YOMEDIA
ADSENSE
Tìm hiểu lí thuyết giáo dục toán học gắn với thực tiễn và vận dụng xây dựng bài tập thực tiễn trong dạy học môn Toán
294
lượt xem 15
download
lượt xem 15
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Bài báo này trình bày một số quan điểm cơ bản của lí thuyết Giáo dục toán học gắn với thực tiễn (RME) về quá trình dạy học môn Toán cho thấy tính phù hợp của lí thuyết này với tình hình giáo dục Toán học nước ta. Dựa trên nền tảng lí thuyết, đó, chúng tôi định nghĩa khái niệm Bài tập thực tiễn, đề ra một số biện pháp xây dựng các bài tập thực tiễn cũng như bàn luận về cách thức sử dụng chúng trong dạy học.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tìm hiểu lí thuyết giáo dục toán học gắn với thực tiễn và vận dụng xây dựng bài tập thực tiễn trong dạy học môn Toán
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 165-169<br />
<br />
TÌM HIỂU LÍ THUYẾT GIÁO DỤC TOÁN HỌC GẮN VỚI THỰC TIỄN<br />
VÀ VẬN DỤNG XÂY DỰNG BÀI TẬP THỰC TIỄN TRONG DẠY HỌC MÔN TOÁN<br />
Trần Cường - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
Nguyễn Thùy Duyên - Trường Kinh tế kĩ thuật bách khoa Hà Nội<br />
Ngày nhận: 18/03/2018; ngày sửa chữa: 28/05/2018; ngày duyệt đăng: 31/05/2018.<br />
Abstract: This article provides an overview of the main features of the Realistic Mathematics<br />
Education (RME) approach in the process of teaching mathematics in order to demonstrate the<br />
appropriateness of this approach for the situation of mathematics education in Vietnam. Based on<br />
this theoretical framework, authors try to define the concept of Realistic Mathematical Problem<br />
(RMP), suggest certain measures aimed at creating RMPs and discuss the way of using them in<br />
the process of teaching mathematics.<br />
Keywords: Realistic Mathematic Education, realistic mathematical problems.<br />
1. Mở đầu<br />
Giáo dục Việt Nam trong những năm gần đây đang<br />
tập trung đổi mới, hướng tới một nền giáo dục tiến bộ,<br />
hiện đại, đạt hiệu quả cao trong đào tạo nguồn nhân lực<br />
với các phẩm chất tốt. Một định hướng quan trọng của<br />
giáo dục là thực hiện bước chuyển từ tiếp cận nội dung<br />
sang tiếp cận năng lực của người học, là yếu tố được hình<br />
thành và thể hiện thông qua hoạt động. Học được gì cần<br />
được hiểu theo nghĩa được làm gì và làm được gì.<br />
Toán học là ngành khoa học có tính trừu tượng cao<br />
độ và tính thực tiễn phổ dụng. Môn Toán ra đời phát triển<br />
từ yêu cầu của thực tiễn, để từ đó quay lại giải quyết<br />
những vấn đề của thực tiễn và định hướng cho khoa học<br />
công nghệ. Sự đổi mới từ nội dung tới phương pháp dạy<br />
và học môn Toán ở các cấp học theo định hướng gắn với<br />
thực tiễn là rất cần thiết.<br />
Từ nửa sau thế kỉ XX, một số nền giáo dục hiện đại<br />
tiên tiến trên thế giới (Mĩ, Anh, Đức, Pháp, Australia, Hà<br />
Lan, Phần Lan,...) đã vận hành dựa trên những lí thuyết<br />
dạy học mới và có nhiều tiến bộ như lí thuyết kiến tạo, lí<br />
