intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bắc Kạn

Chia sẻ: Tomhum999 Tomhum999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

18
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài là nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bắc Kạn và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bắc Kạn trong thời gian tới. Mời các bạn cùng tham khảo để nắm chi tiết nội dung của luận văn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bắc Kạn

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ……….../………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HÀ THỊ HỒNG NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CẤP TỈNH CỦA TỈNH BẮC KẠN Chuyên ngành : Quản lý công Mã số : 8 34 04 03 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI – NĂM 2020
  2. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN HỮU HẢI Phản biện 1: TS. Lê Văn Hòa Phản biện 2: TS. Lưu Anh Đức Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng họp D, Nhà A - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia. Số 77 - Đường Nguyễn Chí Thanh - Quận Đống Đa - TP. Hà Nội. Thời gian: Vào hồi 10 giờ ngày 15 tháng 9 năm 2020 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã chỉ rõ nhiệm vụ trọng tâm trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 là: “tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược, cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng”. Tầm quan trọng của việc cải thiện môi trường kinh doanh được thể hiện qua sự quyết tâm của Chính phủ, từ năm 2014 đến năm 2018 mỗi năm Chính phủ ban hành Nghị quyết 19 về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Và bắt đầu từ năm 2018, để thể hiện rõ tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ “bứt phá đầu tiên là thể chế”, ngay sau Nghị quyết số 01 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước hằng năm thì Nghị quyết về môi trường kinh doanh sẽ được lấy số 02, thay cho tên Nghị quyết 19. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bắc Kạn chưa có sự chuyển biến tích cực qua các năm, cụ thể: Năm 2013 xếp thứ 57/63 tỉnh thành; năm 2014, 2017, 2019 xếp thứ 59/63 tỉnh thành; năm 2015, 2016, 2018 xếp thứ 60/63 tỉnh thành. Trong xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ như hiện nay, yêu cầu nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh quốc gia nói chung và năng lực cạnh tranh của mỗi tỉnh, thành phố trong cả nước nói riêng là một nhiệm vụ cấp thiết nhằm tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, thu hút các nhà đầu tư, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt đối với các tỉnh còn nhiều khó khăn như Bắc Kạn. Với lý do trên, tôi chọn đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bắc Kạn” cho luận văn thạc sỹ của mình để nghiên cứu về thực trạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Bắc Kạn nhằm đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Cuốn “Nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” của TS. Nguyễn Thị Thu Hà (2009): Cuốn sách này đã nói lên vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói chung và ở Việt Nam nói riêng, từ đó nêu lên sự cần thiết tất yếu và một số giải pháp cơ bản nâng cao năng lực cạnh tranh của chính quyền cấp tỉnh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã biên soạn một số cuốn sách hướng dẫn, tham khảo có giá trị lý luận và thực tiễn trong việc đánh giá năng lực 1
  4. cạnh tranh của mỗi tỉnh, thành phố ở Việt Nam hiện nay, như ấn phẩm Sổ tay hướng dẫn sử dụng kết quả điều tra Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), cuốn sách này đã đưa ra những khái niệm về Chỉ số PCI, mục đích xây dựng, cách tiếp cận, tác động của PCI; Báo cáo PCI các năm từ năm 2005 đến năm 2018, trong các báo cáo đã nêu, bên cạnh việc chỉ rõ cách thức và các tiêu chí thực hiện đánh giá báo cáo đã nêu lên những nỗ lực của chính quyền các địa phương trong việc cải thiện và nâng cao điểm các tiêu chí thành phần trong Chỉ số năng lực tranh cấp tỉnh hằng năm. Và còn nhiều nghiên cứu khác đã tìm hiểu, đánh giá về năng lực cạnh tranh. Đây là một đề tài thu hút nhiều sự quan tâm không chỉ từ phía các địa phương mà còn từ cộng đồng doanh nghiệp. Những công trình nghiên cứu kể trên đã cung cấp cho độc giả những kiến thức cũng như những thông tin cần thiết về năng lực cạnh tranh nói chung và năng lực cạnh tranh cấp tỉnh nói riêng. Tại tỉnh Bắc Kạn, việc nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh là yêu cầu rất thiệt thực và thực sự cần thiết nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào tiếp cận, khai thác, tìm hiểu về thực trạng, cũng như đề xuất các giải pháp để giải quyết vấn đề này. Do đó, tác giả đã chọn đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bắc Kạn” để nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bắc Kạn và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bắc Kạn trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất, tổng quan những nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu, bao gồm cơ sở lý luận và thực tiễn, cơ sở pháp lý về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh tỉnh Bắc Kạn thông qua chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2019, từ đó chỉ ra những tồn tại, hạn chế dẫn đến năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bắc Kạn còn thấp. Thứ ba, đề xuất các giải pháp cụ thể nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Kạn trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu những yếu tố cấu thành, ảnh hưởng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bắc Kạn từ năm 2013 đến 2019. 2
  5. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Phương pháp luận Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, Nhà nước về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp, thống kê, phân tích, xử lý thông tin, so sánh để phân tích, đánh giá. Các phân tích dựa trên số liệu thu thập được từ nguồn cung cấp ở các Sở, ngành thuộc tỉnh Bắc Kạn (Văn phòng Đoàn ĐBQH, HĐND và UBND tỉnh; Sở Kế hoạch và Đầu tư; Sở Nội vụ; Sở Tư pháp; Sở Tài nguyên và Môi trường) và số liệu trong các tài liệu tham khảo khác của các nhà khoa học, các công trình nghiên cứu đã công bố. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Đề tài đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Đánh giá một cách khách quan thực trạng năng lực cạnh tranh của tỉnh Bắc Kạn thông qua bộ chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, xác định các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bắc Kạn, từ đó đưa ra giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Các giải pháp được đề xuất trong đề tài luận văn sẽ góp phần cải thiện phương thức quản lý của chính quyền, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh, thu hút đầu tư, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình tiếp cận, hoạt động, sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương tỉnh Bắc Kạn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được cấu trúc gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở khoa học về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2013 – 2019. Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bắc Kạn. 3
