Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại ở tỉnh Phú Thọ
lượt xem 4
download
Đề tài tập trung phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về GQKN từ năm 2014 đến nay; chỉ rõ những hạn chế, bất cập, những vấn đề vướng mắc nảy sinh từ quy định pháp luật đến thực tiễn cần phải tháo gỡ và nguyên nhân của tình hình đó. Từ đó, đề tài đã luận giải và đề xuất phương hướng, giải pháp cụ thể nhằm tăng cường quản lý nhà nước về GQKN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại ở tỉnh Phú Thọ
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ NGA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI Ở TỈNH PHÚ THỌ Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 60 34 04 03 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI – NĂM 2018
- Công trình đƣợc hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: TS Bùi Thị Thanh Thúy Phản biện 1: Phó GS,TS. Nguyễn Thị Thu Hà Học viện hành chính Quốc Gia Phản biện 2: TS. Trần Nghị, Bộ Nội vụ Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: tại Phòng họp 344 nhà A, Học viện Hành chính Quốc gia Số: 77 - Đường Nguyễn Chí Thanh- Quận Đống Đa – TP Hà Nội Thời gian: vào hồi 8giờ 00, ngày 04 tháng 4 năm 2018 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web của Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước, một trong những nhiệm vụ trọng tâm được Đảng và Nhà nước quan tâm là quản lí và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Khiếu nại là biểu hiện cụ thể của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mà ở đó công dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước. Bảo đảm quyền khiếu nại gắn với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân phải được bảo đảm thực hiện, mọi hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào cũng đều bị dư luận xã hội lên án mà cao hơn là sự phản ứng của công dân - những người làm chủ thực sự của nền dân chủ đó. Sự phản ứng của công dân được thể hiện thông qua hành vi khiếu nại mà Nhà nước trao cho họ. Khiếu nại là quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận mang tính Hiến định. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện quyền khiếu nại, có trách nhiệm giải quyết khiếu nại của công dân nhằm mục đích quản lí nhà nước được tốt hơn. Trong các biện pháp đảm bảo quyền khiếu nại công tác giải quyết khiếu nại có vai trò, vị trí quan trọng, đồng thời góp phần trực tiếp đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, giữ vững ổn định trật tự xã hội. Hiện nay, tình hình khiếu nại của công dân vẫn đang diễn biến phức tạp, xảy ra ở tất cả các địa phương trong cả nước, nhiều vụ việc công dân tập trung khiếu nại đông người gây ảnh hưởng trật tự, an toàn xã hội. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã ra Thông báo số 130-TB/TW ngày 10/01/2008 lãnh đạo thực hiện một số giải pháp quan trọng nhằm tăng cường và phát huy trách nhiệm của các cấp ủy và thủ trưởng các cơ quan nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại. Thực hiện nhiệm vụ đã được Bộ Chính trị đặt ra, hoạt động quản lý công tác giải quyết khiếu nại cần phải được tăng cường. Hơn thế, khiếu nại đang là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong công tác quản lý nhà nước. Kể từ khi Nhà nước Việt Nam độc lập được thành lập và khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, các cấp, các ngành đã tích cực xây dựng, thực hiện pháp luật, trong đó có Luật Khiếu nại, tố cáo, góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của công dân. Điều đó đã góp phần giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và thúc đẩy nền kinh tế - xã hội của đất nước phát triển. Tuy nhiên, trong những năm gần đây tình hình khiếu nại diễn biến đa dạng, phức tạp, cả về nội dung, tính chất, mức độ. Khiếu nại đông người, vượt cấp có xu hướng gia tăng, gay gắt, quyết liệt hơn. Đây không chỉ là vấn đề riêng của một địa phương, một ngành hay một lĩnh vực nào. Khiếu nại xảy ra một cách thường xuyên từ cơ sở đến Trung ương, ở tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước. Tại các trụ sở tiếp dân của cơ quan nhà nước, người dân thường xuyên tập trung rất đông để khiếu nại, tố cáo. Có nhiều trường hợp người dân còn kéo đến nhà của các đồng chí lãnh đạo 1
- Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các đồng chí lãnh đạo chính quyền các cấp để khiếu nại, tố cáo. Thực trạng trên có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu là: do một số cơ chế, chính sách, pháp luật còn có những bất cập; chưa đảm bảo tính thống nhất, tính đồng bộ, có nhiều điểm chưa phù hợp với thực tiễn; việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật và nhất là Luật Khiếu nại, tố cáo còn có những tồn tại, hạn chế; nhiều vụ việc giải quyết không đúng chính sách, pháp luật, thiếu tính thuyết phục, giải quyết không dứt điểm; trình độ, kiến thức, năng lực và kinh nghiệm của một bộ phận cán bộ, công chức còn hạn chế; trách nhiệm thực thi nhiệm vụ, công vụ chưa cao; trình độ dân trí ở một số nơi còn thấp, không đồng đều, một bộ phận công dân thiếu tôn trọng và vi phạm pháp luật; việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật ở nhiều nơi, nhiều lúc không kịp thời, kiên quyết, triệt để... Do đó kỷ cương pháp luật không được coi trọng, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức bị xâm hại. Là một tỉnh có diện tích và quy mô dân số khá nhỏ nhưng Phú Thọ lại là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Diễn biến về việc khiếu nại trong tỉnh những năm gần đây lại khá phức tạp dẫn đến ảnh hưởng trong việc quản lí của các cơ quan trong tỉnh và nhà nước gặp rất nhiều bất lợi. Tuy nhiên, nhiều vụ việc người dân vẫn không hài lòng với kết quả giải quyết của cơ quan hành chính địa phương nên tiếp tục khiếu tố lên Trung ương. Thực trạng và nguyên nhân khiếu nại; giải quyết khiếu nại ở Phú Thọ có những điểm chung như các địa phương của cả nước song cũng có nhiều nét riêng biệt. Trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bộ máy nhà nước chưa thể hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu của người dân một cách tốt nhất. Những hạn chế về năng lực, đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức; về việc chưa xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước có hiệu quả