intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ Công giáo trong các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tại Việt Nam

Chia sẻ: Gaocaolon6 Gaocaolon6 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

51
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích luận án là xác định và làm rõ lớp từ ngữ Công giáo trong các bản kinh nguyện ngữ liệu thông quan nghiên cứu tổng quan tình hình và xác lập cơ sở lý luận nghiên cứu; phân loại và mô tả đặc điểm ngôn ngữ của các đơn vị từ ngữ; tìm hiểu hoạt động của lớp từ ngữ Công giáo trong tiếng Việt thông qua một số sáng tác văn học Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ Công giáo trong các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tại Việt Nam

  1. 1 VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI -------------------- VŨ VĂN KHƯƠNG TỪ NGỮ CÔNG GIÁO TRONG CÁC BẢN KINH NGUYỆN CỦA CÁC GIÁO PHẬN DÒNG TẠI VIỆT NAM Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam Mã số : 9.22.01.02 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC Hà Nội, 2020
  2. 2 Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Công Đức Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Thiện Giáp Phản biện 2: PGS.TS. Phạm Hùng Việt Phản biện 3: PGS.TS. Lê Thị Lan Anh Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại: ........................................................................................................................ vào hồi ………. giờ …. ngày …. tháng ….năm………. Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: ............................................................... ........................................................................................................................ ........................................................................................................................ ........................................................................................................................
  3. 0
  4. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công giáo (CG) là một trong những tôn giáo lớn tại Việt Nam (VN), có những đóng góp đáng kể cho tiếng Việt, đặc biệt là thành quả chữ Quốc ngữ. Dầu vậy, hiện có ít nghiên cứu về từ ngữ CG trong tiếng Việt. Các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tại VN vừa có các từ ngữ giáo lí, thần học…giống như thuật ngữ, vừa có những từ ngữ sử dụng trong đời sống mang đặc trưng của cộng đồng Công giáo; vừa có những từ ngữ mang dấu vết thời kì đầu chữ Quốc ngữ, vừa có những từ ngữ hiện đại… nên có thể nói, phản ánh khá đầy đủ đặc trưng của từ ngữ CG tiếng Việt. Vì vậy, việc chọn đối tượng này góp phần làm rõ lớp từ ngữ CG tại VN là hữu lý. Kết quả nghiên cứu của luận án góp thêm vào thành quả các công trình nghiên cứu tiếng Việt nói chung, từ ngữ Công giáo tại Việt Nam nói riêng; đồng thời giúp cho việc hiểu biết và sử dụng kinh nguyện CG, hướng tới xây dựng tập ngữ vựng CG, góp phần chuẩn hóa từ ngữ CG tiếng Việt…Đây chính là những lí do để chúng tôi chọn đề tài. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích luận án là xác định và làm rõ lớp từ ngữ CG trong các bản kinh nguyện ngữ liệu. Để đạt mục đích này, luận án có các nhiệm vụ sau: Tổng quan tình hình và xác lập cơ sở lý luận nghiên cứu; Phân loại và mô tả đặc điểm ngôn ngữ của các đơn vị từ ngữ; Tìm hiểu hoạt động của lớp từ ngữ CG trong tiếng Việt thông qua một số sáng tác văn học Việt Nam. 3. Đối tượng, phạm vi và ngữ liệu nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Từ ngữ CG trong các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tại VN. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu thuộc ngành Từ vựng học, cụ thể, dưới các phương diện: sự hình thành, các đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa và hoạt động của từ ngữ CG. 3.3. Ngữ liệu nghiên cứu: Gồm 9 bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tại Việt Nam, bao gồm các giáo phận: Hải Phòng, Bùi Chu, Bắc Ninh, Thái Bình, Lạng Sơn. Bản
  5. 2 kinh sớm nhất in năm 1865, bản muộn nhất in năm 2010, trừ bản kinh Giáo phận Lạng Sơn không có năm ấn bản. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Nhằm giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, luận án chủ yếu sử dụng phương pháp khảo sát văn bản để thu thập các từ ngữ CG được sử dụng trong các văn bản tư liệu, làm đối tượng nghiên cứu; Và phương pháp miêu tả ngôn ngữ học để tìm hiểu, phân loại và miêu tả các từ ngữ CG trong các bản kinh nguyện. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Tìm ra các con đường hình thành, chỉ ra cơ chế tạo sinh, làm rõ các đặc điểm nguồn gốc và Việt hóa của các từ ngữ CG vay mượn - Qua việc nghiên cứu hoạt động của từ ngữ CG trong đời sống tiếng Việt, luận án đánh giá mối tương quan hữu cơ giữa CG với nền văn hóa – xã hội tại Việt Nam được biểu hiện qua ngôn ngữ. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lí luận: Góp phần bổ sung những vấn đề mang tính lý luận của Ngôn ngữ học qua một ngữ liệu cụ thể; góp phần làm rõ các đặc điểm ngôn ngữ của lớp từ ngữ CG trong các bản kinh nguyện ngữ liệu. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận án góp thêm một nghiên cứu cụ thể về biệt ngữ cho Việt ngữ học. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể phục vụ cho công tác nghiên cứu ngôn ngữ CG. 7. Cấu trúc luận án: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận án gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết liên quan đến đề tài nghiên cứu Chương 2: Con đường hình thành từ ngữ CG trong các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tại VN Chương 3: Đặc điểm cấu trúc và ngữ nghĩa của các từ ngữ CG trong các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tại Việt Nam Chương 4: Từ ngữ CG trong đời sống tiếng Việt.
