intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu Luận: PHÂN TÍCH NHỮNG TỒN TẠI TRONG CÁC CÔNG TY KIỂM TOÁN VIỆT NAM VỀ TUÂN THỦ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP

Chia sẻ: AT ITalone | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:44

518
lượt xem
58
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Như chúng ta đã biết, nền kinh tế phát triển đòi hỏi con người cần có nhiều thông tin hơn để có thể nắm bắt cơ hội, để ra những quyết định đúng đắn và để tồn tại. Nhưng có nhiều lý do tác động tới nội dung và độ tin cậy của các thông tin, đặc biệt là thông tin kinh tế. Nhu cầu thẩm định về các nguồn thông tin này trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, chính vì vậy sự xuất hiện của các Kiểm toán viên là yếu tố khách quan....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu Luận: PHÂN TÍCH NHỮNG TỒN TẠI TRONG CÁC CÔNG TY KIỂM TOÁN VIỆT NAM VỀ TUÂN THỦ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP

  1. HỌC VIỆN NGÂN HÀNG KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN BỘ MÔN KIỂM TOÁN Bài tiểu luận: PHÂN TÍCH NHỮNG TỒN TẠI TRONG CÁC CÔNG TY KIỂM TOÁN VIỆT NAM VỀ TUÂN THỦ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP Giảng viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Thanh Mai Nhóm thực hiện: Nhóm I (Thứ 5 – Ca 2) Hà Nội, tháng 5 năm 2013
  2. DANH SÁCH NHÓM 1. Trần Thị Ánh 2. Nguyễn Thị Dương 3. Lê Thị Hà 4. Nguyễn Thị Thúy Hằng 5. Chu Thị Hiếu 6. Phạm Ngọc Hưng 7. Nguyễn Văn Nam 8. Lê Văn Nguyên 9. Phan Thu Thảo (nhóm trưởng) 10. Lê Thu Vinh 11. Đỗ Thị Hà Yến
  3. MỤC LỤC
  4. BẢNG CHỮ VIẾT TẮT KTV Kiểm toán viên CTKT Công ty kiểm toán BCTC Báo cáo tài chính BTC Bộ tài chính DNNN Doanh nghiệp nhà nước NKT Nền kinh tế NN Nhà Nước VACPA Vietnam association of certified Pulic accountants CTCP Công ty cổ phần NĐT Nhà đầu tư UBCKNN Ủy ban chứng khoán nhà nước TNHH Trách nhiệm hữu hạn
  5. LỜI MỞ ĐẦU Như chúng ta đã biết, nền kinh tế phát triển đòi hỏi con người cần có nhiều thông tin hơn để có thể nắm bắt cơ hội, để ra những quyết định đúng đắn và để tồn tại. Nhưng có nhiều lý do tác động tới nội dung và độ tin cậy của các thông tin, đặc biệt là thông tin kinh tế. Nhu cầu thẩm định về các nguồn thông tin này trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, chính vì vậy sự xuất hiện của các Kiểm toán viên là yếu tố khách quan. “Có tài mà không có đức thì vô dụng; có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” là một trong những câu nói đi vào lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh. “ Đức” và “ Tài “ là hai khái niệm luôn đi cùng nhau, là điều kiện cần và đ ủ đ ể làm nên một Kiểm toán viên tốt. Tuy nhiên, những cám dỗ từ mặt trái của nền kinh tế thị trường phát triển cùng với sự bùng nổ thông tin hiện nay kéo theo ngày càng nhiều tồn tại trong việc tuân thủ những chuẩn mực đạo đức của Kiểm toán viên, khiến cho Nhà quản lí và Nhà đầu tư đặt dấu chấm hỏi cho vấn đề “Đạo đ ức c ủa Kiểm toán viên?” Ở Việt Nam, Bộ Tài chính đã ban hành Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán Việt Nam theo Quyết định số 87/2005/QĐ-BTC ngày 01/12/2005 cùng một số văn bản pháp qui qui định mức xử phạt trong lĩnh vực kế toán, ki ểm toán. Tuy nhiên, những tồn tại trong việc tuân thủ chuẩn mực đạo đức ngày cảng nhiều, gây nguy hại đến uy tín của nghề kiểm toán, thiệt hại kinh tế cho Nhà đầu tư và gây khó khăn cho các cấp quản lý. Nắm bắt được thực trạng này, các thành viên nhóm I đã thảo luận: “Phân tích những tồn tại trong các công ty kiểm toán Việt Nam về tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp”. Qua đây, chúng em nêu ra nội dung của chuẩn mực đạo đức, những tồn tại, tìm nguyên nhân và biện pháp để hạn chế việc vi pham chuẩn mực đạo đức đối với KTV hiện nay. Trong quá trình thảo luận, chúng em không tránh khỏi thiếu sót, rất mong sự nhiệt tình đóng góp ý kiến của Cô và các bạn để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn. Nhóm thảo luận xin chân thành cảm ơn!