  6. Chƣơng 1 CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CẤP TỈNH 1.1. Tổng quan về năng lực cạnh tranh 1.1.1. Khái niệm cạnh tranh Theo từ điển Tiếng Việt, “cạnh tranh” là “cố giành phần hơn, phần thắng về mình giữa những người, tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau” [17,tr.144]. Theo K. Marx (1818-1883), nhà triết học, nhà tư tưởng và nhà hoạt động xã hội vĩ đại người Đức: “Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch” [4,tr.14]. Trong cuốn giáo trình Kinh tế chính trị Mác – LêNin (dành cho các khối ngành không chuyên Kinh tế - Quản trị kinh doanh trong các trường Đại học, cao đẳng) của Bộ Giáo dục và Đào tạo định nghĩa “cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa các chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình” [4,tr.48], theo đó, “trong nền sản xuất hàng hóa, sự cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa người sản xuất và người tiêu dùng là một tất yếu khách quan, là yêu cầu thường xuyên đối với những người sản xuất hàng hóa” [4,tr.48]. Trong phạm vi đề tài này, tác giả luận văn xin được tiếp cận khái niệm về cạnh tranh theo quan niệm cá nhân như sau: Cạnh tranh là cụm từ để miêu tả sự ganh đua của các chủ thể với nhau trong một môi trường nhất định, bằng cách thức và phương pháp khác nhau nhằm chiếm được lợi thế tối đa. 1.1.2. Năng lực cạnh tranh 1.1.2.1. Khái niệm, các cấp độ và tiêu chí đo lường năng lực cạnh tranh Theo từ điển Tiếng Việt, năng lực là “khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để làm một việc gì” [17,tr 598]. Khái niệm “năng lực cạnh tranh” theo từ điển Thuật ngữ kinh tế học “năng lực cạnh tranh là khả năng dành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng dành lại một phần hoặc toàn bộ thị phần của đồng nghiệp”[10,tr 349]. Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh, xét theo cấp độ có: Năng lực cạnh tranh Quốc gia, năng lực cạnh tranh ngành, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh sản phẩm. Trong phạm vi đề tài này, tác giả luận văn tiếp cận khái niệm về năng lực cạnh tranh theo quan niệm cá nhân như sau: Năng lực cạnh tranh là khả năng của một ngành, doanh nghiệp, địa phương hay một quốc gia phát huy những lợi thế sẵn có và nắm bắt được cơ hội để đưa ngành, doanh nghiệp, địa phương hay quốc gia đó ngày một phát triển ổn định và bền vững so với các ngành, doanh nghiệp khác cùng lĩnh vực hoặc với các địa phương khác trong cùng một lãnh thổ hoặc với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Nói về cấp độ, năng lực cạnh tranh có thể được phân thành 4 cấp độ: Thứ nhất, năng lực cạnh tranh ở tầm quốc gia. Năng lực cạnh tranh của quốc gia được xác định qua các tiêu chí trước hết là mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, đồng thời theo Diễn đàn Kinh tế thế giới, các yếu tố xác định khả năng cạnh tranh được chia làm 8 nhóm với 200 chỉ số khác nhau, cụ thể: 4
  7. Nhóm 1: Các nhóm chỉ số liên quan đến mức độ mở cửa nền kinh tế (như thuế, mức độ nhập khẩu, chính sách tỷ giá hối đoái). Nhóm 2: Nhóm các yếu tố liên quan đến vai trò và hoạt động của chính phủ (bao gồm mức độ can thiệp của Nhà nước, năng lực của Chính phủ, thuế và mức độ trốn thuế, chính sách tài khóa). Nhóm 3: Các yếu tố về tài chính (bao gồm các nội dung về khả năng thực hiện các hoạt động trung gian tài chính, hiệu quả, rủi ro tài chính, chính sách tiết kiệm). Nhóm 4: Các yếu tố về công nghệ (xét năng lực phát triển công nghệ của quốc gia, khả năng khai thác và phát triển công nghệ). Nhóm 5: Các yếu tố về kết cấu hạ tầng như giao thông liên lạc, kết cấu hạ tầng khác. Nhóm 6: Các yếu tố quản trị (chỉ số và quản trị nguồn nhân lực và các yếu tố không liên quan đến nguồn nhân lực). Nhóm 7: Các yếu tố về lao động (bao gồm các chỉ số về trình độ tay nghề, sự linh hoạt của thị trường lao động). Nhóm 8: Các yếu tố về thể chế (các thể chế về pháp lý, các luật và văn bản pháp luật). Thứ hai, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đánh giá qua các chỉ tiêu như: Thị phần, tức là phần thị trường mà doanh nghiệp chiếm trong tổng dung lượng thị trường. Chỉ tiêu này càng lớn thì sự chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp càng rộng. Năng suất lao động. Thông qua chỉ tiêu này có thể đánh giá được trình độ quản lý, trình độ lao động và cả trình độ công nghệ của doanh nghiệp. Lợi nhuận và tỉ suất lợi nhuận. Lợi nhuận là một phần dôi ra của doanh thu sau khi đã trừ đi các chi phí dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận của doanh nghiệp càng lớn thì sự phát triển và ổn định của doanh nghiệp đó càng cao. Uy tín của doanh nghiệp. Uy tín của doanh nghiệp sẽ được khẳng định qua sự tin tưởng của các bạn hàng, số lượng các bạn hàng và đối tác làm ăn, đăc biệt là số lượng khách hàng lớn. Trong thị trường, uy tín của doanh nghiệp được đánh giá nổi bật nhất qua thương hiệu. Mục tiêu của các doanh nghiệp là doanh thu, thị phần và lợi nhuận, nhưng để đạt được các mục tiêu đó, doanh nghiệp phải tạo được uy tín của mình trên thị trường, tạo được vị thế của mình trong mắt các bạn hàng. Thứ ba, năng lực cạnh tranh của ngành. Đối với năng lực cạnh tranh ngành phụ thuộc vào các yếu tố từ nội tại như chiến lược phát triển ngành, sản phẩm, công nghệ, mối quan hệ với các bạn hàng đến các yếu tố bên ngoài như thể chế, lãi suất, tỷ giá, nguyên liệu đầu vào, nhu cầu của người tiêu dùng, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, các yếu tố tự nhiên như thời tiết, thiên tai,v.v… Thứ tư, năng lực cạnh tranh sản phẩm. Năng lực cạnh tranh sản phẩm được đánh giá và so sánh trên cơ sở các tiêu chí cơ bản như giá thành và giá cả sản phẩm, chất lượng sản phẩm, hệ thống phân phối và uy tín doanh nghiệp; các tiêu chí mang tính định lượng như thị phần của sản phẩm trên thị trường trong từng năm, mức sản lượng, doanh thu, mức chênh lệch về giá; các tiêu chí mang tính định tính như mức chênh lệch về chất lượng của sản phẩm so với đối thủ cạnh tranh, mức độ hấp dẫn của sản phẩm về mẫu mã, kiểu cách, chủng loại, ấn tượng về hình ảnh nhãn hiệu hàng hóa của nhà sản xuất. 5
  8. *Giữa các cấp độ năng lực cạnh tranh có mối quan hệ ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Năng lực cạnh tranh quốc gia là điều kiện cần thiết để các ngành, các doanh nghiệp và sản phẩm phát triển bền vững và cải thiện năng lực cạnh tranh của mình. Đồng thời, nhờ sự phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm, của ngành, của doanh nghiệp thì năng lực cạnh tranh quốc gia ngày càng được nâng cao. Đặc biệt, vào năm 2014, nhằm cải thiện khả năng cạnh tranh quốc gia của Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã đưa Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh vào là một mục tiêu nhằm cải thiện khả năng cạnh tranh quốc gia trong Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/03/2014 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Qua đó, việc nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh có ý nghĩa, vai trò to lớn trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. 1.1.2.2. Ý nghĩa của năng lực cạnh tranh trong phát triển Trong quá trình phát triển, năng lực cạnh tranh có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bởi: Thứ nhất, năng lực cạnh tranh tạo nền tảng cho sự cạnh tranh có lợi thế, tạo sự phát triển ổn định và bền vững. Thứ hai, năng lực cạnh tranh có ý nghĩa rất lớn đối với việc thúc đẩy quá trình phát triển, đó chính là thực lực và lợi thế của một doanh nghiệp, địa phương, ngành hay quốc gia với đối thủ cạnh tranh. Thứ ba, năng lực cạnh tranh là điều kiện cần trong phát triển. 1.2. Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 1.2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Theo TS. Nguyễn Đình Dương, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh “là khả năng của các tỉnh sử dụng nguồn lực nhằm thu hút đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở lợi thế của địa phương trong mối quan hệ liên kết với những địa phương khác trong phạm vi quốc gia” [7,tr.19]. Trong cuốn “Nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” của TS. Nguyễn Thị Thu Hà thì năng lực cạnh tranh cấp tỉnh là “khả năng thu hút đầu tư, tạo lập môi trường thuận lợi, thông thoáng, lành mạnh trong phát triển kinh tế của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”. [9, tr.153]. Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh thực chất là khả năng của một tỉnh (một địa phương) phát huy được những lợi thế sẵn có và tận dụng các cơ hội thu hút các nguồn lực để đạt được mục tiêu quan trọng là tăng trưởng và phát triển. Nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh là sự đổi mới hoạt động, thay đổi cách thức quản lý của chính quyền địa phương để góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư. Một tỉnh có năng lực cạnh tranh cao thể hiện ở sự hấp dẫn về đầu tư và kinh doanh đối với các doanh nghiệp, nhà đầu tư, tạo lập được môi trường kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đó. 1.2.2. Các yếu tố cấu thành và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Một, yếu tố vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên. Hai, yếu tố thể chế, chính trị. Ba, yếu tố văn hóa, giáo dục, y tế, lao động. Bốn, cơ sở hạ tầng, bao gồm giao thông vận tải, điện, nước, viễn thông. 6
  9. Năm, yếu tố liên quan đến vai trò, vị thế và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Sáu, việc huy động, sử dụng và phát huy những nguồn lực bên trong và bên ngoài của địa phương vào phát triển kinh tế xã hội. Bẩy, sự năng động của lãnh đạo địa phương. 1.2.3. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh là chỉ số đánh giá và xếp hạng chính quyền cấp tỉnh về chất lượng điều hành kinh tế và xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc phát triển doanh nghiệp. 1.2.3.1. Vai trò của Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Kể từ lần đầu tiên nghiên cứu và công bố Chỉ số PCI năm 2005 cho tới nay, có ít nhất Năm tác động lớn mà PCI đã đạt được là: PCI thay đổi tư duy về điều hành PCI tạo công cụ giám sát hiệu quả PCI là động lực cho sự thay đổi. PCI thúc đẩy hợp tác và chia sẻ. PCI góp phần tạo dựng hình ảnh và uy tín cho các địa phương trong việc tạo dựng môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi. 1.2.3.2. Đặc điểm của chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Thứ nhất, bằng cách loại trừ ảnh hưởng của các điều kiện truyền thống ban đầu tới sự tăng trưởng kinh tế của một tỉnh (vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng, quy mô của thị trường và nguồn nhân lực), nghiên cứu PCI chỉ ra rằng thực tiễn điều hành kinh tế tốt ở cấp tỉnh có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của một tỉnh. Thứ hai, chỉ số PCI khuyến khích chính quyền các tỉnh cải thiện chất lượng công tác điều hành trên cơ sở các thực tiễn điều hành kinh tế tốt, sẵn có mà không dựa trên một mô hình lý tưởng nào cả. Thứ ba, bằng cách so sánh đối chiếu giữa các thực tiễn điều hành với kết quả phát triển kinh tế, chỉ số PCI giúp lượng hóa tầm quan trọng của các thực tiễn điều hành kinh tế tốt đối với thu hút đầu tư và tăng trưởng. Thứ tư, các chỉ tiêu cấu thành chỉ số PCI được thiết kế theo hướng dễ hành động, đây là những chỉ tiêu cụ thể cho phép các cán bộ công chức của tỉnh, thành phố đưa ra các mục tiêu phấn đấu khả thi nhất có thể. Thứ năm, cung cấp một công cụ theo dõi, đánh giá hữu ích đối với những nỗ lực cải cách tại các tỉnh, thành phố. 1.2.3.3. Các yếu tố cấu thành Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh bao gồm 10 chỉ số thành phần, 111 chỉ tiêu, với thang điểm 100 nhằm đánh giá và xếp hạng các tỉnh về chất lượng điều hành cấp tỉnh. Những chỉ số đó là: Một là, chi phí gia nhập thị trường. Hai là, tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất. Ba là, tính minh bạch. Bốn là, chi phí thời gian. Năm là, chi phí không chính thức. Sáu là, tính năng động của lãnh đạo tỉnh. 7
