TÍNH CHẤT TỰ THUẬT<br />
TRONG TIỂU THUYẾT GIA ĐÌNH BÉ MỌN CỦA DẠ NGÂN<br />
LÊ THỊ THUÝ HẰNG<br />
Trường Đại học Phú Xuân, Huế<br />
Tóm tắt: Gia đình bé mọn của Dạ Ngân là một trong những tiểu thuyết<br />
mang tính chất tự thuật của văn xuôi Việt Nam cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ<br />
XXI. Ở đó gia đình và những phận đời phụ nữ cũng như sự hoá thân của nhà<br />
văn được bộc lộ rõ nét và sâu sắc qua nhân vật Mỹ Tiệp. Không cầu kỳ, hoa<br />
mỹ mà chỉ bằng những điều muốn nói, Dạ Ngân đã sử dụng ngôn ngữ, cách<br />
kể chuyện mang nét rất riêng xây dựng nên cuốn tiểu thuyết mà đọc nó<br />
chúng ta thấy thấp thoáng bóng dáng cuộc đời mình. Thành công của Gia<br />
đình bé mọn góp phần khẳng định vai trò cũng như xu hướng phát triển của<br />
thể loại tiểu thuyết tự thuật trong nền văn xuôi Việt Nam đương đại.<br />
<br />
1. Trong Hội thảo về tiểu thuyết tổ chức tại Trường Đại học Strasbourg năm 1970 đã có<br />
một số bản báo cáo đề cập đến vai trò và triển vọng của tiểu thuyết tự thuật trong việc<br />
đổi mới thể loại tiểu thuyết. Các nhà lý luận đều cho rằng đi vào tự thuật là một hướng<br />
có triển vọng và có thể đổi mới tiểu thuyết theo hướng ấy. Tuy nhiên, vẫn có nhiều ý<br />
kiến phân biệt rạch ròi giữa tự thuật và tiểu thuyết. Đặc trưng của tiểu thuyết là hư cấu,<br />
còn đặc trưng của tự thuật là sự thật về bản thân mình. Jacques Petit, một trong những<br />
người hướng theo sự phân định này, cho rằng không thể đổi mới tiểu thuyết bằng tự<br />
thuật. Đây là một hướng không có triển vọng. Theo ông, “nhà tiểu thuyết làm sao tránh<br />
khỏi lúng túng khi kể về bản thân mình, vì nếu kể trung thực thì không phải là tiểu<br />
thuyết, chừng nào không có xây dựng lại thì không có tiểu thuyết thực sự, mà nếu xây<br />
dựng lại thì còn đâu là tính trung thực của tự thuật” [3, tr. 130]. Mặc dù mỗi tác giả đều<br />
có những luận giải chứng minh cho ý kiến của mình, nhưng văn học với những ngả<br />
đường khác nhau lại không đi theo một khuôn thước định sẵn. Sự thật cho những nhận<br />
định về thể loại tiểu thuyết đi ngược lại với những gì mà các tác giả của thế kỷ XX đoán<br />
định. Nhà văn không còn băn khoăn mình đang viết tiểu thuyết hay viết tự thuật mà có<br />
thể thấy, từ tiểu thuyết, người đọc cảm nhận được bóng dáng nhà văn và nhà văn cùng<br />
những tác phẩm ấy dung chứa cả nỗi bi hài của cuốn tiểu thuyết đời người và đời mình.<br />
Như một sự trải nghiệm của bản thân trong hành trình kiếm tìm cội nguồn sáng tạo, M.<br />
Kundera từng đúc kết: “Tất cả mọi tiểu thuyết của thời đại đều chăm chú vào bí ẩn của<br />
cái tôi” [1, tr. 27]. Những bí ẩn đó trước hết là việc khám phá thế giới khác nhau của<br />
mỗi cá nhân trong xã hội và cả những bức xạ của mỗi cá nhân qua những quan niệm của<br />
anh ta trước cuộc đời. Nhà văn chính là người làm được và làm tốt thiên chức của mình<br />
trong hành trình kiến tạo tác phẩm.<br />