  6. Phần I. Tổng quan về chuẩn mực đạo đức Tuân thủ chuẩn mực về đạo đức là một trong những điều kiện cần để hoạt động kiểm toán đạt được chất lượng cao và hoàn thành tốt các mục tiêu đ ặt ra. Nhất là trong thời kì nền kinh tế thị trường phát triển như hiện nay, để đưa ra một quyết định đầu tư, hay một chiến lược kinh doanh, hay thanh trừ loại bỏ những tổ chức kinh doanh hoạt động yếu kém, góp phần đưa nền kinh tế phát triển bền vững, người ta cần đến những dịch vụ kiểm toán. Với sự phát triển của nền kinh tế như thế, số lượng các dịch vụ kiểm toán ngày càng nhiều kéo theo sự gia tăng không ngừng của số lượng người sử dụng thông tin được kiểm toán để phục vụ nhu cầu của mình, vì thế nó đòi hỏi những người làm kiểm toán phải có đạo đức nghề nghiệp và tuân thủ nghiêm ngặt các chuẩn mực đạo đức khi thực hiện các cuộc kiểm toán. Việc tuân thủ các chuẩn mực đạo đức sẽ góp phần nâng cao uy tín của nghề kiểm toán, bảo đảm chất lượng phục vụ khách hàng, tạo niềm tin đối với người sử dụng thông tin. Vì thế việc tuân thủ chuẩn mực đạo đức là một vấn đề hết sức quan trọng. Sau đây là một số các nguyên tắc cơ bản trong chuẩn mực đ ạo đức. 1. Tính độc lập a. Khái niệm và tầm quan trọng Độc lập là một nguyên tắc hành nghề cơ bản của một kiểm toán viên, tính độc lập thể hiện rằng trong quá trình kiểm toán hay cung cấp các d ịch vụ kế toán, kiểm toán viên hành nghề phải thực sự không bị chi phối hoặc bị tác động bởi bất kì lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào làm ảnh hưởng đến sự trung thực, khách quan và độc lập nghề nghiệp của mình. Độc lập được xem như là điều kiện cần để đạt được mục tiêu của hoạt động kiểm toán. Kết quả kiểm toán sẽ không có giá trị khi những người sử dụng kết quả kiểm toán tin rằng cuộc kiểm toán thiếu tính độc lập cho dù nó có được thực hiện bởi người có trình độ cao đến đâu. Yêu cầu về tính độc lập đòi hỏi sự trung thực và trách nhiệm của kiểm toán viên đối với những người sử dụng kết quả kiểm toán; các kiểm toán viên không bị ràng buộc khi tiếp xúc với các tài liệu, báo cáo của doanh nghiệp, mọi câu hỏi về tình hình kinh doanh hoặc các xử lí kế toán trong các giao dịch của doanh nghiệp cần được trả lời đầy đủ và đảm bảo rằng kiểm toán viên không bị hạn chế trong việc thu thập các bằng chứng kiểm toán. b. Tính độc lập bao gồm Độc lập về tư tưởng: là trạng thái suy nghĩ cho phép đưa ra ý kiến mà không chịu ảnh hưởng của những tác động trái với những đánh giá chuyên nghiệp, cho phép một cá nhân hành động một cách chính trực, khách quan và có sự thận trọng nghề nghiệp. Độc lập về hình thức: là không có quan hệ thực tế và hoàn cảnh đáng kể làm cho bên thứ ba hiểu là không độc lập, hoặc hiểu là tính chính trực, khách quan và thận trọng nghề nghiệp của kiểm toán viên không được duy trì. Chẳng hạn: độc lập về quan hệ kinh tế; quan hệ nhân thân; độc lập về chuyên môn với đơn vị kiểm toán. c. Các nguy cơ ảnh hưởng đến tính độc lập
  7. Tính độc lập có nguy cơ bị ảnh hưởng do tư lợi, tự kiểm tra, sự bào chữa, quan hệ ruột thịt, quan hệ khác và sự đe dọa. - Nguy cơ do tư lợi: diễn ra khi kiểm toán viên hoặc công ty kiểm toán có thể thu được lợi ích tài chính hoặc các xung đột lợi ích cá nhân khác với khách hàng sử dụng dịch vụ bảo đảm. Ví dụ: + Một khoản nợ, khoản bảo lãnh hoặc quà tặng nhận từ khách hàng. + Lo lắng về khả năng mất hợp đồng. + Có quan hệ kinh doanh mật thiết với khách hàng; có khả năng trở thành nhân viên của khách hàng trong tương lai. - Nguy cơ tự kiểm tra: diễn ra khi các sản phẩm hay sự đánh giá từ một hợp đồng kiểm toán trước đây, nay được đánh giá lại để có được kết luận hợp đồng kiểm toán lần này là cùng do một người làm. Hoặc khi thành viên của nhóm kiểm toán trước đây đã từng là giám đốc, nhân viên có chức vụ, ảnh hưởng đáng kể và trực tiếp tới vấn đề trọng yếu của hợp đồng kiểm toán. - Nguy cơ về sự bào chữa: diễn ra khi công ty hay thành viên kiểm toán xúc tiến hoặc nhận thức được việc xúc tiến các giao dịch của khách hàng ( hay nói cách khác việc đưa ra ý kiến của công ty hay thành viên kiểm toán bị phụ thuộc vào khách hàng). Ví dụ: Một thành viên của nhóm kiểm toán là người trung gian giao dịch hoặc xúc tiến bán các loại: cổ phiếu, chứng khoán của khách hàng. - Nguy cơ về quan hệ ruột thịt: diễn ra khi công ty hay thành viên kiểm toán thông cảm với lợi ích của khách hàng vì có quan hệ ruột thịt( như anh em,vợ chồng, người thân của giám đốc, kế toán trưởng, thành viên hội đồng quản trị của khách hàng, ...) - Nguy cơ bị đe dọa: xảy ra khi thành viên trong nhóm kiểm toán bị uy hiếp, đe dọa nhằm ngăn cản hành động theo đúng nguyên tắc khách quan từ phía giám đ ốc, nhân viên giữ chức vụ có ảnh hưởng đáng kể của khách hàng . Chẳng hạn: đe dọa gây thương tích, tính mạng,.. d. Các biện pháp bảo vệ Công ty hay nhóm kiểm toán có trách nhiệm giữ gìn tính độc lập bằng cách xem xét hoàn cảnh thực tế của các nguy cơ ảnh hưởng đến tính đ ộc l ập và áp d ụng các biện pháp bảo vệ để loại bỏ hoặc làm giảm các nguy cơ xuống mức có thể chấp nhận được. Nếu là nguy cơ trọng yếu có ảnh hưởng rất nghiêm trọng thì phải hủy bỏ kết quả kiểm toán, không trọng yếu thì có thẻ xem xét và áp dụng các biện pháp bảo vệ phù hợp nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ nguy cơ tới mức có thể. Có 2 loại biện pháp bảo vệ: - Các biện pháp do pháp luật và chuẩn mực nghề nghiệp quy định, gồm có: + Yêu cầu về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp. +Yêu cầu liên tục cập nhật, bổ sung kiến thức, kinh nghiệm cho kiểm toán viên. + Quy định về cơ cấu bộ máy quản trị. +Luật pháp liên quan đến việc kiểm tra tính độc lập của công ty hay kiểm toán viên. ....