  6. 3 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1.1. Đặt vấn đề 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.2.1. Các nghiên cứu từ ngữ CG trên thế giới Ngay đầu Công nguyên, các tài liệu giải thích khái niệm CG đã xuất hiện [63]. Nhưng sang thế kỷ XX, việc nghiên cứu từ ngữ CG mới được đề cập dưới khía cạnh học thuật của Ngôn ngữ học [138]. Ban đầu, các công trình chủ yếu theo quan điểm Từ vựng học, tìm hiểu nguồn gốc và giải thích nghĩa từ ngữ, như O.Jesperson [139], Donald M. Ayers [135]... Từ cái nhìn tôn giáo như bản chất con người, một số nhà ngữ học như Franz Boas, Edward Sapir, Benjamin Lee Whorf…đi tiên phong nghiên cứu phạm trù ngôn ngữ và tôn giáo theo quan điểm Ngôn ngữ học nhân học [36]. Các tác giả đi sâu phân tích, chứng minh mối liên hệ nội tại giữa ý nghĩa cơ bản của từ ngữ với chính trị, tôn giáo… của nền văn hoá cổ đại hiện đang còn ảnh hưởng đến nền văn hoá hiện đại. Khuynh hướng thứ ba theo chuyên ngành Ngôn ngữ học xã hội, nghiên cứu nhân tố tôn giáo can thiệp tới tiến trình chuyển biến hay ổn định của một cộng đồng ngôn ngữ, như: David Crystal [134], William Samarin [144]…. Trong đó, nghiên cứu chức năng yếu tố tôn giáo trong ngôn ngữ, có: W. Stewart [145], John F. Swayer và J.M.Y. Simpson..; nghiên cứu về vấn đề chính sách ngôn ngữ, có B. Spolsky [143]… 1.2.2. Các nghiên cứu từ ngữ CG trong nước Việc nghiên cứu từ ngữ CG tại VN không nhiều, chủ yếu dưới góc độ Từ vựng học, đặc biệt xuất hiện nhiều trong các cuốn từ điển các loại: song ngữ, đa ngữ: [23], [31]…; từ điển chuyên môn đơn ngữ: [45], [80],.. Các bài viết giải thích ý nghĩa từ ngữ CG, nhấn mạnh tới các từ ngữ CG cũ, nay ít sử dụng: [154], [155]... Các bài viết giải thích từ ngữ nhấn mạnh tới ý nghĩa thần học, khái niệm tôn giáo: [157], [148], [149]…; Một hướng khác nghiên cứu từ ngữ CG tại VN là đối tượng gián tiếp của các công trình nghiên cứu về lịch sử chữ Nôm, lịch sử chữ Quốc ngữ, lịch sử tiếng Việt dựa
  7. 4 trên các văn bản CG: [66], [34], [108], [74] … Gần đây, nhiều tác giả nghiên cứu tương quan CG với văn hoá, xã hội VN... đã gián tiếp đề cập từ ngữ CG dưới quan điểm Ngôn ngữ học nhân chủng và Ngôn ngữ học xã hội [17], [99]… Tổng quan tình hình nghiên cứu trên cho thấy chưa có công trình nào nghiên cứu về từ ngữ CG trong các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tại VN. 1.3. Cơ sở lí thuyết của việc nghiên cứu các từ ngữ CG trong các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tại VN 1.3.1. Mối quan hệ hữu cơ giữa ngôn ngữ và tôn giáo Ngôn ngữ và tôn giáo có mối tương quan hữu cơ mật thiết với nhau. Tôn giáo phải nhờ ngôn ngữ để truyền tải thông điệp, giáo nghĩa. Ngược lại, tôn giáo có giá trị làm giàu, quảng bá và bảo tồn ngôn ngữ. 1.3.2.Định vị lớp từ vựng CG trong từ vựng tiếng Việt Các từ ngữ CG nghiên cứu là các “biệt ngữ” nằm cạnh các lớp từ tiếng Việt khác như: thuật ngữ, từ nghề nghiệp, từ địa phương..; đồng thời khác với biệt ngữ của các tôn giáo khác, như: Phật giáo, Cao Đài.. 1.3.3.Quan niệm về con đường hình thành và phát triển từ vựng tiếng Việt Theo Nguyễn Thiện Giáp (2002), tiếng Việt hiện có 8 con đường làm giàu từ vựng [28]. Mai Ngọc Chừ (1997) cho rằng có hai con đường cơ bản làm xuất hiện từ mới là: dùng những yếu tố sẵn có trong ngôn ngữ để cấu tạo từ mới; và vay mượn từ ngữ [18]. 1.3.4. Quan niệm về tiếp xúc ngôn ngữ và vay mượn trong ngôn ngữ Tiếp xúc ngôn ngữ là sự giao thoa giữa hai hoặc nhiều ngôn ngữ làm phát sinh các biến đổi ngôn ngữ; Vay mượn trong ngôn ngữ là hiện tượng yếu tố của ngôn ngữ này đi vào ngôn ngữ khác, được sử dụng và được đồng hoá bởi ngôn ngữ đó. 1.3.5. Quan niệm về từ và ngữ Trong tiếng Việt, có tác giả đồng nhất từ với “tiếng”, có tác giả căn cứ vào ý nghĩa, chức năng âm tiết giống như hình vị. Có tác giả đồng ý có từ đơn, từ ghép, từ láy…; tác giả khác lại chỉ công nhận tiếng Việt có từ đơn.