  10. Bảy là, dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp. Tám là, chính sách đào tạo và chất lượng lao động. Chín là, cạnh tranh bình đẳng. Mười là, thiết chế pháp lý. 1.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 1.3.1. Khái niệm nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh chính là việc triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp để cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh, khẳng định niềm tin với doanh nghiệp, nhà đầu tư về nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh tại địa phương. 1.3.2. Quy trình nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Bước 1: Xác định mục tiêu, mục đích hướng tới của việc nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Bước 2: Đánh giá tổng thể thực trạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của địa phương. Bước 3: Xác định được các nhiệm vụ, giải pháp cần thực hiện để nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Bước 4: Phân công nhiệm vụ cụ thể và dự liệu các phương án. 1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 1.4. Kinh nghiệm của một số địa phƣơng trong việc nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 1.4.1. Kinh nghiệm của tỉnh Thái Nguyên 1.4.2. Kinh nghiệm của tỉnh Vĩnh Long 1.4.3. Kinh nghiệm của tỉnh Bắc Ninh 1.4.4. Kinh nghiệm của tỉnh Bắc Giang 1.4.5. Bài học kinh nghiệm rút ra cho tỉnh Bắc Kạn Tiểu kết Chƣơng 1 Trong Chương 1, tác giả đã nêu lên cơ sở khoa học về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, trong đó phân tích làm sáng tỏ những khái niệm cơ bản về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Tuy đã có nhiều nghiên cứu cơ bản về năng lực cạnh tranh nhưng với nghiên cứu, tiếp cận về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh riêng của tác giả, tác giả đã đưa ra cách nhìn nhận và cách hiểu riêng về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Trong chương này, tác giả cũng đã nêu lên chi tiết về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh hiện nay đang được đánh giá theo cách thức thực hiện của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, về quy trình xây dựng, các chỉ số thành phần, đặc điểm và cách đánh giá của chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Đồng thời, tác giả cũng nêu lên các yếu tố ảnh hưởng đến chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, cũng như ý nghĩa của năng lực cạnh tranh trong phát triển. Bên cạnh các cơ sở khoa học về năng lực cạnh tranh, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, tác giả luận văn cũng tìm hiểu thực tế, nghiên cứu, tìm hiểu về điều kiện kinh tế xã hội, kinh nghiệm của một số địa phương trong việc thực hiện và nâng cao hiệu quả năng lực cạnh tranh (Thái Nguyên, Vĩnh Long, Bắc Ninh, Bắc Giang), qua đó rút ra được những kinh nghiệm, bài học thiết thực giúp cho tỉnh Bắc Kạn có được những giải pháp căn cơ, hữu hiệu để nâng cao năng lực cạnh tranh. Đây là tiền đề, cơ sở để luận văn tiếp tục đi sâu phân tích thực trạng và đề ra giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bắc Kạn trong các chương tiếp theo. 8
  11. Chƣơng 2 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CẤP TỈNH CỦA TỈNH BẮC KẠN GIAI ĐOẠN 2013 - 2019 2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Kạn ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Kạn 2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên a. Vị trí địa lý Bắc Kạn là tỉnh miền núi của vùng Trung du miền núi phía Bắc, nằm ở trung tâm vùng Đông Bắc Bắc Bộ; phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng; phía Đông giáp tỉnh Lạng Sơn; phía Nam giáp tỉnh Thái Nguyên; phía Tây giáp tỉnh Tuyên Quang; cách thủ đô Hà Nội 160 km.Bắc Kạn có 8 đơn vị hành chính gồm 1 thành phố và 7 huyện (thành phố Bắc Kạn và các huyện: Chợ Mới, Bạch Thông, Ba Bể, Pác Nặm, Ngân Sơn, Na Rì, Chợ Đồn, trong đó có 02 huyện nghèo 30ª), với tổng số 122 xã, phường và thị trấn (trong đó có 60 xã đặc biệt khó khăn; 13 xã thuộc 03 huyện là vùng CT229 và năm 2017 có thêm 13 xã thuộc 04 huyện được quy hoạch vị trí sơ tán của các bộ, ngành Trung ương). b. Địa hình, sông ngòi Tỉnh Bắc Kạn với trên 90% diện tích là đồi núi, là tỉnh có địa hình đa dạng, phức tạp, thấp dần từ Bắc – Tây Bắc xuống Nam – Tây Nam, nhiều núi cao, cao hơn các tỉnh xung quanh, độ cao trung bình 500 - 600m so với mực nước biển và bị chi phối bởi các mạch núi cánh cung (cánh cung Ngân Sơn, cánh cung Sông Gâm) kéo dài từ Bắc đến Nam ở hai phía Tây và Đông của tỉnh. Tỉnh Bắc Kạn có hệ thống sông, suối dày đặc, bao gồm lưu vực của ba hệ thống sông: Hệ thống sông Thái Bình gồm Sông Cầu và các nhánh của sông Cầu; hệ thống sông Kỳ Cùng bao gồm các nhánh sông Bắc Giang và sông Na Rì; hệ thống sông Lô gồm các nhánh sông Năng, sông Gâm, sông Phó Đáy. Phần lớn hệ thống sông của Bắc Kạn là đầu nguồn, do yếu tố địa hình nên các sông đa số ngắn và có độ dốc lớn, lòng sông, suối hẹp, nhiều thác ghềnh. c. Khí hậu Bắc Kạn nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, có sự phân hóa khí hậu theo mùa rõ rệt. Mùa mưa nóng ẩm từ tháng 5 đến tháng 10; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình từ 20 đến 22℃. Vào mùa mưa với lượng mưa tập trung lớn, các sông, suối ngắn và độ dốc lớn, lòng sông hẹp nên thường xảy ra sụt lở, trượt đất, lũ quét. d. Tài nguyên thiên nhiên Theo thống kê, trên địa bàn toàn tỉnh có tới 273 mỏ, điểm mỏ khoáng sản với 24 loại khoáng sản khác nhau có trữ lượng lớn như chì kẽm, sắt, vàng, đá vôi xi măng, đá trắng, thạch anh. Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 485.996 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 94,53%, đất phi nông nghiệp chiếm 3,98%, đất chưa sử dụng chiếm 1,49%. Đến nay diện tích rừng trồng trên địa bàn tỉnh là 97.161,9 ha, là một trong những tỉnh có độ che phủ cao nhất cả nước (72,6%) và bảo vệ hơn 200.000 ha rừng tự nhiên với 9
  12. chất lượng rừng khá phong phú, đa dạng sinh học, lưu giữ nhiều nguồn gen động thực vật quý hiếm. đ. Tài nguyên du lịch Là tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch sinh thái gắn với cảnh quan thiên nhiên và văn hóa dân gian, lịch sử. Bắc Kạn còn có nhiều di tích lịch sử được hình thành qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ với các địa danh được xếp hạng cấp Quốc gia. Bắc Kạn còn có nhiều cảnh quan thiên nhiên đa dạng, hệ sinh thái động thực vật phong phú, sông hồ, hang động đẹp như: Hồ Ba Bể, Đền An Mã, Động Puông, Động Hua Mạ, Thác Đầu Đẳng (huyện Ba Bể), hồ sinh thái Bản Chang, Thác Nà Khoang (huyện Ngân Sơn), khu bảo tồn thiên nhiêm Kim Hỷ, Động Nàng Tiên (huyện Na Rì),… 2.1.1.2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội a. Tăng trưởng kinh tế Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt khoảng 6,0%/năm, cơ cấu kinh tế ngành Nông nghiệp chiếm 34%, Công nghiệp chiếm 17%, Dịch vụ chiếm 48%. GRDP bình quân đầu người đến hết năm 2018 đạt 30,4 triệu đồng, bằng 52% so với cả nước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2011-2020 dự ước đạt 6,3%/năm, trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản ước đạt 5,9%/năm; khu vực công nghiệp - xây dựng đạt 3,4%/năm; khu vực dịch vụ đạt 7,6%/năm. Giai đoạn 2016-2020 tổng giá trị gia tăng GRDP đạt khoảng 39 triệu đồng, bằng 80% so mức GRDP bình quân đầu người của vùng Trung du và miền núi phía Bắc và bằng 55% so GRDP bình quân đầu người của cả nước. Năm 2019, tổng giá trị gia tăng GRDP (theo giá so sánh năm 2010) ước đạt 7.040 tỷ đồng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp – xây dựng và khu vực dịch vụ. GRDP bình quân đầu người tỉnh Bắc Kạn năm 2019 đạt 34,2 triệu đồng. Cơ sở hạ tầng nông thôn được đầu tư khá đồng bộ, đời sống và thu nhập ở khu vực nông thôn tăng trưởng khá. Hệ thống giao thông nội tỉnh được đầu tư xây dựng khá đồng bộ. Những năm trở lại đây, ngành công nghiệp tỉnh Bắc Kạn có những bước phát triển đáng kể, bước đầu khai thác được một số tiềm năng thế mạnh. Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh bình quân tăng 9,0%/năm. Hiện nay tỉnh đang quy hoạch 7 cụm công nghiệp khác, thu hút đầu tư và xây dựng kinh doanh hạ tầng cụm công nghiệp. Cùng với đó, hệ thống điện lưới quốc gia và hệ thống thông tin liên lạc đã được đầu tư khá toàn diện, rộng khắp. Kết cấu hạ tầng ngành bưu chính viễn thông trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn đã tương đối phát triển, đảm bảo thông tin liên lạc trong nước và quốc tế thông suốt. Dịch vụ ngân hàng và bảo hiểm trên địa bàn tỉnh đáp ứng được nhu cầu cho thị trường tài chính với nhiều loại hình dịch vụ mới. b. Phát triển doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn Số doanh nghiệp thực tế đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn là 492 doanh nghiệp, trong đó có 11 doanh nghiệp nhà nước, 480 doanh nghiệp ngoài nhà nước và 10
  13. 01 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực bán buôn bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và các xe có động cơ khác (171/492 doanh nghiệp); lĩnh vực xây dựng có 152 doanh nghiệp; hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ có 48 doanh nghiệp; lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo có 45 doanh nghiệp; lĩnh vực khai khoáng có 19 doanh nghiệp, còn lại là các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực cung cấp nước, xử lý rác thải, sản xuất phân phối điện, khí đốt, tài chính, bất động sản, hành chính và dịch vụ hỗ trợ,… c. Phát triển xã hội Năm 2019, tổng dân số tỉnh Bắc Kạn là 313.905 người, là tỉnh có dân số ít nhất cả nước. Trải qua 10 năm, dân số tỉnh Bắc Kạn tăng thêm 20.079 người; mật độ dân số 65 người/km, đứng thứ 60 cả nước. Toàn tỉnh có trên 82.800 hộ dân, quy mô hộ bình quân 3,8 người/hộ. Tỷ số giới tính là 104 nam/100 nữ. Toàn tỉnh có 20,75% dân số sống ở thành thị. Diện tích nhà ở bình quân đầu người đạt 24,4 m2/người. Bắc Kạn có 7 dân tộc anh em cùng chung sống trong đó dân tộc thiểu số chiếm hơn 86%, các dân tộc cùng chung sống. Công tác lao động, việc làm, giảm nghèo và các chính sách an sinh xã hội cơ bản đạt được mục tiêu đề ra. Hằng năm tạo việc làm mới cho trên 5.000 lao động. Tỷ lệ giảm nghèo hằng năm đạt từ 2-2,5%, các huyện nghèo giảm từ 3-4%. Tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh năm 2019 là 16.003/80.276 hộ chiếm tỷ lệ 19,93% (giảm 1,95% so với năm 2018), tỷ lệ cận nghèo là 8.668/80.276 hộ chiếm tỷ lệ 10,80% (giảm 1,02% so với năm 2018). Công tác cải cách hành chính được các cấp các ngành quan tâm, tỉnh tập trung chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, nội dung cải cách hành chính, qua đó Chỉ số cải cách hành chính tỉnh Bắc Kạn năm 2017 và 2018 đứng thứ 49/63 tỉnh, thành phố. Chỉ số PAPI tỉnh Bắc Kạn năm 2018 đứng thứ 28/63 tỉnh, thành phố trên cả nước. 2.1.2. Khó khăn thách thức đối với năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bắc Kạn Thứ nhất, là tỉnh giàu tiềm năng nhưng chưa được khai thác hợp lý, xuất phát điểm thấp. Thứ hai, cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến nhưng chưa có bước đột phá, nền kinh tế còn chủ yếu dựa vào nông, lâm nghiệp. Thứ ba, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, chưa đồng bộ, chưa tạo được sức hấp dẫn đối với nguồn đầu tư từ bên ngoài. Thứ tư, nguồn thu của tỉnh còn khó khăn, chủ yếu dựa vào nguồn lực đầu tư của Trung ương nên hiện nay vẫn là tỉnh khó khăn nhất cả nước. Thứ năm, tỉnh có trên 80% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, trình độ học vấn còn hạn chế, thiếu đội ngũ lao động kỹ thuật, công nhân lành nghề và các nhà kinh doanh am hiểu, thích nghi với cơ chế thị trường. Đây là những rào cản đối với việc ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ vào sản xuất và đời sống cũng như việc thực hiện các chính sách và thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh. 2.2. Thực tế năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bắc Kạn 2.2.1. Thể chế hiện hành về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 2.2.2. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bắc Kạn trong cả nước và khu vực 11
  14. Năm 2019 tỉnh Bắc Kạn xếp thứ 59/63 tỉnh, thành phố trong cả nước và nằm trong nhóm Trung bình. Năm 2015, 2016 và 2018 tỉnh Bắc Kạn xếp thứ 60/63 tỉnh, thành phố, riêng năm 2013 xếp thứ 57/63, năm 2014 và 2017 xếp thứ 59/63. Điểm số của tỉnh Bắc Kạn còn một khoảng cách rất xa so với các tỉnh đạt trên 60 điểm, chỉ tính trong nhóm Trung bình, điểm số của tỉnh Bắc Kạn xếp thứ 19/20, đồng thời điểm số của tỉnh Bắc Kạn chỉ xếp trên 3 tỉnh mà trong đó có 2 tỉnh nằm trong nhóm Tương đối thấp. Khu vực miền núi phía Bắc là nơi có năng lực cạnh tranh thấp nhất so với cả nước. Đồng thời, đây cũng là nơi có sự chênh lệch khá lớn, chỉ có 5 tỉnh nằm trong nhóm Khá, 1 tỉnh nằm trong nhóm Tương đối thấp, 8 tỉnh nằm trong nhóm Trung bình, trong đó có tỉnh Bắc Kạn. Xét trong khu vực miền núi phía Bắc thì tỉnh Bắc Kạn có điểm số thấp nhất trong số 8 tỉnh nằm trong nhóm Trung bình. 2.2.3. Kết quả Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2013 – 2019 Từ năm 2013 đến 2019, Bắc Kạn luôn có điểm Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh nằm trong nhóm Thấp và Tương đối thấp, tuy xếp hạng năm 2019 nằm trong nhóm Trung bình nhưng nhìn chung thứ hạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Bắc Kạn không ổn định và chưa có sự bứt phá. Năm 2019 ghi nhận sự nỗ lực cải cách của chính quyền tỉnh khi điểm số và thứ hạng PCI đã có sự tăng nhẹ từ nhóm Tương đối thấp lên nhóm Trung bình, tuy nhiên mới chỉ tăng 9,3 điểm so với năm 2013. Điều này cho thấy chất lượng điều hành kinh tế của tỉnh đã có sự cải thiện song chưa có sự thay đổi tích cực và mang tính đột phá, do đó cần phải xem xét, phân tích các chỉ tiêu thành phần của chỉ số PCI và tìm hiểu nguyên nhân làm điểm số PC của Bắc Kạn đạt thấp để từ đó có những giải pháp để nâng cao điểm số PCI, cải thiện năng lực cạnh tranh của tỉnh, tạo sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. 2.2.4. Đánh giá các chỉ số thành phần trong Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của tỉnh Bắc Kạn 2.2.4.1. Chỉ số gia nhập thị trường Chỉ tiêu chi phí gia nhập thị trường của Bắc Kạn có điểm số cao nhất so với 9 chỉ tiêu còn lại của chỉ số PCI. Kết quả này cho thấy chính quyền tỉnh Bắc Kạn đã có những nỗ lực đáng kể nhằm đơn giản hóa các thủ tục đăng ký, thành lập doanh nghiệp, đồng thời xây dựng, cải thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của Bộ phận một cửa. So sánh giữa các năm từ năm 2013 đến năm 2018, điểm số của chỉ số này bị giảm mạnh vào năm 2017 so với các năm trước, chỉ đạt 6,25 điểm, trong khi đó từ năm 2013 đến 2016 điểm số lần lượt là 7,95; 8,10; 8,18 và 8,11. Năm 2018, điểm số của chỉ số này có tăng nhưng không đáng kể, đạt 7,00 điểm (tăng 0,75 điểm). Tại tỉnh Bắc Kạn, theo kết quả khảo sát từ doanh nghiệp, thời gian cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp bình quân là 7 ngày, thời gian đăng ký thay đổi doanh nghiệp bình quân là 11,5 ngày, tuy nhiên theo thông báo kết quả theo dõi hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, riêng trong năm 2017 thì thời gian cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp bình quân tại Bắc Kạn là 1,56 ngày, thời gian đăng ký thay đổi doanh nghiệp bình quân là 1,37 ngày. Các cán bộ công chức tại Bộ phận một cửa (tiếp nhận và trả kết quả các thủ tục liên quan đến cấp giấy chứng 12
  15. nhận đăng ký kinh doanh) trình độ chuyên môn còn hạn chế, có hiện tượng kém thân thiện và nhiệt tình, hướng dẫn không được rõ ràng và đầy đủ. Bên cạnh đó, theo kết quả khảo sát, chỉ có 3,7% số doanh nghiệp thực hiện đăng ký doanh nghiệp qua hình thức trực tuyến. Từ những đánh giá trên cho thấy hệ thống cơ sở pháp lý liên quan đến đăng ký doanh nghiệp còn chưa đầy đủ, rõ ràng, gây khó khăn cho doanh nghiệp (về thời gian đăng ký, các giấy phép con,…), việc hỗ trợ hướng dẫn doanh nghiệp trong giải quyết các vấn đề liên quan chưa được thực hiện tốt. 2.2.4.2. Tiếp cận đất đai và ổn định trong sử dụng đất Qua điểm số PCI các năm từ 2013 đến 2018 cho thấy, Bắc Kạn có sự thụt lùi đáng kể trong lĩnh vực này. Nếu như năm 2013, đạt số điểm 7,39 thì năm 2017 chỉ đạt 5,13 điểm, 2018 đạt 6,60 điểm. Điểm chỉ số này không có sự ổn định, doanh nghiệp đánh giá việc tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh và việc tiếp nhận và giải quyết các thủ tục liên quan đến đất đai trên địa bàn tỉnh tương đối khó khăn. Rõ ràng, quản lý đất đai của địa phương theo cảm nhận của doanh nghiệp, nhà đầu tư vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập, đặc biệt là việc giải quyết thủ tục liên quan đến đất đai, mặt bằng sạch và tâm lý e ngại bị thiệt khi đền bù và giải phóng mặt bằng, chính điều này đã gây cản trở cho việc thu hút đầu tư và mở rộng đầu tư của các doanh nghiệp, nhà đầu tư. 2.2.4.3. Chi phí không chính thức Đây là lĩnh vực Bắc Kạn có điểm số cao nhất trong vòng 5 năm trở lại đây (năm 2018 đạt 5,78 điểm). Quan điểm của tỉnh là tạo mọi điều kiện tốt nhất cho doanh nghiệp hoạt động, phát triển, nhưng thực tế vẫn nảy sinh những vấn đề gây khó khăn cho doanh nghiệp. Thời gian qua, Bắc Kạn đã thực hiện nhiều giải pháp để phòng, chống tham nhũng nhưng đâu đó vấn đề này vẫn còn tồn tại trong các cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh, để tạo được môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi và thông thoáng cho doanh nghiệp và nhà đầu tư thì chính quyền tỉnh cần thiết phải hạn chế được tình trạng tham nhũng, giảm chi phí không chính thức xuống thấp nhất có thể. 2.2.4.4. Chi phí thời gian Năm 2018, so với các tỉnh trong khu vực, Bắc Kạn chỉ hơn tỉnh Cao Bằng 0,28 điểm và xếp sau 12 tỉnh trong khu vực về chỉ tiêu chi phí thời gian để thực hiện các quy định của nhà nước. Theo kết quả khảo sát năm 2018, Bắc Kạn được các doanh nghiệp ghi nhận và đánh giá cao ở việc niêm yết công khai các khoản phí, lệ phí chiếm 92%, thời gian thực hiện thủ tục hành chính được rút ngắn hơn so với quy định chiếm 60% và phần trăm doanh nghiệp sử dụng hơn 10% tổng thời gian làm việc để tìm hiểu và thực hiện các quy định của nhà nước giảm từ 37% năm 2017 xuống còn 33% năm 2018. Tuy nhiên các chỉ số về cán bộ công chức giải quyết công việc hiệu quả chỉ chiếm 63%, cán bộ công chức thân thiện, doanh nghiệp không phải đi lại nhiều lần để hoàn tất thủ tục và thủ tục giấy tờ đơn giản chiếm tới 57%. Tỷ lệ doanh nghiệp bị thanh, kiểm tra từ 5 cuộc trở lên trong năm trên địa bàn tỉnh đã giảm từ 14% năm 2017 xuống còn 9% năm 2018, đồng thời nội dung thanh kiểm tra bị trùng lặp giảm còn 14%, thanh kiểm tra tạo cơ hội cho cán bộ nhũng nhiễu doanh nghiệp cũng giảm chỉ còn 19%. Tuy nhiên, số giờ trung vị cho mỗi cuộc 13
  16. làm việc với thanh tra, kiểm tra lại tăng từ 24 giờ năm 2017 lên 40 giờ năm 2018 (tăng 16 giờ). Thời gian qua Bắc Kạn chú trọng công tác cải cách hành chính, đặc biệt năm 2017 điểm chỉ số cải cách hành chính của tỉnh tăng 11 bậc so với năm 2016, những nỗ lực trong công tác cải cách hành chính bước đầu đã tạo được cảm nhận tích cực từ phía cộng đồng các doanh nghiệp và nhà đầu tư. 2.2.4.5. Tính minh bạch Sau 2 năm liên tục giảm điểm (2013 và 2014), từ năm 2015 tính minh bạch và tiếp cận thông tin bắt đầu tăng mạnh đạt 6,17 điểm và tiếp tục tăng đến năm 2018 đạt 6,67 điểm. So với các tỉnh khác trong khu vực, năm 2018 Bắc Kạn đứng 3/14 tỉnh miền núi phía Bắc, chỉ sau Điện Biên, Tuyên Quang. Việc cung cấp thông tin cho doanh nghiệp được tỉnh quan tâm thực hiện bằng nhiều hình thức. Tuy nhiên qua kết quả khảo sát năm 2018 cho thấy, tỷ lệ doanh nghiệp truy cập vào website của tỉnh đạt tới 80% nhưng điểm số về độ mở và chất lượng trang web của tỉnh chỉ đạt 28,5%, điểm số này còn thấp hơn điểm số đánh giá năm 2017 (đạt 34,5%). So sánh mức điểm và nhu cầu của doanh nghiệp, nhà đầu tư thì Bắc Kạn còn cần phải nỗ lực quan tâm hơn nữa đến việc nâng cấp website để trở thành kênh cung cấp thông tin hữu ích cho doanh nghiệp, nhà đầu tư. 90% doanh nghiệp cho rằng các tài liệu về ngân sách được công bố ngay sau khi cơ quan, cá nhân có thẩm quyền phê duyệt và đủ chi tiết để các doanh nghiệp sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Điểm số này tăng mạnh so với các năm trước đó. Tuy nhiên, đối với các tài liệu quy hoạch thì doanh nghiệp rất khó tiếp cận. Nếu tính theo thang điểm 5 trong đó điểm 1 là không thể tiếp cận và điểm 5 là rất dễ tiếp cận, thì điểm tiếp cận tài liệu quy hoạch của tỉnh chỉ đạt 2,44 điểm, thấp hơn chỉ tiêu của các tài liệu pháp lý là 3,11 điểm. Nếu so sánh với năm 2017, tiếp cận tài liệu quy hoạch và tài liệu pháp lý đã sụt giảm, tuy không nhiều nhưng nói lên sự công khai, minh bạch các thông tin, tài liệu này khá khó khăn, có tới 68% doanh nghiệp cho rằng phải cần có “mối quan hệ” mới có được các tài liệu của tỉnh và không phải sẽ được cung cấp ngay sau khi đề nghị mà phải mất tới 4 ngày và chỉ có 79% doanh nghiệp sẽ nhận được thông