intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và Luật hành chính: Pháp luật về quân sự quốc phòng địa phương - Từ thực tiễn quận Ba Đình, thành phố Hà Nội

Chia sẻ: Tuhai999 Tuhai999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

56
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn được hoàn thành với các nội dung được trình bày như sau: Cơ sở lý luận của pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương; Thực trạng pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương và thực tiễn thực hiện ở quận Ba Đình, thành phố Hà Nội; Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương từ thực tiễn quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và Luật hành chính: Pháp luật về quân sự quốc phòng địa phương - Từ thực tiễn quận Ba Đình, thành phố Hà Nội

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA BÙI MINH TIẾN PHÁP LUẬT VỀ QUÂN SỰ, QUỐC PHÒNG ĐỊA PHƯƠNG - TỪ THỰC TIỄN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành : Luật hiến pháp và luật hành chính Mã số : 8 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐÀM BÍCH HIÊN HÀ NỘI - NĂM 2018 1
  2. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: TS. Đàm Bích Hiên Phản biện 1: PGS.TS Vũ Đức Đán Phản biện 2: PGS.TS Nguyễn Minh Mẫn Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia. Địa điểm: Phòng nhà A, Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ Học viện Hành chính Quốc gia. Số: 77 - Đường Nguyễn Chí Thanh - Quận Đống Đa - TP. Hà Nội. Thời gian: vào hồi giờ phút ngày tháng năm 2018. Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia. 2
  3. MỞ ĐẦU .L Công tác quân sự, quốc phòng địa phương là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, củng cố quốc phòng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà trực tiếp là cấp uỷ địa phương đối với công tác quân sự, quốc phòng địa phương là nhân tố cơ bản, hàng đầu quyết định thắng lợi của công tác quân sự, quốc phòng địa phương. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, công tác quân sự, quốc phòng địa phương vừa là vấn đề cơ bản lâu dài, vừa là vấn đề mang tính cấp thiết. Bởi vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đã có sự phát triển cả về nội dung và yêu cầu. Sự nghiệp đó đang diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp khó lường, đặc biệt cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc diễn ra gay go, quyết liệt, phức tạp. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ra sức đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, kết hợp dùng vũ lực răn đe, sẵn sàng can thiệp vũ trang khi có thời cơ hòng xoá bỏ chủ nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản ở nước ta. Quận Ba Đình là địa bàn có vị trí đặc biệt quan trọng, được Chính phủ xác định là Trung tâm hành chính - chính trị quốc gia, nơi tập trung các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, là địa bàn nhạy cảm về chính trị và cũng là trọng điểm chiến lược “Diễn biến hoà bình” kết hợp với Bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Đây còn là trung tâm ngoại giao, đối ngoại. Ba Đình có trụ sở nhiều tổ chức quốc tế, sứ quán các nước, nơi thường xuyên diễn ra các hội quan trọng của Nhà nước, quốc tế và khu vực. Với vị trí chiến lược, tầm quan trọng đặc biệt của quận Ba Đình, Ban Chỉ huy quân sự quận Ba Đình xác định vai trò lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác quân sự quốc phòng địa phương vừa là yêu cầu tất yếu khách quan, vừa là vấn đề cấp thiết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ban chỉ huy quân sự Quận Ba Đình là đơn vị trực thuộc Bộ tư lệnh Thủ đô, thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Quận uỷ, HĐND, UBND quận Ba Đình. Những năm gần đây, cùng với quá trình đẩy mạnh sự phát triển kinh tế - xã hội, công tác quân sự, quốc phòng địa phương ở quận Ba Đình đã có sự chuyển biến về nhiều mặt. Tuy nhiên hoạt động chống phá của một số phần tử cơ hội cơ hội có nhiều diễn bién phức tạp, các thế lực thù địch tăng cường đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình”, thúc đẩy “Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, lôi kéo, kích động quần chúng nhân dân tụ tập đông người, ảnh hưởng đến an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Quận. Yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang quận ngày càng cao. Để nâng cao hiệu quả trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác quân sự, quốc phòng địa phương, trước hết cần phải nghiên cứu pháp luật hiện hành về công 3
  4. tác quân sự, quốc phòng địa phương, gắn pháp luật với thực tiễn để tìm ra những ưu điểm, hạn chế, biện hoàn thiện pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương. Xuất phát từ lý do đó, đặt ra vấn đề cấp thiết phải nghiên cứu đề tài “ - ”. 2. T Quán triệt thực hiện Nghị quyết của Đảng về lãnh đạo nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương trong thời kỳ mới. Đến nay, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về công tác quân sự, quốc phòng địa phương, tiêu biểu như: Giáo trình “Lý luận về công tác quốc phòng – quân sự địa phương công tác xây dựng cở, xây dựng lực lượng vũ trang ở cơ sở” năm 2009 của Bộ Quốc phòng đã khái quát những vấn đề lý luận chung bao gồm khái niệm, chức năng, nhiệm vụ của công tác quốc phòng, quân sự địa phương. Tài liệu “Tổ chức xây dựng lực lượng và hoạt động chiến đấu của dân quân tự vệ”, năm 1998 của Học viện quốc phòng đã khái quát những vấn đề lý luận chung về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ và nghiên cứu hoạt động chiến đấu trong thực tiễn. Tài liệu “Tổ chức xây dựng và hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang địa phương” năm 2004 của Học viện quốc phòng đã khái quát những vấn đề lý luận chung về xây dựng lực lượng vũ trang địa phương và nghiên cứu hoạt động tác chiến trong thực tiễn. Tài liệu “Hệ thống văn bản pháp luật về dân quân tự vệ” của Cục Dân quân tự vệ do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản năm 2010 đã hệ thống các văn bản pháp luật về dân quân tự vệ. Luận án “Thực hiện pháp luật trong hoạt động của lực lượng Công an nhân dân để bảo vệ trật tự, an toàn xã hội ở nước ta hiện nay”, Luận án phó tiến sĩ Luật học của Đỗ Tiến Triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1996 đã khái quát việc thực hiện pháp luật của lực lượng công an, nghiên cứu tìm hiểu những mặt đã làm được và hạn chế để đề xuất giải pháp hoàn thiện và thực hiện pháp luật. Luận văn “Tổ chức thực hiện luật dân quân tự vệ từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, luận văn thạc sỹ của Cao Hợp Thanh, Học viện hành chính quốc gia, 2017 đã làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với dân quân tự vệ trong bảo vệ và xây dựng đất nước thời kỳ hội nhập quốc tế, đánh giá thực trạng thực hiện luật về dân quân tự vệ, đề ra phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tổ chức thực hiện luật về dân quân tự vệ. Bài viết “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật Giáo dục quốc phòng – an ninh”, năm 2012 của Trung tướng Hoàng Châu Sơn – Cục trưởng cục Dân quân tự vệ, Bộ Tổng tham mưu đã khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật Giáo dục quốc phòng trong đó nêu rõ pháp luật trong Nhà nước pháp 4
  5. quyền XHCN Việt Nam là sự thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Điều đó có nghĩa là, quan điểm, đường lối QP-AN của Đảng, trong đó có công tác giáo dục QP-AN, phải được luật hóa để đảm bảo tính pháp lý, hiệu lực thi hành và phải được bảo vệ bởi quyền lực nhà nước. Đó là những cơ sở lý luận quan trọng để Đảng và Nhà nước ta từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về QP-AN, trong đó có Luật Giáo dục QP-AN, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Bài viết “Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quân sự, quốc phòng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng”, năm 2014 của Đại tá Hàn Mạnh Thắng – Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ Quốc phòng đã nêu lên những hạn chế, nguyên nhân và giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quân sự, quốc phòng. Các công trình và bài viết trên đây chủ yếu tập trung vào các vấn đề về: chính sách hoàn thiện pháp luật về quân sự, quốc phòng, tổ chức thực hiện pháp luật về quân sự, quốc phòng, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật, nghiên cứu lý luận và thực tiễn để xác định phương hướng hoàn thiện pháp luật về quân sự, quốc phòng. Đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương. Vì vậy, luận văn là công trình đầu tiên thực hiện đề tài này. Tuy vậy, các công trình nghiên cứu nêu trên là nguồn tài liệu quý giá để tác giả tham khảo trong việc thực hiện đề tài này. .M : Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương trong thực tiễn tại quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, đề ra phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương đáp ứng được yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. - Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương. - Đánh giá thực trạng pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương và thực tiễn tại quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. - Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương trong thời gian tới. .Đ - Các quy định pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương và thực tiễn thực hiện các quy định đó tại quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. - Về thời gian: Đề tài nghiên cứu pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương từ năm 2015 đến nay. 5
  6. - Về không gian: Nghiên cứu việc tổ chức thực hiện pháp luật về quân sự quốc phòng địa phương tại quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. .P Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về quân sự, quốc phòng địa phương trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. - Phương pháp phân tích tài liệu: Phương pháp sử dụng tài liệu, các bản báo cáo của các tác giả đã nghiên cứu, đánh giá pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật. Phương pháp phân tích tài liệu đã được sử dụng từ việc chọn thu thập những thông tin cần thiết đến việc phân tích thông tin và dữ liệu thu thập được. Đề tài có sử dụng một số tài liệu như sách, báo, tài liệu tuyên truyền, tạp chí mạng, các trang web có liên quan đến lĩnh vực quân sự, quốc phòng địa phương. - Ngoài ra, đề tài còn sử dụng phương pháp nghiên cứu, thu thập số liệu, xử lý số liệu, phương pháp tổng hợp, thống kê làm căn cứ phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương ở quận Ba Đình và các vấn đề mang tính thời sự được toàn xã hội quan tâm. Trên cơ sở đó nhằm chỉ rõ những vấn đề còn tồn tại đang đặt ra đối với quản lý nhà nước bằng pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương trong thời kỳ hội nhập quốc tế. . 6 V ý Nghiên cứu góp phần khái quát chung một số vấn đề lý luận về pháp luật quân sự, quốc phòng địa phương trong thời kỳ hội nhập. 6 V - Nghiên cứu chỉ ra những vấn đề cần được quan tâm giải quyết đối với vấn đề thực hiện pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương. - Luận văn là tài liệu tham khảo cho học viên và những nhà quản lý trong công tác quân sự, quốc phòng địa phương. - Với những kết quả nghiên cứu đạt được, luận văn góp phần làm hệ thống tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu thực tiễn về pháp luật quân sự, quốc phòng địa phương ở quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. 7. K Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dụng của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương Chương 2: Thực trạng pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương và thực tiễn thực hiện ở quận Ba Đình, thành phố Hà Nội Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương từ thực tiễn quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. 6
  7. C CƠ SỞ L LUẬN C A PHÁP LUẬT VỀ QUÂN SỰ, QUỐC PHÒNG ĐỊA PHƯƠNG . .K â s , ò ị -K Pháp luật đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển của xã hội. Pháp luật là một khái niệm phức tạp, trải qua các thời đại và ở các khu vực trên thế giới, các vấn đề như bản chất, nguồn gốc, vai trò,… được nhận thức một cách khác nhau. Theo học thuyết Mác-Lê nin, nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng lịch sử có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong, do đó những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước cũng chính là nguyên nhân làm xuất hiện pháp luật. Như vậy, “Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự chung chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích, định hướng của nhà nước”[12, tr212]. - K Theo khái niệm rộng, quân sự là lĩnh vực hoạt động đặc biệt của dân tộc Việt Nam, liên quan đến đấu tranh vũ trang, chiến tranh và quân đội qua các thời kỳ trong Lịch sử Việt Nam. Theo khái niệm hẹp, quân sự là hoạt động cơ bản trong Quân đội Nhân dân Việt Nam gồm những hoạt động như: Chính trị, Ngoại giao, Khoa học, Kinh tế... tạo nên sức mạnh chiến đấu tổng lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam - K Theo Khoản 1 điều 3 Luật Quốc phòng năm 2005 quy định: “Quốc phòng là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt”[24]. - K Để thống nhất khái niệm trong toàn luận văn, tác giả khái quát như sau: “Công tác quân sự, quốc phòng địa phương là một bộ phận trong toàn bộ công tác quân sự, quốc phòng của Đảng và Nhà nước, được tổ chức tiến hành ở các địa phương trong cả thời bình và thời chiến, nhằm tổ chức và động viên quần chúng tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân”. - K Hiện nay, chưa có một khái niệm hoàn thiện về pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương. Nhưng tổng quan chung, trong luận văn, tác giả xác định: “Pháp luật về quốc phòng, quân sự địa phương là một bộ phận trong pháp luật về quân sự, quốc phòng, bao gồm hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và động viên quần chúng tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong cả thời bình và thời chiến”. 7
  8. 1.2. ặ ể ủ Nằm trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương mang đầy đủ những đặc điểm cơ bản của pháp luật, đó là: Thứ nhất là tính quyền lực nhà nước. Pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương do nhà nước đặt ra, dựa trên việc thừa nhận các quy tắc sẵn có trong thực tiễn nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, động viên quần chúng tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Thứ hai là tính quy phạm phổ biến. “Quy phạm” có nghĩa là khuôn hước, khuôn mẫu, chuẩn mức [12,tr212]. Các quy định của pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương mang tính khuôn mẫu, chuẩn mực cho nhận thức và hành vi của mọi người, hướng dẫn xử sự cho cá nhân, tổ chức trong xã hội về các vấn đề liên quan đến lĩnh vực quân sự, quốc phòng tại địa phương. Căn cứ vào các quy định của pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương, các tổ chức cá nhân sẽ biết mình được làm gì và làm như thế nào khi ở trong những tình huống, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Thứ ba là tính hệ thống. Pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương là một hệ thống các quy phạm hay các quy tắc xử sự chung, các nguyên tắc, các khái niệm pháp lý,… nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội bằng các tác động lên cách xử sự của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội, làm cho quan hệ phát triển theo chiều hướng nhà nước mong muốn. Thứ tư là tính xác định về hình thức. Pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương được thể hiện trong những hình thức xác định là văn bản quy phạm pháp luật. Các văn bản này được Quốc hội ban hành ở dạng thành văn, các quy định được thể hiện rõ ràng, cụ thể, không trừu tượng, được thực hiện thống nhất trong toàn xã hội. 1.3. V r ủ Vai trò của pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương trong tình hình hiện nay được thể hiện ở những nội dung sau: Thứ nhất, pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương là cơ sở để đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Thứ hai, pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương có vai trò giáo dục. Để điều chỉnh hành vi của con người, pháp luật phải tác động lên ý thức của họ. Đối với pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương, với tính chất công khai của mình, khi luật được công bố bắt buộc các thành viên trong xã hội phải nắm bắt được chúng. Thứ ba, pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương có vai trò thể chế hoá chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. 8
  9. ủ Trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, pháp luật về quân sự, quốc phòng, địa phương trong tình hình mới bao gồm một số nội dung sau: - Một là quy định về công tác giáo dục quốc phòng – an ninh toàn dân. Giáo dục quốc phòng – an ninh là một nội dung cơ bản trong xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Giáo dục quốc phòng – an ninh nhằm mục tiêu góp phần tích cực và việc đào tạo con người phát triển toàn diện, có đạo đức, có sức khoẻ và kiến thức, kỹ năng quân sự, quốc phòng cần thiết để tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Thực hiện công tác giáo dục quốc phòng – an ninh phải toàn diện, đồng bộ, thống nhất và hợp lý, quán triệt và thực hiện đúng đường lối, chính sách, pháp luật và các nguyên lý giáo dục của Đảng và Nhà nước. - Hai là quy định về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Đây là nội dung trọng điểm của công tác quân sự, quốc phòng địa phương, có ý nghĩa quyết định hiệu quả hoạt động chiến đấu, trị an, tạo nên sức mạnh quân sự của nền quốc phòng toàn dân ở địa phương. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ở cơ sở bao gồm xây dựng bộ đội địa phương, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên, lực lượng công an nhân dân và thực hiện công tác tuyển quân theo quy định của pháp luật. - Ba là quy định về xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện. Mục tiêu cơ bản của việc xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện là: Ổn định về chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, quốc phòng và an ninh vững mạnh, nếp sống văn minh lành mạnh, góp phần làm thất bại chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ các thế lực thù địch, sẵn sàng đối phó thắng lợi với các tình huống. - Bốn là quy định về giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Giữ vững an ninh, chính trị trật tự an toàn xã hội là cơ sở, nền tảng bảo đảm cho phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh của mỗi địa phương, cơ sở. Những nội dung trong thực hiện nhiệm vụ giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội là: Tích cực và chủ động phát hiện lực lượng phản động trong và ngoài nước móc nối, cài cắm phá hoại nội bộ; kịp thời phát hiên ngăn chặn vô hiệu hoá hoạt động tuyên truyền xuyên tạc chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, chia rẽ đoàn kết dân tộc; Chỉ đạo lực lượng dân quân tự vệ phối hợp với các lực lượng tăng cường công tác tuần tra, cảnh giác; bảo vệ tài sản, tính mạng của nhân dân, của cơ quan tổ chức nhà nước. Nâng cao hiệu quả hoạt động trị an của tổ tự quản; Vừa phát triển sản xuất, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, vừa phải chú trọng khắc phục yếu kém, tồn tại trong lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý điều hành của hệ thống chính trị ở cơ sở; Tăng cường 9
  10. giáo dục nâng cao cảnh giác cách mạng, nhận rõ bản chất, âm mưu và thủ đoạn xảo quyệt của kẻ thù; chủ động chuẩn bị các phương án đối phó với các tình huống có thể xảy ra trên địa bàn. - Năm là quy định về đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ quân sự cơ sở. Để nâng cao hiệu quả công tác quân sự, quốc phòng địa phương thì công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ quân sự cơ sở phải được cấp uỷ, chính quyền và thủ trưởng cơ quan tỏ chức thường xuyên quan tâm. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, cán bộ quân sự ở cơ sở phải có phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực chỉ huy quân sự, kiến thức cần thiết về quản lý kinh tế, quản lý xã hội, làm tốt công tác vận động quần chúng và tham mưu cho cấp uỷ chính quyền địa phương tổ chức thực hiện mọi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương. - Sáu là quy định về thực hiện chính sách về quốc phòng, quân sự. Chính sách về quốc phòng, quân sự là một bộ phận trong toàn hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước. Xã, phường, thị trấn và cơ quan tổ chức là cấp trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, đường lối chính sách nói chung. Việc thực hiện tốt các chính sách về quân sự, quốc phòng, nhất là chính sách hậu phương quân đội là động lực to lớn tạo nên sức mạnh tổng hợp trong việc thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng ở cơ sở. Pháp luật nói chung và pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương hiện nay chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố cả khách quan và chủ quan liên quan đến tình hình: kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa....Trong đó có các nhân tố cơ bản sau đây: Thứ nhất là đường lối chính sách của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Do vậy Đảng có quyền quyết định đường lối, định hướng, chiến lược phát triển của đất nước kể cả trước mắt và lâu dài. Đường lối chính sách của Đảng chỉ đạo nội dung, quá trình xây dựng, áp dụng, bảo vệ pháp luật. Thứ hai là nhu cầu quản lí đất nước trong thời đại mới. Nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đó là thời kì có sự đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới, diễn ra lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Vì vậy mà trong từng giai đoạn khác nhau nội dung của pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương lại được điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước, đáp ứng được nhu cầu quản lí mới. Thứ ba là các yếu tố văn hóa truyền thống. Pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương được ban hành bởi Quốc hội là cơ quan đại diện tối cao của nhân dân vì thế mà pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương phải phù hợp với ý chí nguyện vọng của nhân dân. Vậy nên các quy phạm pháp luật phải phù hợp với truyền thống văn hóa, sinh hoạt đời sống của nhân dân 10
  11. Thứ tư là trình độ lập pháp. Năng lực lập pháp của đại biểu quốc hội là khả năng của đại biểu quốc hội trong việc lựa chọn phương án hợp lý nhất để hướng tới hoàn thành chức năng lập pháp hiến định của mình. Thứ năm là các tư tưởng học thuyết pháp lý. Ngoài các yếu tố như chủ trương chính sách mang tính chất định hướng của Đảng và nhu cầu quản lý xã hội của đất nước thì các tư tưởng học thuyết pháp lý cũng là một yếu tố ảnh hưởng khá lớn đến nội dung của pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương. Thứ sáu là bối cảnh hội nhập hợp tác quốc tế. Ngày nay nước ta đã và đang mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực trong đó là lĩnh vực quân sự, quốc phòng, vì vậy đòi hỏi pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương cần phải có bước hội nhập để phù hợp với tinh thần chung của các tổ chức, công ước, hiệp ước mà Việt Nam tham gia, kí kết. 6 o Để đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương, cần xem xét, đánh giá bằng các tiêu chí sau: - Tiêu chí về tính toàn diện: Để đánh giá sự hoàn thiện của pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương, trước hết phải xem xét tính toàn diện của hệ thống pháp luật đó, nghĩa là tất cả những vấn đề liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động quân sự, quốc phòng đều phải được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Tiêu chí về tính đồng bộ: Tính đồng bộ của hệ thống pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương thể hiện ở sự thống nhất giữa hai cấp độ: cấp độ chung và cấp độ cụ thể. Ở cấp độ chung, là sự đồng bộ giữa các quy định pháp luật về quân sự, quốc phòng nói chung và quân sự, quốc phòng địa phương nói riêng với các quy phạm pháp luật thuộc các ngành luật khác như Luật Hiến pháp, Luật Lao động, Luật Dân sự, Luật Hình sự… tạo cơ sở củng cố tính thống nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương. Ở cấp độ cụ thể, tính đồng bộ của hệ thống pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương đòi hỏi phải xem xét đánh giá tính thống nhất, không có mâu thuẫn, trùng lặp, chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật về cùng một đối tượng điều chỉnh. Tiêu chí về tính khả thi: Pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương bảo đảm tính khả thi, nghĩa là các văn bản quy phạm pháp luật về quân sự quốc phòng phải phù hợp với thực tiễn cuộc sống, đáp ứng được các yêu cầu khách quan của thực tiễn. Tiêu chí về kỹ thuật pháp lý: Tiêu chí về kỹ thuật pháp lý là tổng thể những phương pháp, phương tiện được sử dụng trong quá trình soạn thảo và hệ thống hoá pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương nhằm đảm bảo cho pháp luật có đầy đủ các khả năng để điều chỉnh hiệu quả các quan hệ xã hội. 11
  12. C 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUÂN SỰ, QUỐC PHÒNG ĐỊA PHƯƠNG VÀ THỰC TIỄN Ở QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2. . T â s , ò ị Q B Đ –T H N Quận Ba Đình ngày nay là một trong 12 quận nội thành của Thành phố Hà Nội, có diện tích 9,29 km2 với hơn 24 vạn dân, được chia thành 14 phường là: Cống Vị, Đội Cấn, Điện Biên, Giảng Võ, Ngọc Khánh, Ngọc Hà, Kim Mã, Nguyễn Trung Trực, Phúc Xá, Quán Thánh, Thành Công, Trúc Bạch, Liễu Giai, Vĩnh Phúc. Kể từ khi định đô ở vùng đất giữa hai con sông vào năm 1010 cho đến trước năm 1945, trải qua hơn 9 thế kỷ vùng đất Ba Đình luôn giữ vị trí quan trọng của kinh thành Thăng Long thời Lý, thời Trần, của Đông Kinh thời Lê, của Hà Nội thời Nguyễn và Trung tâm hành chính - chính trị quốc gia của Thủ đô nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quận Ba Đình phía bắc giáp quận Tây Hồ, phía đông giáp quận Hoàn Kiếm, phía nam giáp quận Đống Đa, phía tây giáp quận Cầu Giấy. Quận Ba Đình được Chính phủ xác định là Trung tâm hành chính - chính trị quốc gia, nơi tập trung các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ. Đây còn là trung tâm ngoại giao, đối ngoại. Ba Đình có trụ sở nhiều tổ chức quốc tế, sứ quán các nước, nơi thường xuyên diễn ra các hội quan trọng của Nhà nước, quốc tế và khu vực. Tổ chức hành chính quận có 14 phường; 380 tổ dân phố, Đảng bộ quận có 65 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc; Hội Cựu chiến binh; Đoàn thanh niên; Hội Phụ nữ, tổ chức Công đoàn hoạt động có hiệu quả. Hoạt động văn hoá xã hội ngày càng phát triển, quốc phòng, an ninh luôn được củng cố, tăng cường. Các mâu thuẫn trong nhân dân thường xuyên được gỉai quyết kịp thời, đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn ổn định và giữ vững. 2.2. T r â s , ò ị 2.2.1. Hệ thống văn bản pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương Hệ thống văn bản pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương bao gồm các văn bản luật sau: * Luật Quốc phòng: Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, Luật Quốc phòng được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật Quốc phòng vào ngày 14/6/2005 tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XI. Luật gồm 9 chương, 51 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006. 12
  13. Luật An ninh quốc gia Ngày 03/12/2004, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật an ninh quốc gia số 32/2004/QH11 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2005 quy định về chính sách an ninh quốc gia; nguyên tắc, nhiệm vụ, biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, công dân trong bảo vệ an ninh quốc gia. Luật này gồm 5 Chương, 36 Điều. * Luật Nghĩa vụ quân sự Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015 được Quốc hội khóa XIII, Kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 19-6-2015, gồm 9 chương với 62 điều; có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-1-2016. * Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam số 16/1999/QH10 ngày 21 tháng 12 năm 1999 của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 4 năm 2000, được sửa đổi, bổ sung 2 lần năm 2008 và 2015. Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam bao gồm 7 chương – 51 điều đã quy định các vấn đề về: Vị trí chức năng của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam; Tiêu chuẩn của sĩ quan lãnh đạo, chỉ huy, quản lý sĩ quan, điều kiện tuyển chọn đào tạo sĩ quan, nguồn bổ sung sĩ quan tại ngũ; Nhóm ngành, cấp bậc, chức vụ của sĩ quan; Nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. * Luật Công an nhân dân Ngày 12/12/2005, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Lệnh số 30/2005/L-CTN công bố Luật Công an nhân dân. Luật Công an nhân dân bao gồm 7 chương – 45 điều đã quy định các vấn đề sau: Vị trí, chức năng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Công an nhân dân; Tổ chức của Công an nhân dân; Tuyển chọn công dân vào công an nhân dân; Cấp bậc hàm sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ và chức vụ cơ bản trong công an; Nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của sĩ quan, hạ chiến sĩ, chiến sĩ Công an nhân dân. * Luật Dân quân tự vệ Luật Dân quân tự vệ (DQTV) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Khóa XII) thông qua tại kỳ họp thứ 6 ngày 23/11/2009 và được Chủ tịch nước ký Lệnh số 20/2009/L-CTN ngày 04/12/2009 công bố Luật DQTV. Luật DQTV gồm 9 chương, 66 điều. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2010. * Pháp lệnh Dự bị động viên Pháp lệnh về lực lượng Dự bị động viên được Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX thông qua ngày 27 13
  14. tháng 8 năm 1996 và được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 09 tháng 9 năm 1996. Pháp lệnh về lực lượng DBĐV gồm 7 chương, 37 điều bao gồm: Những Quy định chung; Xây dựng lực lượng dự bị động viên; Huy động lực lượng dự bị đông viên; Chế độ chính sách, kinh phí xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên; Quản lý nhà nước về xây dựng và huy động lực lượng dự bị đồng viên; Khen thưởng và xử lý vi phạm; Điều khoản thi hành. * Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh Ngày 19 tháng 6 năm 2013, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII đã thông qua Luật giáo dục quốc phòng và an ninh số 30/2013/QH13. Ngày 28 tháng 6 năm 2013, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Lệnh số 04/2013/L-CTN công bố Luật giáo dục quốc phòng và an ninh. Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2014. Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh gồm 8 chương, 47 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2014. 2.2.2. Nội dung pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương hiện nay Một là, quy định về công tác giáo dục quốc phòng – an ninh toàn dân. Quốc hội đã ban hành Luật giáo dục quốc phòng - an ninh với mục tiêu giáo dục quốc phòng - an ninh là để trang bị kiến thức cơ bản về quốc phòng - an ninh, kỹ năng quân sự cần thiết, góp phần đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, Luật giáo dục quốc phòng – an ninh vẫn còn tồn tại những vấn đề chưa thoả đáng. Đó là vấn đề bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho các đối tượng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập chưa được quy định tại Luật. Bên cạnh đó, nội dung về an ninh chưa được quy định nổi bật trong luật; đồng thời chưa thấy rõ trách nhiệm các bộ trong thực thi pháp luật. Không chỉ vậy cũng cần phân biệt ra các nội hàm, giáo dục tập trung đối với nhà trường, bồi dưỡng tập trung đối tượng cán bộ, công chức… phổ biến là cho toàn xã hội. Về Giáo dục quốc phòng - an ninh cho học sinh tiểu học, trung học cơ sở, luật cần thể hiện theo phương thức vừa học vừa chơi sẽ phù hợp hơn với đối tượng này. Hai là, quy định về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Đây là nội dung trọng điểm của pháp luật về quân sự, quốc phòng đia h phương, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động chiến đấu, trị an, tạo nên sức mạnh quân sự của nền quốc phòng toàn dân ở địa phương. Qua quá trình thực hiện Luật dân quân tự vệ cho thấy chất lượng tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của dân quân tự vệ được nâng lên, góp phần cùng các lực lượng khác bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Tuy nhiên, Luật Dân quân tự vệ hiện 14
  15. hành chưa thể chế, cụ thể hóa đầy đủ chủ trương, quan điểm của Đảng, Hiến pháp năm 2013 về quốc phòng, quân sự nói chung và quân sự, quốc phòng địa phương nói riêng; một số nội dung của Luật Dân quân tự vệ năm 2009 chưa thống nhất, đồng bộ với Luật Quốc phòng và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan. Quy định về công tác dân quân tự vệ chưa điều chỉnh hoặc điều chỉnh chưa đầy đủ; qua thực hiện đã bộc lộ nhiều hạn chế, vướng mắc, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của dân quân tự vệ trong tình hình hiện nay. Ba là, quy định về xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện. Về quy định xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, luật Quốc phòng đã nêu rõ trách nhiệm của lực lượng vũ trang nhân dân, dân quân tự vệ. Ngoài ra, để xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện không thể không nhắc đến việc thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự. Bốn là, quy định về giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, quy định về giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được quy định trong Luật An ninh quốc gia. Ngoài ra, quy định về giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội còn được quy định trong một số văn bản pháp lý. Năm là, quy định về đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ quân sự cơ sở, quy định về đào tạo bồi dưỡng, tập huấn cán bộ quân sự cơ sở được cụ thể hoá qua việc thực hiện Nghị định 58/2010/NĐ-CP ngày 01 tháng 6 năm 2010 của Chính phủ; Quyết định số 799/QĐ-TTg ngày 25 tháng 5 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án đào tạo cán bộ quân sự Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn trình độ cao đẳng, đại học ngành quân sự cơ sở đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Trong Luật Dân quân tự vệ cũng quy định cụ thể về đào tạo cán bộ quân sự Ban chỉ huy quân sự cấp xã, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ Dân quân tự vệ, huấn luyện Dân quân tự vệ, đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ và huấn luyện Dân quân tự vệ trong tình trạng khẩn cấp về quốc phòng tình trạng chiến tranh, diễn tập, hội thi, hội thao. 2. . T r â s , ò ị ở B Đ . 2.3.1. Công tác giáo dục quốc phòng – an ninh toàn dân Quận Ba Đình là trung tâm hành chính – chính trị quốc gia, nơi đặt trụ sở của các cơ quan Trung ương Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế; là trung tâm lớn về kinh tế, văn hoá, gia dục, khoa học, công nghệ, nơi diễn ra các hoạt động đối nội, đối ngoại của cả nước. 15
  16. Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh năm 2013 đã xác định đối tượng thực hiện giáo dục quốc phòng – an ninh bao gồm: Giáo dục quốc phòng – an ninh cho học sinh, sinh viên; giáo dục quốc phòng cho toàn dân; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng – an ninh cho các đối tượng. Với vai trò là cơ quan thường trực của Hội đồng Giáo dục quốc phòng và an ninh, Ban CHQS Quận đã phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể của quận và Hội đồng giáo dục QP&AN các phường tiến hành rà soát cán bộ, công chức, đảng viên, đoàn viên và hội viên thuộc diện bồi dưỡng kiến thức QP&AN. Sau rà soát, Ban CHQS quận đã phối hợp với Ban Tổ chức Quận uỷ, Phòng Nội vụ, Uỷ ban MTTQ, Trung tâm bồi dưỡng chính trị quận tổ chức bồi dưỡng kiến thức QP&AN cho đối tượng 3; đối tượng 4; đảng viên mới kết nạp quân số tham gia theo kế hoạch. Bả s bồ ỡ k QP&AN 20 7 (Theo báo cáo Kết quả công tác Giáo dục quốc phòng và an ninh năm 2017) STT Đối tượng Lớp Số người 1. Đối tượng 3 cấp quận 01 35 2. Đối tượng 4 cấp quận 01 196 3. Đối tượng 4 cấp phường 14 1035 4. Các cơ quan đơn vị trên địa bàn 22 1962 5. Học sinh trường THPT 8023 6. Học sinh trường TCCN 352 Ban CHQS quận rất quan tâm đến công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng. Các đối tượng tham gia học tập nghiêm túc, đúng nội dung các chuyên đề theo quy định, đủ thời gian, có kiểm tra đánh giá kết quả và cấp giấy chứng nhận cho 100% học viên tham gia học tập. Đặc biệt đối với công tác giáo dục quốc phòng cho học sinh, sinh viên đã từng bước khắc phục khó khăn về giáo viên, điều kiện cơ sở vật chất, vận dụng các phương pháp giảng dạy, học tập phù hợp với điều kiện thực tế của từng trường. Quá trình giảng dạy môn giáo dục quốc phòng và an ninh cho học sinh, sinh viên đã nâng cao trách nhiệm của lãnh đạo các trường, ý thức trách nhiệm của học sinh, sinh viên. Thực hiện Luật giáo dục quốc phòng và an ninh, các Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính, Bộ Quốc phòng và các Bộ ngành liên quan. Cơ quan thường trực Hội đồng giáo dục QP&AN quận phối hợp với Phòng Tài chính – Kế hoạch quận và các cơ quan liên quan căn cứ vào nhiệm vụ, kế hoạch công tác giáo dục QP&AN hàng năm lập dự toán ngân sách bảo đảm 16
  17. cho nhiệm vụ giáo dục QP&AN và bồi dưỡng kiến thức QP&AN cho các đối tượng đúng quy định. Bên cạnh đó, Ban CHQS quận cũng đã phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức tốt tuyên truyền, phổ biến giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân, đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch và các phần tử chống đối, lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo” để chống phá. Cùng với Luật Quốc phòng, Luật DQTV cũng được Quận uỷ, HĐND, UBND và Ban CHQS quận chỉ đạo các phường tổ chức quán triệt, tuyên truyền và phổ biến nhằm nâng cao nhận thức về DQTV và công tác DQTV cho đội ngũ cán bộ chỉ huy quân sự phường, các ngành và nhân dân. Hội đồng giáo dục QP&AN quận thường xuyên kiểm tra kết quả triển khai, tổ chức thực hiện công tác bồi dưỡng, giáo dục, phổ biến kiến thức QP&AN theo Luật giáo dục QP&AN của Hội đồng giáo dục QP&AN các phường nhằm đánh giá những việc làm được, chỉ ra những hạn chế, tồn tại, khó khăn để có biện pháp khắc phục nhằm góp phần thực hiện Luật Giáo dục QP&AN trên địa bàn quận Ba Đình ngày càng đi vào nề nếp, đạt chất lượng, hiệu quả thiết thực. X ũ r Trong những năm qua, thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương, các cơ quan, phòng, ban ngành, đoàn thể, các phường, các đơn vị dân quân tự vệ thường xuyên quán triệt nắm vững những nhiệm vụ, mục tiêu, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang quận chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Ban CHQS quận, các cơ quan, đơn vị dự bị động viên và dân quân tự vệ được xây dựng vãng mạnh, toàn diện làm nòng cốt trong thực hiện công tác quân sự, quốc phòng địa phương. Duy trì nghiêm chế độ trực chỉ huỷ, trực ban, trực chiến, trực phòng không, nắm chắc tình hình địa bàn. Trong đó để thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, Ban CHQS quận đã tham mưu với UBND quận xây dựng kế hoạch chỉ đạo hướng dẫn các đơn vị cơ sở dân quân tự vệ thường xuyên rà soát, củng cố kiện toàn tổ chức biên chế lực lượng dân quân tự vệ nòng cốt đảm bảo có số lượng hợp lý, chất lượng cao, đúng, đủ cơ cấu thành phần lực lượng theo quy định. Thường xuyên công tác bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ đúng quy định, lựa chọn cán bộ có đủ tiêu chí để chỉ huy đơn vị dân quân tự vệ - dự bị động viên, miễn nhiệm cán bộ năng lực yếu, trình độ còn hạn chế. 17
  18. Thực hiện pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương, trong những năm qua, Ban CHQS quận đã thực hiện tốt quy trình tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ, hoàn thành 100% chỉ tiêu trên giao, trong đó công dân có trình độ đại học, cao đằng đạt tỷ lệ cao trên 50%. Thực hiện đăng ký tuổi 17, đăng ký tuổi sẵn sàng nhập ngũ theo luật Nghĩa vụ quân sự. Di chuyển nghĩa vụ quân sự theo quy định. Làm tốt công tác tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ, bảo đảm đúng luật. X ữ o Để xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, trong những năm qua, Ban CHQS quận cũng đã chủ động tham mưu với quận uỷ, UBND quận kiện toàn Ban chỉ đạo, Ban chỉ huy, Hội đồng các cấp, tổ chức các Hội nghị triển khai nhiệm vụ Ban chỉ đạo công tác phòng không nhân dân, Hội đồng giáo dục quốc phòng và an ninh, Ban chỉ huy tìm kiếm cứu nạn. Duy trì nghiêm nề nếp thi đua, tuyên truyền, thực hiện có hiệu quả ngày chính trị văn hoá tinh thần và ngày Pháp luật. Phát động phong trào thi đua quyết thắng, phong trào thi đua trong huấn luyện và các phong trào thi đua khác. Trong công tác quản lý cơ sở vật chất, Ban CHQS quận đã thực hiện việc quản lý chặt chẽ trang thiết bị được cấp phát, duy trì chế độ bảo quản, bảo dưỡng khắc phục tình trạng hư hỏng, xuống cấp trước niên hạn sử dụng. 2.3.4. G ữ ữ r r o xã Ban CHQS các phường phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng, tăng cường tuần tra canh gác, nắm chắc tình hình địa bàn, cơ sở. Kịp thời phát hiện xử lý, thu gom tờ rơi, khẩu hiệu phản động, xử lý vật liệu nổ trên địa bàn. Bảo vệ an toàn các mục tiêu, trụ sở các cơ quan, đơn vị trong mọi tình huống, thường xuyên duy trì lực lượng dân quân tự vệ sẵn sàng trực chiến đấu theo quy định, sẵn sàng huy động lực lượng cơ động làm nhiệm vụ khi có lệnh, xung kích trong phòng cháy, chữa cháy, nổ, thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, khắc phục hậu quả thảm hoạ, tham gia công tác vận động quần chúng, xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện. o o bồ ỡ ấ b Để đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng cán bộ quân sự cơ sở theo đúng quy định của Luật, Quận uỷ - UBND – Ban CHQS quận chú trọng đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quân sự xã, phường, thị trấn dựa trên Quyết định số 799/QĐ-TTg ngày 25/05/2011 của Thủ tướng Chính phủ. Căn cứ vào Luật dân quân tự vệ, Ban CHQS quận tham mưu với UBND quận ban hành chỉ thị, hướng dẫn các phường thực hiện công tác 18
  19. dân quân tự vệ, nhất là quy trình tổ chức xây dựng lực lượng và kế hoạch tuyển chọn đầu vào. 6 Ban CHQS quận đã thường xuyên quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với Quân đội và hậu phương Quân đội. 2. . Đ â s , ò ị ng ể Dựa trên các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương, có thể khẳng định trước hết về mặt nội dung hệ thống văn bản pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương có nội dung phù hợp với quan điểm đường lối của Đảng, nguyên tắc yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, phù hợp với tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và đặc biệt là tại quận Ba Đình. Về tính toàn diện, các văn bản Luật trong hệ thống pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương đều đã xác định rõ đối tượng và phạm vi điều chỉnh. Về tính đồng bộ, ở cấp độ chung thì các văn bản Luật như Luật Quốc phòng, Luật An ninh Quốc gia, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Công an nhân dân, Luật Dân quân tự vệ, Pháp lệnh Dự bị động viên và Luật Giáo dục Quốc phòng có tính thống nhất trong toàn bộ hệ thống luật về quân sự, quốc phòng địa phương. Về tính khả thi, việc áp dụng các quy định của luật về quân sự quốc phòng địa phương trong quản lý nhà nước theo chức năng nhiệm vụ được phát huy. Trong thời gian qua, từ khi hệ thống pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương có hiệu lực đã tác động tích cực đến nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Trong thực tiễn, pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương có một số hạn chế, bất cập sau: Thứ nhất, pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương rất đa dạng về thể loại văn bản, có số lượng văn bản quy phạm pháp luật lớn. Do có quá nhiều loại văn bản được nhiều cấp ban hành, nhưng lại thiếu cơ chế cân nhắc toàn diện các lĩnh vực pháp luật khác nhau, nên mâu thuẫn và chồng chéo là khó tránh khỏi. Tính cồng kềnh, sự tồn tại các bất cập và mâu thuẫn làm giảm tính minh bạch khiến cho pháp luật về 19
  20. quân sự, quốc phòng địa phương trở nên phức tạp, khó hiểu và khó áp dụng, kém hiệu lực. Thứ hai, pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương thường xuyên thay đổi. Một số văn bản pháp luật về quân sự, quốc phòng có tuổi thọ ngắn, thường phải phải sửa đổi, bổ sung. Pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương thường xuyên bị thay đổi, dẫn đến những khó khăn đáng kể trong việc thực hiện và tác động xấu đến sự ổn định của các quan hệ xã hội. Thứ ba, rất nhiều văn bản pháp luật về quân sự, quốc phòng có tính quy phạm thấp, tức là thiếu những quy tắc xử sự cụ thể mà chủ thể phải thực hiện. Thứ tư, tính minh bạch của pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương còn hạn chế, nhất là nhìn nhận từ tính minh xác, tính minh định. Thứ năm, tính hệ thống của pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương còn rất hạn chế. Các văn bản luật, các văn bản dưới luật khác nhau chưa thực sự tạo thành một chỉnh thể với những nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt mang tính chuyên ngành hoặc liên ngành. Cuối cùng, xây dựng pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương chưa gắn với quản lý thi hành pháp luật, do đó, khó tránh khỏi hậu quả pháp luật xa rời thực tiễn, không những không phản ánh đầy đủ thực tại, mà còn khó có khả năng dự báo, đi trước sự phát triển của quan hệ xã hội. Những tồn tại, hạn chế về pháp luật về quân sự, quốc phòng địa phương trong thời gian qua là do những nguyên nhân sau: Mọ t là, pháp luạ t về quân sự, quốc phòng địa phương quy định chức na ng nhiẹ m vụ của các co quan nhà nu ớc chu a rõ ràng, thạ m chí còn chồng chéo. Hai là, trong các van bản pháp luạt về quân sự, quốc phòng hiẹn nay tính thống nhất và đồng bọ chua đuợc quy định cụ thể. Thứ ba, đọi ngũ cán bọ thực hiẹn cong tác xay dựng và ban hành van bản pháp luạt về quân sự, quốc phòng địa phương vẫn còn thiếu thực tiễn, kinh nghiệm và kỹ năng còn chưa hoàn thiện. Thứ tu, cong tác rà soát, hẹ thống hóa pháp luạt và xử lí van bản pháp luạt về quân sự, quốc phòng địa phương còn chưa kịp thời, nhanh nhạy. Thứ nam, co chế huy đọng trí tuẹ của nhan dan, xã họi vào cong tác xay dựng pháp luạt về quân sự, quốc phòng địa phương cũng nhu co chế bảo đảm sự kiểm tra, giám sát của nguời dan, xã họi đối với cong tác hoàn thiện pháp luạt về quân sự, quốc phòng địa phương chua phát huy hiẹu lực, hiẹu quả. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2