Ở phương Tây, xu hướng tự thuật phát triển vào thế kỷ XVIII. Đặc biệt từ thập niên 80<br />
của thế kỷ XX trở lại đây, hàng loạt tiểu thuyết tự thuật (hay mang dáng dấp tự thuật) ra<br />
đời của những nhà văn thuộc nhiều thế hệ khác nhau: Dối mà thật của Louis Aragon<br />
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br />
ISSN 1859-1612, Số 04(16)/2010: tr. 64-69<br />
<br />
TÍNH CHẤT TỰ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT GIA ĐÌNH BÉ MỌN...<br />
<br />
65<br />
<br />
(1980), Nathalie Sarraute với Tuổi thơ (1983), Người tình của M. Duras (1984), Điền<br />
viên (1981) và Cây keo (1989) của Claude Simon…<br />
Ở Việt Nam cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, nhiều cuốn tiểu thuyết có tính chất tự thuật<br />
xuất hiện. Một số cuốn tiểu thuyết “chăm chú vào bí ẩn của cái tôi”, lấy chất liệu từ<br />
cuộc đời riêng tư của tác giả: Ba người khác (Tô Hoài), Chuyện kể năm 2000 (Bùi Ngọc<br />
Tấn), Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải), Một mình một ngựa (Ma Văn Kháng)… Hòa<br />
trong xu hướng viết như giãi bày đó, Gia đình bé mọn là một trong những cuốn tiểu<br />
thuyết mang tính tự thuật của Dạ Ngân.<br />
2. Đọc Gia đình bé mọn, độc giả không khỏi cưỡng lại ý muốn quy chiếu hiện thực tác<br />
phẩm vào hiện thực đời sống của nhà văn. Tìm hiểu những câu chuyện về cuộc đời tác<br />
giả, có thể khẳng định, Gia đình bé mọn lấy chất liệu từ chính đời riêng của nữ văn sỹ<br />
đầy nỗi truân chuyên này. Tuy vậy, gạt bỏ những quy chiếu cuộc đời tác giả vào tác<br />
phẩm, Gia đình bé mọn được tiếp nhận trước hết là một tiểu thuyết – tiểu thuyết có tính<br />
chất tự thuật.<br />
2.1. Gia đình và những phận đời phụ nữ<br />
Tác phẩm xoay quanh cuộc đời của nữ nhà văn Tiệp trong các mối quan hệ giữa quá<br />
khứ / hiện tại, cá nhân / gia đình. Gia đình bé mọn là cuốn tiểu thuyết kể chuyện gia<br />
đình hay những gia đình với những mảnh đời, số phận gắn kết chặt chẽ với nhân vật<br />
chính tạo nên sự hô ứng, đan bện độc đáo. Chung quanh cuộc đời Mỹ Tiệp là đại gia<br />
đình ba thế hệ toàn phụ nữ goá chồng, không chồng hoặc bỏ chồng, lặp lại đến mức<br />
ngột ngạt.<br />
Gia đình (1): Nơi Tiệp sinh ra và lớn lên với những người đàn bà goá chồng, không<br />
chồng. Gia đình luôn phải gồng mình lên gánh chịu bất hạnh và cả sự kiêu hãnh của một<br />
mái nhà thiếu hơi ấm đàn ông mà vẫn xem văn hoá truyền thống là nền tảng.<br />
Gia đình (2): Gia đình hạt nhân, Tiệp – Tuyên, mỗi người là một mảnh rời rạc, chẳng có<br />
chút kết dính, vì thế tan vỡ là tất yếu.<br />
Gia đình (3): Gia đình Tiệp – Đính, người đàn ông cùng Tiệp đi qua mười một năm khổ<br />
nạn, yêu đương trong cảnh kẻ Nam người Bắc, trong cái nghèo khổ một thời và trong cả<br />
những điều tiếng tàn nhẫn của dư luận xã hội.<br />
Con đường đời của Tiệp là đi từ gia đình 1 đến gia đình 3, con đường chênh chao, đắng<br />