  8. - Các biện pháp do môi trường làm việc tạo ra, gồm: + Các biện pháp của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo, như: Nhà quản lí của khách hàng phải là những người có đủ trình độ đưa ra quyết định quản lí, và khi đề xuất công ty kiểm toán thì không thể là người phê chuẩn đ ề xuất này; phải có cơ cấu bộ máy quản lý điều hành và có năng lực quản lý; có chính sách và các thủ tục nội bộ đảm bảo đến tính độc lập,.. + Các biện pháp trong các quy định và thủ tục của công ty kiểm toán: Lãnh đạo công ty kiểm toán nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tính đ ộc lập và yêu cầu thành viên của nhóm kiểm toán phải ký cam kết và hành động phù hợp với cam kết và sự quan tâm của công chúng. Chính sách và thủ tục để quản lý và giám sát sự phụ thuộc vào doanh thu nhận được từ khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo. Phân công một thành viên Ban Giám đốc chịu trách nhiệm xem xét tổng thể sự phân công trong bộ máy quản lý và các biện pháp bảo vệ. Chính sách và thủ tục thực hiện giám sát chất lượng hợp đồng kiểm toán. Cơ chế kỷ luật nhằm nâng cao sự tuân thủ các chính sách và thủ tục. Xin ý kiến tư vấn từ bên thứ ba, như tổ chức nghề nghiệp, chuyên gia, chuyên gia tư vấn pháp luật hoặc một kiểm toán viên hành nghề khác. Luân chuyển người chịu trách nhiệm soát xét. ... Khi đã có các biện pháp bảo vệ như đã nêu ở trên nhưng vẫn không thể loại bỏ hoặc làm giảm các nguy cơ trọng yếu ảnh hưởng đến tính độc lập xuống đ ến mức có thể chấp nhận được, hoặc khi doanh nghiệp được kiểm toán quyết đ ịnh không loại bỏ các hoạt động hoặc lợi ích dẫn đến các nguy cơ này, cách duy nhất là t ừ chối thực hiện hoặc rút khỏi hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo. 2. Tính chính trực - Tính chính trực đó là sự thể hiện tính trung thực, thẳng thắn, bất vụ lợi, sự tín nhiệm... Một số nhân tố ảnh hưởng: + Công ty hay thành viên trong nhóm kiểm toán nhận quà biếu tặng, những lợi ích mang lại từ phía khách hàng + Có mối quan hệ thâm tình, ơn huệ, hay có quan hệ với những nhân viên của khách hàng, từ đó che giấu những thiếu sót, khuyết điểm của khách hàng +Thành viên trong nhóm kiểm toán che giấu những thiếu xót, sai lầm của những sản phẩm hay đánh giá trước kia mà nay có liên quan đến kết quả kiểm toán.
  9. +Thành viên của nhóm kiểm toán nhận được chỉ thị từ cấp trên (người có liên quan đến khách hàng) mặc dù biết đó là sai trái và ảnh hưởng nghiêm trọng tới kết quả của cuộc kiểm toán,.. - Tính khách quan: thể hiện sự công bằng, không phán quyết vội vàng, không áp đặt , không gây sức ép cho người khác Một số nhân tố ảnh hưởng khi xem xét tới tính khách quan: + Người làm kiểm toán trong các trường hợp phải chịu áp lực mạnh, có thể dẫn tới vi phạm tính khách quan, chẳng hạn: bị chịu áp l ực về mặt thời gian hoàn thành kiểm toán, từ đó dẫn đến đưa ra quyết định vội vàng. + Người làm kiểm toán có các mối quan hệ dẫn dến sự thiên vị, bị ảnh hưởng bởi người khác, hoặc có thành kiến, thù hằn với khách hàng. Người làm kiểm toán phải có nghĩa vụ bảo đảm tôn trọng tính khách quan đối với các quan hệ cá nhân liên quan đến dịch vụ chuyên nghiệp. + Kiểm toán viên nhận quà hoặc tặng quà, dự chiêu đãi hoặc mời chiêu đãi đến mức có thể làm ảnh hưởng đáng kể tới các đánh giá nghề nghiệp hoặc tới những người họ cùng làm việc. Quà tặng hoặc chiêu đãi là quan hệ tình cảm cần thiết nhưng người làm làm kiểm toán nên tránh các trường hợp có thể ảnh hưởng đến tính chính trực, khách quan hoặc dẫn đến tai tiếng nghề nghiệp. Người làm kiểm toán không nên có liên quan đến các báo cáo, tờ khai, các trao đổi hay các thông tin khác nếu họ tin rằng những thông tin này: + Có các nhận định sai lệch hoặc gây hiểu nhầm một cách trọng yếu. + Có các thông tin hay số liệu được cung cấp một cách cẩu thả. + Bỏ sót hay che đậy thông tin được yêu cầu cung cấp trong trường hợp sự bỏ sót hay che đậy như vậy làm lệch lạc thông tin. 3. Khách Quan - Là sự kết hợp tính công bằng, trung thực, tôn trọng sự thật và không có các xung đột về lợi ích. - Người làm kế toán và người làm kiểm toán phải công bằng, tôn trọng sự thật và không được thành kiến, thiên vị. Nội dung: Áp dụng cho tất cả người làm kế toán và người làm ki ểm toán: Môi trường làm việc của những người làm kế toán và người làm kiểm toán có thể tạo ra một số nguy cơ trong việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của chuẩn mực đạo đức. Khi lựa chọn và áp dụng các tiêu chuẩn về đạo đức có liên quan tới tính khách quan, cần có sự quan tâm đáng kể tới các nhân tố sau:
  10. - Người làm kế toán và người làm kiểm toán trong trường hợp phải chịu áp l ực mạnh, có thể dẫn tới việc vi phạm tính khách quan. - Do không thể định nghĩa và quy định được tất cả các trường hợp phải chịu áp lực nên phải quy định các tiêu chuẩn để xác định các mối quan hệ có khả năng d ẫn tới việc vi phạm tính khách quan của người làm kế toán và người làm kiểm toán. - Cần tránh các mối quan hệ dẫn tới sự thành kiến, thiên vị hoặc bị ảnh hưởng của những người khác có thể dẫn tới vi phạm tính khách quan. - Người làm kế toán và người làm kiểm toán có nghĩa vụ đảm bảo tôn tr ọng tính khách quan đối với các quan hệ cá nhân lien quan tới dịch vụ chuyên nghiệp. - Người làm kế toán và người làm kiểm toán không nên nhận quà hoặc tặng quà, dự chiêu đãi hoặc mời chiêu đãi đến mức có thể làm ảnh hưởng đáng kể tới các đánh giá nghề ngiệp hoặc tới những người họ cùng làm việc. Quà tặng hoặc chiêu đãi là quan hệ tình cảm cần thiết nhưng những người làm kế toán và làm kiểm toán nên tránh các trường hợp có thể ảnh hưởng tới tính chính trực khách quan hoặc tai tiếng nghề nghiệp. 4. Năng lực chuyên môn và tính thận trọng Người làm kế toán và người làm kiểm toán phải thực hiện công việc kế toán kiểm toán với đầy đủ năng lực chuyên môn cần thiết, với sự thận trọng cao nhất và tinh thần làm việc chuyên cần.Kiểm toán viên có nhiệm vụ duy trì cập nhật và nâng cao kiến thức trong hoạt động thực tiễn, trong môi trường pháp lý và các tiến bộ kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu công việc. Nội dung: áp dụng với tất cả những người làm kế toán và những người làm kiểm toán: - Người làm kế toán và người làm kiểm toán không được thể hiện là có những khả năng và kinh nghiệm mà bản thân không có. - Duy trì kiến thức và trình độ chuyên môn đạt yêu cầu quy đ ịnh đ ảm bảo cung cấp dịch vụ chuyên môn tốt nhất cho khách hàng hay chủ doanh nghiệp. - Hành động đúng mực, phù hợp với những chuẩn mực về kỹ thuật và nghề nghiệp khi cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp trao đổi thông tin và những thông tin s ẽ công bố.
  11. 5. Tính bảo mật Là sự giữ bí mật về thông tin của quá trình kiểm toán. Trong đó, người làm kiểm toán phải bảo mật các thông tin có được trong quá trình kiểm toán; không đ ược ti ết lộ bất cứ một thông tin nào khi chưa được phép của người có thẩm quyền, trừ khi có nghĩa vụ phải công khai theo yêu cầu của pháp luật hoặc trong phạm vi quyền hạn nghề nghiệp của mình. a. Nghĩa vụ và trách nhiệm của KTV Tôn trọng nguyên tắc bảo mật các thông tin về khách hàng, ngay cả trong các mối quan hệ gia đình và xã hội. Trách nhiệm bảo mật phải được thực hiện kể cả sau khi chấm dứt mối quan hệ giữa người làm kiểm toán với khách hàng. Phải thực hiện nguyên tắc bảo mật trừ khi thông tin cần được cung cấp cho cơ quan chức năng có liên quan hoặc trách nhiệm nghề nghiệp hoặc luật pháp yêu cầu phải báo cáo. Có nghĩa vụ đảm bảo các nhân viên dưới quyền và những người được mời tư vấn cũng tôn trọng nguyên tắc bảo mật. Cần duy trì tính bảo mật ngay cả trong các mối quan hệ xã hội. Cần cảnh giác với khả năng vô tình tiết lộ thông tin, nhất là trong các trường hợp có sự cộng tác lâu dài với công ty liên kết, với người thân hay thành viên trong quan hệ gia đình trực tiếp. Không được sử dụng các thông tin này để thu lợi cá nhân hoặc thu lợi cho bên thứ ba. Không được công bố thông tin bảo mật về khách hàng, doanh nghiệp, tổ chức hiện tại và khách hàng, doanh nghiệp hoặc tổ chức tiềm năng, kể cả thông tin khác, nếu không đựợc sự đồng ý của khách hàng. Cần hiểu biết về bản chất và phạm vi của trách nhiệm bảo mật trong các chuẩn mực nghề nghiệp và các trường hợp cấm tiết lộ thông tin thu được. b. Nguyên tắc bảo mật Được quy định trong các băn bản pháp luật, chuẩn mực đạo đức hướng dẫn sẽ phụ thuộc vào từng thời kì, chẳng hạn: Khi được phép công bố : cần xem xét lợi ích của tất cả các bên, bao gồm cả bên thứ ba có thể bị ảnh hưởng. Khi pháp luật yêu cầu công bố: cần cung cấp tài liệu hoặc bằng chứng trong quá trình tiến hành kiện tụng, điều tra, thanh tra. c. Một số chú ý khi KTV xác định là thông tin bảo mật có thể được công bố - Có phải tất cả thông tin sẽ công bố đều rõ ràng hoặc đã được chứng minh hay không; Khi có tình huống liên quan đến thực tế hoặc ý kiến chưa đ ược chứng minh