tin, văn bản sau khi đề nghị cơ quan nhà nước tại địa phương cung cấp. Không chỉ thiếu tính minh bạch, công khai về các thông tin, tài liệu hay các quy định ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà việc thực thi các quy định tại tỉnh cũng rất hạn chế và doanh nghiệp rất khó đoán biết, từ năm 2015 luôn dưới 10% doanh nghiệp chắc chắn dự liệu được việc thực thi của tỉnh đối với các quy định pháp luật của Trung ương (năm 2015 chỉ có 2,70%, năm 2016 9,09%, năm 2017 4%, năm 2018 8%). Có tới 51% doanh nghiệp cho rằng phải “thỏa thuận” khoản thuế phải nộp với cán bộ thuế là công việc quan trọng, điều đáng nói tỷ lệ này lại có xu hướng tăng dần qua các năm. Việc doanh nghiệp khó khăn trong dự đoán chính sách cũng như phải thực hiện thương lượng với cán bộ nhà nước trong hoạt động kinh doanh của mình sẽ làm giảm đi nỗ lực của tỉnh trong quá trình cải thiện tính minh bạch, công bằng, sự ổn định trong việc thực thi các quy định của nhà nước và chính sách, định hướng phát triển của tỉnh. 14
  17. Về tổng thế, chỉ số tính minh bạch được cải thiện rõ rệt trong thời gian qua là “tin vui” về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Bắc Kạn, qua đó môi trường kinh doanh tại địa phương sẽ góp phần làm tăng lòng tin vào hiệu quả quản trị của chính quyền địa phương, tăng tính bình đẳng về cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư. 2.2.4.6. Mức độ cạnh tranh bình đẳng Về tổng điểm, sau 2 năm (2014, 2015) giảm điểm mạnh so với năm 2013, thì bắt đầu từ năm 2016 đến năm 2018, tổng điểm của chỉ số cạnh tranh bình đẳng của tỉnh Bắc Kạn đã có sự chuyển biến nhờ có sự thay đổi tích cực của các tiêu chí như tạo điều kiện cho việc thực hiện các thủ tục hành chính, thủ tục cấp phép, thu hút đầu tư dưới mọi hình thức cả bên trong và ngoài nước, tạo sự công bằng trong việc cung ứng các nguồn lực cũng như lắng nghe, quan tâm giải quyết các vướng mắc cho doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn (từ năm 2016, mỗi năm lãnh đạo tỉnh đều chủ động tổ chức từ 2 đến 5 hội nghị gặp mặt, giải quyết những khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn tỉnh). Trong khu vực, Bắc Kạn đứng thứ hai về điểm chỉ số cạnh tranh bình đẳng, chỉ sau tỉnh Tuyên Quang. Điều này cho thấy những nỗ lực của tỉnh trong thời gian qua nhằm tạo sự cạnh tranh bình đẳng trong môi trường kinh doanh, đảm bảo sự bình đẳng giữa khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế Nhà nước, giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ, giữa doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hợp tác, cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật. 2.2.4.7. Tính năng động Điểm chỉ số tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh chưa có sự chuyển biến tích cực, vẫn luôn nằm trong nhóm thấp của cả nước, năm 2018, Bắc Kạn chỉ đạt 4,88 điểm, thấp hơn 2,93 điểm so với tỉnh có số điểm cao nhất và hơn tỉnh có số điểm thấp nhất chỉ có 0,68 điểm, đứng thứ 59/63 tỉnh, thành phố trong cả nước (thấp điểm hơn là các tỉnh Điện Biên, Hà Tĩnh, Bình Phước và Cao Bằng) và đứng thứ 12/14 tỉnh thành trong khu vực miền núi phía Bắc. Theo khảo sát của PCI, tỷ lệ doanh nghiệp cho rằng lãnh đạo tỉnh vận dụng pháp luật linh hoạt nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho kinh tế tư nhân cao nhất vào năm 2014 (đạt 66%), năm 2015, 2016 duy trì ở mức 65% và tỷ lệ này giảm vào các năm 2017, 2018 (chỉ đạt 63%). Tỷ lệ doanh nghiệp cho rằng lãnh đạo tỉnh năng động và sáng tạo để giải quyết các vấn đề mới phát sinh từ năm 2013 đến năm 2018 dao động trong mức 43 đến 47% (cao nhất là 47% năm 2013, thấp nhất là 43% năm 2017). Cảm nhận của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh về thái độ tích cực đối với khu vực kinh tế tư nhân cũng nhhiều biến động, không ổn định qua nhiều năm. Năm 2013, 45% doanh nghiệp đồng ý cho rằng tỉnh có thái độ tích cực đối với khu vực kinh tế tư nhân, tỷ lệ này giảm trong năm 2014 xuống còn 31%, nhưng các tăng dần qua các năm sau đó (năm 2015 là 32%, năm 2016 là 38%, năm 2017 là 40%, năm 2018 là 43%). 15
  18. Theo kết quả điều tra năm 2018, 78% doanh nghiệp đồng ý có sáng kiến hay ở cấp tỉnh nhưng chưa được thực thi tốt ở các sở, ngành; 46% doanh nghiệp đồng ý lãnh đạo tỉnh có chủ trương, chính sách đúng đắn nhưng chưa được thực hiện tốt ở cấp huyện, thị. Hằng năm tỉnh Bắc Kạn tổ chức thường xuyên các hội nghị đối thoại, gặp mặt doanh nghiệp để lắng nghe những khó khăn và ý kiến đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp về môi trường đầu tư, công tác điều hành của chính quyền địa phương, do đó, tỷ lệ doanh nghiệp đồng ý rằng doanh nghiệp nhận được phản hồi của cơ quan nhà nước tỉnh sau khi phản ánh khó khăn vướng mắc chiếm tỷ lệ cao (97%), tuy nhiên số doanh nghiệp đồng ý với những khó khăn, vướng mắc được tháo gỡ kịp thời thông qua đối thoại doanh nghiệp còn ở mức trung bình (chỉ có 55%), cùng với đó chỉ có 63% tỷ lệ doanh nghiệp hài lòng với phản hồi và cách giải quyết của cơ quan nhà nước. 2.2.4.8. Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp Theo kết quả đánh giá của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thì năm 2013 tỉnh Bắc Kạn có điểm số thấp nhất (3,89 điểm), năm 2017 đạt điểm số cao nhất (6,32 điểm). Điểm chỉ số này của Bắc Kạn xếp thứ 61/63 tỉnh, thành phố trong cả nước và xếp thứ 13/14 tỉnh, thành phố khu vực miền núi phía Bắc trong năm 2013; đến năm 2018, Bắc Kạn xếp thứ 63/63 tỉnh, thành phố trong cả nước và cũng là tỉnh có điểm số thấp nhất trong khu vực miền núi phía Bắc. Điều này chỉ ra một sự thật đáng báo động trong lĩnh vực điều hành của chính quyền địa phương khi mà nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh nhưng dịch vụ hỗ trợ cho doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Những năm qua, cùng với những chính sách của Nhà nước, Bắc Kạn đã thực hiện các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp thông qua các chương trình khuyến nông, chính sách tín dụng, ưu đãi, tập huấn kỹ thuật, cung cấp thông tin,….Từ thực tế và kết quả trên cho thấy, các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp tại tỉnh chưa thật sự đem lại hiệu quả cao, điều này có ảnh hưởng nhất định đến việc đáp ứng các điều kiện cho phát triển doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. 2.2.4.9. Đào tạo lao động Doanh nghiệp đánh giá giáo dục phổ thông tại tỉnh có chất lượng tăng, cụ thể: 58% doanh nghiệp đánh giá giáo dục phổ thông của tỉnh có chất lượng tốt, đây là mức cao nhất trong 5 năm gần đây (năm 2017 là 52%; năm 2016 là 43%, năm 2015 là 46%, năm 2014 là 41%, năm 2013 là 38%); tuy nhiên chỉ có 32% doanh nghiệp đồng ý với đánh giá giáo dục dạy nghề tại tỉnh có chất lượng tốt. Hiện nay, tỉnh Bắc Kạn đã tăng cường mối liên kết giữa doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo để lao động đào tạo xong có thể sử dụng phù hợp với mục đích và ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó nâng cao dần tỷ lệ lao động qua đào tạo trên số lao động chưa qua đào tạo (tỷ lệ này năm 2013 là 1,86%, năm 2018 đã tăng lên 4%). 16