cao; đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn và sự hạn chế trong nhận thức của người dân đã làm cho khiếu nại trở thành vấn đề mang tính thời sự. Điều đó cho thấy hiệu quả quản lý nhà nước của chúng ta chưa cao. Vì thế, tăng cường quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại là biện pháp cấp bách để nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại ở Việt Nam nói chung và tỉnh Phú Thọ nói riêng. Xuất phát từ những lí do trên, tác giả đã chọn đề tài “Quản lí nhà nước về giải quyết khiếu nại ở tỉnh Phú Thọ” để thực hiện Luận văn cao học chuyên ngành Quản lý hành chính công. 2. Tình hình nghiên cứu Quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại là một đề tài không mới nhưng có tính thời sự cao. Chính vì vậy có nhiều đề tài, công trình khoa học đã nghiên cứu, tiếp cận ở những góc độ nhất định như: - Đề tài “Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước” do TS. Trần Đức Lượng, Phó Tổng thanh tra làm chủ nhiệm đề tài 2
- (năm 2002) đã đánh giá hệ thống tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong đó có việc GQKN. - Đề tài “Khiếu nại, tố cáo hành chính - cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp” do TS. Lê Tiến Hào, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ làm Chủ nhiệm (năm 2011) đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan trực tiếp đến quyền khiếu nại, tố cáo hành chính và cơ bảo đảm thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo hành chính. - Đề tài “Cải cách thủ tục hành chính trong tổ chức tiếp công dân và GQKN” do nguyên Phó Tổng thanh tra Lê Đình Đấu làm Chủ nhiệm (năm 1999). - Đề tài “Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước về GQKN và chống tham nhũng” do Phạm Văn Khanh làm chủ nhiệm (năm 2004) đề cập đến công tác thanh tra trách nhiệm GQKN… Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể, đầy đủ cả về quản lý nhà nước về khiếu nại ở một địa phương, mà cụ thể là ở tỉnh Phú Thọ dưới góc độ khoa học quản lý công. Vì là đề tài không mới nên Luận văn này được thực hiện có dựa trên việc tham khảo, tiếp thu có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình trước đó, tuy vậy đề tài “Quản lí nhà nước về giải quyết khiếu nại ở tỉnh Phú Thọ” vẫn có những nét riêng biệt của nó. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ khung lý thuyết, phân tích thực trạng quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại ở tỉnh Phú Thọ, từ đó đề xuất một số các giải pháp mang tính khả thi để có thể áp dụng trong việc tăng cường quản lí nhà nước về giải quyết khiếu nại của các cơ quan nhà nước ở tỉnh Phú Thọ. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt mục đích nghiên cứu trên, luận văn sẽ thực hiện các nhiệm vụ cụ thể: Phân tích những vấn đề lý luận chung về việc quản lý nhà nước và quản lý nhà nước về GQKN. Đề tài tập trung phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về GQKN từ năm 2014 đến nay; chỉ rõ những hạn chế, bất cập, những vấn đề vướng mắc nảy sinh từ quy định pháp luật đến thực tiễn cần phải tháo gỡ và nguyên nhân của tình hình đó. Từ đó, đề tài đã luận giải và đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về GQKN. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Quản lí nhà nước về giải quyết khiếu nại ở tỉnh Phú Thọ 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi thời gian: trong giai đoạn từ năm 2014 đến nay - Phạm vi không gian: tỉnh Phú Thọ - Phạm vi nội dung: Quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại tiếp cận ở ba khía 3
- cạnh: ban hành chính sách,pháp luật về giải quyết khiếu nại; tổ chức thực hiện và kiểm soát giải quyết khiếu nại. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật - biện chứng và duy vật - lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng và chủ trương chính sách của Nhà nước về quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về GQKN nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong khi thực hiện đề tài là: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê và điều tra xã hội học,.... 6. Ý nghĩa và dự kiến những đóng góp của luận văn Luận văn tiếp cận nghiên cứu tổng quát về quản lí nhà nước trong việc giải quyết quyền khiếu nại; đi từ lý luận đến thực tiễn. Đây là đề tài nghiên cứu có hệ thống về quản lí của nhà nước về tình hình khiếu nại và công tác giải quyết khiếu nại ở tỉnh Phú Thọ. Luận văn sẽ giúp cho các nhà quản lý của Phú Thọ nhìn nhận một cách chân thực về bức tranh khiếu nại cũng như những mặt đã làm được, chưa làm được, nguyên nhân của tồn tại trong công tác giải quyết khiếu nại. Những giải pháp mà Luận văn đưa ra sẽ giúp những nhà lãnh đạo, những người đang được giao trách nhiệm giải quyết khiếu nại tại các địa phương nói chung và Phú Thọ nói riêng áp dụng để nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại góp phần ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Luận văn còn là tài liệu để những nhà khoa học nghiên cứu phát triển chế định pháp luật về khiếu nại,nghiên cứu so sánh về thực trạng; giải pháp giải quyết khiếu nại nhằm phục vụ công tác quản lí của nhà nước. Bên cạnh đó, Luận văn còn có thể được đưa vào làm tài liệu giảng dạy và học tập trong các trường Đại học, cao đẳng; các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn. 7. Bố cục của Luận văn Ngoài phần mở đầu, hệ thống chữ viết tắt, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có kết cấu nội dung gồm 3 chương, cụ thể như sau: Chương 1. Cơ sở lý luận của quản lí nhà nước về giải quyết khiếu nại Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại ở tỉnh Phú Thọ Chương 3. Phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại ở tỉnh Phú Thọ 4
- CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ GIẢI QUYẾT KHIỀU NẠI 1.1. Giải quyết khiếu nại - phƣơng thức bảo đảm pháp chế, kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nƣớc 1.1.1. Khái niệm khiếu nại và giải quyết khiếu nại 1.1.1.1. Khái niệm khiếu nại Theo Luật Khiếu nại 2011 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: "Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình" (khoản 1 Điều 2). Với quy định về khái niệm khiếu nại của Luật Khiếu nại 2011, có thể thấy một số điểm bất cập như sau: - Về chủ thể khiếu nại: công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức. Việc quy định như vậy, vô hình chung loại bỏ một chủ thể là người nước ngoài. Mặt khác, cán bộ, công chức cũng là công dân nên không thể dùng từ “hoặc” như trong khái niệm. - Về đối tượng khiếu nại: quyết định hành chính được hiểu với phạm vi quá hẹp, chỉ bao hàm quyết định hành chính của cơ quan hành chính nhà nước. Trong khi đó thực tiễn quản lý quyết định hành chính không chỉ cơ quan hành chính nhà nước mà còn cơ quan khác ban hành như: Toà án, Viện kiểm sát, Văn phòng Chủ tịch nước. Mặt khác với quy định về đối tượng khiếu nại như vậy, thì tên gọi Luật khiếu nại là không phù hợp. Như vậy, khiếu nại theo quy định của Luật Khiếu nại 2011 thực chất là các khiếu nại hành chính. Các khiếu nại trong lĩnh vực tư pháp, khiếu nại trong các đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, tổ chức xã hội chưa được điều chỉnh trong luật này. Từ sự phân tích trên có thể quan niệm: Khiếu nại là một hình thức cá nhân, tổ chức yêu cầu cá nhân, tổ chức có thẩm quyền khi có căn cứ cho rằng quyết định hay hành vi của những cơ quan, tổ chức này xâm phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Căn cứ đối tượng khiếu nại, khiếu nại được chia thành hai loại: khiếu nại hành chính và khiếu nại tư pháp. Trong đó, khiếu nại hành chính là hình thức cá nhân, tổ chức yêu cầu cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính hay hành vi hành vi hành chính của những cơ quan, tổ chức này xâm phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Phạm vi luận văn này tập trung nghiên cứu về khiếu nại hành chính. 5
- 1.1.1.2. Khái niệm giải quyết khiếu nại Theo quy định tại khoản 11 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011:"Giải quyết khiếu nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại". Khái niệm GQKN dưới góc độ pháp lý khá cô đọng, xúc tích nhưng chưa thể hiện đầy đủ bản chất, chủ thể tham gia. Xuất phát từ khái niệm khiếu nại, có thể quan niệm: giải quyết khiếu nại là một hoạt động mang tính quyền lực nhà nước do cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thực hiện bao gồm một chuỗi các thủ tục nhất định từ thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật. Như vậy, khiếu nại là quyền, là hành vi của các chủ thể như cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân, còn hoạt động giải quyết khiếu nại là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, chỉ được thực hiện bởi người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Từ khái niệm trên đã cho thấy giải quyết khiếu nại có những đặc điểm sau: Một là, chủ thể GQKN là cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành theo một thủ tục pháp lý do pháp luật quy định. Hai là, GQKN là trách nhiệm của cơ quan nhà nước nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Ba là, thông qua hoạt động GQKN xem xét tính đúng, sai, hợp lý hay không không lý của quyết định hành chính và hành vi hành chính; từ đó bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. 1.1.2. Vai trò của giải quyết khiếu nại trong quản lý hành chính nhà nước Thứ nhất, thông qua việc giải quyết khiếu nại góp phần đảm bảo pháp chế, kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước. Thứ hai, giải quyết tốt khiếu nại góp phần phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, trật tự xã hội và quốc phòng, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Thứ ba, giải quyết khiếu nại góp phần nâng cao năng lực của đội ngũ công chức nhà nước trong cơ quan hành chính nhà nước và hiệu lực hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước. Thứ tư, giải quyết khiếu nại chính là hình thức bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân; là phương thức giúp người khiếu nại bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ, giải quyết khiếu nại đúng đắn, kịp thời góp phần củng cố niềm tin của người dân vào Đảng và Nhà nước nói chung và bộ máy cơ quan hành chính nói riêng. Xuất phát từ vai trò của giải quyết khiếu nại trong quản lý hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp người đến khiếu nại, kiến nghị, phản ánh; tiếp nhận và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật khiếu nại; xử lý nghiêm minh người vi phạm; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo đảm cho quyết định GQKN được thi hành nghiêm chỉnh và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.Thông qua công tác giải quyết khiếu nại của công dân, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không những phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh 6
- các hành vi tham nhũng mà còn phát hiện và khắc phục được những kẽ hở trong cơ chế quản lý, chính sách tạo cơ hội và tiềm ẩn cho tham nhũng, tiêu cực phát sinh. Làm tốt công tác giải quyết khiếu nại là một biện pháp thiết thực, phát huy sức mạnh của nhân dân - một nhân tố quan trọng đảm bảo cho thắng lợi của cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay. 1.2. Quản lý nhà nƣớc về giải quyết khiếu nại 1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại Quản lý nhà nước, có thể hiểu là sự tác động có tổ chức, có hệ thống bằng pháp luật nhằm điều chỉnh có hiệu lực, hiệu quả các mối quan hệ xã hội theo ý chí của Nhà nước. Trong quá trình tác động điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật, Nhà nước thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát để không ngừng loại trừ những hành vi không hợp pháp ra khỏi đời sống xã hội, đồng thời thông qua đó để tự điều chỉnh bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Từ sự phân tích trên có thể hiểu: QLNN về giải quyết khiếu nại chính là sự tác động định hướng của cơ quan hành chính nhà nước lên quá trình khiếu nại và giải quyết khiếu nại của công dân, cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức Nhà nước nhằm mục đích hướng các hoạt động này phát triển theo quy định của pháp luật, hướng đến mục tiêu ổn định trật tự xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đấu tranh chống lại hành vi vi phạm pháp luật và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. 