thuyết tình huống (TsD : Théorie des Situations) ở Pháp,<br />
Giáo dục toán học gắn với thực tiễn (RME - Realistic<br />
Mathematics Education) ở Hà Lan, thuyết Đa trí tuệ<br />
(Multiple Intelligences) ở Mĩ,... Trong đó, chúng tôi cho<br />
rằng, lí thuyết RME có nhiều điểm gần gũi và khả thi với<br />
giáo dục Toán học Việt Nam.<br />
Ban đầu chủ yếu nghiên cứu về dạy toán tiểu học,<br />
ngày nay lí thuyết RME được nâng cấp dần cho trung<br />
học và những bậc học cao hơn: Kindt (2010) cho thấy<br />
cách thực hành các kĩ năng đại số không chỉ những động<br />
tác được lặp lại mà còn có tác dụng to lớn trong kích thích<br />
tư tưởng. Goddijn et al. (2004) cung cấp tài nguyên<br />
phong phú cho Dạy hình học gắn với thực tiễn (Realistic<br />
Geometry Education), ở đó ứng dụng và phép chứng<br />
<br />
minh song hành cùng nhau.<br />
Qua gần 50 năm phát triển, RME đã trở thành nền<br />
tảng chính cho giáo dục toán học ở Hà Lan: từ 95% sách<br />
giáo khoa toán tiểu học chịu ảnh hưởng bởi tiếp cận cơ<br />
khí (mechanistic teaching approach) vào năm 1980,<br />
những bộ sách này gần như hoàn toàn biến mất năm<br />
2004, thay vào đó là 100% các bộ sách viết theo tư tưởng<br />
của RME. Ở Mĩ, RME là cơ sở lí luận cho toán học trong<br />
ngữ cảnh (Mathematics in Context), một trong những bộ<br />
sách giáo khoa toán bán chạy nhất. Ở Pháp, RME có thể<br />
chia sẻ nhiều quan điểm với TsD. Tiếp đó, RME được du<br />
nhập vào Anh và góp phần hình thành Dạy toán bằng tái<br />
hoàn cảnh hóa (Recontextualization in Mathematics<br />
Education), hay đóng góp ý tưởng cho Nghiên cứu bài<br />
học (Lesson Study) tại Nhật.<br />
RME được giới thiệu tại Việt Nam bởi Lê Tuấn Anh<br />
(2004) [1] và một số nhà nghiên cứu khác.<br />
Bài báo này trình bày một số kết quả tìm hiểu lí thuyết<br />
RME, đề xuất một số biện pháp giúp giáo viên thiết kế, xây<br />
dựng được những bài toán gắn với thực tiễn để sử dụng<br />
chúng trong quá trình dạy học, góp phần nâng cao chất<br />
lượng dạy học môn Toán ở trường trung học phổ thông.<br />
Các phương pháp nghiên cứu lí luận, tổng kết kinh<br />
nghiệm và bước đầu tiến hành thực nghiệm sư phạm đã<br />
được vận dụng để tiến hành 3 nhiệm vụ nghiên cứu:<br />
- Tìm hiểu và trình bày một số luận điểm quan trọng<br />
trong lí thuyết RME; - Định nghĩa khái niệm bài tập thực<br />
tiễn (BTTT); - Đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp<br />
xây dựng và sử dụng BTTT trong dạy học môn Toán.<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
2.1. Tìm hiểu lí thuyết RME<br />
2.1.1. Ba luận điểm cơ bản của RME<br />
Có thể chỉ ra một số luận điểm cơ bản trong lí thuyết<br />
RME như sau:<br />
<br />
165<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 165-169<br />
<br />
- Toán học như một hoạt động sống<br />
Trong xã hội loài người, toán học không chỉ để tồn<br />
tại mà còn được nâng lên thành một sản phẩm trừu<br />
tượng, một ngành khoa học cơ bản được nghiên cứu<br />