đót mà Tiệp phải gắng gỏi vun vén để có được hạnh phúc với Đính - người đàn ông lý<br />
tưởng của cô. Tiệp chấp nhận từ bỏ sự yêu thương, chăm sóc của gia đình lớn, ly hôn<br />
với Tuyên, lìa xa hai đứa con đang độ tuổi khôn lớn cần sự chăm sóc, dìu dắt của người<br />
mẹ để đến nơi có cái gọi là hạnh phúc, là “chính danh” cho người đàn bà nửa đời phải<br />
sống trong dư luận. Nơi đó chỉ có Đính - người đàn ông định mệnh của đời nàng và một<br />
“mái nhà tranh hai trái tim vàng” theo đúng nghĩa. Nhưng Tiệp chấp nhận tất cả, chấp<br />
nhận trong nỗi đau nhiều hơn là niềm cảm thông, chia sẻ.<br />
Những tưởng mọi sự sẽ trở nên suôn sẻ với Tiệp. Song một trận bão bao giờ cũng bắt<br />
đầu khi trời im ắng nhất. Đứa con gái của Tiệp học hành đứt quãng, lập gia đình chóng<br />
<br />
66<br />
<br />
LÊ THỊ THÚY HẰNG<br />
<br />
vánh, có con và đau đớn thay, tức tưởi trong tiếng khóc: “Mẹ ơi, con cần mẹ, con khổ<br />
quá. Chồng con ảnh có người khác, người ta còn gọi điện đòi con nhường chồng<br />
nữa…” [2, tr. 292]. Vòng tròn của sự bất hạnh, khổ đau cứ siết chặt, vây hãm lấy Tiệp<br />
và bất kỳ lúc nào cũng chờ đợi để thắt chặt vào những người nàng yêu thương. “Bù và<br />
trừ, lẽ nào cuộc đời lại nhẫn tâm với nàng như vậy? Đây là cái giá nữa cho sự đèo<br />
bòng của nàng? Tại vì nàng bỏ rơi con hay vì thế giới bổng lộc của ba nó làm cho nó<br />
buông thả, uất ức, quát mắng, tiêm nhiễm và đã đến lúc chính nó phải trả giá?” [2, tr.<br />
294]. Lời tự vấn của Tiệp? Lời biện minh? Hay đó là số phận luôn đeo bám người phụ<br />
nữ đa đoan này?<br />
Bao bọc quanh Tiệp là những lo toan, nặng gánh gia đình. Gia đình mẹ nàng, gia đình<br />
nàng và gia đình của đứa con gái nhỏ một lần nữa làm nàng gần như kiệt sức. “Một<br />
người mẹ như nàng thì bao xa nữa mới đi hết con đường mẫu tử của mình… Hình như<br />
con đường ấy quá dài, nó trải ra, thác ghềnh, sông ngòi, biển cả và tận cùng chắc chắn<br />
sẽ là một nắm đất, nhưng cho dù có là một nắm đất mệt nhoài đi nữa thì hành trình ấy<br />
chắc gì đã kết thúc” [2, tr. 294]. Người mẹ mãi mãi vẫn là người dõi theo, lo lắng và<br />
vun vén cho hạnh phúc của những đứa con mình.<br />
2.2. Hình tượng nhân vật trung tâm - sự hoá thân của nhà văn<br />
Gia đình bé mọn thu hút người đọc không phải bằng hệ thống nhân vật đông đúc, với<br />
nhiều mảnh đời khác nhau mà hạt nhân câu chuyện là Tiệp - sự hoá thân của nhà văn.<br />
Cuộc đời nhân vật/nhà văn hiện rõ qua các mối quan hệ gia đình: Tuyên (chồng Tiệp),<br />
Viết Đính (người đàn ông định mệnh của đời Tiệp), Thu Thi, Vĩnh Chuyên (con Tiệp),<br />
cô Tư Ràng (cô Tiệp). Các nhân vật không tách biệt mà gắn kết với nhau dù vẫn có sự<br />
gắn kết không hoàn hảo.<br />
Nhân vật Mỹ Tiệp hiện lên là người phụ nữ mẫn cảm, mạnh mẽ và yêu hết mình. Cuộc<br />
sống gia đình Tiệp được bắt đầu từ quyết định lấy Tuyên trong ranh giới sự sống và cái<br />
chết mỏng manh của thời buổi chiến tranh và cuộc hôn nhân không tình yêu này là căn<br />