  12. thì phải sử dụng khả năng xét đoán nghề nghiệp để xác định mức độ và hình thức công bố phù hợp. - Nên trao đổi thông tin với những bên có trách nhiệm đối với vấn đề sẽ công bố. - Xét đoán xem liệu người làm kiểm toán có phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với việc trao đổi thông tin và những thông tin sẽ công bố không. 6. Tư cách nghề nghiệp KTV phải đạt đến một chuẩn mực cao về hành vi như: trung thực và thẳng thắn trong quá trình làm việc và trong quan hệ của họ với các nhân viên của đơn vị được kiểm toán. Để có sự tin cậy từ phía công chúng, các KTV không được để bị nghi ngờ, phẩm chất liêm chính được đánh giá theo nghĩa đúng đắn và công bằng. Phẩm chất này đòi hỏi KTV phải tuân thủ cả về hình thức và tinh thần các chuẩn mực về đạo đức và các chuẩn mực về kiểm toán. Phẩm chất trung thực cũng đòi hỏi KTV tuân thủ nguyên tắc khách quan và độc lập, duy trì các chuẩn mực cao nhất về nhân cách và hành vi nghề nghiệp, đưa ra các quyết định vì lợi ích của công chúng và áp dụng các tiêu chuẩn cao về phẩm chất trung thực khi xử lí công việc và các nguồn lực của cơ quan kiểm toán. KTV phải là người có tính khách quan và công bằng trong tất cả các công việc bao gồm việc lập các báo cáo trung thực và chính xác. Do đó các kết luận trong báo cáo và ý kiến chỉ nên bị ảnh hưởng bởi các bằng chứng được thu thập theo các chuẩn mực kiểm toán của cơ quan kiểm toán tối cao. 7. Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn: KTV phải thực hiện công việc kiểm toán theo những chuẩn mực chuyên môn đã quy định trong chuẩn mực kiểm toán VN hay chuẩn mực quốc tế được VN chấp nhận và các quy định luật hiện hành. Các chuẩn mực kiểm toán này quy định các nguyên tắc, thủ tục cơ bản và hướng dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc và thủ tục cơ bản liên quan đến kiểm toán BCTC. KTV phải thực hiện công việc kiểm toán với đầy đủ năng lực chuyên môn cần thiết, với sự thận trọng cao nhất và tính thần làm việc chuyên cần. KTV có nghĩa vụ duy trì cập nhật và nâng cao kiến thức trong hoạt động thực tiễn, trong môi trường pháp lí và các tiến bộ kĩ thuật để đáp ứng yêu cầu công việc. KTV cần phải có thái độ hoài nghi mang tính nghề nghiệp trong quá trình lập kế hoạch, thực hiện kiểm toán và luôn ý thức rằng có thể tồn tại những tình huống dẫn đến những sai sót trọng yếu của BCTC như khi nhận được bản giải trình đó là đúng, mà phải tìm đc những bằng chứng cần thiết để chứng minh cho những giải trình đó. Điều đó nói lên rằng tính thận trọng trong nghề nghiệp đúng mực chính là điều kiện cần có đ ể xác định và kiến nghị đúng đắn những cơ hội đem lại hiệu quả quản lí và có khả năng thu lợi nhuận tốt hơn. Tuy vậy, các KTV trải qua nhiều giai đoạn trong quá trình phát triển nghề nghiệp. Họ có trình độ năng lực khác nhau do mỗi cá nhận có kiến thức, kĩ năng và kĩ thuật như bề dày kinh nghiệm khác nhau. Do đó cấn phải lưu ý khi giao trách nhiệm kiểm toán cho KTV.
  13. Phần II. Nguyên nhân tồn tại việc không tuân thủ chuẩn mực đạo đức kiểm toán ở các công ty kiểm toán Việt Nam hiện nay: 1. Cố ý vi phạm do chế tài xử phạt quá nhẹ Luật Kiểm toán độc lập có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2012 quy định những sai phạm trong lĩnh vực kiểm toán không chỉ bị xử phạt cảnh cáo, mà có thể bị phạt tiền, rút giấy phép hành nghề, thậm chí xử lý hình sự. BTC đang tổ chức lấy ý kiến dự thảo Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán độc lập để trình Chính phủ ban hành đ ể thi hành từ 1/7/2013. Lý do chậm trễ, theo Vụ Chế độ kế toán và kiểm toán, BTC, bản dự thảo đang được rà soát và lấy ý kiến đóng góp để thống nhất với các quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính, có hiệu lực thi hành từ 1/7/2013, quy đ ịnh mức xử phạt bằng tiền nặng hơn rất nhiều so với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính trước đây, tối đa tới 1 tỷ đồng đối với cá nhân và 2 tỷ đồng đối với tổ chức. Tuy nhiên, dự thảo Nghị định vẫn đưa ra mức xử phạt bằng tiền quá thấp, mặc dù trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, DN có thể “đi đêm” với kiểm toán “phù phép” biến lỗ thành lãi hàng chục tỷ đồng. Những thí dụ điển hình về xử phạt bằng tiền quá thấp gồm: hành vi giả mạo, khai man chứng từ kế toán, thoả thuận hoặc ép buộc người khác giả mạo, khai man chứng từ kế toán, lập chứng từ kế toán có nội dung các liên không giống nhau trong trường hợp phải lập chứng từ kế toán có nhiều liên cho một nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh, bán hàng không lập hoá đơn bán hàng theo quy đ ịnh... bị phạt ch ỉ có 20-30 triệu đồng. Trong khi tội giả mạo và khai man thuộc loại tội nặng trong nhiều lĩnh vực khác, có thể bị đi tù. Tương tự, trong lĩnh vực kiểm toán, hành vi giả mạo, sửa chữa, tẩy xóa giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán, cho thuê, cho mượn, cầm cố giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán có thể bị phạt tiền từ 20-40 triệu đồng. Đáng chú ý là tổ chức kiểm toán đã bị thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán nhưng vẫn “âm thầm” tiếp tục kinh doanh các dịch vụ