  8. 5 Ngữ, tổ hợp, kết cấu hay cụm từ là sự kết hợp các từ thành nhóm từ có quan hệ với nhau về nghĩa từ vựng và ngữ pháp.” [124]. 1.3.6. Quan niệm về nghĩa của từ và sự phát triển nghĩa của từ - Nghĩa của từ “là toàn bộ nội dung tinh thần xuất hiện trong suy nghĩa của một người bản ngữ khi người đó tiếp xúc với một hình thức âm thanh ngôn ngữ nhất định” [49]. - Sự phát triển nghĩa của từ bao gồm hiện tượng mở rộng nghĩa, thu hẹp nghĩa, chuyển nghĩa ẩn dụ và chuyển nghĩa hoán dụ. 1.3.7. Lí thuyết định danh Định danh là sự cố định cho một kí hiệu ngôn ngữ một khái niệm – biểu niệm phản ánh những đặc trưng nhất định của một biểu vật – các thuộc tính, phẩm chất và quan hệ của các đối tượng và quá trình thuộc phạm vi vật chất và tinh thần, nhờ đó các đơn vị ngôn ngữ tạo thành những yếu tố nội dung của giao tiếp ngôn từ.” [98]. 1.3.8. Sơ lược về CG và CG tại VN CG ra đời ở vùng Tiểu Á, nhưng lại phát triển mạnh ở châu Âu từ sau năm 313 [57]. Khoảng đầu thế kỷ XVI, CG vào VN và thành lập hai giáo phận đầu tiên năm 1659. Năm 1693, Giáo phận Đông Đàng Ngoài được trao cho Dòng Đa Minh phụ trách nên gọi là Giáo phận Dòng, nay gồm năm giáo phận: Hải Phòng, Bùi Chu, Bắc Ninh, Thái Bình, Lạng Sơn. 1.3.9. CG với văn hóa Việt Trong cách thế riêng của mình, CG tại VN đã có những đóng góp vào văn hoá Việt, nhất là liên quan đến phát minh chữ Quốc ngữ. 1.4. Tiểu kết Luận án trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề lý thuyết như: Mối quan hệ hữu cơ giữa ngôn ngữ và tôn giáo; Định vị lớp từ ngữ CG trong hệ thống từ vựng tiếng Việt nói chung; Quan niệm về con đường hình thành và phát triển từ vựng tiếng Việt, về tiếp xúc ngôn ngữ, về từ và ngữ… làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài. Cuối cùng, luận án trình bày sơ lược CG và CG tại VN, mối tương quan giữa CG với nền văn hoá– văn học Việt Nam làm bối cảnh của đối tượng nghiên cứu.
  9. 6 Chương 2: CON ĐƯỜNG HÌNH THÀNH TỪ NGỮ CG TRONG CÁC BẢN KINH NGUYỆN CỦA CÁC GIÁO PHẬN DÒNG TẠI VN 2.1. Đặt vấn đề 2.2. Con đường vay mượn từ ngữ CG nước ngoài 2.2.1. Lí do của việc vay mượn từ vựng CG nước ngoài CG chính thức vào VN từ khoảng năm 1533. Trước thời gian này, tại VN, chưa có các đơn vị từ vựng chuyển tải các khái niệm của CG. Vì vậy, các nhà truyền giáo phải mượn các khái niệm CG trong tiếng mẹ đẻ của mình và trong tiếng La Tinh là ngôn ngữ chính thức của Giáo Hội. 2.2.2. Nguồn gốc các từ ngữ CG vay mượn 2.2.2.1. Nguồn gốc từ tiếng Do Thái: Các từ ngữ gốc Do Thái thường được vay mượn qua một ngôn ngữ trung gian như tiếng La Tinh, Bồ Đào Nha hoặc Tây Ban Nha, chẳng hạn: Tội Ađam, Amen, Alleluia.. 2.2.2.2. Nguồn gốc Hy Lạp: Kinh Thánh được viết bằng tiếp Do Thái và tiếng Hy Lạp. Đây là lí do nhiều từ ngữ trong Kinh Thánh sau này được sử dụng rộng rãi trong Giáo Hội có nguồn gốc Hy Lạp, ví dụ: ẩn tu, cánh chung,... 2.2.2.3. Nguồn gốc La Tinh: Tiếng La Tinh là ngôn ngữ chính thức của Giáo hội CG nên hầu hết các khái niệm trong CG đều được thể hiện cách chính thức bằng ngôn ngữ này, ví dụ: Ảnh tượng thánh, Ấn tích, Bí tích… 2.2.2.4. Những từ ngữ CG Việt Nam vay mượn mang dấu vết tiếng Bồ Đào Nha: ví dụ: Sang-ta Câu-rút.. 2.2.2.5. Những từ ngữ CG Việt Nam vay mượn mang dấu vết tiếng Tây Ban Nha: ví dụ: Thánh Aphô-tô-li, A-r-can-khê-lô, Bao-ti-si-mô... 2.2.2.6. Từ ngữ CG Hán Việt: Có 257/1132 đơn vị (23%) nhưngchỉ có 59 biệt ngữ CG Hán Việt tương đương với biệt ngữ CG trong tiếng Hán hiện đại (đối chiếu dựa trên âm đọc Hán Việt). 2.2.3. Cách thức tiếp nhận từ ngữ CG vay mượn 2.2.3.1. Phương thức giữ nguyên dạng từ ngữ trong ngôn ngữ nguồn: Có số lượng từ ngữ được tiếp nhận chiếm tỉ lệ rất thấp, chỉ có 40/1132 từ ngữ CG. 2.2.3.2. Phương thức phiên âm từ ngữ trong ngôn ngữ nguồn: Có 103/1132
