intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tích hợp rèn kĩ năng viết trong dạy đọc hiểu văn bản cho học sinh tiểu học

Chia sẻ: ViSasuke2711 ViSasuke2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

42
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này chỉ ra sự cần thiết của việc tích hợp dạy đọc viết và đề xuất một số biện pháp phát triển kĩ năng viết cho học sinh tiểu học trong dạy đọc hiểu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tích hợp rèn kĩ năng viết trong dạy đọc hiểu văn bản cho học sinh tiểu học

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br /> Educational Sci., 2016, Vol. 61, No. 6B, pp. 110-117<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> DOI: 10.18173/2354-1075.2016-0107<br /> <br /> TÍCH HỢP RÈN KĨ NĂNG VIẾT TRONG DẠY ĐỌC HIỂU VĂN BẢN<br /> CHO HỌC SINH TIỂU HỌC<br /> 1<br /> 1 Khoa<br /> <br /> Trịnh Thị Hương và 2 Trịnh Thị Lan<br /> <br /> Sư phạm, Trường Đại học Cần Thơ, 2 Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br /> <br /> Tóm tắt. Nhiều nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng đọc và viết là hai kĩ năng quan trọng có<br /> quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau. Đọc cung cấp hiểu biết cả về nội dung lẫn hình<br /> thức cấu trúcvăn bản, giúp người đọc tích lũy mở rộng kiến thức. Xuất phát từ quan điểm<br /> này, các nhà nghiên cứu giáo dục đã cho rằng cần phải tích hợp dạy viết trong quá trình<br /> dạy đọc hiểu văn bản. Tuy nhiên, việc tích hợp dạy đọc và viết trong nhà trường tiểu học ở<br /> Việt Nam hiện nay dường như mới chỉ được thể hiện về mặt lí thuyết còn trong thực tế thì<br /> giáo viên vẫn tách rời hai kĩ năng này trong quá trình giảng dạy. Bài viết này chỉ ra sự cần<br /> thiết của việc tích hợp dạy đọc viết và đề xuất một số biện pháp phát triển kĩ năng viết cho<br /> học sinh tiểu học trong dạy đọc hiểu.<br /> Từ khóa: Tích hợp, dạy đọc viết, phát triển kĩ năng viết.<br /> <br /> 1.<br /> <br /> Mở đầu<br /> <br /> Đọc và viết có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong quá trình tạo ra văn bản, người<br /> viết đã thực hiện việc tổ chức, sắp xếp các ý để tạo thành văn bản hoàn chỉnh nhằm chuyển tải<br /> thông tin và quan điểm của mình về vấn đề nào đó đến với người đọc. Trong quá trình hoàn thiện<br /> này, người viết cũng thực hiện việc chọn lựa từ ngữ, hình thức cấu trúc của văn bản và điều chỉnh<br /> lại khi cần thiết trước khi chuyển nó đến với bạn đọc. Ngược lại, người đọc, trong quá trình đọc<br /> văn bản, cũng phải truy tìm ý nghĩa của văn bản thông qua các từ ngữ, cấu trúc câu, cấu trúc văn<br /> bản đã được người viết kí mã trong văn bản. Đó là người đọc tiến hành giải mã những kí hiệu trong<br /> văn bản, phân tích các nhân tố chi phối việc tạo ra văn bản để truy tìm nghĩa cho văn bản và thực<br /> hiện giao tiếp, đối thoại với người viết thông qua việc trình bày quan điểm của mình về những vấn<br /> đề đã được đề cập tới trong văn bản. Ở cả hai quá trình này, người đọc và người viết thường vận<br /> dụng một vốn kiến thức và kĩ năng khá tương đồng để tạo lập và