
để tồn tại, phát triển, xâm lấn, di căn và khả năng kháng lại các
liệu pháp điều trị. Bên cạnh đó, adenosine kích thích hoạt động
sản xuất và chế tiết VEGF từ tế bào bướu, từ đó để thúc đẩy các
tế bào nội mạc mạch máu phân chia, di chuyển và làm tăng sinh
mạch. Ngoài ra, VEGF cũng có khả năng làm suy giảm chức
năng của các tế bào miễn dịch. Kết quả từ những hoạt động này
đã cung cấp cho bướu nguồn dinh dưỡng cần thiết để tồn tại, phát
triển và tạo điều kiện thuận lợi để các tế bào di căn. Hơn nữa,
liệu pháp nhắm trúng đích kháng yếu tố tăng sinh mạch VEGF,
liệu pháp ức chế CD73 cho một số kết quả khả quan.
Trong nước, phần lớn các nghiên cứu về ung thư TNB tập
trung vào lâm sàng, giải phẫu bệnh và điều trị, chưa có nhiều
nghiên cứu bệnh học phân tử. Đến nay, chưa có nghiên cứu về
tiên lượng ung thư TNB.
Xuất phát từ những vấn đề trên, nhằm tìm kiếm yếu tố hỗ
trợ cho chẩn đoán, điều trị và tiên lượng ung thư TNB, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu “Biểu hiện Ki-67, VEGF và CD73 liên
quan bệnh học và tiên lượng ung thư biểu mô tuyến nước bọt”.
Nghiên cứu này trả lời câu hỏi: Tỉ lệ tăng biểu hiện Ki-67, VEGF
và CD73 trong ung thư TNB ở nước ta là bao nhiêu và có liên
quan với lâm sàng, giải phẫu bệnh và tiên lượng hay không?
B. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Khảo sát tỉ lệ biểu hiện Ki-67 và mối liên quan với lâm sàng,
giải phẫu bệnh của ung thư TNB.
2. Khảo sát tỉ lệ biểu hiện quá mức VEGF, CD73 và mối liên
quan với lâm sàng, giải phẫu bệnh của ung thư TNB.