trong một hệ thống lí thuyết: không chỉ xuất phát từ nhu<br />
cầu của thực tiễn mà còn tự thân phát triển nhờ những<br />
nhu cầu từ nội bộ môn Toán. Tuy nhiên, đối với đa số<br />
người lao động, với tư cách là người thụ hưởng, người<br />
dùng cuối cùng các sản phẩm vật chất, tinh thần của nền<br />
văn minh, hầu hết những kiến thức toán học, càng sâu sắc<br />
thì càng ít liên quan đến hoạt động sống của họ: không<br />
cần biết có bao nhiêu bằng phát minh sáng chế, bao nhiêu<br />
lí thuyết toán học, bao nhiêu mô hình tính toán giúp vận<br />
hành chiếc máy điện thoại, đa số chỉ cần biết nhập các<br />
chữ và các số, sắp xếp danh bạ, truy tìm từ khóa... Đối<br />
với nhiều người, nhu cầu học và nghiên cứu toán - với tư<br />
cách một khoa học thuần túy lí thuyết - hoàn toàn không<br />
có, hoặc chỉ là nhu cầu thứ yếu. Vì vậy, nội dung đưa vào<br />
giáo dục toán học trong nhà trường, dành cho đa số, ở<br />
trình độ phổ thông, không nhất thiết, không cần thiết là<br />
thứ toán để học, để nghiên cứu mà nên thiên về thứ toán<br />
để làm, toán như hoạt động sống: tính, đếm, đo đạc, so<br />
sánh, phân tích, thống kê, chia trường hợp, đánh giá, dự<br />
đoán, ra quyết định,...<br />
Toán học phải được kết nối với thực tế, với vùng phát<br />
triển gần nhất của học sinh và cần có tính thời đại thông<br />
qua các mối liên kết đến xã hội. Thay vì nhìn toán học<br />
như một chủ đề cần được truyền đạt, RME nhấn mạnh ý<br />
tưởng toán học như một hoạt động của con người. Các<br />
bài học nên cung cấp cho học sinh cơ hội có hướng dẫn<br />
để phát minh lại toán học bằng cách thực hiện nó.<br />
- Dạy toán là hướng dẫn học sinh “phát minh lại” tri thức<br />
Con đường mà toán học được tìm ra có khi kéo dài<br />
hàng nghìn năm đầy khúc khuỷu quanh co, đầy chông<br />
gai khó nhọc ngay cả với những bộ óc vĩ đại của nhân<br />
loại. Đương nhiên, không thể được tái hiện những con<br />
đường nói trên một cách hoàn toàn trung thực trong môi<br />
trường lớp học: realistic khác với và không thể là<br />
authentic. Nhưng những quá trình đó, phần nhiều có thể<br />
được mô phỏng như những thí nghiệm, phù hợp với con<br />
đường nhận thức tự nhiên của người học, vừa có ý nghĩa<br />
giáo dục, vừa có ý nghĩa thực tiễn. Học sinh không thể<br />
lặp lại quá trình phát minh của các nhà toán học, tuy<br />
nhiên, họ cần được trao cơ hội tái phát minh toán học<br />
dưới sự hướng dẫn của giáo viên và tài liệu học tập. Có<br />
như vậy học sinh mới thấy vấn đề gần gũi, do chính mình<br />
tạo ra, chính mình giải quyết và đáng để tiếp thu.<br />
Như vậy chuẩn bị cho mỗi nội dung kiến thức, giáo<br />
viên trước hết phải tự trang bị cho mình một tầm hiểu<br />
biết sâu rộng: - Về lịch sử toán - khoa học luận: nguồn<br />
gốc của kiến thức? Hoàn cảnh ra đời (xuất phát từ thực<br />
<br />
tiễn hoặc từ nội bộ toán học), con đường hình thành kiến<br />
thức, những khó khăn, những công cụ được sử dụng để<br />
khám phá ra kiến thức,...; - Về tính thực tiễn và xã hội:<br />