  19. 2.2.4.10. Thiết chế pháp lý và an ninh trật tự Điểm số thiết chế pháp lý và an ninh trật tự của Bắc Kạn được xếp ở mức trung bình (năm 2018 đạt 6,50 điểm; tỉnh có điểm cao nhất của cả nước đạt 7,92 điểm, thấp nhất là 6,34 điểm). Năm 2017, 2018 là 2 năm ghi nhận sự cải thiện đáng kể điểm số của tiêu chí này sau 2 năm 2015, 2016 bị giảm điểm (2015 đạt 6,04 điểm, 2016 đạt 5,61 điểm) so với năm 2014 (đạt 6,12 điểm). Tỷ lệ doanh nghiệp tin tưởng hệ thống pháp luật sẽ đảm bảo quyền tài sản và thực thi hợp đồng của doanh nghiệp rất cao, đạt tới 90, 67% vào năm 2016, năm 2018 đạt 86%, tuy nhiên đánh giá về cơ chế giúp doanh nghiệp tố cáo cán bộ nhũng nhiễu còn ở mức thấp, mức cao nhất chỉ đạt 36,84% (năm 2015). Tiêu chí mới được bổ sung năm 2017, 2018 trong chỉ số thiết chế pháp lý và an ninh trật tự để đánh giá khách quan hơn về việc xử lý của lãnh đạo tỉnh đối với cán bộ nhũng nhiễu khi doanh nghiệp tố cáo, theo đó, chỉ có 31% doanh nghiệp tin tưởng rằng lãnh đạo tỉnh sẽ không bao che, nghiêm túc kỷ luật cán bộ nhũng nhiễu doanh nghiệp. Tiêu chí về an ninh trật tự là tiêu chí mới được bổ sung đánh giá từ năm 2017, theo đó, Bắc Kạn được 77% các doanh nghiệp đánh giá là tỉnh có an ninh trật tự tốt, trong năm 2018 chỉ có 6% doanh nghiệp bị trộm tài sản và 86% doanh nghiệp bị trộm tài sản được cơ quan công an hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết hậu quả vụ trộm tài sản. 2.3. Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2013 - 2019 2.3.1. Kết quả đạt được Qua việc xem xét, đánh giá những chỉ số thành phần, các chỉ tiêu cụ thể cấu thành các chỉ số ấy cho thấy, trong giai đoạn 2013 – 2019, chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh đã có sự thay đổi qua các năm, có tăng có giảm nhưng mức độ không lớn. Tuy vậy, giai đoạn này cũng ghi nhận sự nỗ lực trong quản lý, điều hành của chính quyền địa phương trong một số lĩnh vực như cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính. Với việc thành lập các Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại các cơ quan hành chính nhà nước, việc tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp đã dễ dàng, thuận lợi; các thủ tục hành chính được hệ thống hóa ở cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã, được công bố, công khai trực tiếp tại các cơ quan hành chính nhà nước và trên Cổng thông tin điện tử của các địa phương, đơn vị. Các thủ tục hành chính hằng năm được rà soát, cắt giảm thời gian thực hiện, kiến nghị giảm bớt các hồ sơ, giấy tờ trùng lặp, không cần thiết, giảm phiền hà, bớt nhũng nhiễu trong tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính. Chính quyền địa phương còn đẩy mạnh công khai các văn bản pháp luật, các thông tin, tài liệu cần thiết cho kinh doanh, thu hút đầu tư; triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh như mặt bằng sản xuất, vay vốn, hỗ trợ rủi ro,…. Nỗ lực cải cách đã được ghi nhận khi năm 2017 chỉ số cải cách hành chính của tỉnh Bắc Kạn tăng 11 bậc so với năm 2016, điều này sẽ tạo tiền 17
  20. đề, cơ hội để Bắc Kạn đẩy mạnh hơn nữa việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Trong năm 2018, trong số 10 chỉ số thành phần của Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, có 9 chỉ số tăng điểm. Những năm qua, lãnh đạo tỉnh đã nỗ lực cải thiện sự năng động và tiên phong trong quản lý, điều hành, cơ cấu kinh tế của tỉnh tiếp tục có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng của khu vực nông lâm nghiệp thủy sản và tăng dần tỷ trọng của khu vực công nghiệp xây dựng và dịch vụ. Tốc độ phát triển kinh tế của tỉnh bình quân đạt khoảng 6,0%/năm. Năm 2019 GRDP bình quân đầu người tỉnh Bắc Kạn đạt 34,2 triệu đồng; giá trị sản xuất công nghiệp đạt 1.264 tỷ đồng; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 6,5 triệu USD; tuyển mới và đào tạo nghề cho 6.000 lao động, tư vấn, giới thiệu việc làm cho trên 6.100 người; thành lập Trung tâm Xúc tiến đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả hỗ trợ doanh nghiệp, nhà đầu tư. 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1. Những tồn tại, hạn chế Thứ nhất, trong giai đoạn 2013 - 2019, trong số 10 chỉ số thành phần của Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, có một số chỉ số thành phần có điểm số và thứ hạng xếp ở vị trí rất thấp, thuộc nhóm cuối bảng xếp hạng cả nước như: Chỉ số dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp (năm 2018 xếp thứ 63/63 tỉnh, thành phố), chi phí thời gian (năm 2019 xếp thứ 63/63 tỉnh, thành phố), tính năng động (năm 2019 xếp thứ 54/63 tỉnh, thành phố) nhưng nhìn chung năng lực cạnh tranh của tỉnh Bắc Kạn chưa có sự thay đổi bứt phá (trong khi mục tiêu của Đại hội Đảng bộ tỉnh là phấn đấu năm 2020 là nằm trong nhóm thuộc địa phương có chất lượng điều hành khá). Thứ hai, tuy lãnh đạo tỉnh đã nỗ lực cải thiện sự năng động và tiên phong trong quản lý, điều hành nhưng chưa thỏa mãn được đa số những mong mỏi của doanh nghiệp và nhà đầu tư. Các cơ quan quản lý nhà nước chưa thực sự tích cực, chủ động trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong sản xuất kinh doanh và nghiên cứu đầu tư, nhất là hỗ trợ trong việc tiếp nhận và giải quyết thủ tục về đất đai, công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng; một số chính sách của tỉnh chưa tạo được môi trường kinh doanh thuận lợi để thu hút đầu tư. Việc phối hợp giải quyết công việc giữa các sở, ban ngành, các cấp trên địa bàn tỉnh còn nhiều bất cập, tính năng động sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề mới phát sinh của lãnh đạo các cơ quan chức năng còn hạn chế. Bên cạnh đó, tinh thần “phục vụ” của cán bộ công chức thực hiện còn nhiều hạn chế. Thứ ba, nhiều doanh nghiệp còn gặp tình trạng nhũng nhiễu khi giải quyết thủ tục hành chính; còn một số doanh nghiệp bị thanh, kiểm tra từ 5 cuộc trở lên trong 1 năm; nội dung thanh, kiểm tra còn bị trùng lặp. Trong thời gian qua, tỉnh Bắc Kạn đã nỗ lực thực hiện công tác cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính, kiểm soát thủ tục hành chính, tăng cường công khai, minh bạch các quy trình, thủ tục, cơ quan giải quyết thủ tục hành chính, đánh giá mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp về thủ tục hành 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2