nguyên cho mọi dang dở của tình duyên, gia đình, con cái. Bước ra từ trong khốc liệt<br />
của chiến tranh, hơn ai hết, Tiệp thấu hiểu thế nào là nỗi đau mất người thân, gia đình ly<br />
tán, dân tộc chìm trong bom đạn. Nhưng cuộc chiến không tiếng súng của thời hoà bình<br />
cũng âm ỉ, nhức buốt, trở thành nỗi ám ảnh trong lòng những người từng đi qua thời<br />
loạn lạc. Đó là hiện thực của thời kỳ bao cấp và con người dần dần bị băng hoại chân<br />
giá trị trong cái rối ren của xã hội. Giữa cái khốc liệt ấy, Tiệp đã chèo lái gia đình nuôi<br />
hai đứa con. Tuyên, chồng Tiệp, chỉ biết chạy theo những bản báo cáo thành tích, hư<br />
danh và thăng chức. Bản năng khao khát được che chở cũng như sự mẫn cảm của người<br />
đàn bà đã không cho phép Tiệp tiếp tục sống với người đàn ông thiếu tình thương, sự<br />
quan tâm, chia sẻ. Hai lần sinh con, ba lần vỡ kế hoạch, Tiệp cũng “tự chiến đấu với<br />
mọi công đoạn” [2, tr. 51] mà không có chồng bên cạnh, những chuyến công tác hay<br />
những hành động xu nịnh cấp trên của Tuyên là sự tích tụ của những hạt cát lâu ngày<br />
trở nên nặng nề. Tiệp không còn đủ sức mang vác. Trút bỏ nó đồng nghĩa với việc Tiệp<br />
thách thức với họ hàng, với Tuyên, với bản thân mình và với cả xã hội. Chia tay là cái<br />
kết tất yếu của tình yêu bị đánh cắp.<br />
<br />
TÍNH CHẤT TỰ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT GIA ĐÌNH BÉ MỌN...<br />
<br />
67<br />
<br />
Tiệp đã bỏ lại sau lưng tất cả những cố gắng vá víu, hàn gắn của gia đình, những van<br />
xin và doạ nạt của Tuyên, sự trù dập của cơ quan và cả những ánh mắt xoi mói, mỉa mai<br />
của xã hội để đến với Đính. Bên cạnh Tiệp là Viết Đính ngang tàng, cá tính, sống vì tình<br />
yêu thương xuất hiện và gắn bó với nàng suốt nửa sau của cuộc đời. Viết Đính hiện lên<br />
qua cách Tiệp miêu tả về người đàn ông định mệnh, “vẻ ngoài không giống ai ở cái xứ<br />
heo hút nầy, anh ta khoảng bốn lăm hay bốn bảy gì đó, tóc muối tiêu để dài ngổ ngáo,<br />
áo bludông màu kem sờn sờn, quần phăng suông sẫm màu, dép nhựa Lào thịnh hành và<br />
túi giả da vàng vàng đeo vai hư khoá thò từ trong ra ống điếu thuốc lào như một họng<br />
súng” [2, tr. 33]. Chính cái lạ lạ, bất cần, không giống ai của Đính có sức thu hút mạnh<br />
mẽ đối với Tiệp. Và cứ nối tiếp những lần ra Bắc vào Nam, những nhớ thương, chia cắt<br />
chỉ được bù đắp chóng vánh, vội vã, vụng trộm khi cả hai được bên nhau.<br />
Chỉ bên Đính, cảm giác yêu đương ở Tiệp mới thực sự được đánh thức. “Những câu<br />
chuyện thì thầm cùng da thịt nguyên sơ… Nàng trôi trên người Đính, như ban nãy Đính<br />
đã cẩn trọng với từng xăng – ti – mét thịt da nàng. Nàng thấy mình đúng như trong<br />
tưởng tượng, thoả mãn một cách hài hoà, sâu sắc” [2, tr. 157]. Và cũng chỉ khi bên<br />
Đính Tiệp mới thực sự thấy mình được thương yêu, chiều chuộng và được sống theo<br />