kiến thức có vị trí vai trò gì? Phản ánh ý nghĩa nào, có<br />
những dạng biểu diễn nào, có những mô hình nào, là mô<br />
hình của hay mô hình cho vấn đề thực tiễn nào? Có liên<br />
hệ với những kiến thức khác như thế nào? Có ứng dụng<br />
vào vấn đề nào của thực tiễn?<br />
- Toán học dưới góc độ sư phạm<br />
Freudenthal ([2], 1991) tin rằng cách thức mà toán<br />
học được công bố và trình bày là khác với cách thức mà<br />
nó được phát minh.<br />
- Các nhà toán học đưa “kiến thức vào một dạng ngôn<br />
ngữ, tách khỏi ngữ cảnh, phi cá nhân hóa, tách rời hình<br />
thức”, tiến tới giai đoạn cuối cùng trong lí thuyết toán học<br />
là kiến thức được chính thức hóa bằng hệ thống hóa bằng<br />
các định nghĩa, tiên đề, định lí, quy tắc.<br />
- Điểm cuối này là điểm khởi đầu của các thầy cô khi<br />
đưa nội dung vào lớp học. Quá trình mà các nhà toán học<br />
đi đến kết luận của họ cần được lần ngược lại giúp học<br />
sinh. Điều tốt nhất giáo viên có thể làm là tái tạo ngữ cảnh<br />
và một “hình ảnh của tri thức” bằng cách cung cấp cho<br />
học sinh những tình huống có ý nghĩa.<br />
2.1.2. Sáu nguyên tắc dạy học của RME<br />
Tiếp nối những ý tưởng chính của Freudenthal, các<br />
nhà nghiên cứu về RME, mà khởi đầu là Treffers, đã đưa<br />
ra sáu nguyên tắc dạy học quan trọng [3]:<br />
- Nguyên tắc hoạt động (activity principle): người<br />
học được đối xử như những chủ thể tích cực tham gia vào<br />
quá trình dạy học, hoạt động của họ là yếu tố quyết định<br />
hiệu quả quá trình dạy học. Và vì vậy, học toán tốt nhất<br />
là thông qua làm toán.<br />
- Nguyên tắc thực tiễn (reality principle), có thể hiểu<br />
theo hai nghĩa: đầu tiên, RME nhấn mạnh mục tiêu quan<br />
trọng của giáo dục toán học là người học phải có khả<br />
năng áp dụng toán vào giải quyết các vấn đề thực tiễn;<br />
Mặt khác nguyên tắc cũng nhấn mạnh, giáo dục toán học<br />
cần bắt đầu từ những tình huống thực tiễn có ý nghĩa với<br />
người học, để trao cho họ cơ hội lưu lại những ý nghĩa<br />
đó vào cấu trúc toán học hình thành trong tâm trí họ. Như<br />
vậy, dạy toán theo tinh thần RME, không bắt đầu bởi<br />
những khái niệm, định nghĩa, định lí (chúng sẽ chỉ được<br />
vận dụng về sau), mà luôn khởi đầu bằng một tình huống<br />
đòi hỏi chủ thể phải tiến hành hoạt động toán học hóa.<br />
- Nguyên tắc cấp độ (level principle cũng được nêu<br />
bởi Gravemeijer, 1994 rồi phân tích, làm rõ hơn bởi Van<br />
den Heuvel-Panhuize), nhấn mạnh sự thăng tiến về nhận<br />
thức qua nhiều cấp độ khác nhau trong quá trình học<br />
toán: từ ngữ cảnh phi toán học liên quan tới tri thức, qua<br />
biểu tượng, sơ đồ, tới nội dung toán học thuần túy của tri<br />
thức. Các mô hình là rất quan trọng làm cầu nối giữa<br />
<br />
166<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 165-169<br />
<br />
những kinh nghiệm không chính thức, bối cảnh toán học<br />
liên quan và những kiến thức toán thuần túy. Để thực<br />
hiện chức năng cầu nối này, các mô hình phải có sự<br />