  14. chỉ bị phạt tiền từ 80-100 triệu đồng. Đối với hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam nếu có hành vi vi phạm có thể bị phạt từ 20-80 triệu đồng. Nhiều nhà đầu tư và cổ đông, nhất là các doanh nghiệp niêm yết đặc biệt quan tâm đến quy định rất quan trọng trong dự thảo là những thành viên tham gia cuộc kiểm toán (cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp) thực hiện hành vi thông đ ồng, móc nối với đơn vị được kiểm toán để làm sai lệch tài liệu kế toán, báo cáo tài chính, chỉ bị phạt từ 20-30 triệu đồng. Những kiểm toán viên “mất đạo đức” thực hiện kiểm toán cho khách hàng khi khách hàng, đơn vị được kiểm toán có yêu cầu trái với đạo đức nghề nghiệp, trái với yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ hoặc trái với quy định của pháp luật chỉ bị phạt từ 40 tới 60 triệu đồng. Tuy dự thảo có quy định thêm: Kiểm toán viên còn bị áp dụng các hình phạt bổ sung như: bị cấm tham gia nhóm kiểm toán, cấm tham gia hoạt động kiểm toán, buộc nộp lại số khoản lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm mà có, nhưng chưa quy định khoản lợi bất hợp pháp cụ thể là gì, tính toán ra sao hay lại phải chờ một thông tư hướng dẫn thi hành nghị đ ịnh của Bộ Tài chính. Ở một số nước tiên tiến trên thế giới, quy định mức phạt trên từng mức lợi ích đem lại từ sai phạm, ví dụ mức phạt tiền hành vi sai phạm bằng 3 - 5 lần mức lợi ích do sai phạm đem lại. Quy định này thường khó thực hiện, nhưng tác dụng răn đe tốt hơn nhiều. Thông tư 64/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính đã quy định, mức phạt cao nhất là 10 lần mức phí kiểm toán của hợp đồng bị phạt, nhưng quy định này còn ít có tiền lệ tại Việt Nam. Sau đây, là 1 số ví dụ về các vụ xử phạt vi phạm của KTV và các CTKT trong thực tế. Hầu hết các mức phạt này chưa đủ răn đe, vì giá trị trục lợi từ hành vi gian lận lớn hơn rất nhiều so với mức phạt do vi phạm. Ví dụ 1: Ngày 04-01-2012, lần đầu tiên UBCK xử phạt hành chính 3 KTV của Công ty TNHH Kiểm toán và kế toán Hà Nội, Công ty TNHH BDO Việt Nam và Công ty Kiểm toán Mỹ AA vì có sai phạm trong quá trình kiểm toán cho CTCP Dược phẩm Viễn Đông. Nhưng với NĐT và thị trường, như vậy là chưa đủ, bởi với đặc thù của
  15. hoạt động kiểm toán, không thể bỏ qua trách nhiệm của công ty kiểm toán . Một chuyên gia trong lĩnh vực chứng khoán nhìn nhận, phạt cá nhân KTV là bước tiến, nhưng không nên dừng lại ở đó. Lý do là bởi khi tiến hành một cuộc kiểm toán, ngoài KTV trực tiếp thực hiện, còn có bộ phận soát xét chất l ượng, thực hiện đánh giá rủi ro, đại diện ban giám đốc CTKT ký báo cáo kiểm toán..., nên cần xử lý trách nhiệm liên đới của CTKT. Có thêm biện pháp này mới tăng tính răn đe, góp phần nâng cao chất lượng kiểm toán viên, giảm thiểu rủi ro cho cổ đông, NĐT. Nếu chỉ xử phạt cá nhân KTV, thì cùng lắm CTKT cho các KTV đó nghỉ việc là ổn, mà không ảnh hưởng đến hoạt động kiểm toán của công ty. Tiếp diễn tình trạng này là không ổn, vì gây rủi ro cho cổ đông, NĐT, mà trường hợp Dược Viễn Đông là điển hình. Ngoài xử lý KTV, cần quy trách nhiệm cụ thể đối với CTKT theo hướng vi phạm đến mức độ nào thì bị phạt ra sao; trong một khoảng thời gian bao lâu mà có nhiều KTV bị xử lý vi phạm hành chính, thì trách nhiệm của CTKT đến đâu? Ví dụ 2: Ngày 5/1/2012, UBCKNN ban hanh các Quyết định số 11/QĐ-UBCK ̀ và 12/QĐ-UBCK xử phạt vi phạm hành chính đôi với KTV Nguyễn Diệu Trang ́ (Chứng chỉ kiểm toán viên số 0938/KTV) của Công ty TNHH Dịch vụ tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) và Kiểm toán viên Tô Đình Hoài (Chứng chỉ Kiểm toán viên số 1174/KTV) của Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán Hà Nội (CPA Hà Nội) cụ thể như sau: i. Tại Báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính năm 2010 của CTCP Quản lý Quỹ Đầu tư Hapaco do Kiểm toán viên Nguyễn Diệu Trang của Công ty TNHH Dịch vụ tài chính Kế toán và Kiểm toán lập đã không ghi ý kiến về các sai phạm của CTCP Quản lý Quỹ Đầu tư Hapaco trong việc không trình bày về khoản đầu tư vượt vốn chủ sở hữu do vay để đầu tư tài chính, theo quy định tại Khoản 3 Đi ều 13 Quy ết định 89/2007/QĐ-BTC của Bộ Tài chính ngày 24/10/2007 ban hành Quy chế lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán được chấp thuận kiểm toán cho tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết và tổ chức kinh doanh chứng khoán (Quyết định 89/2007/QĐ-BTC); sau khi phát hành báo cáo kiểm toán, các sai phạm nêu trên cũng không được thông báo cho UBCKNN theo quy định tại Khoản 4 Điều 13 Quyết định 89/2007/QĐ-BTC, vi phạm Điểm a Khoản 1 Điều 12 Quyết định 89/2007/QĐ-BTC.