  10. 7 từ, (9,09%). Phần lớn các từ ngữ phiên âm gốc Ấn Âu biểu lộ tính đa tiết. 2.2.3.3. Phương thức sao phỏng và dịch nghĩa từ ngữ trong ngôn ngữ nguồn: có 689/1132 từ ngữ, chiếm hơn 60,86%, biểu thị theo bảng dưới đây: Bảng 2.1: Tỉ lệ các tương đương dịch từ ngữ CG La Tinh-Việt Tỉ lệ Số từ ngữ CG Số từ ngữ Số phần trăm tương đương La Tinh CG Việt La Tinh 1:1 Việt 345 345 50% La Tinh 1:2 Việt 79 158 23% La Tinh 1:3 Việt 28 84 12% La Tinh 1:4 Việt 10 40 5,9% La Tinh 1:5 Việt 5 25 3,6% La Tinh 1:6 Việt 5 30 4,4% La Tinh 1:7 Việt 1 7 1,1% Tổng số 473 689 100% Bảng biểu hiện: đơn vị càng có nhiều từ tương đương dịch, thì tỉ lệ càng giảm, cho thấy đối tượng có xu hướng tự chuẩn hoá dần trong sử dụng. 2.3. Con đường tự tạo các từ ngữ mới 2.3.1. Cách dùng hình thức mới để diễn đạt một nghĩa mới Cách hình thành từ mới này chủ yếu bằng các phương thức: Tạo một vỏ âm thanh mới gọi tên một khái niệm mới hình thành; Phương thức rút gọn; Phương thức vừa ghép vừa rút gọn. 2.3.2. Cách dùng hình thức có sẵn để diễn đạt một nghĩa mới \ Đây chính là việc hình thành từ mới qua việc cấp thêm cho từ ngữ tiếng Việt có sẵn một nội dung CG nào đó, tương ứng phương thức mở rộng nghĩa của từ, ví dụ: Chắp tay: 1. Úp hoặc nắm hai bàn tay vào nhau. (Nghĩa thông thường). 2. Hai bàn tay úp vào nhau, ngón cái phải đè lên ngón cái trái theo hình Thánh giá và để trước ngực. (nghĩa biệt ngữ CG). 2.4. Tiểu kết Luận án đã đề cập các con đường hình thành các từ ngữ CG trong các ngữ liệu. Con đường vay mượn là con đường quan trọng và chiếm đa số các
  11. 8 đơn vị từ vựng. Đặt trong sự đối chiếu, chúng tôi nhận thấy biệt ngữ Phật giáo vay mượn có nguồn chủ yếu từ các ngôn ngữ Á Đông, biệt ngữ CG lại chủ yếu vay mượn từ các ngôn ngữ phương Tây. Con đường tự tạo từ mới với nhiều phương thức có thể chia ra làm hai loại cấu tạo: loại dùng hình thức mới để diễn đạt nội dung mới và loại dùng hình thức, chất liệu có sẵn để diễn đạt nội dung mới, hay chính là phương thức tạo từ mới bằng phát triển nghĩa. Chương 3: ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ NGỮ NGHĨA CỦA CÁC TỪ NGỮ CÔNG GIÁO TRONG CÁC BẢN KINH NGUYỆN CỦA CÁC GIÁO PHẬN DÒNG TẠI VIỆT NAM 3.1. Đặt vấn đề 3.2. Đặc điểm cấu trúc của các từ ngữ CG trong các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tại VN 3.2.1.Đặc điểm từ đơn CG 3.2.1.1. Khái quát đặc điểm từ đơn: Luận án phân loại được 95/1132 từ đơn (8,39%). Tỉ lệ này thấp hơn rất nhiều con số 15,05% từ đơn trong khối từ vựng Phật giáo tiếng Việt [60]. 3.2.1.2. Từ đơn CG xét dưới góc độ số lượng âm tiết: Theo kết quả thống kê, từ đơn đa tiết (62,1%) có số lượng gần gấp đôi từ đơn một âm tiết (37,9%). Điều này được giải thích là do số các từ đơn CG vay mượn gốc Ấn Âu chiếm đa số. 3.2.1.3. Từ đơn CG xét dưới góc độ từ loại: Dựa vào quan niệm Ngữ pháp truyền thống về từ loại, chúng tôi xác định đặc điểm từ loại của các từ ngữ như sau: Danh từ chiếm 67,36%, Động từ chiếm 27,36%, Tính từ chiếm 3,15%. Như thế, tỉ lệ của danh từ là trổi vượt, cho thấy hệ thống tên gọi các khái niệm, thực thể chiếm phần lớn trong kinh nguyện. 3.2.1.4. Từ đơn CG xét dưới góc độ nguồn gốc các đơn vị cấu tạo:
  12. 9 Bảng 3.4. Đặc điểm nguồn gốc đơn vị cấu tạo từ đơn CG: Nguồn gốc yếu tố cấu tạo Số lượng Tỷ lệ (%) từ đơn Công giáo Thuần Việt 24 25,26 Hán Việt 20 21,05 Ấn Âu 51 53,68 Tổng số 95 100,00 Theo Nguyễn Văn Khang (2013) có khoảng 4000 từ gốc Pháp, Anh và khoảng 60-70% từ gốc Hán trong tiếng Việt [51]. Trong khi đó, tỉ lệ các đơn vị cấu tạo gốc Hán Việt trong nhóm từ này chỉ hơn 21%, nhưng gốc Ấn Âu chiếm 53,68%. Điều này có thể được lí giải do đặc trưng quá trình tiếp xúc ngôn ngữ trong sinh hoạt của cộng đồng CG tại VN. 3.2.2. Đặc điểm từ ghép CG 3.2.2.1. Khái quát đặc điểm từ ghép CG Bảng 3.5. Đặc điểm chung của từ ghép Công giáo tiếng Việt Từ ghép Công giáo Số lượng Tỷ lệ (%) Kết cấu Chính phụ 569 77,79 Đẳng lập 163 23,21 Từ loại Danh từ 515 73,40 Động từ 154 21,93 Tính từ 33 4,46 Nguồn gốc Thuần Việt 337 48,01 yếu tố cấu tạo Hán Việt 119 16,90 Hỗn hợp 246 35,04 Tổng số 720 100,00 3.2.2.2. Đặc điểm quan hệ từ pháp của các từ ghép CG: Luận án thống kê được 163 từ ghép đẳng lập (23,21%), 569 từ ghép chính phụ (77,79%) trong tổng số từ ghép.