chuyển biến từ mô hình của một tình huống sang mô hình<br />
cho những dạng tình huống tương tự.<br />
- Nguyên tắc xoắn bện (intertwinement principle):<br />
nội dung toán, dạy theo xu hướng RME, sẽ không chú<br />
trọng tới ranh giới như toán có sẵn giữa các phân môn<br />
Đại số, Hình học, Lượng giác, Xác suất thống kê,... mà<br />
được tích hợp cao độ. Sinh viên được đặt vào những tình<br />
huống đa dạng mà ở đó họ có thể phải thực hiện nhiều<br />
kiểu nhiệm vụ khác nhau đan xen liên hoàn (suy luận,<br />
tính toán, thống kê, tiến hành giải thuật,...), sử dụng nhiều<br />
kiến thức, công cụ, toán học từ những phân môn khác<br />
nhau, thậm chí cả các khoa học khác.<br />
- Nguyên tắc tương tác (interactivity principle): học<br />
toán không chỉ là hoạt động cá thể mà còn là hoạt động<br />
có tính xã hội. Vì vậy RME khuyến khích sự tương tác<br />
giữa các cá nhân và hoạt động theo nhóm để tạo cơ hội<br />
cho mỗi cá nhân chia sẻ những kĩ năng, chiến lược, khám<br />
phá, ý tưởng,... với người học khác - ngược lại được sẽ<br />
được thụ hưởng từ người khác, để có sự thăng tiến về<br />
nhận thức, phát triển năng lực cá nhân, thông qua cả học<br />
thầy lẫn học bạn.<br />
- Nguyên tắc dẫn đường (guidance principle), được<br />
chính Freudenthal đề xuất từ ý tưởng về quá trình tái<br />
khám phá có hướng dẫn (guides re-invention) trong dạy<br />
học toán, mà ở đó giáo viên là giữ vai trò người tiên<br />
phong trên con đường những một kịch bản giàu tiềm<br />
năng hoạt động, mà việc tiến hành những hoạt động đó<br />
sẽ tạo ra những bước nhảy ý nghĩa về nhận thức cho<br />
người học. Để hiện thực hóa nguyên tắc này, cần chú ý<br />
là RME ưu tiên những dự án dạy học dài hạn, hơn là<br />
những bài học đơn lẻ theo kiểu truyền thống.<br />
2.1.3. Dạy học bài tập toán học<br />
2.1.3.1. Bài tập toán học<br />
Bài tập toán học là một trong những tình huống điển<br />
hình trong dạy học môn toán, cùng với dạy Khái niệm,<br />
Định lí và Quy tắc - phương pháp. Dạy toán ở nước ta<br />
hiện nay, giải bài tập là hình thức chủ yếu của hoạt động<br />
toán học. Các chức năng chính của bài tập [2] gồm có:<br />
- Hình thành, củng cố tri thức, kĩ năng, kĩ xảo; - Hình<br />
thành thế giới quan duy vật biện chứng, hứng thú học tập,<br />
niềm tin và phẩm chất đạo đức người lao động mới;<br />
- Phát triển năng lực tư duy, đặc biệt là các thao tác trí<br />
tuệ; - Kiểm tra, đánh giá.<br />
Vào tháng 3/2017, tiến hành khảo sát hơn 105 sinh<br />
viên năm thứ nhất và phỏng vấn 12 giáo viên toán ở Hà<br />
Nội, chúng tôi nhận thấy: - Học sinh nhận thức rõ được<br />
tầm quan trọng của thực tiễn trong học tập các môn học<br />
nói chung và môn Toán nói riêng; Những phần kiến thức<br />
<br />
gần với thực tiễn hơn như xác suất thống kê, phương trình<br />
hệ phương trình dễ gợi được hứng thú học tập, ý thức ham<br />
hiểu biết, đào sâu kiến thức hơn so với những nội dung<br />
toán học thuần túy, nặng tính hàn lâm như giới hạn hàm<br />
