềm tin học tập suốt đời, tin vào giá trị đạo đức của sự trung thực, đồng thời chính mình là người tự thể nghiệm, cuối cùng phải giúp cho con cái hiểu được rằng “nếu không biết kết hợp sự hoàn mỹ về tri thức và đạo đức với sự chuyên tâm phấn đấu, thì không bao giờ đạt được thành tích cao” [1]. Còn về học sinh, sinh viên, chúng ta vừa cảnh báo “Khi các bạn chưa dành hết công sức cho học tập, thì các bạn đang làm mất đi cơ hội của cuộc sống. Thời gian các bạn dành cho học tập là tối thiểu, thì kết quả các bạn nhận được cũng sẽ là tối thiểu” vừa khẳng định vai trò nỗ lực của học sinh là yếu tố quyết định nhất cho sự thành công của họ, nếu thiếu đi sự nỗ lực, quyết tâm ấy thì dù cha mẹ có nêu tấm gương đẹp nhất, thầy cô giáo bỏ công sức nhiều nhất cũng vô ích. Đồng thời chỉ ra cho họ những cơ hội/ thách thức của nền kinh tế tri thức, hội nhập mang lại; khơi dậy mạnh mẽ khát vọng phát triển đất nước không bằng con đường nào khác là: “Hãy dốc sức vào việc học” hơn nữa; “Hãy đưa ra yêu cầu cao hơn cho mình và biến mỗi thách thức thành một cơ hội” [1].  Với sự nhận diện đúng, trúng vấn đề sự gian lận, giả dối đang tồn tại trong nền giáo dục – đào tạo nước nhà; sự dũng cảm, quyết tâm của tất cả các chủ thể trong hệ thống chính trị mà trực tiếp là trong bộ máy giáo dục – đào tạo thì những người làm công tác giáo dục có đầy đủ lý do để thành công mà không được phép thất bại trong việc thực hiện nền giáo dục thực học, thực tài, thực nghiệp.
  9. 332 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lữ Đạt (Chủ biên) (2010), Cải cách giáo dục ở các nước phát triển - Cải cách giáo dục ở Mỹ - Quyển 1, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 2. GS.TS KH Phạm Minh Hạc (2015), Tìm hiểu các giá trị dân tộc Việt Nam với tâm lý học và giáo dục học, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật. Hà Nội. 3. Xem Vương Trí Nhàn (2019), “Người xưa cảnh tỉnh- Thói hư tật xấu của người Việt trong con mắt của các trí thức nửa đầu thế kỷ XX”, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 4. Cao Văn Thông (Chủ biên) (2016), “Tư duy nhiệm kỳ” và “bệnh thành tích trong công tác xây dựng Đảng và quản lý Nhà nước hiện nay – Thực trạng, xu hướng và giải pháp, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội. 5. Nghiêm Đình Vỳ (2016), Cải cách giáo dục- Một số vấn đề chung và thực tiễn ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. Hà Nội. 6. https://dantri.com.vn/giao-duc-huong-nghiep/977-nguoi-khang-dinh-co-benh-thanh-tich- trong-giao-duc-20200911083840084.htm 7. http://daidoanket.vn/thanh-hoa-se-ky-luat-ca-nhan-va-tap-the-lien-quan-vu-sua-hon-2100- diem-5661009.html 8. https://nhandan.vn/thoi-su-phap-luat/tuyen-an-cac-bi-cao-vu-gian-lan-diem-thi-tai-ha- giang-374959 9. https://vtc.vn/giao-su-tran-ngoc-them-nguoi-viet-khong-hieu-hoc-ma-ham-vui-choi-ua-noi- doi-ar292583.html 10. https://giaoduc.net.vn/van-hoa/nguoi-viet-noi-doi-con-so-va-vien-canh-post173179.gd 11. https://tiasang.com.vn/-giao-duc/Gian-lan-va-thi-cu-Lo-au-ve-mot-ngay-mai-20833 12. https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/the_che_va_thanh_tich.html 13. https://nguyenvantuan.info/2021/01/11/qui-luat-goodhart-va-benh-thanh-tich/ 14. https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/nhung-vu-kien-giao-su-tien-si-dao-van-khien-du-luan- choang-vang-post59629.gd. 15. https://thanhnien.vn/giao-duc/thi-truong-ngam-mua-ban-bai-bao-khoa-hoc-1265279.html. 16. https://baoquocte.vn/7-nam-la-hoc-sinh-gioi-van-truot-thpt-bi-kich-den-tu-trong-lop-ai-ai- cung-la-hoc-sinh-gioi-150457.html. 17. https://dantri.com.vn/kinh-doanh/chi-so-cam-nhan-tham-nhung-cpi-2018-viet-nam-tut- hang-20190130103921099.htm.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0