  13. 10 3.2.2.3. Đặc điểm từ loại của các từ ghép CG: Trong số từ ghép CG có 33 tính từ (4,46%), 154 động (21,93%), 515 danh từ (73,40%) . 3.2.2.4.Đặc điểm nguồn gốc các yếu tố cấu tạo từ ghép CG: Từ ghép có các yếu tố cấu tạo thuần Việt có tỉ lệ trổi vượt với 337/702 đơn vị (chiếm 48,01%). Từ ghép Hán Việt: 119/702 (16,9%). Từ ghép lai: 246702 từ (35,04%). 3.2.3. Đặc điểm các tổ hợp định danh CG 3.2.3.1. Lý do hình thành các tổ hợp định danh CG: Khi hệ thống các từ không đủ biểu thị các khái niệm thì các đơn vị ngôn ngữ mới được tạo ra trên cơ sở những từ đã có để gọi tên chúng. Dựa vào đặc điểm cấu tạo, chúng tôi gọi chúng là các tổ hợp định danh. 3.2.3.2. Đặc điểm từ loại và mô hình cấu tạo của các tổ hợp định danh CG: Có 302/358 tổ hợp định danh có danh từ làm trung tâm (84,35%); 37 tổ hợp có động từ làm trung tâm (10,33%) chỉ các hành động cử hành nghi thức; 19 tổ hợp có tính từ làm trung tâm (5,30%), chỉ các sắc thái hay tính chất được sử dụng mang tính đặc trưng trong sinh hoạt cộng đồng CG. 3.2.3.3. Đặc điểm nguồn gốc các yếu tố cấu tạo của các ngữ định danh CG: Trong 302 tổ hợp có danh từ làm trung tâm, 103 đơn vị có cấu tạo bằng các yếu tố thuần Việt, chiếm 34,10%; 29 đơn vị có các yếu tố cấu tạo Hán Việt, chiếm gần 9,61%; 169 đơn vị được cấu tạo bằng các yếu tố hỗn hợp, chiếm 55,96% Không có yếu tố cấu tạo nào của các tổ hợp định danh mà thành phần trung tâm là động từ và tính từ có nguồn gốc Ấn Ấu. Tỉ lệ này cho thấy xu hướng sử dụng thuần Việt cao của cộng đồng CG khi không chịu áp lực của việc vay mượn khái niệm tôn giáo. 3.3. Đặc điểm ngữ nghĩa của các từ ngữ CG trong các bản kinh nguyện của các giáo phận Dòng tại VN 3.3.1. Các đặc trưng cơ bản làm cơ sở định danh của từ ngữ CG 3.3.1.1. Đặc trưng về nội dung ý nghĩa việc cử hành lễ giáo:
  14. 11 Bao gồm tên gọi các Bí tích, kinh nguyện, các nghi thức trong Phụng vụ và thực hành đạo đức bình dân, các cách thức cầu nguyện…. 3.3.1.2. Đặc trưng về chủ thể cử hành lễ giáo: Chủ thể cử hành trong CG đồng nhất với người cử hành, ví dụ: Cha giải tội, Chánh tế, Thày cả,… 3.3.1.3. Đặc trưng về hành động hay cử chỉ cử hành lễ giáo: Trong lễ giáo CG, có những cử chỉ đi kèm theo lời nói; có những cử chỉ có tính biểu trưng, ví dụ: Ăn năn, Ăn năn đền tội, Ăn năn tội… 3.3.1.4. Đặc trưng về đối tượng hướng đến của cử hành lễ giáo: Đối tượng tối cao của mọi cử hành lễ giáo CG là Thiên Chúa. Bên cạnh đó, Đức Mẹ và các thánh đôi khi cũng được hướng tới: Chúa Dêu Cha, Đức Mẹ… 3.3.1.5. Đặc trưng về nơi cử hành lễ giáo: Nơi thờ tự, cơ sở đào tạo, cứ trú… của mỗi tôn giáo có nét đặc thù khác nhau: nhà thờ, nhà chung,.. 3.3.1.6. Đặc trưng về các yếu tố vật chất trong cử hành lễ giáo: Các yếu tố vật chất trong cử hành lễ giáo CG luôn mang tính chất biểu tượng, ví dụ: Hương lửa biểu trưng cho lời cầu nguyện tỏa bay trước tôn nhan Chúa. … 3.3.1.7. Đặc trưng về yếu tố thời gian cử hành lễ giáo: Việc thờ phượng CG được sắp xếp được trải dài theo các nhịp điệu của thời gian, gọi là thời gian phụng vụ. Ví dụ: giờ kinh sáng, tuần cấm phòng, mùa Chay, năm thánh… 3.3.1.8. Đặc trưng về mức độ tinh thần trong cử hành lễ giáo: Chúng tôi xác định được các từ ngữ CG định danh dựa trên cơ sở đặc trưng về mức độ tinh thần trong cử hành lễ giáo, như: sốt mến, sốt sáng, Sảng sót, Sốt mến… 3.3.2. Đặc điểm phân loại theo phạm trù ngữ nghĩa của từ ngữ CG Căn cứ vào nội dung ngữ nghĩa của các đơn vị từ vựng, tác giả phân loại các phạm trù ngữ nghĩa như Bảng 3.6. dưới đây:
  15. 12 Từ ngữ Công giáo theo phạm trù ngữ nghĩa Khái Phụng Tên gọi Cơ cấu niệm Thông Tổng Nhóm từ vụ, lễ TC, thần, tổ chức, nghi triết lí, tư thường số thánh chức sắc tưởng Số lượng 460 280 146 169 77 1132 Tỉ lệ 40,64% 24,73% 12,90% 14,93% 6,80% 100% 3.3.2.1. Các từ ngữ phụng vụ và đạo đức bình dân: chiếm nhiều nhất với 460/1132 đơn vị (40,64%), ví dụ: Alleluia, Amen, Ăn năn cách trọn, …. 3.3.2.2. Các từ ngữ chỉ các khái niệm triết lí, tư tưởng CG: có 169/1132 đơn vị (14,93%), như: Ánh sáng, Ba thù, Bảy mối tội đầu, …. 3.3.2.3. Các từ ngữ chỉ tên gọi Thiên Chúa, các thần, các thánh: có 146/1132 từ ngữ, chiếm 12,90% tổng số từ ngữ nghiên cứu, ví dụ: Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Dêu Cha, Tổng lãnh thiên thần… 3.3.2.4. Các từ ngữ chỉ cơ cấu tổ chức và chức bậc trong giáo hội CG: Có 280/1132 từ ngữ, chiếm 24,73%, ví dụ: Yghê, Địa phận, Giáo xứ… 3.3.2.5. Các từ ngữ thông thường sử dụng trong cộng đồng CG: có 77/1132 đơn vị, (chiếm 6,80%), ví dụ: Ăn lễ, Ăn năn trở lại, Bề ngoài… 3.4. Tiểu kết Trên bình diện cấu trúc, từ ngữ CG trong các bản kinh nguyện được cấu tạo theo các phương thức cấu tạo từ tiếng Việt, gồm có từ đơn, từ ghép và các tổ hợp định danh. Tỉ lệ từ ghép là đa số (77,74%). Phương thức ghép giúp cho việc vay mượn và việc sáng tạo từ ngữ được thực hiện, đáp ứng nhu cầu sử dụng của cộng đồng CG. Luận án cho thấy: từ đơn gốc Ấn Âu chiếm tỉ lệ cao nhất (50,52%). Đây là các từ đơn nguyên sinh, biểu hiện độ lớn của vốn vay mượn trực tiếp từ các ngôn ngữ này. Ngược lại, các từ ghép và các tổ hợp định danh thuần Việt và ghép lai có tỉ lệ cao (hơn 48%) là phương thức cấu tạo từ của tiếng Việt để tạo nên khối lượng từ thứ sinh.
  16. 13 Trên bình diện ngữ nghĩa, luận án tìm ra 8 đặc trưng cơ bản làm cơ sở cho việc định danh và 5 phạm trù ngữ nghĩa của các từ ngữ CG trong các bản kinh nguyện nghiên cứu. Chương 4: TỪ NGỮ CG TRONG ĐỜI SỐNG TIẾNG VIỆT 4.1. Đặt vấn đề 4.2. Các tác động Việt hóa lớp từ ngữ CG vay mượn 4.2.1. Ảnh hưởng của cấu trúc tiếng Việt đến các từ ngữ CG vay mượn về mặt ngữ âm và chữ viết: Gồm những tác động đơn âm tiết hóa, ví dụ: Deus (Thiên Chúa) - Dêu..; Tác động thêm thanh điệu, ví dụ: Cruz - Câu rút (Thánh giá…; Tác động Việt hóa tổ hợp phụ âm, ví dụ: Bispo - Vítvồ; Tác động Việt hóa thành phần nguyên âm: nguyên âm mũi được xử lí thành vần “ông” hoặc “ong”. Ví dụ: Atrição /atrisõ/ - Ăn năn tội a-tri-song; Bênção - Phép Biên-song… 4.2.2. Ảnh hưởng của cấu trúc tiếng Việt đến các từ ngữ CG vay mượn về mặt ngữ nghĩa: Chúng tôi nhận thấy có những từ ngữ không thay đổi về ý nghĩa tôn giáo, ví dụ: cha xứ, đất thánh, Thiên Chúa, dòng…; nhưng cũng có những từ ngữ thay đổi ý nghĩa. Ví dụ: Xưng tội vốn là biệt ngữ CG có nghĩa “người giáo dân kể tội với linh mục trong một nghi thức tôn giáo để được tha tội” thành “tự kể tội với người khác (không phải trong nghi thức tôn giáo và không phải để được tha tội… 4.3. Sự tham gia vào tiếng Việt toàn dân của các từ ngữ CG thể hiện qua văn học VN 4.3.1. Sự tham gia vào tiếng Việt toàn dân của các từ ngữ CG thể hiện qua tục ngữ, ca dao tiếng Việt 4.3.1.1. Sự tham gia của từ ngữ CG trong các ca dao tục ngữ về lao động sản xuất: Những câu mang đặc trưng CG dễ dàng nhận ra.