1.2.2. Chủ thể quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại Như vậy, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thống nhất quản lý nhà nước trên các lĩnh vực trong đó có GQKN. Ở các bộ, Bộ trưởng là người chịu trách nhiệm QLNN về GQKN trong phạm vi quản lý của bộ. Ở địa phương, UBND là cơ quan QLNN trong phạm vi lĩnh vực của địa phương. Giúp việc cho Chính phủ, UBND và Bộ trưởng, hệ thống cơ quan thanh tra là cơ quan chuyên môn giúp thủ trưởng cơ quan QLNN cùng cấp quản lý công tác giải quyết khiếu nại. 1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại Thứ nhất, ban hành chính sách, pháp luật về giải quyết khiếu nại Việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật đối với một lĩnh vực thể hiện dưới nhiều hình thức và do các cơ quan khác nhau thực hiện, phụ thuộc và thẩm quyền của các cơ quan đó. Quốc hội có thẩm quyền ban hành Luật, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh, Chính phủ ban hành nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định, chỉ thị… Khiếu nại là lĩnh vực quan trọng, là quyền cơ bản của con người và công dân. Do vậy, để thể chế hoá quyền này, Quốc hội đã ban hành văn bản pháp luật dưới hình thức pháp điển hoá cao nhất là Luật. Tiếp theo là các văn bản pháp quy của Chính phủ và các cơ quan cấp dưới ban hành, tạo nên hệ thống các văn bản pháp luật về lĩnh vực này. Luật của Quốc hội và nghị định của Chính phủ là cơ sở để các cơ quan Nhà nước khác ban hành các văn bản hướng dẫn về công tác, tổ chức, nghiệp vụ giải quyết khiếu nại. 7
- Thứ hai, thực hiện chính sách, pháp luật về giải quyết khiếu nại Việc thực hiện chính sách, pháp luật về GQKN bao gồm một số nội dung sau: Một là, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về KN nhằm tạo ra sự chuyển biến về nhận thức, nâng cao ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật KN của CBCC và nhân dân. Tuyên truyền giáo dục pháp luật là quá trình tác động nhằm hình thành tri thức pháp lý tình cảm, hành vi phù hợp của công dân với đòi hỏi của pháp luật. Kết quả của việc tuyên truyền giáo dục là đạt được mục đích bằng sự tác động có định hướng, góp phần xây dựng ý thức pháp luật, đáp ứng các đòi hỏi khách quan bắt nguồn từ lợi ích của Nhà nước, xã hội và của mọi công dân. Ngoài việc, giúp CBCC nắm được quy định của pháp luật trong GQKN còn giúp người dân hiểu và thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình khi thực hiện quyền KN. Điều 112 Hiến pháp năm 1992 quy định Chính phủ có nhiệm vụ “Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân”. Điều 43 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định UBND có nhiệm vụ, quyền hạn “tuyên truyền, giáo dục pháp luật, kiểm tra việc chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp trong cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở địa phương”. Ngoài ra, pháp luật cũng quy định UBND các cấp có trách nhiệm tổ chức, lãnh đạo công tác phổ biến pháp luật và Hiến pháp trong nhân dân; UBND các cấp chịu trách nhiệm chỉ đạo công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở địa phương mình, dưới sự hướng dẫn thống nhất về chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và theo yêu cầu thực tế của địa phương. Như vậy, tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật là nhiệm vụ được quy định cụ thể cho các cơ quan hành chính Nhà nước từ Trung ương tới địa phương. Trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, các cấp chính quyền đóng vai trò hết sức quan trọng, mang tính quyết định đối với hoạt động này. Các cơ quan thanh tra có trách nhiệm tham mưu, giúp cơ quan quản lý Nhà nước cùng cấp thực hiện việc tuyên truyền pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Để việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật khiếu nại, tố cáo đạt hiệu quả thì cần phải có sự hỗ trợ tích cực từ phía các cấp chính quyền. Thực tế cũng cho thấy sự lãnh đạo của cấp Uỷ đảng và các cấp chính quyền không tách rời, trái lại gắn quyện và hỗ trợ cho nhau. Vì vậy, trong việc chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải đồng thời kết hợp với sự lãnh đạo của cấp Uỷ đảng với sự chỉ đạo của chính quyền địa phương. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật KN cần được triển khai bằng nhiều hình thức và được xác định rõ mục tiêu, nội dung, biện pháp, lộ trình thực hiện, phù hợp với thực tiễn và phải đạt mục tiêu chung là tạo ra sự chuyển biến căn bản trong nhận 8
- thức và nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; góp phần ngăn chặn và hạn chế hành vi vi phạm pháp luật về KN, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả GQKN. Việc tuyên truyền pháp luật về khiếu nại phải được thực hiện thường xuyên, liên tục, rộng khắp việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho mọi đối tượng, bao gồm: đội ngũ cán bộ, thanh tra viên trong ngành thanh tra, những người làm công tác thanh tra nhân dân, các doanh nghiệp và mọi tầng lớp nhân dân; Vận dụng các hình thức, biện pháp tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng cụ thể và có tính khả thi, đảm bảo thực hiện có hiệu quả trong từng thời gian nhất định; Hai là, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ đối với cơ quan nhà nước cấp dưới là nội dung của quản lý Nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại. Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ thì Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn công tác giải quyết khiếu nại với tất cả các tổ chức thanh tra. Việc hướng dẫn bảo đảm thống nhất trong thực hiện và áp dụng pháp luật về khiếu nại, bảo đảm nguyên tắc quản lý Nhà nước theo ngành và lĩnh vực, hướng dẫn, chỉ đạo về nghiệp vụ thể hiện qua việc ban hành các văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của các cơ quan thanh tra. Đặc biệt là hệ thống các văn bản của Thanh tra Chính phủ, bao gồm thông tư, chỉ thị, quyết định hướng dẫn việc giải quyết khiếu nại. Ba là, xây dựng lực lượng, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác giải quyết khiếu nại. GQKN của công dân là một nhiệm vụ quan trọng, trực tiếp giải quyết các vấn đề liên quan đến công dân; vì vậy, cần phải thường xuyên kiện toàn, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác GQKN. Để có được điều này thì một trong những giải pháp quan trọng là việc thường xuyên tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho CBCC làm công tác GQKN. Ngoài phổ biến các quy định được sửa đổi, bổ sung hay mới ban hành; còn cung cấp kiến thức, trao đổi kỹ năng, nghiệp vụ trong công tác xử lý đơn thư, GQKN trong thực thi công vụ; tạo điều kiện cho đội ngũ, cán bộ công chức có cơ hội chia sẻ kinh nghiệm và phương thức giải quyết đơn thư KN thông qua thực tế quá trình thực hiện nhiệm vụ tại cơ quan, đơn vị và địa phương. Bốn là, thông tin báo cáo; tổng kết kinh nghiệm công tác khiếu nại. Chế độ thông tin báo cáo là một trong những chế độ thiết yếu, quan trọng của quản lý, giúp người lãnh đạo đổi mới phong cách, phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo điều hành hoạt động của cơ quan, đơn vị; vì vậy, các cơ quan, đơn vị phải chấp hành nghiêm chế độ thông tin báo cáo nói chung và công tác GQKN nói riêng. Các báo cáo lĩnh vực KN phải đảm bảo chất lượng, nội dung thông tin, ngắn gọn, xúc tích, đánh giá rõ thực tế tình hình, kết quả thực hiện các mặt công tác, nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót, có số liệu dẫn chứng rõ ràng, đầy đủ... 9