lĩnh hội văn bản. Fitzgerald và<br /> Shanahan (2000) đã xác định bốn loại kiến thức mà người đọc và người viết cùng sử dụng trong<br /> quá trình tạo lập và lĩnh hội văn bản là: siêu kiến thức/metaknowlegde (bao gồm những hiểu biết về<br /> các chức năng của văn bản và mục đích của việc đọc, viết), phạm vi kiến thức/domain knowlegde<br /> (bao gồm thế giới kiến thức phổ thông và kiến thức nền về bản chất và nội dung văn bản của người<br /> đọc/viết) kiến thức tổng quát (biết nhận diện các từ và ngữ pháp hay các quy tắc tổ chức câu) và<br /> kiến thức, kĩ năng tiến trình thực hiện đọc viết (bao gồm các hoạt động như dự đoán, đặt câu hỏi,<br /> gợi nhớ/ hồi tưởng và tìm ra những điểm khác biệt, tương đồng với nhau) [1]. Quan niệm này cho<br /> thấy đọc và viết có mối gắn kết rất chặt chẽ với nhau và việc tích hợp dạy đọc viết là rất cần thiết.<br /> Ngày nhận bài: 15/5/2016. Ngày nhận đăng: 20/8/2016<br /> Liên hệ: Trịnh Thị Lan, e-mail: lankhoavan@yahoo.com.vn<br /> <br /> 110<br /> <br /> Rèn luyện năng lực tự học học phần thanh nhạc cho sinh viên ngành sư phạm âm nhạc...<br /> <br /> Các nhà nghiên cứu Carson, Church và Spack đã cho rằng đọc và viết có mối quan hệ phụ<br /> thuộc và tương tác lẫn nhau [7]. Nhóm tác giả Barnett, Church, Reid, Spack, và Zamel quan niệm<br /> đọc - viết là một tiến trình xây dựng và tích cực, nghĩa là tạo ra một sự tương tác giữa người đọc,<br /> người viết và văn bản. Những yếu tố như kiến thức nền, kinh nghiệm, cảm xúc và ngữ cảnh đọc<br /> của người đọc có liên quan đến các nội dung trong văn bản sẽ quyết định/xác định nội dung mà<br /> văn bản giao tiếp với người đọc [7]. Kết quả của mối tương tác giữa người đọc và văn bản là người<br /> đọc xây dựng nghĩa cho bản thân và nghĩa đó mang nét đặc trưng cá nhân riêng [7]. Chính vì điều<br /> này, tích hợp đọc và viết được tiến hành dạy cùng nhau sẽ hỗ trợ nhau cùng phát triển, làm gia tăng<br /> khả năng đọc và viết cho người học. Conbine cho rằng sự tích hợp này dẫn đến nhiều cách tiếp cận<br /> nhiệm vụ học tập và cả phong cách học tập [7]. Học sinh trở thành người đọc, người viết và tư duy<br /> tốt hơn khi họ được học đọc và viết song song [7].<br /> Mối quan hệ đọc và viết còn được thể hiện qua sự tương tác hai chiều giữa đọc và viết. Reid<br /> đã chỉ ra rằng các hoạt động viết thúc đẩy học sinh đọc và đọc lại những nội dung mà văn bản<br /> cung cấp mục đích cho việc đọc và khuyến khích học sinh trở thành người đọc tích cực tương tác<br /> tích cực với văn bản. Viết góp phần mở rộng khả năng đọc và cải thiện trí nhớ/duy trì những cái<br /> mà học sinh đã đọc. Hoạt động viết còn giúp ta hiểu được bài đọc một cách rõ ràng và cung cấp<br /> cơ hội để gv đánh giá khả năng học sinh và phát hiện những quan niệm sai lầm cũng như khoanh<br /> vùng được những điểm sai lầm/ nhầm lẫn mơ hồ của học sinh [7].