đúng nghĩa. Yếu tố tính dục được nhà văn thể hiện một cách tự nhiên. Tuy nhiên, sự<br />
phản ánh con người bản năng, tính dục trong Gia đình bé mọn không gây cho người đọc<br />
cảm giác nhà văn đang quá lạm dụng nó mà chỉ là cách người viết muốn tự mổ xẻ cả<br />
phần con và phần người trong một con người.<br />
Ngoài vai trò của người vợ, người mẹ với những vướng bận gia đình, Tiệp còn là một<br />
nhà văn. Kiểu nhân vật – nhà văn khiến cho tính chất tự thuật của tác phẩm càng đậm<br />
nét. Đây cũng là xu hướng phổ biến của tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI. Đời văn<br />
Dạ Ngân và khát vọng văn chương của Tiệp – nhân vật – tác giả trùng khít với nhau.<br />
Khát vọng ấy được Dạ Ngân tâm sự khi trả lời phỏng vấn trên Báo Văn nghệ Công an<br />
(Số 25 năm 2005): “Tôi là tạng nhà văn cái gì không ngấm vào mình, không được trải<br />
qua thì không thể viết sâu sắc” [4]. Tiệp cũng đã sống chết với sự lựa chọn nghiệp viết<br />
khi từ chối vai trò cán bộ nguồn và cái lợi được thăng chức bởi: “Văn chương đã mon<br />
men rủ rê nàng từ hồi con nhỏ Tiệp cuộn tròn cuốn tập học trong tay bước đi dưới vòm<br />
cây trong vườn, rồi nó biến thành sự nghiêm cẩn thường trực khi nàng làm một bài văn<br />
trong lớp hay lúc ôm một cuốn sách bất ngờ bắt được, cuối cùng nó chiếm lĩnh toàn bộ<br />
nàng, thiết kế số phận và đẩy nàng đi, đi mãi” [2, tr. 196]. Cũng có lúc Tiệp thấy “văn<br />
chương thật phù phiếm và vô tăm tích” [2, tr. 199] vì nó chẳng giúp gì cho sự đơn độc<br />
nặng như một ngọn núi khi nàng bị cô Ràng từ bỏ và ánh mắt né tránh của bạn bè.<br />
Nhưng văn chương cũng là định mệnh của đời Tiệp. Những sóng gió của Tiệp bắt đầu<br />
từ hệ luỵ của nghề văn, cả tình yêu với Đính cũng vậy. Tiệp quyết liệt, cực đoan, đắm<br />
đuối đến thế cũng bởi Tiệp là nhà văn - một nhà văn mẫn cảm và giàu cảm xúc.<br />
Nhân vật Tiệp - sự hoá thân của nhà văn đã bộc lộ được hết nét tính cách cũng như con<br />
người Dạ Ngân. Tìm được tình yêu khi là một thiếu phụ ba mươi tuổi, lúc về với nhau<br />
đã gần hết tuổi xanh, mười một năm yêu đương kẻ Nam, người Bắc… chính là Dạ Ngân<br />
còn chưa đi hết trên con đường đời. Bi kịch cho tình yêu bị đánh cắp chóng vánh trong<br />
<br />
68<br />
<br />
LÊ THỊ THÚY HẰNG<br />
<br />
chiến tranh được bù đắp bằng hạnh phúc muộn màng nhưng vẫn chưa trọn vẹn. Mỹ<br />
Tiệp vẫn tiếp tục trong hành trình bên Gia đình bé mọn: “Tình duyên lận đận, học hành<br />
dở ương, con cái nhỏ dại, cái vòng tròn của nàng chưa khép lại mà vòng tròn của con<br />
gái nàng đã chồng lên, cái bóng của nàng, cái bi kịch của nàng và đó cũng là cái phần<br />
thiếu hụt mà nàng luôn cảm thấy khi đi còn chưa hết con đường mẫu tử của mình” [2,<br />
tr. 295]. Kết thúc để ngỏ của cuốn tiểu thuyết cho thấy dòng đời của một con người, một<br />
gia đình vẫn mải miết trôi.<br />
2.3. Nghệ thuật kể chuyện “đánh tráo” điểm nhìn<br />
Khác với tiểu thuyết tự truyện, người kể chuyện thường ở ngôi thứ nhất, Gia đình bé<br />