số, đạo hàm, nguyên hàm; - Các giáo viên được hỏi đều ý<br />
thức được tầm quan trọng của việc đưa các yếu tố thực tiễn<br />
dạy học môn Toán, nhưng hầu như chưa thể hiện thực hóa<br />
được điều này. Tuy nhiên, họ còn gặp nhiều khó khăn<br />
trong việc thiết kế hay sử dụng các bài toán thực tiễn, một<br />
phần vì không được dạy trong trường sư phạm, phần vì sự<br />
bó buộc ngặt nghèo của thời lượng chương trình.<br />
2.1.3.2. Bài tập thực tiễn<br />
BTTT là một thuật ngữ được dùng phổ biến nhưng lại<br />
ít được mô tả rõ ràng, thống nhất ở các tài liệu tiếng Việt.<br />
Tác giả Lê Văn Tiến ([4], 2006) định nghĩa: “Bài<br />
toán thực tiễn là bài toán mà các dữ kiện, các biến, các<br />
yêu cầu, các câu hỏi, các mối quan hệ,... chứa đựng trong<br />
bài toán đều là các yếu tố của thực tiễn thực”. Tuy nhiên,<br />
dữ kiện trong bài toán thường được “làm đẹp” về mặt<br />
toán học (chẳng hạn bỏ qua các thông tin gây nhiễu hoặc<br />
sinh ra quá nhiều trường hợp, cho con số nguyên, tròn<br />
chục,...), và do đó, theo phân loại của Coulange, chúng<br />
thật ra trở thành bài toán phỏng thực tiễn.<br />
Trong lí thuyết RME, hai khái niệm có nghĩa từ điển<br />
và nội hàm gần gũi là:<br />
- Context problem - Vấn đề ngữ cảnh (Gravmeijer &<br />
Doorman [5]) là những vấn đề có thật đối với trải nghiệm<br />
của người học. Mặc dù trước đây, vấn đề ngữ cảnh chủ<br />
yếu được hiểu là có ứng dụng thực tiễn, tức là thuộc về<br />
một trong những đoạn cuối (củng cố) trong dạy học, thì<br />
đối với lí thuyết RME, vấn đề ngữ cảnh có thể được sử<br />
dụng xuyên suốt từ đầu đến cuối. Nếu như phạm vi khởi<br />
thủy của RME là dạy toán ở tiểu học, thì đến Gravmeijer<br />
& Doorman, vấn đề ngữ cảnh được nghiên cứu ở cấp học<br />
cao nhất ở phổ thông, chẳng hạn trong phân môn giải tích.<br />
- Task context - Bài tập ngữ cảnh (Van den HeuvelPanhuizen [6]) có dấu hiệu quan trọng nhất là phải thích<br />
hợp cho hoạt động toán học hóa, ở đó người học có thể<br />
tưởng tượng, nắm bắt ra được tình huống để tận dụng<br />
kiến thức, kinh nghiệm cá nhân. Bài tập ngữ cảnh lí<br />
tưởng phải: + Có nghĩa (meaningful) đối với người học,<br />
tức đối với họ phải có tính thú vị, mời gọi, có thể thâm<br />
nhập được, tồn tại một thử thách và nhu cầu giải quyết<br />
phải xuất hiện tự nhiên; + Giàu thông tin (informative):<br />
tức là có khả năng giúp giáo viên đọc được nhiều thông<br />
tin từ người học như tri thức, kinh nghiệm, chiến lược, kĩ<br />
năng,...; + Có tính mở cho phép người học cá nhân hóa<br />
lời giải phản ánh quá trình toán học hóa của mình; có tính<br />
tích cực, tức đánh giá những mặt mạnh, những gì người<br />
học đã thành thạo, đã có thay vì đánh đố hướng tới những<br />
gì họ chưa có, còn hạn chế.<br />
<br />
167<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 165-169<br />
<br />
Như vậy, dù bài tập ở mức thực tiễn hay phỏng thực<br />
tiễn vẫn đòi hỏi điều kiện thông tin, dữ kiện xuất phát từ<br />