<br /> Ngược lại, không có hoạt động đọc thì học sinh không thể trở thành người viết tốt hiệu quả<br /> được. Trong quá trình đọc, học sinh được tiếp xúc với từ vựng, cấu trúc câu và các biện pháp tu<br /> từ mà tác giả sử dụng và hoạt động viết cho phép học sinh trải nghiệm thực hành sử dụng chúng<br /> trong bài viết của chính mình. Học sinh có thể sử dụng bài đọc như một bài viết mẫu hoặc là có<br /> thể viết về bài đọc [7]. Thông qua bài viết, học sinh có thể rèn luyện những kĩ năng có liên quan<br /> đến đọc như diễn giải và tóm tắt.<br /> Một lợi ích nữa của tích hợp đọc và viết mà nhóm tác giả Badger và Thomas, và Grabe,<br /> Reid, Spack, Zamel, chỉ ra là nó còn giúp học sinh đối phó (cope) với những khóa học ở bậc đại<br /> học. Trong môi trường học thuật, những sinh viên thành công sẽ phụ thuộc vào khả năng tương<br /> tác của các em với văn bản. Những hoạt động như tóm tắt có thể chuẩn bị cho sinh viên những<br /> nhiệm vụ học thuật mà chúng sẽ được hỏi để rút ra những ý tưởng và làm việc với những ý tưởng<br /> và thông tin từ việc đọc [7].<br /> Từ quan điểm của các nhà nghiên cứu trên cho thấy việc tích hợp dạy đọc viết trong quá<br /> trình rèn luyện và phát triển năng lực đọc viết đã được xem xét một cách khoa học và chứng minh<br /> được hiệu quả dạy viết song song với dạy đọc. Điều này cho thấy, việc tích hợp dạy đọc và viết là<br /> rất cần thiết. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ nhìn nhận vấn đề dạy đọc viết tích hợp trong chương<br /> trình tiếng Việt ở tiểu học hiện nay.<br /> <br /> 2.<br /> 2.1.<br /> <br /> Nội dung nghiên cứu<br /> Vấn đề tích hợp dạy đọc và viết trong chương trình Tiểu học hiện nay<br /> <br /> Ở Việt Nam, vấn đề dạy học tích hợp trong dạy học tiếng Việt đã được bàn đến từ những<br /> năm 1999 và 2000. Tác giả Nguyễn Thị Hạnh (2002) cho rằng mục tiêu của chương trình tiếng<br /> Việt tiểu học là hình thành và phát triển năng lực giao tiếp cho trẻ, tạo cơ hội cho các em có công<br /> cụ để học tập và giao tiếp hiệu quả nên chương trình phải mang tính tích hợp rất cao: tích hợp giữa<br /> dạy tri thức và dạy kĩ năng, tích hợp giữa dạy văn hóa với dạy tiếng Việt [2].<br /> Tác giả Trần Hiền Lương (2002) cho rằng ở tiểu học, những kĩ năng như đọc và viết là mới<br /> lạ với trẻ nên cần chú trọng dạy những kĩ năng này cho trẻ. Tuy nhiên, trên thực tế thì trẻ chỉ hiểu<br /> 111<br /> <br /> Trịnh Thị Hương, Trịnh Thị Lan<br /> <br /> những điều các em đọc hay viết có liên quan đến ngôn ngữ sử dụng hàng ngày nên muốn dạy đọc<br /> viết có hiệu quả thì cần dựa vào ngôn ngữ dạng nói.Tuy nhiên, ngôn ngữ chuẩn mực thì thường<br /> nằm trong ngôn ngữ viết (văn bản) nên học sinh cần được học nói, viết thông qua những văn bản<br /> mẫu đó [3].<br /> Tác giả Nguyễn Trí (2003) cũng nhấn mạnh đến việc cần thiết phải xây dựng chương trình<br /> theo hướng tích hợp và trên thực tế, quan điểm dạy học tích hợp đã được tiếp nhận về mặt lí luận<br /> và đang được áp dụng ở dạng lồng ghép giữa các môn học [4].<br /> Chương trình môn Tiếng Việt ở tiểu học hiện hành ra đời dựa trên cơ sở kế thừa những<br /> thành tựu và khắc phục những hạn chế của chương trình cũ. Việc xác định cách tiếp cận tích hợp<br /> trong quá trình xây dựng chương trình cũng đã được bàn đến. Tác giả Nguyễn Trí (2003) đã miêu<br /> tả bốn phương án tích hợp trong chương trình Tiếng Việt, gồm [4]: (1) tích hợp tri thức tự nhiên và<br /> xã hội vào nội dung ngữ liệu tiếng mẹ đẻ và thực hiện dạy tiếng mẹ đẻ qua các môn học khác; (2)<br /> tích hợp dạy tiếng Việt với dạy văn; (3) tích hợp phát triển 4 kĩ năng ngôn ngữ với kĩ năng tư duy<br /> và mở rộng hiểu biết về tự nhiên và xã hội, về Việt Nam và thế giới và (4) tích hợp giữa kiến thức –<br /> kĩ năng của năm học này với kiến thức – kĩ năng của những năm học trước. Từ quan điểm này của<br /> Nguyễn Trí, chúng ta có thể nhận ra hai mô thức/kiểu mẫu tích hợp trong chương trình Tiếng Việt<br /> ở tiểu học là tích hợp đa môn và được triển khai liên môn và tích hợp những lĩnh vực liên quan<br /> nhau trong nội bộ một phân môn học (còn gọi là tích hợp hàng ngang, tích hợp hàng dọc).<br /> Sự thể hiện của quan điểm tích hợp trong chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt như sau:<br /> - Tích hợp theo chủ điểm: Theo mô hình này, các kĩ năng ngôn ngữ gắn với tên gọi cũng<br /> là các phân môn như tập đọc, tập làm văn, chính tả, tập viết, kể chuyện gắn kết với chủ điểm theo<br /> từng tuần học. Sự gắn kết này thể hiện ở việc các ngữ liệu của các phân môn được chọn đều có nội<br /> dung liên quan đến chủ điểm. Tuy nhiên, sự gắn kết giữa các kĩ năng giữa các phân môn (kĩ năng<br /> xuyên môn) lại chưa được chú ý đến.<br /> - Tích hợp kiến thức – kĩ năng giữa các cấp lớp: Các bài học được thiết kế theo hướng xoáy<br /> ốc đồng tâm, nghĩa là các kiến thức và kĩ năng được triển khai lặp lại và phát triển mở rộng nhằm<br /> củng cố và nâng cao dần giữa các cấp lớp. Theo hướng này, tích hợp các phương diện kiến thức, kĩ<br /> năng liên quan trong nội bộ môn học được nhấn mạnh<br /> - Tích hợp các kĩ năng – kiến thức giữa các phân môn trong sách giáo khoa: Mỗi đơn vị học<br /> trong sách giáo khoa được thiết kế theo chủ điểm kéo dài trong khoảng 2 đến 3 tuần. Nội dung các<br /> ngữ liệu khá gần gũi với kinh nghiệm và tâm lí học sinh nên có thể tích hợp để mở rộng hiểu biết<br /> về ngôn ngữ và thế giới cho người học. Tuy nhiên, trong thực tế điều này lại không được khai thác<br /> một cách triệt để mà trong thực tế giáo viên hầu như chỉ chú trọng đến những câu hỏi gợi ý trong<br /> sách giáo khoa trong khi sách giáo khoa không thiết kế những hoạt động mở rộng (các câu hỏi chỉ<br /> nhằm tìm được nội dung ý của bài đọc, giải quyết xong nhiệm vụ truy tìm nội dung kiến thức của<br /> bài học). Mặt khác, các kĩ năng được triển khai lại không được khai thác từ một nguồn dữ liệu (trừ<br /> ngữ liệu đọc được sử dụng để viết chính tả) mà lại có nguồn dữ liệu riêng nên cả giáo viên và học<br /> sinh gặp khó khăn trong việc triển khai các hoạt động ngôn ngữ cũng như hoạt động nhận thức<br /> một cách liên hoàn [5].<br /> Từ những điều này cho thấy mặc dù sách giáo khoa Tiếng Việt ở tiểu học đã vận dụng quan<br /> điểm tích hợp trong thiết kế chương trình nhưng trên thực tế, các chỉ dẫn hoạt động giảng dạy<br /> và học tập tích hợp kiến thức và kĩ năng lại chưa được tường minh, cụ thể. Trong phần tiếp theo,<br /> chúng tôi sẽ kiến nghị một số giải pháp tích hợp rèn kĩ năng viết trong quá trình dạy đọc cho học<br /> sinh tiểu học.