  16. ii. Tại Báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính năm 2010 của Cty CP Quản lý Quỹ SGI do Kiểm toán viên Tô Đình Hoài của Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán Hà Nội lập đã không ghi ý kiến về các sai phạm của CtyCP Quản lý Quỹ SGI trong việc cho các bên liên quan vay tiền và chưa tách bạch tài sản của nhà đầu tư ủy thác và tài sản của Công ty, theo quy định tại Khoản 3 Điều 13 Quyết định 89/2007/QĐ-BTC; sau khi phát hành báo cáo kiểm toán, các sai phạm nêu trên cũng không được thông báo cho UBCKNN theo quy định tại Khoản 4 Điều 13 Quyết định 89/2007/QĐ-BTC, vi phạm Điểm a Khoản 1 Điều 12 Quyết định 89/2007/QĐ-BTC. Xet tinh chât và mức độ vi pham, UBCKNN xử phạt vi phạm hành chính đối ́ ́ ́ ̣ với Kiểm toán viên Nguyễn Diệu Trang (Công ty trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ tài chính Kế toán và Kiểm toán) và Kiểm toán viên Tô Đình Hoài (Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán Hà Nội) như sau: - Hình thức phạt chính: Phạt tiền 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng) đối với mỗi kiểm toán viên trên theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 35 Nghị đ ịnh 85/2010/NĐ-CP ngay 2/8/2010 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong ̀ lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán (Nghị định 85/2010/NĐ-CP). - Hình thức phạt bổ sung: Đình chỉ có thời hạn tư cách được chấp thuận của mỗi KTV nêu trên theo quy định tại Khoản 4 Điều 35 Nghị định85/2010/NĐ-CP. Tuy nhiên, chưa có mức phạt nào được kiến nghị để xử phạt 2 CTKT liên quan trực tiếp tới hai vụ việc trên. 2. Chênh lệch cung - cầu: Trên chặng đường hơn 20 năm chuyển từ NKT hoạt động theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang NKT hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước, tuy ngắn ngủi những đã tạo ra sức sống cho NKT, mở ra nh ững c ơ hội mới, những thách thức mới cho các DN VN có thể tồn tại và phát triển. Nhưng đứng trước thực trạng của NKT VN, liệu những con số trong BCTC có đủ để làm yên lòng những cơ quan chủ quản và nhà đầu tư không? Do đó, để nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả hơn, hạn chế được tiêu cực, từ năm 1991, hệ thống bộ
  17. máy tổ chức kiểm toán Việt Nam chính thức hình thành, mà khởi đầu là Kiểm toán độc lập. Năm 1991, Bộ Tài chính thành lập 2 công ty là DNNN làm kiểm toán, đó là công ty kiểm toán Việt Nam (VACO) và Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC). Đến tháng 4/2008 đã có 195 công ty kiểm toán độc lập với đủ mọi hình thức, gồm có: 130 công ty TNHH; 4 công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài; 11 công ty hợp danh và 14 công ty đang có sự thay đổi hoặc chưa đủ điều kiện hành nghề kiểm toán. Như vậy đã vượt 60% chỉ tiêu đề ra tại Hội nghị tổng kết 10 năm hoạt động kiểm toán độc lập năm 2001. Nếu trong năm 2001 có 3/34 công ty được công nhận là thành viên của các hãng kiểm toán quốc tế, thì nay đã có đến 17 công ty. Trong 159 công ty kiểm toán đặt 159 văn phòng chính và 55 chi nhánh và văn phòng đại diện trên khắp cả nước. Tháng 10/1994, lần đầu tiên BTC tổ chức thi tuyển và cấp chứng chỉ đặc cách cho 49 người đủ điều kiện, tiêu chuẩn KTV chuyên nghiệp. Đến 31/1/2007, BTC đã tổ chức 13 kỳ thi tuyển KTV cho người VN và kỳ thi sát hạch cho người nước ngoài và cấp 1.304 chứng chỉ KTV cho những người đạt kết quả thi. Đến 31/3/2008, cả nước có 5.864 nhân viên làm việc trong 159 công ty kiểm toán trong đó có 4.676 nhân viên chuyên nghiệp, có 949 KTV gồm: 88 người vừa có chứng chỉ KTV Việt Nam, vừa có chứng chỉ KTV nước ngoài; 827 người có chứng chỉ KTV Việt Nam; 34 người có chứng chỉ KTV nước ngoài. Như vậy, thời điểm đầu năm 2009, ở VN có khoảng 7.000 người làm việc trong các loại hình kiểm toán: kiểm toán độc lập, kiểm toán Nhà nước và kiểm toán nội bộ; khoảng gần 1.500 KTV; khoảng 230 các văn phòng, chi nhánh của các tổ chức kiểm toán. Năm 2013 có tổng số 845 doanh nghiệp, trong đó có 708 DN niêm yết và 137 DN giao dịch sàn UpCom, chưa kể các doanh nghiệp đại chúng quy mô lớn. Với hơn 1253 kiểm toán viên hành nghề. (Số liệu được tổng hợp từ phụ lục 1) Với số lượng KTV và các tổ chức kiểm toán như hiện nay không thể phủ nhận sự phát triển của lĩnh vực kiểm toán, song sự phát triển đó vẫn chưa tương xứng với nhu cầu hiện tại và vai trò, chức năng của lĩnh vực (nghề) kiểm toán. Chất