thực tiễn thực, còn thực tiễn ngữ cảnh của lí thuyết RME<br />
chấp nhận, thậm chí cả những dữ kiện thuần túy toán học,<br />
miễn là gần gũi với tri thức kinh nghiệm của người học.<br />
Thực tế là giáo viên và học sinh ở Việt Nam quen<br />
thuộc, thành thạo hơn nhiều các bài toán thuần túy lí thuyết.<br />
Chúng tôi quan niệm: Bài tập thực tiễn là những bài<br />
tập được diễn đạt theo ngôn ngữ (dùng dữ kiện từ) thực<br />
tiễn thực hoặc gần gũi với kiến thức, kinh nghiệm đã có<br />
của người học, tạo điều kiện cho họ huy động nguồn lực<br />
sẵn có để tiến hành hoạt động toán học hóa ở những cấp<br />
độ khác nhau. BTTT có khả năng sử dụng theo nhiều<br />
chức năng điều hành quá trình dạy học đa dạng từ hướng<br />
đích - gợi động cơ tới hướng dẫn công việc ở nhà.<br />
2.1.3.3. Việc thiết kế BTTT cần chú ý<br />
- Phải tôn trọng chương trình khung, chuẩn đầu ra và<br />
các tài liệu chính thức (chẳng hạn bộ sách giáo khoa)<br />
dùng trên lớp học;<br />
- Chú ý hài hòa giữa thực tiễn (realistic) và xác thực<br />
(authentic), thận trọng với giới hạn giữa thực tiễn và dàn<br />
dựng. Phỏng thực tiễn cần tránh cực đoan hóa, gán ghép<br />
khiên cưỡng tất cả các nội dung toán với thực tế, sinh ra<br />
thực tế quá giả tạo, phi lí (một bài tập trong một bộ sách<br />
phổ biến trả ra kết quả một ngọn đèn biển cao hơn 568m<br />
từ chân tháp!).<br />
- Trước khi đưa BTTT ra sử dụng cần có động tác rà<br />
soát, thử lại để đánh giá tính hướng đích, tính khả thi hiệu quả của bài tập thực tiễn.<br />
2.2. Xây dựng bài tập thực tiễn<br />
Để xây dựng BTTT, có thể tận dụng và cải tiến các<br />
BTTT có sẵn, toán học hóa - tái dựng quá trình phát minh<br />
ra tri thức hoặc ngược lại, gán một vấn đề thuần túy toán<br />
học trở lại với thực tiễn.<br />
2.2.1. Tận dụng và cải tiến các bài tập thực tiễn có sẵn<br />
- Trước hết là rà soát, chỉnh sửa những thông tin chưa<br />
hay hoặc bất hợp lí;<br />
- Sau đó có thể tiến hành bước 4 trong quy trình của<br />
Polya (1- tìm hiểu bài toán, 2- lập chương trình giải,<br />
3- thực hiện thương tình giải, 4- khai thác bài toán) để<br />
biến đổi, từ đó thu được BTTT. Một số cách khai thác<br />
thông dụng, hiệu quả là tương tự hóa, khái quát hóa, đặc<br />
biệt hóa, lật ngược vấn đề.<br />
* Trong bộ sách giáo khoa THPT hiện hành có sẵn một<br />
số BTTT với số lượng (theo chúng tôi thống kê) như sau:<br />
Bảng 1. Lượng BTTT trong SGK THPT (bộ nâng cao)<br />
Đại số 10<br />
Hình học 10<br />
<br />
BTTT<br />
15<br />
7<br />
<br />
Tổng số BT<br />
360<br />
140<br />
<br />
Tỉ lệ<br />
4,1%<br />
5,0%<br />
<br />
ĐS & giải tích 11<br />
32<br />
327<br />
9,8%<br />
Hình học 11<br />
3<br />
151<br />
2,0%<br />
Giải tích 12<br />
10<br />
331<br />
3,0%<br />
Hình học 12<br />
0<br />
197<br />
0,0%<br />
Có thể tận dụng những bài tập này, chẳng hạn:<br />
Ví dụ 1. (Bài 14, tr 153, Giải tích 12 nâng cao) Một<br />
vật chuyển động với vận tốc
ADSENSE
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn