intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự

Chia sẻ: Truong Tien | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

40
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn trình bày những vấn đề về lý luận về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự. Thực trạng người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự

Người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát<br /> nhân dân đối với các vụ án hình sự<br /> Nguyễn Trọng Nghĩa<br /> Khoa Luật<br /> Luận văn ThS. ngành: Luật hình sự; Mã số: 60 38 40<br /> Người hướng dẫn: PGS.TS Trần Văn Độ<br /> Năm bảo vệ: 2010<br /> Abstract. Những vấn đề về lý luận về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát<br /> nhân dân đối với các vụ án hình sự. Thực trạng người tiến hành tố tụng trong Viện<br /> kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự. Một số giải pháp góp phần nâng cao<br /> hiệu quả hoạt động của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với<br /> các vụ án hình sự.<br /> Keywords. Pháp luật Việt Nam; Luật hình sự; Kiểm sát viên; Vụ án hình sự; Tố<br /> tụng hình sự<br /> <br /> Content<br /> MỞ ĐẦU<br /> 1. Tính cấp thiết của đề tài<br /> Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy công cuộc<br /> cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan tư pháp, trong đó có cơ quan Viện<br /> kiểm sát nhân dân (VKSND) là một đòi hỏi có tính cấp bách và chiến lược, nên đã xác định:<br /> "Viện kiểm sát nhân dân tập trung thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư<br /> pháp". Điều này đã được tái khẳng định và làm rõ tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc<br /> lần thứ X: "Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư<br /> pháp khẩn trương, đồng bộ... thực hiện cơ chế công tố gắn liền với hoạt động điều tra" .<br /> Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong việc giải quyết các vụ<br /> án hình sự là hai chức năng quan trọng nhất của VKSND, bảo đảm việc điều tra, truy tố, xét<br /> xử và thi hành án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không làm oan người vô tội,<br /> đồng thời không để sót lọt tội phạm, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế<br /> độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân…<br /> Để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trên, trong thời gian qua ngành kiểm sát đã không ngừng<br /> nâng cao chất lượng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, đặc biệt là việc giải<br /> quyết các vụ án hình sự. Kết quả cho thấy, ngành Kiểm sát nhân dân đã thực hiện tốt chức năng<br /> thực hành quyền công tố và kiểm sát các các hoạt động tư pháp, góp phần không nhỏ vào công<br /> cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời kỳ mới.<br /> Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, công tác thực hành quyền công<br /> tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế nhất<br /> định, như: việc Tòa án, Viện kiểm sát (VKS) phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, điều tra lại<br /> nhiều lần; việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự còn nhiều oan sai, đình chỉ vụ án<br /> <br /> vì bị can, bị cáo không có tội…nhiều trường hợp VKS đã phải bồi thường cho người bị oan,<br /> sai theo Nghị quyết số 388 ngày 17/3/2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Có nhiều<br /> nguyên nhân dẫn đến những tồn tại nêu trên, trong đó có nguyên nhân từ nhận thức, trình độ,<br /> năng lực của người tiến hành tố tụng trong VKSND; từ các quy định của pháp luật có liên<br /> quan đến địa vị pháp lý, tổ chức và hoạt động của VKSND, người tiến hành tố tụng trong<br /> VKSND… Nhưng cho dù là nguyên nhân nào, thì những hạn chế đó cũng mang lại hậu quả<br /> rất lớn, không những gây ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, tài sản của người bị oan sai mà<br /> còn làm mất uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật, đồng thời làm giảm lòng tin của nhân<br /> dân đối với công lý và pháp luật.<br /> Trước tình hình đó, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề lý luận và thực<br /> tiễn về người tiến hành tố tụng trong VKSND đối các vụ án hình sự, từ đó đưa ra kiến giải lập<br /> pháp là mô hình lý luận và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của những người này trong<br /> quá trình giải quyết các vụ án hình sự, không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan<br /> trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng là lý do luận chứng cho việc chúng tôi<br /> quyết định chọn đề tài "Người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ<br /> án hình sự " làm luận văn Thạc sĩ luật học của mình.<br /> 2. Tình hình nghiên cứu<br /> Từ khi có Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 và cả sau khi Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 ra<br /> đời, đã có một số công trình nghiên cứu về người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố<br /> tụng trong cơ quan điều tra như: Đề tài nghiên cứu "Cơ quan điều tra, Thủ trưởng cơ quan<br /> điều tra và Điều tra viên" của tác giả Đỗ Ngọc Quang, Nhà xuất bản Công an nhân dân,<br /> 2000; Luận án tiến sĩ Luật học của Đào Hữu Dân: "Mối quan hệ giữa Cơ quan cảnh sát điều<br /> tra với Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự", 2006; nhưng chưa có một công trình<br /> nghiên cứu riêng biệt và toàn diện về người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự trong<br /> VKSND.<br /> Năm 2009, tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tác giả Trần Mạnh Đông đã công bố<br /> luận văn thạc sĩvới đề tài: "Tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên trong quá trình tố tụng hình<br /> sự - Một yêu cầu tất yếu của tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam", nhưng luận văn này chỉ<br /> nghiên cứu về tăng thẩm quyền của Kiểm sát viên theo Bộ luật Tố tụng hình sự trong quá<br /> trình giải quyết vụ án hình sự theo nội dung cải cách tư pháp. Ngoài ra, còn một số đề tài<br /> nghiên cứu có liên quan, như đề tài nghiên cứu khoa học tại Trường đào tạo bồi dưỡng<br /> nghiệp vụ kiểm sát về: "Nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà hình<br /> sự" năm 2003; Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2008 của Nguyễn Trọng Hải về đề tài "Người<br /> tiến hành tố tụng trong cơ quan điều tra - những vấn đề lý luận và thực tiễn".<br /> Như vậy, có thể nói cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu về người tiến hành<br /> tố tụng trong việc giải quyết các vụ án hình sự, nhưng mỗi công trình đó mới chỉ dừng lại ở<br /> một số lĩnh vực hoặc trên phạm vi nghiên cứu chung về người tiến hành tố tụng ở tất cả các<br /> cơ quan tiến hành tố tụng hoặc người tiến hành tố tụng trong cơ quan điều tra, mà chưa có<br /> một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về người tiến hành tố tụng trong VKSND<br /> đối với các vụ án hình sự.<br /> Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhất là khi thực<br /> hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, vấn đề này cần được làm sáng tỏ hơn về mặt<br /> lý luận và thực tiễn, làm cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan,<br /> đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của VKSND trong công tác thực hành quyền công tố<br /> và kiểm sát các hoạt động tư pháp, đáp ứng yêu cầu cấp bách về cải cách tư pháp mà Đảng và<br /> Nhà nước ta đã đặt ra.<br /> 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn<br /> 3.1. Mục đích nghiên cứu<br /> Luận văn nghiên cứu "người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ<br /> án hình sự" nhằm làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản liên<br /> <br /> quan đến người tiến hành tố tụng tại VKSND và việc áp dụng chế định này trong thực tiễn, từ đó<br /> xác định những điểm hạn chế, vướng mắc về lý luận cũng như thực tiễn, để đề xuất kiến giải lập<br /> pháp bằng việc đưa ra mô hình lý luận của các quy phạm về người tiến hành tố tụng các vụ án hình<br /> sự trong VKSND, cũng như đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của người tiến hành<br /> tố tụng trong VKSND khi giải quyết các vụ án hình sự.<br /> 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu<br /> Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình các nhiệm vụ nghiên cứu<br /> chủ yếu sau:<br /> Về mặt lý luận:<br /> + Luận giải về vị trí, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố<br /> tụng trong VKSND đối với các vụ án hình sự, được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm<br /> 2003, Luật Tổ chức VKSND, Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND và các văn bản pháp luật tố tụng<br /> hình sự khác. Mối quan hệ giữa những người tiến hành tố tụng trong công tác thực hành<br /> quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND.<br /> + Nghiên cứu thực trạng về đội ngũ và hoạt động của Kiểm sát viên trong quá trình giải<br /> quyết vụ án hình sự.<br /> + Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta, đặc biệt là<br /> việc cơ cấu, tổ chức lại cơ quan VKSND theo tinh thần Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày<br /> 24/5/2005 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị mà trước hết là<br /> nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của<br /> Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hình sự.<br /> Về mặt thực tiễn:<br /> + Nghiên cứu, đánh giá lại thực tiễn hoạt động của Viện trưởng, Phó viện trưởng và<br /> Kiểm sát viên trong việc giải quyết các vụ án hình sự ở nước ta trong thời gian qua, xác định<br /> địa vị pháp lý đúng đắn cho người tiến hành tố tụng trong VKSND những năm tiếp theo.<br /> + Nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân tác động tiêu cực đến hoạt động đúng đắn của người<br /> tiến hành tố tụng trong VKSND, từ đó có những kiến giải hữu hiệu xây dựng đội ngũ này<br /> thực sự lớn mạnh và hoạt động chỉ tuân theo pháp luật, củng cố niềm tin của nhân dân vào<br /> pháp luật và các cơ quan bảo vệ pháp luật.<br /> 4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu<br /> Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí<br /> Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, cũng như thành tựu của các<br /> chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã<br /> hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học, những luận<br /> điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên<br /> tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự và tố tụng hình sự.<br /> Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận cụ thể để làm sáng tỏ về mặt khoa học<br /> từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: lịch sử, so sánh, phân tích,<br /> tổng hợp, thống kê; nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề của<br /> VKSNDTC. Ngoài ra, tác giả cũng tiếp thu có chọn lọc kết quả của của các công trình đã<br /> công bố; các đánh giá, tổng kết của cơ quan chuyên môn và các chuyên gia về những vấn đề<br /> có liên quan đến tổ chức và hoạt động của người tiến hành tố tụng trong VKSND.<br /> 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn<br /> Về mặt lý luận: Kết quả luận văn góp phần xây dựng một cái nhìn toàn diện về địa vị<br /> pháp lý và hoạt động của người tiến hành tố tụng trong VKSND đối với các vụ án hình sự,<br /> đồng thời thấy được trách nhiệm cũng như vai trò của VKSND trong công cuộc đấu tranh<br /> phòng chống tội phạm hiện nay.<br /> Về thực tiễn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập trong các<br /> cơ sở đào tạo, trong hoạt động nghiệp vụ của Kiểm sát viên và lãnh đạo VKSND. Những đề<br /> xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp các luận cứ khoa học, làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ<br /> <br /> sung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tổ chức, hoạt động của người tiến hành tố<br /> tụng các vụ án hình sự trong cơ quan VKSND.<br /> 6. Kết cấu của luận văn<br /> Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của uận văn<br /> gồm 3 chương:<br /> Chương 1: Những vấn đề về lý luận về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân<br /> dân đối với các vụ án hình sự.<br /> Chương 2: Thực trạng người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các<br /> vụ án hình sự.<br /> Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của người tiến hành tố<br /> tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự.<br /> Chương 1<br /> NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG VIỆN<br /> KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ<br /> 1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò và nguyên tắc hoạt động của người tiến hành tố tụng trong<br /> Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự<br /> 1.1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân<br /> Người tiến hành tố tụng trong VKSND đối với các vụ án hình sự, bao gồm Kiểm sát viên,<br /> Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, những người được bổ nhiệm và có những nhiệm vụ,<br /> quyền hạn xác định theo quy định của pháp luật để thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công<br /> tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm phát hiện, xử lý kịp thời tội phạm và người phạm<br /> tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo đảm lợi ích nhà nước, quyền và<br /> lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.<br /> 1.1.2. Vị trí, vai trò của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với<br /> các vụ án hình sự<br /> Người tiến hành tố tụng trong VKSND có vị trí, vai trò rất quan trọng trong tố tụng hình<br /> sự với nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng<br /> hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều<br /> tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm<br /> và người phạm tội, không làm oan người vô tội.<br /> 1.1.3. Các nguyên tắc trong hoạt động tố tụng của người tiến hành tố tụng các vụ án<br /> hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân<br /> Nguyên tắc của pháp luật tố tụng hình sự là tư tưởng chủ đạo và là định hướng cơ bản<br /> được thể hiện trong pháp luật tố tụng hình sự cũng như trong việc giải thích và trong thực<br /> tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự thông qua một hay nhiều quy phạm của nó. Viện<br /> trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ giải quyết các<br /> vụ án hình sự cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc đó, trong đó cần chú trọng các nguyên<br /> tắc sau:<br /> Nguyên tắc thứ nhất, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa (Điều 3 Bộ luật Tố tụng hình sự<br /> (BLTTHS)).