- Việc tổng kết kinh nghiệm là nội dung QLNN về GQKN. Có thể nói rằng tổng kết kinh nghiệm và tổng hợp tình hình về công tác GQKN có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, công tác tổng hợp đạt chất lượng sẽ góp phần tạo cơ sở để có những thông tin cần thiết phục vụ công tác tổng kết, rút kinh nghiệm về GQKN. Tổng kết kinh nghiệm cần phải chỉ ra được ưu điểm, nhược điểm và nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong quá trình tổ chức, thực hiện các quy định pháp luật về GQKN; đồng thời làm rõ những ưu điểm, khuyết điểm hoặc sai sót, sơ hở trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật và chấp hành pháp luật của các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan. Đồng thời cũng phải nêu rõ những điểm bất cập, những điểm không phù hợp của pháp luật so với yêu cầu thực tiễn công tác GQKN, từ đó đề xuất các giải pháp sửa đổi, bổ sung pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả GQKN bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tóm lại, tổng kết và đánh giá về GQKN là nội dung của quản lý nhà nước. Hoạt động này giúp cơ quan quản lý Nhà nước có được các định hướng đúng đắn và lâu dài, có được các biện pháp hữu hiệu nhằm đẩy mạnh GQKN ở các cấp, các ngành. Qua tổng kết kinh nghiệm, nghiên cứu đề xuất giải pháp đổi mới phương pháp QLNN về KN, nâng cao hiệu quả GQKN của công dân là công việc hết sức cần thiết; đây sẽ là một yêu cầu đối với các cơ quan, tố chức, đơn vị có chức năng QLNN về GQKN của công dân. Thứ ba, kiểm soát thực hiện chính sách, pháp luật về giải quyết khiếu nại Kiểm soát việc thực hiện chính sách, pháp luật về GQKN được thực hiện chủ yếu qua phương thức thanh tra, kiểm tra, giám sát việc việc chấp hành pháp luật về KN. Thanh tra, kiểm tra là một giai đoạn quan trọng trong chu trình QLNN, là phương thức bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng cường kỷ luật và nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN. Ở đây, thanh tra, kiểm tra được hiểu là các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chủ động tiến hành thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giải quyết khiếu nại và tiến hành thanh tra, kiểm tra khi có yêu cầu của cơ quan Nhà nước cấp trên giao. Thanh tra, kiểm tra giải quyết KN là một mắt xích, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình QLNN về KN. Qua thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong GQKN sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm quản lý của các ngành, các cấp, đồng thời nắm bắt được tình hình KN và kết quả giải quyết ở các cơ quan, đơn vị thuộc thẩm quyền. Qua đó, thấy được các thiếu sót cũng như những vướng mắc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật để kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn hoặc đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền xử lý người thiếu trách nhiệm, chấp hành không đúng quy định pháp luật trong giải quyết KN. Qua đó cho thấy, quản lý về GQKN là nhiệm vụ của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền của CQHCNN trong hoạt động QLNN của mình. Nếu thực hiện QLNN về 10
- GQKN tốt thì có vai trò thúc đẩy hoạt động quản lý của CQHCNN tiến bộ và phù hợp với nhu cầu của xã hội. Ngược lại, nếu QLNN về GQKN không được quan tâm, giải quyết thiếu triệt để thì hậu quả kéo theo là hoạt động của CQHCNN không theo kịp nhu cầu của xã hội, không thể ổn định và thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, từ đó làm cho nền hành chính quốc gia kém phát triển, không theo kịp khu vực và thế giới. Hoạt động quản lý của CQHCNN thực chất là hoạt động chấp hành và điều hành, việc GQKN một mặt thể hiện hoạt động chấp hành đúng quy định mà các văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã đặt ra, được các CQHCNN áp dụng vào hoạt động QLNN về GQKN. Một mặt thể hiện hoạt động điều hành là khi GQKN cơ quan có thẩm quyền đã trực tiếp tác động lên các hành vi bị KN, làm thỏa mãn nhu cầu của chủ thể KN. Đồng thời, công tác QLNN về GQKN đảm bảo sự tồn tại và ổn định của hoạt động của CQHCNN. Nếu hoạt động chấp hành, GQKN không tuân thủ nghiêm minh sẽ vi phạm quy định của văn bản pháp luật, dẫn đến người trực tiếp GQKN bị xử lý theo pháp luật, nhằm trả lại công minh cho hoạt động của CQHCNN. Nếu hoạt động điều hành, không tiến hành đúng thủ tục luật định khi GQKN sẽ không bảo đảm được các quyền lợi của các chủ thể liên quan, nhất là người KN không được bảo đảm thì chính người có thẩm quyền GQKN cũng sẽ bị xử lý theo pháp luật vì đã không tiến hành đúng trình tự, thủ tục giải quyết mà pháp luật đã quy định. 11
- CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG KHIẾU NẠI VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI Ở TỈNH PHÚ THỌ 2.1. Khái quát chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và tình hình khiếu nại, giải quyết khiếu nại ở tỉnh Phú Thọ 2.1.1. Điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội tỉnh Phú Thọ có ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại Tỉnh Phú Phọ hiện nay có diện tích tự nhiên 3.534,6 km2, dân số hơn 1,37 triệu người, gồm 34 dân tộc anh em. Toàn tỉnh có 13 huyện, thành, thị với 277 xã, phường, thị trấn. Trong những năm qua, nền kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ tiếp tục phát triển và đạt tốc độ tăng trưởng khá (hàng năm đều tăng từ 5,5 - 6,5%); cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực; các ngành, lĩnh vực phát triển khá toàn diện; hoạt động văn hóa, thông tin, thể thao, xã hội được chú trọng; Tuy nhiên, do nền kinh tế của nước ta nói chung và tỉnh Phú Thọ nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, sức cạnh tranh còn thấp, một số vấn đề xã hội bức xúc liên quan đến lĩnh vực nhạy cảm còn chậm được giải quyết; tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật còn diễn biến phức tạp. Các vi phạm diễn ra tập trung ở một số lĩnh vực: Quản lý tài chính, quản lý đất đai, dựng cơ bản, chính sách xã hội, quản lý các nguồn vốn dự án phát triển kinh tế, xã hội an sinh... với các hành vi ngày càng tinh vi, lợi dụng các sơ hở trong cơ chế, chính sách nên rất khó phát hiện. Từ đó, làm cho một bộ phận quần chúng nhân dân bất bình, giảm lòng tin vào đội ngũ cán bộ cơ sở, dẫn tới khiếu nại kéo dài, đông người, gây ảnh hưởng tới an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh. 2.1.2. Tình hình khiếu nại và giải quyết khiếu nại ở tỉnh Phú Thọ Năm 2014, các cấp, các ngành trong tỉnh nhận 5.703 đơn, trong đó: 910 đơn khiếu nại, 416 đơn tố cáo, 3464 đơn loại khác. Trong số 910 đơn khiếu nại, đơn thuộc thẩm quyền và đủ điều kiện giải quyết là 148 đơn, chiếm 16,26% so với tổng số đơn nhận được, số còn lại là đơn trùng, đơn không đủ điều kiện thụ lý theo quy định hoặc thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan tư pháp, thi hành án.Trong tổng số 910 đơn khiếu nại nhận được, số vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết là 148 vụ; đã giải quyết 125 vụ việc đạt 84,45%. Trong số 125 vụ việc đã giải quyết có 23 vụ việc phải giải quyết lần 2 (chiếm 18,4%). Năm 2015, Tổng số đơn các cấp, các ngành nhận được 5.614 đơn, trong đó: Khiếu nại 314 đơn, tố cáo 265 đơn, loại khác 4.505 đơn.Tổng số vụ việc khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của các cấp, các ngành là 79 vụ việc.Đã giải quyết xong khiếu nại 73/79 đơn. Năm 2016, Tổng số đơn các cấp, các ngành nhận được 4.954 đơn, trong đó: Khiếu nại 278 đơn, tố cáo 174 đơn, loại khác 4.502 đơn. Tổng số đơn khiếu nại thuộc 12
- thẩm quyền giải quyết của các cấp, các ngành là: 68 đơn (29 vụ việc). Đã giải quyết xong khiếu nại 25/29 vụ việc còn 04 vụ việc đang trong hạn giải quyết. Năm 2017, tổng cố đơn các cấp, các ngành nhận được 5.225 trong đó Khiếu nại 361 đơn, tố cáo 178 đơn, loại khác 4.686 đơn. Tổng số đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của các cấp, các ngành là: 32 vụ việc. Đã giải quyết xong khiếu nại 26/32 vụ việc còn 06 vụ việc đang trong hạn giải quyết. 2.2. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về giải quyết khiếu nại ở tỉnh Phú Thọ 2.2.1. Thực trạng ban hành chính sách, pháp luật về giải quyết khiếu nại Căn cứ Luật Khiếu nại, các văn bản chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; các Bộ, ngành ở Trung ương, Tỉnh ủy, HĐND,UBND tỉnh Phú Thọ đã kịp thời ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các cấp, các ngành, đoàn thể và nhân dân các dân tộc trong tỉnh triển khai thực hiện. Cụ thể: Chỉ thị số 31/CT-UBND ngày 01/11/2012 của UBND tỉnh về chấn chỉnh, tăng cường trách nhiệm của thủ trưởng các cấp, các ngành trong công tác tiếp công dân, GQKN; Chỉ thị số 14-CT/TU ngày 21/6/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị và Kế hoạch số 120-KH/TU ngày 15/8/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về triển khai thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và GQKN;; Chỉ thị số 31/CT-UBND ngày 01/11/2012 của UBND tỉnh về chấn chỉnh tăng cường trách nhiệm của thủ trưởng các cấp, các ngành trong công tác tiếp công dân, GQKN. Kết luận số 1438-KL/TU ngày 02/10/2014 của Thường trực Tỉnh ủy về kết quả sau 01 năm thực hiện Chỉ thị số 14-CT/TU; Văn bản số 4263/UBND-TD ngày 03/10/2014 về việc tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, GQKN trước, trong và sau Đại hội Đảng khóa XII; Kế hoạch số 2130/KH-BCĐ ngày 29/5/2014 về thực hiện đề án “Tiếp tục tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2013-2016” trên địa bàn tỉnh ; Kế hoạch số 2760/KH-BCĐ ngày 13/7/2015 về thực hiện đề án “Tiếp tục tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn trong năm 2015 ; Nghị quyết số 07/2016/NQ - HĐND, ngày 08/12 về việc quy định một số mức chi cụ thể thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Phú thọ ; Quyết định số 19/2015/QĐ - UBND tỉnh ngày 22/12/2013 về việc thực hiện cơ chế một của, một cửa liên thông tại các cơ quan HCNN tỉnh Phú Thọ ; Quyết định số 2249/2015/QĐ - UBND về việc ban hành chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổchức bộ máy của tranh tra tỉnh Phú Thọ; Quyết định số 10/2015/QĐ- UBND, ngày 24/7/2015 về việc ban hành Quy chế phối hợp tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý đơn tại trụ sở tiếp công dân tỉnh Phú Thọ. 2.2.2. Thực trạng thực hiện chính sách, pháp luật về giải quyết khiếu nại Tuyên truyền phổ biến pháp luật về khiếu nại Hàng năm, HĐND, UBND tỉnh đều chỉ đạo các cấp, các ngành trong tỉnh thực 13
- hiện các quy định của pháp luật về khiếu nại (Luật Khiếu nại và các văn bản hướng dẫn thi hành của bộ, ngành ở Trung ương; các văn bản của HĐND, UBND tỉnh Phú Thọ…); chỉ đạo các cơ quan tuyên truyền, các ban, ngành, đoàn thể từ tỉnh đến huyện và cơ sở tổ chức quán triệt, tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về khiếu nại đến cán bộ, công chức và các tầng lớp quần chúng nhân dân trong tỉnh; chỉ đạo các cơ quan chức năng tiếp tục tăng cường việc kiểm t ra, thanh tra, giám sát quá trình thực hiện; gắn việc triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về khiếu nại với việc thực hiện “Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở” và các cuộc vận động lớn trên địa bàn. Thực hiện Quyết định số 1133/QĐ-TTg ngày 15/7/2013 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt và tổ chức thực hiện các Đề án tại Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI; Văn bản số 233/TTCP-PC ngày 17/02/2014 của Thanh tra Chính phủ về việc hướng dẫn thực hiện Đề án "Tiếp tục tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2013-2016"; UBND tỉnh ban hành Quyết định số 1054/QĐ-UBND ngày 15/5/2014 thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Đề án "Tiếp