mọn được trần thuật ở ngôi thứ 3, kể về Mỹ Tiệp, tạo sự khách quan, và một chút giấu<br />
mình của nhà văn. Có lúc người kể chuyện (đứng ngoài câu chuyện của nhân vật Tiệp)<br />
– từ điểm nhìn bên ngoài để nhìn nhận về Tiệp: “Nàng không thể cùng lúc lên giường<br />
với Tuyên mà vẫn thậm thụt đi dâng hiến cho người khác, đó là sự rạch ròi tối thiểu của<br />
một người đàn bà tự trọng, mà tự trọng là đàng hoàng. Vậy thì nàng sẽ bảo toàn lòng tự<br />
trọng đó và danh dự cũng từ lòng tự trọng mà ra” [2, tr. 79]. Tuy vậy, nhiều chỗ trong<br />
tác phẩm, người kể chuyện ngôi thứ ba đã chuyển điểm nhìn, trao quyền kể cho nhân<br />
vật. Cách đánh tráo chủ thể trần thuật giúp tác giả ẩn giấu được cái tôi tự thuật, tạo ra<br />
tính lưỡng phân cho tác phẩm.<br />
Từ điểm nhìn nhân vật, Tiệp không ngại miêu tả những đam mê xác thịt với Đính: “Tiệp<br />
thấy mình bạo dạn và lão luyện, sự dịu dàng của thịt da đằm thắm, ngọt ngào” [2, tr.<br />
157]; thẳng thắn trong cách lột tả nét tính cách của Tuyên: “Chợt thấy tai chồng mình<br />
nhỏ như tai chuột, theo nhân tướng học, nó cho thấy một sự nghiệp long đong dù người<br />
đó có hy sinh cả những mối quan hệ nhân nghĩa riêng tư cho nó, có thể lắm vì tính cách<br />
phẳng lỳ, nhạt nhẽo và ba phải của Tuyên” [2, tr. 59]; và triết lý về tình mẫu tử: “Không<br />
đứa con nào có thể thay thế đứa nào trong lòng mẹ, tình mẫu tử không chật nhưng nó<br />
nhiều ngăn, các đứa con bình đẳng nhau trong những cái ngăn đó mà nếu có một cái<br />
ngăn bỗng chốc trống đi thì nó sẽ sụp xuống thành một nấm mồ chứ không thể lấp đầy<br />
bằng ai khác” [2, tr. 137-138]. Có lúc người kể chuyện ngôi ba trao vai, chuyển điểm<br />
nhìn cho đứa con gái mới 14 tuổi đặt ra câu hỏi mang chính nỗi băn khoăn của Tiệp/tác<br />
giả như: “Ba có cô Tàm gì đó rồi sao ba chưa chịu ký đơn với mẹ?” [2, tr. 79]; “Mẹ ơi,<br />
bộ mẹ và ba Đính xục xịch hai đầu hoài sao? Mẹ con mình cứ tạm bợ hoài vậy sao?” [2,<br />
tr. 202]. Nhân vật - người kể chuyện lúc này không đơn thuần là kẻ toàn tri, “biết tuốt”,<br />
có quyền điều khiển câu chuyện nữa mà chính người kể chuyện cũng có dịp nhìn lại<br />
mình qua suy nghĩ, lời nói, hành động của các nhân vật khác trong truyện.<br />
Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên như chắt ra từ ruột gan, ngôn từ giản dị, không cầu kì biến<br />
tiểu thuyết Gia đình bé mọn thành câu chuyện đời tự kể. Những “nầy”, “nì”, “thiệt”,<br />
“giỡn”… đã làm nên nét nhấn nhá rất duyên cho tác phẩm. Nhà văn trở nên linh hoạt<br />
trong cách sử dụng ngôn ngữ, lối miêu tả các trạng thái cảm xúc và cảm giác. Khi là sự<br />
thấu hiểu, xa xót nao lòng: “Đứa con lắc đầu không nói nhưng trông nó già như một bà<br />
cụ trong nỗi đau khổ giữa mớ bùng nhùng ba mẹ và những mối dây từ đó mà ra” [2, tr.<br />
25]; Khi bi hài trong hoàn cảnh nhẽ ra không có gì đáng cười: “Đàn bà con gái đi thử thai<br />
<br />