<br /> <br /> 112<br /> <br /> Rèn luyện năng lực tự học học phần thanh nhạc cho sinh viên ngành sư phạm âm nhạc...<br /> <br /> 2.2.<br /> <br /> Đề xuất giải pháp cho việc tích hợp rèn kĩ năng viết qua dạy đọc ở Tiểu học<br /> <br /> Đọc và viết là hai quá trình nhận thức phức tạp/phức hợp, bao gồm một số những kĩ năng<br /> và chiến lược. Taffy E. Raphael và Carol Sue Englert đã chỉ ra quá trình phức hợp đọc và viết này<br /> trong ba giai đoạn: lên kế hoạch/planing (trước khi đọc/viết), phác họa, đưa ra ý kiến/drafting (viết<br /> hay đọc có hướng dẫn) và xem lại (điều chỉnh và mở rộng hay những hoạt động sau khi đọc) [6].<br /> Nhóm tác giả nhấn mạnh điều đầu tiên tích hợp dạy viết và đọc là tạo ra môi trường đọc<br /> viết tích cực. Để tạo ra sự kiên kết thật sự giữa đọc và viết thì việc tạo ra môi trường đọc viết là<br /> vô cùng quan trọng, tính liên kết này nhấn mạnh vào: sự đa dạng của các tài liệu đọc, chia sẻ suy<br /> nghĩ và cảm xúc về việc lựa chọn văn bản đọc, viết về những vấn đề quan trọng và chia sẻ với<br /> người khác... tiến trình này cung cấp cho học sinh mục đích tiến hành (planning) viết của bài viết,<br /> mục đích bản phác thảo/viết nháp (drafting) và đọc lại (revising), ví dụ như khi bài viết được xuất<br /> bản, họ có trải nghiệm về những yêu cầu định hình tác phẩm để thể hiện tốt nhất mục tiêu viết của<br /> chính họ). Có thể sử dụng những tài liệu truyền thống như bài giấy và bút chì hoặc những phương<br /> tiện công nghệ hiện đại như máy tính xách tay (microcomputer). Để tạo ra môi trường đọc viết,<br /> nhóm tác giả đưa ra những cách sau:<br /> (1) Một cách để tạo môi trường đọc viết là QILL. Cách này được đề cập đến bởi nhóm tác<br /> giả Rubin & Bruce. QILL chú trọng vào quá trình thực hiện (planning), trình bày văn bản (text<br /> production) và đi đến xuất bản (going public) một bài viết. Ví dụ: gửi cho học sinh những yêu cầu<br /> trong suốt quá trình thực hiện, khuyến khích học sinh suy nghĩ về nhân vật, sự kiện chính, thông<br /> tin quan trọng cần thiết cho bài báo cáo... QILL cung cấp địa chỉ mail chung và gởi cho cá nhân<br /> học sinh, hoặc nhóm.. (giống như thư viện lớp học) và khuyến khích học sinh viết bản tin về nội<br /> dung câu chuyện để đưa lên đó [6].<br /> (2) Một cách khác để tạo ra môi trường đọc viết hiệu quả được Grave & Hansen đề cập đến<br /> là “ghế ngồi tác giả/xoay quanh tác giả/trong vai trò tác giả (author’s chair)”. Ghế được đặt giữa<br /> lớp và học sinh đóng vai trò tác giả ngồi lên đó.Học sinh hiện diện/thể hiện, thảo luận và trả lời<br /> câu hỏi liên quan đến mẩu tin/bài viết như chính khi họ là tác giả viết nghĩa là đặt học sinh vào<br /> vị trí của tác giả để nói về quá trình viết tác phẩm. Hoạt động này giúp học sinh nhìn thấy được<br /> quá trình viết xảy ra như thế nào vì mỗi tác giả có mục đích và độc giả riêng mà họ hướng tới.