  17. 14 Lễ Rosa thì tra hạt bí Lễ Các thánh thì đánh bí ra. 4.3.1.2. Sự tham gia của từ ngữ CG trong các câu ca dao – tục ngữ về tình yêu, hôn nhân, gia đình Amen, lạy Đức Chúa Trời Xin cho bên Đạo, bên Đời lấy nhau. 4.3.1.3.Sự tham gia của từ ngữ CG trong các ca dao, tục ngữ về đời sống tôn giáo Có thực mới vực được Đạo. Đi Đạo lấy gạo mà ăn 4.3.1.4.Sự tham gia của từ ngữ CG trong các ca dao, tục ngữ về đời sống xã hội, cách đối nhân xử thế Em như một đóa hoa đào Mẹ cha muốn phước bắt vào nhà tu Trăm nghìn lạy Chúa Giêsu Nhà tu đừng hóa nhà tù giam em. Chúng ta nhận thấy có các từ ngữ vốn là các biệt ngữ CG trong các câu ca dao trên đã vượt qua ranh giới của ngôn ngữ phụng vụ, đi vào trong ngôn ngữ sinh hoạt đời thường ở một mức độ “phi biệt ngữ hóa” khá cao là ca dao – tục ngữ. 4.3.2. Sự tham gia vào tiếng Việt toàn dân của các từ ngữ CG thể hiện qua văn học viết Qua khảo sát một số tác phẩm được lựa chọn, luận án nhận thấy các biệt ngữ CG tham gia vào tiếng Việt toàn dân trong nhiều phạm vi: Các từ ngữ chỉ hệ thống cấp bậc, chức danh trong CG; Các từ ngữ chỉ hệ thống các cấp hành chính và đoàn thể trong CG; Các từ ngữ chỉ hệ thống các nghi lễ và sinh hoạt phụng tự CG; Các từ ngữ chỉ hệ thống các cơ sở tôn giáo của Giáo hội CG; Nhóm từ ngữ CG chỉ các đồ vật phụng tự CG; Nhóm từ ngữ CG chỉ hệ thống khái niệm triết lí, tư tưởng CG trong đời sống tiếng Việt; Nhóm từ ngữ chỉ sinh hoạt thông thường của cộng đồng CG
  18. 15 4.4.Tiểu kết Dựa trên mối quan hệ hữu cơ giữa ngôn ngữ và tôn giáo, tác giả bàn về hoạt động của từ ngữ CG trong đời sống tiếng Việt, dưới các mặt sau: Sự tác động của tiếng Việt vào lớp từ ngữ CG vay mượn gọi là quá trình Việt hóa lớp từ ngữ CG gốc Ấn Âu. Các từ ngữ này chịu tác động trên cả ba mặt: ngữ âm, ngữ nghĩa và chữ viết. Sự tham gia hoạt động của từ ngữ CG trong đời sống tiếng Việt chính là quá trình phi biệt ngữ hoá các từ ngữ CG. Từ ngữ CG được xem như các biệt ngữ, vốn chỉ sử dụng trong một cộng đồng giao tiếp đặc biệt đã vượt ra khỏi ranh giới chuyển hóa vào tiếng Việt toàn dân, cộng tác trong việc làm tròn sứ mệnh giao tiếp của tiếng Việt toàn dân, vì đều là một bộ phận của tiếng Việt nói chung. Xu thế này cho thấy cộng đồng CG tại Việt Nam không phải là một cộng đồng khép kín nhưng là một cộng đồng mở như tính chất CG (phổ quát) của nó. KẾT LUẬN Nghiên cứu về từ ngữ Công giáo trong tiếng Việt hiện nay chưa nhiều. Luận án này nằm trong hoàn cảnh chung như thế nên chắc chắn còn nhiều hạn chế. Với đối tượng từ ngữ Công giáo trong phạm vi tư liệu là các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tại Việt Nam, tác giả mong muốn trước tiên, đưa ra cái nhìn tổng quan về nhóm từ ngữ này, sau đó cố gắng phản ánh phần nào đặc điểm chung của lớp từ ngữ Công giáo tại Việt Nam mà chưa có nhiều công trình nghiên cứu. Trong mục đích như thế và với các phương pháp nghiên cứu chuyên biệt chủ yếu như: Phương pháp khảo sát văn bản, phương pháp miêu tả ngôn ngữ học; cùng với các thủ pháp: Thủ pháp phân tích chức năng, thủ pháp phân tích cấu trúc, thủ pháp phân tích thành tố nghĩa, thủ pháp phân tích quy chiếu, thủ pháp thống kê và phân loại … luận án đã khảo sát, xác định được các đơn vị từ vựng là từ ngữ Công giáo trong sự phân biệt với các lớp từ ngữ khác; phân loại và mô tả các đặc