  18. lượng dịch vụ của các CTKT cung cấp là tương đối tốt nhưng do môi trường tài chính VN chưa chuyên nghiệp và minh bạch nên cũng gặp phải những khó khăn nhất định. Trình độ năng lực chuyên môn cũng như đạo đức nghề nghiệp của KTV ngày càng được nâng cao nhưng so với các nước tiên tiến trên thế giới vẫn có một khoảng cách khá xa. Thực trạng trên xuất phát từ một số nguyên nhân sau: - NKT nước ta chưa đạt đến mức độ NKT thị trường đầy đủ, nên hoạt động kiểm toán không phải lúc nào cũng được coi là một yêu cầu bức thiết. Việc mời các CTKT cung cấp dịch vụ kiểm toán BCTC thường theo những mục tiêu riêng của mỗi đơn vị. Do đó việc yêu cầu cung cấp dịch vụ kiểm toán bao giờ cũng đi k èm các điều kiện nhằm đạt được mục tiêu đó. - Hệ thống các văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động kiểm toán độc lập chưa được ban hành, hướng dẫn đầy đủ và thống nhất. Các công ty kiểm toán có thể tiến hành các công việc kiểm toán dựa trên các quyết định, nguyên tắc trong các chuẩn mực kiểm toán VN hayquốc tế. - Sự trợ giúp về chuyên môn và kỹ thuật của các hiệp hội và tổ chức nghề nghiệp chưa có tác dụng nhiều trong hoạt động của các công ty kiểm toán. - Việc cung cấp dịch vụ còn chịu tác động của quy luật cung cầu, cạnh tranh. Do vậy, giá phí kiểm toán thấp (đặc biệt đối với các công ty kiểm toán nhỏ) đã ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện đúng đắn, đầy đủ các công việc kiểm toán. - Chưa có một cơ chế quản lý, kiểm soát cụ thể đối với chất lượng của các cuộc kiểm toán cũng như kết quả của nó. - Các nhu cầu về công khai thông tin kế toán tài chính chưa trở thành thói quen, vì vậy kết quả kiểm toán chưa thực sự quan trọng đối với các đối tượng sử dụng thông tin. Lĩnh vực kiểm toán ở Việt Nam đối với nhiều người còn mới mẻ nhưng trên thế giới thì kiểm toán thực sự là một nghề rất phổ biến và đã có một quá trình phát triển lâu dài. Việc đào tạo KTV được các nước rất quan tâm, như Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản,... các KTV của những nước này nhiều về số lượng, tốt về chất lượng,
  19. giàu kinh nghiệm có khả năng đáp ứng yêu cầu công việc và tính linh hoạt, nhạy bén cao Năm 2010, trong 85 doanh nghiệp được điều tra có 35 doanh nghiệp đã sử dụng (41,.17%) và 50 doanh nghiệp chưa sử dụng dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính (chiếm 58,83%) Tiêu thức phân loại Doanh nghiệp đã Doanh nghiệp chưa sử dụng dịch vụ sử dụng dịch vụ kiểm toán (%) kiểm toán (%) Loại hình doanh Cổ phần 71.4 58 nghiệp Trách nhiệm hữu 22.9 38 hạn Tư nhân 2.9 4 Khác 2.9 0 Quy mô doanh Lớn 25.7 0 nghiệp* Vừa 54.3 16 Nhỏ 20 84 Dịch vụ bổ trợ kèm Có sử dụng 62.9 32 theo ** Không sử dụng 37.1 68 Bảng: Thông tin chung về doanh ngiệp sử dụng và chưa sử dụng dịch vụ kiểm toán *Quy mô doanh nghiệp chỉ xét theo số lượng lao dộng theo quy định trong luật doanh nghiệp 2005 **Dịch vụ bổ trợ kèm theo gồm: dịch vụ kế toán & làm sổ kế toán, dịch vụ tư vấn quản lý, dịch vụ tư vấn & quyết toán thuế và các dịch vụ khác do công ty kiểm toán độc lập cung cấp. 3. Hiện tượng “cá lớn nuốt cá bé” trong nghành Tại tất cả CTKT, đạo đức nghề nghiệp luôn là vấn đề được nhấn mạnh, nhưng thực tế KTV có áp dụng hay không lại là câu chuyện khác. Ở VN hiện nay có 195 CTKT, nên hiện tượng “cá lớn nuốt cá bé” và tình trạng phân biết đối xử giữa
  20. những CTKT lớn với CTKT nhỏ còn nhiều bất cập. Và đây là một trong những nguy cơ dẫn đến hình vi vi phạm CM đạo đức của KTV: vi phạm tính độc lập, tính chính trực, khách quan… Nguyên nhân: - Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhỏ với nhau: Nguyên nhân đầu tiên chính là cuộc cạnh tranh quá khốc liệt trong nhóm CTKT nhỏ. Thương hiệu còn yếu, uy tín chưa cao nên lợi thế cạnh tranh duy nhất của CTKT nhỏ nằm ở mức giá. Điều này đã dẫn đến việc các CTKT nhỏ phải hạ giá, từ đó dẫn đến chất lượng không đ ảm bảo. - Doanh nghiệp nhỏ bị chèn ép từ hai phía: Các công ty kiểm toán cũng bày tỏ bức xúc về tình trạng phân biệt đối xử, thậm chí có biểu hiện “cá l ớn nuốt cá bé” trong ngành. - Phân biệt đối xử: Tổng giám đốc, chủ tịch Hội đồng thành viên công ty AASC Ngô Đức Đoàn, nêu ý kiến: các NHTM, nhất là các ngân hàng lớn luôn đ ặt yêu c ầu đối tác phải là một trong 4 hãng kiểm toán và tư vấn lớn nhất thế giới, bao gồm PWC, Deloitte, Ernst &Young và KPMG (Big4). Bản thân Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) cũng đặt ra rào cản cho các công ty trong nước khi chỉ định Big4 kiểm toán tại các công ty có vốn nhà nước mà SCIC quản lý. Báo cáo của VACPA cũng cho thấy, kết quả kinh doanh của nhóm Big4 vẫn tăng trưởng nhanh trong năm 2011, trong khi các công ty kiểm toán trong nước chững lại. Tổng Giám đốc công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn A&C Võ Hùng Tiến bổ sung: cơ quan quản lý có biểu hiện nương nhẹ với vi phạm của nhóm Big4, trong khi lại mạnh tay với các công ty kiểm toán trong nước, nhất là nhóm nhỏ và vừa. Ông Tiến lấy ví dụ, kết quả kiểm toán ngân hàng Habubank của công ty kiểm toán Ernst & Young có sự chênh lệch vô cùng lớn chỉ trong khoảng thời gian rất ngắn (từ có lợi nhuận đến âm vốn nặng nề), song đến nay vẫn “chưa có vấn đề gì”. Theo ông Tiến, nếu trường hợp này, rơi vào các CTKT trong nước sẽ bị “xử lý tới bến”. Đơn cử như trường hợp báo cáo kiểm toán của một công ty trong nước thiếu thuyết minh về chi phí sản xuất, BTC đã xử phạt, treo bằng kiểm toán viên mà theo ông Tiến, sai sót này chỉ đáng ở mức nhắc nhở.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
14=>2