<br /> Học sinh học viết thông qua cuộc thảo luận về viết là một tiến trình điều chỉnh để các em xem xét<br /> những yêu cầu và sự mong đợi của người đọc và điều chỉnh những ý như thế nào cho tốt. Thông<br /> qua viết và nói về quá trình viết như thế, học sinh học được quan điểm xuất bản bài viết thông qua<br /> “con mắt tác giả” từ quan điểm nhận thức của người đọc [6].<br /> (3) Cách thứ 3 là dùng nhật kí đối thoại (dialogue Journal) để tạo môi trường đọc viết được<br /> đề cập bởi Atwell, Fulwiler, và Gambrell. Cách này khuyến khích học sinh đối thoại với giáo viên,<br /> với các chủ đề đặc biệt (ví dụ như chọn một chủ đề nào học sinh vừa mới đọc) hay những nhận<br /> xét chung (học sinh chọn chủ đề, câu hỏi nâng cao...)... nhật kí đối thoại cho học sinh một cơ hội<br /> quan trọng để diễn tả ý tưởng của chúng và phản hồi những ý tưởng của người viết trong bài viết<br /> của mình. Gambrell sử dụng một biểu tượng tương tự chữ để viết (ví dụ như hình ảnh) và khuyến<br /> khích học sinh viết thông qua hỏi những câu hỏi hay cho học sinh viết về một vài điều mơ ước để<br /> chia sẻ với giáo viên. Fulwier mô tả nhật kí đối thoại có thể sử dụng trong phạm vi môn học, cho<br /> học sinh phản hồi về những vấn đề đặc biệt hay câu hỏi đặc biệt. Atwell mô tả nhật kí đối thoại<br /> được sử dụng để khám phá phản ứng của học sinh với câu chuyện như thế nào khi họ đang đọc...<br /> nhật kí đối thoại cung cấp cho học sinh một “cửa sổ” thể hiện hoạt động nhận thức của học sinh<br /> trong khi đọc, viết, cho học sinh những cơ hội để viết về những điều đang đọc và cho giáo viên<br /> những cơ hội để chú ý đến những ý tưởng phổ biến chuẩn bị cho học sinh viết, dự đoán và kiểm<br /> soát việc đọc viết của chính học sinh [6].<br /> 113<br /> <br /> Trịnh Thị Hương, Trịnh Thị Lan<br /> <br /> Leslie Giesen đã đề nghị một số cách tích hợp viết và đọc trong suốt tiến trình đọc: trước<br /> khi đọc, trong khi đọc và sau khi đọc. Mục đích của các hoạt động trước khi đọc là kích hoạt kiến<br /> thức nền thông qua việc giúp học sinh liên hệ những cái các em đã biết với việc đọc văn bản hoặc<br /> xây dựng kiến thức nền tảng cho bản thân. Học sinh sẽ dựa trên kiến thức nền và sự trải nghiệm<br /> của bản thân để hiểu văn bản. Ở giai đoạn này, học sinh có thể được giới thiệu từ vựng và các ý<br /> tưởng được tìm thấy trong văn bản. Học sinh có thể đặt các câu hỏi và làm các dự đoán về những<br /> điều họ sẽ đọc hoặc sẽ xem lại văn bản bằng một vài cách nào đó. Những hoạt dộng trước khi đọc<br /> khuyến khích học sinh tiên đoán về bài đọc và khơi dậy hứng thú, động lực để đọc [7].<br /> Jacobs cho rằng những hoạt động trong khi đọc giúp học sinh tích hợp những hiểu biết của<br /> chính họ với những thông tin mới mà chúng thu thập được từ văn bản. Khi đọc, chúng sẽ thu thập,<br /> tổ chức, phân tích và đánh giá. Chúng có thể mong chờ trả lời những câu hỏi mà chúng đã đặt ra<br /> và xem lại các dự đoán của mình. Sau đó, chúng có thể được khuyến khích đặt câu hỏi và dự đoán<br /> một cách chính xác. Những hoạt động trong khi đọc cuốn hút học sinh vào văn bản và giúp chúng<br /> kiểm soát việc hiểu văn ban của chính mình [7].