tục tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2013-2016''. Ban Chỉ đạo do một Phó Chủ tịch UBND làm Trưởng ban, Chánh Thanh tra tỉnh làm Phó ban thường trực, thành viên là một số sở, ngành cùng các tổ chức đoàn thể khác như Mặt trận tổ quốc, Hội nông dân… Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Trong giải quyết khiếu nại, tập trung bồi dưỡng nghiệp vụ tiếp công dân và xử lý đơn thư. Thanh tra tỉnh thường xuyên tham mưu với UBND tỉnh tổ chức Hội nghị tập huấn Luật Tiếp công dân; Luật Khiếu Nại; hướng dẫn nghiệp vụ tiếp công dân, xử lý đơn thư, GQKN đến các đối tượng là cán bộ chủ chốt của tỉnh, lãnh đạo các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành, thị và cán bộ làm công tác thanh tra, tiếp công dân, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Đồng thời phối hợp với Thanh tra các huyện, thành, thị tổ chức các hội nghị tập huấn Luật Tiếp công dân; Luật Khiếu nại; hướng dẫn nghiệp vụ tiếp công dân, xử lý đơn thư, GQKN cho các đối tượng là Chủ tịch UBND cấp xã, Hiệu trưởng các trường và cán bộ làm công tác tiếp công dân, GQKN cấp xã (toàn tỉnh đã tổ chức được 34 lớp tập huấn tuyên truyền, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng với 3.423 người tham gia). Về tổ chức bộ máy Tham mưu với UBND tỉnh kiện toàn Tổ tiếp công dân của tỉnh phục vụ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII. Về công tác rà soát, tổng kết, báo cáo Công tác rà soát, tổng kết, báo cáo nắm tình hình được tổ chức thường xuyên. Năm 2016 UBND tỉnh tổ chức Hội nghị tổng kết 3 năm thực hiện Đề án 1-1133 về “Tiếp tục tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2013-2016” trên địa bàn tỉnh theo Văn bản số 800/TTCP-PC 14
- ngày 21/4/2016 của Thanh tra Chính phủ và đề nghị UBND tỉnh tặng Bằng khen cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc triển khai thực hiện Đề án. 2.2.3. Thực trạng kiểm soát thực hiện chính sách, pháp luật về giải quyết khiếu nại Năm 2014, toàn ngành đã triển khai 16 cuộc thanh tra trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị trong việc thực hiện Luật Thanh tra; Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Phòng, chống tham nhũng tại 60 đơn vị.Qua thanh tra đã yêu cầu thủ trưởng các cơ quan, đơn vị tích cực chủ động thực hiện tốt các quy định của pháp luật về công tác thanh tra, tiếp công dân, GQKN và phòng, chống tham nhũng. Năm 2015, toàn ngành đã triển khai 21 cuộc thanh tra trách nhiệm đối với thủ trưởng các cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo và Luật Phòng, chống tham nhũng tại 67 đơn vị. Qua thanh tra đã yêu cầu thủ trưởng các cơ quan, đơn vị tích cực chủ động thực hiện tốt các quy định của pháp luật về công tác tiếp công dân, GQKN; công tác phòng, chống tham nhũng, kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn đối với cơ quan, đơn vị chưa thực hiện tốt trách nhiệm hoặc chưa quan tâm đúng mức đến công tác tiếp công dân, GQKN và phòng, chống tham nhũng. Năm 2016, toàn ngành đã triển khai 34 cuộc thanh tra trách nhiệm đối với Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo và Luật Phòng, chống tham nhũng tại 55 đơn vị.. Năm 2017, toàn ngành đã triển khai 27 cuộc thanh tra trách nhiệm đối với Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo và Luật Phòng, chống tham nhũng tại 56 đơn vị.. 2.3. Đánh giá chung 2.3.1. Kết quả đạt được trong quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại ở tỉnh Phú Thọ Thứ nhất, ưu điểm về việc các cơ quan chức năng của tỉnh đã ban hành kịp thời nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, thực thi các quy định của pháp luật khiếu nại; Thứ hai, về sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp; Thứ ba, cơ quan chuyên môn thực hiện tốt công tác tham mưu, giúp việc, phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của chính quyền địa phương, cụ thể, sát thực tế, đúng trọng tâm, góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại tại các địa phương trong khu vực; Thứ tư, củng cố được mối quan hệ chặt chẽ, thường xuyên và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị. 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại ở tỉnh Phú Thọ Thứ nhất, hạn chế về tổ chức tuyên truyền, quán triệt, triển khai tổ chức thực hiện pháp luật khiếu nại chưa thường xuyên, chưa kịp thời, chưa đi vào chiều sâu; Thứ hai, công tác tiếp công dân ở cấp huyện và cấp cơ sở nhất là việc tiếp công 15
- dân thường xuyên chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra; Thứ ba, việc giải quyết đơn thuộc thẩm quyền, việc thực hiện các quyết định, kết luận giải quyết đã có hiệu lực pháp luật ở một số đơn vị cấp huyện còn chậm; Thứ tư, việc thực hiện chế độ thông tin báo cáo của một số đơn vị chưa nghiêm túc, chưa kịp thời, có những đơn vị tổng hợp số liệu báo cáo nhập chung cả số liệu ở các lĩnh vực khác ; Thứ năm, công tác theo dõi, đôn đốc giải quyết đơn ở một số huyện chưa kịp thời ; Thứ sáu, công tác thanh tra trách nhiệm thủ trưởng đơn vị trong việc thực hiện Luật Khiếu nại đạt hiệu quả chưa cao. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong quản lý công tác giải quyết khiếu nại ở tỉnh Phú Thọ thể hiện chủ yếu như sau:Quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại còn bất cập, chưa phù hợp với thực tế; một số cấp uỷ đảng, chính quyền nhất là ở cấp cơ sở; người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị vẫn còn chưa nhận thức đúng, đầy đủ về thực hiện các quy định của pháp luật khiếu nại; trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ cơ sở còn hạn chế; nhận thức pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận công dân còn hạn chế; thẩm quyền tham mưu quy định không rõ ràng. 16