<br /> Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp đối<br /> với các vụ án hình sự, Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên phải tuân thủ nghiêm<br /> chỉnh các quy định của Bộ luật Hình sự và BLTTHS, bảo đảm tất cả hành vi tội phạm phải được<br /> truy cứu trách nhiệm hình sự; việc giải quyết của Cơ quan điều tra, VKS và Toà án phải bảo<br /> đảm tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.<br /> Nguyên tắc thứ hai, tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (Điều 4<br /> BLTTHS)<br /> Theo quy định của BLTTHS, khi tiến hành tố tụng, Viện trưởng, Phó Viện trưởng và<br /> Kiểm sát viên trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi<br /> <br /> ích hợp pháp của công dân; nếu thấy lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra không có căn cứ<br /> pháp luật thì VKS kiên quyết không phê chuẩn hoặc ra quyết định huỷ bỏ, đồng thời phải trả<br /> tự do ngay cho người bị bắt, tạm giữ, tạm giam.<br /> Nguyên tắc thứ ba, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 52 Hiến pháp năm<br /> 1992 và Điều 5 BLTTHS)<br /> Người tiến hành tố tụng trong VKSND phải "công minh, chính trực, khách quan, thận<br /> trọng" để việc giải quyết vụ án và hậu quả pháp lý của những người thực hiện hành vi trái<br /> pháp luật giống nhau phải chịu mức hình phạt như nhau.<br /> Nguyên tắc thứ tư, bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công<br /> dân (Điều 7 BLTTHS)<br /> Khi giải quyết vụ án hình sự, Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên VKSND căn cứ<br /> chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ người<br /> bị hại, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ<br /> khi tính mạng, sức khoẻ của người đó bị đe doạ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của họ bị xâm<br /> phạm.<br /> Nguyên tắc thứ năm, xác định sự thật khách quan của vụ án (Điều 10 BLTTHS)<br /> Theo nội dung của nguyên tắc này, Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên<br /> VKSND phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách<br /> quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội,<br /> những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.<br /> Nguyên tắc thứ sáu, trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng<br /> (Điều 12 BLTTHS)<br /> Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải<br /> nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về những<br /> hành vi, quyết định của mình.<br /> Nguyên tắc thứ bảy, bảo đảm quyền được bồi thường của người bi thiệt hại do cơ quan<br /> hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự gây ra (Điều 30)<br /> Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ trọng tâm công<br /> tác tư pháp cũng đã xác định: nơi nào để xảy ra tình trạng bắt, tạm giữ, tạm giam oan sai, thì<br /> VKS nơi đó phải chịu trách nhiệm bồi thường. Cụ thể hoá nội dung này, Luật trách nhiệm bồi<br /> thường nhà nước năm 2009, có hiệu lực từ 01/01/2010 cũng quy định rõ những trường hợp<br /> VKSND phải bồi thường khi người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự ở cơ quan mình để<br /> xảy ra oan sai.<br /> 1.2. Khái quát các quy định của pháp luật về người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự<br /> trong Viện kiểm sát nhân dân từ năm 1945 đến nay<br /> 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960<br /> Ngày 13/9/1945, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 33C về việc thành lập toà án quân<br /> sự, đây là cơ sở pháp lý đầu tiên của nhà nước dân chủ nhân dân, đánh dấu sự ra đời của hệ<br /> thống toà án, đồng thời cũng là văn bản pháp lý đầu tiên quy định về tổ chức và hoạt động<br /> của cơ quan công tố trong bộ máy nhà nước ta. Tại Điều V Sắc lệnh này quy định rõ chức<br /> năng công tố được tổ chức trong toà án quân sự: "Đứng buộc tội là một Uỷ viên quân sự hay<br /> một Uỷ viên của ban Trinh sát".<br /> Sau khi hoà bình đã được lập lại ở miền Bắc, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị<br /> định số 256-TTg quy định về tổ chức và nhiệm vụ của Viện công tố. Uỷ ban công tố làm việc<br /> theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đây là cơ sở để hình thành chức năng<br /> kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS ở các giai đoạn sau này.<br /> 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 2002<br /> Theo Luật tổ chức VKSND năm 1960 thì người tiến hành tố tụng trong VKSND hoạt<br /> động theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành, không lệ thuộc vào bất cứ<br /> cơ quan, tổ chức, cá nhân nào của nhà nước ở địa phương và thực hiện chế độ thủ trưởng .<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0