<br /> Còn Barnett và Jacobs lại kết luận những hoạt động sau khi đọc cung cấp cho học sinh<br /> những cơ hội để trình bày sự hiểu biết của chúng về những điều mà chúng đọc. Ngoài ra, nó còn<br /> giúp học sinh hiểu sâu hơn, mở rộng hơn và làm rõ việc hiểu của họ. Khi học sinh khám phá được<br /> những ý tưởng từ văn bản, chúng có thể được hỏi để rút ra những thông tin và cách tổ chức thông<br /> tin của văn bản. Trong khi viết và thảo luận, chúng sẽ thực hành việc sử dụng từ vựng và các mẫu<br /> câu tìm được trong bài đọc để viết [7].<br /> Trong phần sau đây, chúng tôi giới thiệu một số cách tích hợp viết trong quá trình dạy đọc<br /> dựa theo tiến trình đọc đã được tác giả Leslie Giesen phân chia thành 3 giai đoạn: trước khi đọc,<br /> trong khi đọc và sau khi đọc [7]. Tuy nhiên, trong chương trình giảng dạy ở các nước thì giáo viên<br /> được lựa chọn ngữ liệu dạy đọc và viết cho học sinh nên việc vận dụng những cách thức này trong<br /> thực tiễn giảng dạy trong nhà trường tiểu học ở Việt Nam chỉ thể hiện ở khâu tổ chức hoạt động<br /> dựa trên những ngữ liệu đã được chọn sẵn trong sách giáo khoa Tiếng Việt.<br /> Giai đoạn trước khi đọc: Giáo viên có thể tiến hành một số cách như sau<br /> (1) Cho phản hồi về một câu trích dẫn/ đoạn trích dẫn (responding to a Quote): Mục đích<br /> của hoạt động này là cho học sinh hình thành những liên tưởng đến chủ đề của đoạn văn mà chúng<br /> sắp sửa đọc bằng cách viết/trả lời cho đoạn trích dẫn đó. Để tiến hành, giáo viên cần chuẩn bị:<br /> đoạn văn phù hợp được rút ra từ văn bản (hoặc có thể là đoạn văn từ các bài đọc khác phù hợp với<br /> chủ đề), đoạn văn này phải kích thích được suy nghĩ của học sinh; phiếu bài tập, trong phiếu bài<br /> tập giáo viên viết đoạn trích dẫn có liên quan đến chủ đề học và các yêu cầu/câu hỏi mở để khơi<br /> gợi sự liên tưởng của học sinh. Sau khi chuẩn bị xong, lên lớp giáo viên giải thích cho học sinh về<br /> yêu cầu bài tập, cùng với học sinh đọc lớn yêu cầu của phiếu bài tập (giải thích những câu hỏi/yêu<br /> cầu khi cần thiết) và cho học sinh tiến hành viết. Giáo viên khuyến khích học sinh viết nhanh bằng<br /> bất cứ từ, cụm từ nào (không cần để ý đến nhiều về lỗi chính tả, ngữ pháp trong giai đoạn này).<br /> Sau đó, cho học sinh chia sẻ bài viết của mình theo cặp và với toàn lớp (giáo viên có thể chọn bài<br /> của những học sinh nộp chậm nhất để chia sẻ với lớp).<br /> Ví dụ: Khi dạy bài đọc “Hạt gạo làng ta” (Tiếng Việt 5, tập 1), giáo viên cho các em đọc<br /> khổ thơ “Hạt gạo làng ta/ gửi ra tiền tuyến/gửi về phương xa/ em vui em hát/ hạt vàng làng ta” và<br /> yêu cầu học sinh viết suy nghĩ của mình xem tại sao tác giả lại nói là hạt gạo là hạt vàng.<br /> (2) Định nghĩa/ xác định ngữ cảnh/ poster (definition posters): mục đích của hoạt động này<br /> là cho học sinh làm rõ khái niệm mà đóng vai trò quan trọng trong văn bản chúng đọc. Để tiến<br /> hành, giáo viên cần chuẩn bị đoạn văn đọc phù hợp, xác định các từ khóa và cho học sinh nêu cách<br /> hiểu của mình về từ đó. Khi tiến hành, giáo viên đọc lướt bài đọc, hỏi học sinh một vài điều về bài<br /> 114<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2