  19. 16 điểm ngôn ngữ học của các đơn vị từ ngữ Công giáo; nghiên cứu hoạt động của các từ ngữ Công giáo này trong đời sống tiếng Việt nói chung. Cụ thể, luận án có được các kết quả nghiên cứu sau: 1. Trên những cơ sở lí thuyết về từ vựng ngữ nghĩa nói chung và từ vựng ngữ nghĩa trong mối quan hệ với tôn giáo, luận án định vị các từ ngữ Công giáo trong các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng nói riêng, lớp từ ngữ Công giáo tại Việt Nam nói chung trong hệ thống tiếng Việt. Công tác định vị này là quan trọng vì cho thấy vị trí cũng như sự hiện diện của một lớp từ ngữ tôn giáo cụ thể trong tiếng Việt, mà trước đó chưa có ai làm. Việc định vị này bước đầu định hình hay xác định các đặc trưng, tiêu chí cho đối tượng nghiên cứu không bị lẫn với từ ngữ của các lớp, các phạm vi khác. 2. Dưới cái nhìn lịch đại, các từ ngữ Công giáo trong các bản kinh nguyện của các giáo phận Dòng tại Việt Nam nói riêng, lớp từ ngữ Công giáo tiếng Việt nói chung trải qua một quá trình hình thành và phát triển gắn liền với quá trình du nhập và phát triển của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Luận án nghiên cứu và xác định được hai con đường hình thành nên nhóm từ ngữ này là con đường vay mượn và con đường tự tạo từ ngữ mới. Con đường vay mượn là con đường quan trọng, chiếm đa số (khoảng 78%) các đơn vị từ vựng, do nhu cầu truyền bá giáo nghĩa bắt buộc phải du nhập các khái niệm của Công giáo vào Việt Nam, mà trước đó chưa có. Việc vay mượn diễn ra dưới hai phương diện: Vay mượn cả hình thức và nội dung hoặc chỉ vay mượn nội dung. Việc vay mượn thứ nhất cho kết quả là những từ ngữ được tiếp nhận bằng phương thức nguyên dạng và phương thức phiên âm. Việc vay mượn thứ hai cho kết quả là các từ ngữ được tiếp nhận qua phương thức sao phỏng. Phần lớn các từ ngữ Công giáo vay mượn trong tiếng Việt đều có thể xác định được nguồn gốc sâu do hệ thống ngữ vựng Công giáo nói chung được đặt nền tảng trên ba ngôn ngữ gắn liền với việc hình thành tôn giáo này là tiếng Do Thái, tiếng Hy Lạp và tiếng La Tinh.
  20. 17 Trong đó, tiếng Do Thái và Hy Lạp là ngôn ngữ của Thánh Kinh. Tiếng Hy Lạp và La Tinh là ngôn ngữ của Thần học, Triết học và Phụng vụ Công giáo. Đặc biệt, tiếng La Tinh là ngôn ngữ điển chế của Giáo hội Công giáo. Ngoài ra, luận án cũng xác định được nguồn gốc trực tiếp của những từ ngữ Công giáo tiếng Việt là các ngôn ngữ trung gian của các thừa sai truyền giáo như tiếng Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha dựa vào cách đọc giống các ngôn ngữ này của những đơn vị từ ngữ. Do tầm quan trọng của cách đọc Hán Việt trong tiếng Việt nên luận án cũng bàn về các đơn vị loại này. Tác giả cũng so sánh từ ngữ Công giáo có cách đọc Hán Việt với các từ ngữ Công giáo tiếng Trung Hoa để thấy được các liên hệ. Kết quả so sánh gây ngạc nhiên, đó là lớp từ vựng này của hai ngôn ngữ lân cận hầu như không có sự liên hệ với nhau. Điều này phù hợp với tính độc lập trong lịch sử truyền đạo Công giáo vào Trung Quốc và vào Việt Nam. Con đường tự tạo từ ngữ mới hình thành lớp từ ngữ Công giáo trong các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tại Việt Nam xuất hiện, phần nào cho thấy tính tự chủ, sự trưởng thành và chiều sâu hội nhập văn hoá của tôn giáo này tại Việt Nam. Trong quá trình phát triển, cộng đồng Công giáo tại Việt Nam sáng tạo các thực thể và khái niệm mới mẻ nên sự vay mượn không thể đáp ứng, buộc cộng đồng bản ngữ phải tạo cho mình những tên gọi mới để định danh chúng. Con đường tự tạo từ mới có thể được chia ra làm hai loại cấu tạo: Loại dùng hình thức mới để diễn đạt nội dung mới bao gồm phương thức tạo một vỏ âm thanh mới gọi tên một khái niệm mới hình thành, phương thức ghép tạo từ mới, phương thức rút gọn tạo từ mới, phương thức vừa rút gọn vừa ghép để tạo từ mới…; Và, loại dùng hình thức, chất liệu có sẵn để diễn đạt nội dung mới, chính là phương thức tạo từ mới bằng phát triển nghĩa. Đối với các từ ngữ Công giáo trong các bản kinh nguyện được khảo sát, luận án cho thấy việc tạo từ mới cho lối này chủ yếu là phương thức cấp thêm ý nghĩa mới cho một từ ngữ có sẵn trong tiếng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1