- CHƢƠNG 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI Ở TỈNH PHÚ THỌ 3.1. Quan điểm tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về giải quyết khiếu nại 3.3.1. Quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về giải quyết khiếu nại Ngay sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra lịch tiếp các đại biểu nhân dân của mình làm gương cho cán bộ chính quyền các cấp trong việc tiếp dân, giải quyết khiếu kiện của công dân. Tháng 10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục có bài viết “ Sao cho được lòng dân” đăng trên báo, yêu cầu chính quyền các cấp “phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân mỗi khi người ta mang tới”. Tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh, để nâng cao hiệu quả việc giải quyết khiếu nại của cơ quan, tổ chức và công dân, những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn bản pháp luật đề cập tới công tác giải quyết khiếu nại, đồng thời coi việc giải quyết hiệu quả các khiếu nại là một trong những nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan hành chính nhà nước, góp phần phát huy quyền dân chủ của nhân dân và thực hiện cải cách hành chính nhà nước. Xuất phát từ nền tảng trên, QLNN về GQKN phải thể chế hoá các tư tưởng của Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước. 3.3.2. Quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại phải gắn với tuân thủ pháp luật về khiếu nại Để tăng cường QLNN về GQKN đòi hỏi phải gắn với tuân thủ pháp luật khiếu nại. Bởi lẽ, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau: muốn xây dựng nhà nước quyền thì phải củng cố, xây dựng được một nền pháp chế vững mạnh, ngược lại muốn pháp chế được bảo đảm, duy trì liên tục, thường xuyên thì phải xây dựng được nhà nước pháp quyền theo đúng nghĩa của nó. Muốn xây dựng được nhà nước pháp quyền và bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa thì phải có một hệ thống pháp luật đầy đủ và phù hợp và việc chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật. Do vậy, việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác GQKN là một trong những nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu được trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Hoạt động GQKN là một hoạt động quản lý nhà nước, có vai trò trong việc bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý nhà nước. Việc tuân thủ, chấp hành pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước là tấm gương phản chiếu đời sống chính trị - xã hội - pháp luật. Chính vì vậy trong hoạt động GQKN càng đòi hỏi các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo. 17
- 3.3.3. Quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại phải gắn liền với cải cách hành chính, phân công, phân cấp và đúng thẩm quyền Cải cách hành chính ở Việt Nam được tiến hành nhiều năm nay với những bước đi - lộ trình khác nhau từ thấp tới cao. Bắt đầu là việc cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức, đến cải cách một bước nền hành chính nhà nước với ba nội dung: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Hiện nay, cải cách hành chính chuyển sang một bước mới với bốn nội dung: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công. Trong những năm qua cải cách hành chính ở Việt Nam đã góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền đó là: Về thể chế hành chính đã sửa đổi Hiến pháp, ban hành các Luật mới và các văn bản dưới luật về tổ chức bộ máy nhà nước; Sửa đổi bổ sung một số điều Pháp lệnh cán bộ, công chức; ban hành các nghị định để cụ thể hóa Pháp lệnh, cán bộ, công chức... Điều quan trọng là: các văn bản về tổ chức bộ máy nhà nước là đã quy định khá cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, từng bước thể hiện sự phân cấp trong quản lý giữa Trung ương và địa phương; các văn bản pháp luật về công vụ, cán bộ, công chức đã quy định khá cụ thể các quyền, nghĩa vụ của các cán bộ, công chức và đã bước đầu đi theo hướng chuyên biệt hoá các đối tượng những người phục vụ trong cơ quan, tổ chức nhà nước. Về bộ máy hành chính đã giảm dần các đầu mối quản lý, số lượng các cơ quan quản lý nhà nước đã giảm xuống đáng kể, thủ tuc hành chính được cải cách theo hướng "một cửa", mẫu hóa các văn bản hành chính, giấy tờ, công khai các thủ tục hành chính. Chính việc cải cách thủ tục hành chính này đã góp phần hạn chế sự sách nhiễu, phiến hà, tham những của các công chức hành chính trong khi giải quyết các công việc của công dân. Đây là điểm căn bản nhất của cải cách hành chính góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền. Một vấn đề đang được quan tâm trong cải cách hành chính ở Việt Nam là vấn đề phân cấp trong quản lý nhà nước. Phân cấp thực chất là việc chuyển dần các công việc, nguồn lực do chính quyền trung ương nắm giữ cho chính quyền địa phương các cấp một cách lâu dài, ổn định bằng các văn bản luật, dưới luật, nhằm mở rộng dân chủ, phát huy tính chủ động sáng tạo của chính quyền địa phương. Trong xu hướng phân cấp bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương sẽ tập trung vào việc xây dựng chính sách, bảo đảm sự thống nhất về thể chế, việc giải quyết những vấn đề lớn của quốc gia, còn những việc thuộc phạm vi cộng đồng lãnh thổ do cộng đồng lãnh thổ giải quyết. Như vậy, vấn đề phân cấp gắn với vấn đề dân chủ, dân chủ là cốt lõi của nhà nước pháp quyền, không có dân chủ thì không có nhà nước pháp quyền, không mở rộng quyền chủ động sáng tạo của chính quyền địa phương thì không có nhà nước 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Hoạch định chiến lược kinh doanh dịch vụ khách sạn tại công ty cổ phần du lịch - dịch vụ Hội An
26 p | 421 | 83
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản tại Công ty TNHH Thẩm định giá và Dịch vụ tài chính Đà Nẵng
26 p | 504 | 76
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 542 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính ở ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa
26 p | 342 | 41
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu
26 p | 305 | 39
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng chương trình tích hợp xử lý chữ viết tắt, gõ tắt
26 p | 330 | 35
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ: Phân tích và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác lập dự án đầu tư ở Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Petrolimex
1 p | 114 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
26 p | 228 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Lý thuyết độ đo và ứng dụng trong toán sơ cấp
21 p | 220 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Phát triển thương hiệu Trần của Công ty TNHH MTV Ẩm thực Trần
26 p | 99 | 8
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 233 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 199 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn