ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN VƢƠNG CƢỜNG
VAI TRÕ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH
ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2009
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ -
NGUYỄN VƢƠNG CƢỜNG
VAI TRÕ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. ĐOÀN QUANG THỌ
HÀ NỘI - 2009
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS, TS. Đoàn Quang Thọ.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều
trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày tháng năm 2009.
Tác giả luận văn
Nguyễn Vương Cường
3
MỤC LỤC
Mở đầu ....................................................................................................................................... 1 Chƣơng 1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và Vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ................................................................... 5 1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta ...... 5 1.1.1. Khái quát về công nghiệp hoá, hiện đại hoá .................................................................... 5 1.1.2. Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta ......................................................................................................................... 8 1.2. Vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ........ 12 1.2.1. Chính quyền cấp tỉnh với việc xây dựng chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa .... 12 1.2.2. Chính quyền cấp tỉnh với việc tổ chức thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện
đại hóa .......................................................................................................................... 20
Chƣơng 2 . Thực trạng về vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và những vấn đề đặt ra hiện nay ở tỉnh Bắc Ninh ........ 34 2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh ................ 34 2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên của tỉnh Bắc Ninh ....................................................... 34 2.1.2. Khái quát về đặc điểm kinh tế- xã hội ở tỉnh Bắc Ninh ................................................. 39 2.2. Thực trạng về vai trò chính quyền tỉnh trong việc xây dựng chiến lược công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh ................................................................................ 42
2.3. Thực trạng về vai trò chính quyền tỉnh trong việc tổ chức thực hiện chiến lược công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh .................................................................... 53
2.3.1. Về việc xây dựng cơ sở hạ tầng để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh
Bắc Ninh ...................................................................................................................... 53
2.3.2. Về việc đề ra các chính sách nhằm thu hút công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc
Ninh .............................................................................................................................. 59
2.3.3. Về việc tạo ra môi trường xã hội thuận lợi để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở tỉnh Bắc Ninh ..................................................................................................... 68
2.4. Những vấn đề đặt ra về việc nâng cao vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh ............................................... 76
2.4.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với những hạn
chế về mặt quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh ............................... 77
2.4.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với những hạn
chế trong cơ chế, chính sách ở tỉnh Bắc Ninh .............................................................. 78
2.4.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với trình độ đội
ngũ cán bộ ở tỉnh Bắc Ninh.......................................................................................... 80
Chƣơng 3. phƣơng hƣớng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh ............................................................................................................................. 82
4
3.1. Phương hướng chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh ............................................... 82
3.1.1. Hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh ........................................................... 82
3.1.2. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh ................................................................................ 84
3.1.3. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh ................................................................................. 93
3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh ............................................... 95
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tổ chức chính quyền cấp tỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh ............................................... 95
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tuyển dụng cán bộ, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ
đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh ............... 98
3.2.3. Đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo nhằm đảm bảo yêu cầu nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh .................... 101
3.2.4. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ các cấp ở địa phương đối với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh .................................................................. 103 Kết luận ................................................................................................................................. 106 Danh mục tài liệu tham khảo .............................................................................................. 108 Phụ lục .................................................................................................................................. 111
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ
quá độ tiến lên CNXH ở nước ta. Tất cả các ngành, các địa phương đều phải
tập trung vào sự nghiệp đó. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là không
thể tách rời vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò tổ chức quản lý của chính
quyền Nhà nước.
Tỉnh Bắc Ninh có vị trí thuận lợi về địa lý, nằm trong vùng tam giác
kinh tế quan trọng nối các trung tâm kinh tế, văn hoá, du lịch, thương mại lớn
giữa Nà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và nhiều tỉnh phía Bắc
Theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII đã xác định:
“Khai thác và phát huy hơn nữa tiềm năng, thế mạnh của địa phương,
huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tăng cường sức mạnh đoàn
kết toàn dân, đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao
và bền vững hơn. Phấn đấu đến năm 2015 là tỉnh phát triển khá trong cả nước,
và cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, tạo tiền đề đến năm
2020 là một trong những tỉnh dẫn đầu trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ”[15, tr 39 - 40].
Để đạt được mục tiêu trên đòi hỏi phải có sự phấn đấu của toàn đảng,
toàn dân, trong đó đặc biệt phải phát huy vai trò của chính quyền địa phương.
Trong thời gian qua dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền địa phương đã
có vai trò tích cực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên
cũng còn nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu giải quyết nhằm nâng cao
vai trò của chính quyền cấp tỉnh để thực hiện mục tiêu Đại hội Đảng bộ đề ra.
6
Với tinh thần đó, để góp phần nhỏ bé của mình vào vấn đề đó tôi chọn đề tài:
“Vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Bắc
Ninh".
2. Tình hình nghiên cứu
Xung quanh vấn đề vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp
CNH, HĐH đã có những công trình nghiên cứu có liên quan với những hình
thức, mức độ khác nhau và đã được công bố trên các phương tiện thông tin
đại chúng, những tạp chí chuyên ngành và những sách chuyên khảo khác như:
Luận văn ThS Triết học, Phạm Quốc Việt “Vai trò quản lý của nhà nước đối
với nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay’’; Luận văn ThS Triết học,
Lương Thị Hải Thảo “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ trong sự
nghiệp CNH - HĐH ở tỉnh Bình Dương”; Luận văn ThS Triết học, Trần Thị
Chiều “Nâng cao chất lượng nguồn lực lao động trong quá trình thực hiện
CNH - HĐH ở tỉnh Thái Bình”; Luận văn ThS Kinh tế, Ngô Thị Thu Hà
“CNH - HĐH Nông nghiệp, nông thôn ở Nghệ An”; Nguyễn Việt Bách “Vai
trò của chính phủ Nhật Bản trong quá trình CNH - HĐH và một số kinh
nghiệm ở Việt Nam”; Bùi Xuân Tùng “Vai trò của nhà nước trong việc hỗ
trợ, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam”; Trần Anh Tài, Luận
án PTS, Kinh tế chính trị XHCN “Vai trò quản lý nhà nước trong quá trình
chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”; Bùi Văn Sỹ, Luận văn ThS
Luật “Quản lý nhà nước về hoạt động khoa học và công nghệ trong thời kỳ
CNH - HĐH”; Luận văn ThS khoa học Triết học, Ngô Chí Nguyện “Phát huy
vai trò nhà nước trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay’’; Nguyễn Sỹ, luận án tiến sĩ kinh
tế “Quá trình CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ 1986 đến
nay“...
Mặc dù các công trình trên đã giải quyết được nhiều mặt ở các địa
phương khác nhau tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu ở tỉnh Bắc
7
Ninh. Do vậy, vấn đề tôi lựa chọn là chưa có một công trình nào nghiên cứu.
Vì vậy với hình thức là một luận văn thạc sỹ, tôi xin chọn đề tài này để nghiên
cứu nhằm đáp ứng sự đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn đặt ra góp phần thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVII.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ vai trò chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp CNH,
HĐH và thực trạng về vai trò chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp CNH,
HĐH ở tỉnh Bắc Ninh. Luận văn đề ra các phương hướng và giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao vai trò chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp CNH -
HĐH ở tỉnh Bắc Ninh.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện 3 nhiệm vụ cơ bản sau:
- Làm rõ vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra về vai trò của chính
quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bắc
Ninh.
- Đề ra các phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò
của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
tỉnh Bắc Ninh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vai trò của chính quyền cấp tỉnh
đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
8
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng ta về vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Luận văn sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lôgíc lịch sử, phương pháp tiếp cận
hệ thống, phương pháp trừu tượng hoá, khái quát hoá, phương pháp điều tra,
khảo sát thực tiễn, phân tích xử lý số liệu…
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn làm rõ vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp
CNH, HĐH.
- Góp phần làm rõ thực trạng về vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối
với công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh.
- Bước đầu đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bắc Ninh.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết:
Chƣơng 1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và vai trò của chính quyền
cấp tỉnh đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chƣơng 2. Thực trạng về vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự
nghiệp CNH, HĐH và những vấn đề đang đặt ra hiện nay ở tỉnh Bắc Ninh.
Chƣơng 3. Các phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai
9
trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp CNH, HĐH tỉnh Bắc Ninh.
Chƣơng 1
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
VÀ VAI TRÕ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH
ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nƣớc ta
1.1.1. Khái quát về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Công nghiệp hóa đã có chiều dài lịch sử trên 200 năm, đến nay vẫn còn
là vấn đề thời sự và là vấn đề bức xúc đối với các nước đang phát triển.
Tất cả các nước từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn, từ một nước nông
nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp hiện đại, đều phải trải qua
công nghiệp hoá. Đó là con đường xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền
sản xuất lớn, hiện đại. Đây là quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các
nước.
Như vậy, “sự nghiệp CNH vừa là quá trình kinh tế - kỹ thuật, vừa là
quá trình kinh tế - xã hội. Việc thực hiện thành công CNH sẽ xây dựng được
một nền kinh tế công nghiệp có trình độ phát triển cao, khoa học công nghệ
tiên tiến, cơ cấu kinh tế hợp lý. Điều đó dẫn đến sự biến đổi về cơ cấu xã hội -
dân cư rất khác so với nền kinh tế nông nghiệp. Đó là xuất hiện nhiều khu
công nghiệp lớn, nhiều thành phố lớn, người dân sống rất tập trung, trong đó
dân cư công nghiệp và lực lượng lao động trong công nghiệp chiếm đa số; có
cơ cấu giai cấp rất khác so với trước; trình độ của người lao động cũng như
dân trí và chất lượng cuộc sống của nhân dân nâng cao; làm thay đổi nếp
nghĩ, cách làm của người dân” [ 29, tr 4-5].
Qua đó có thể hiểu khái quát CNH là quá trình chuyển một xã hội nông
10
nghiệp với lao động thủ công là chủ yếu sang một xã hội công nghiệp với lao
động bằng máy móc với công nghệ hiện đại trong tất cả các lĩnh vực kinh tế,
xã hội, tạo ra năng suất lao động cao.
Công nghiệp hóa có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội:
- Đây là quá trình phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao
động, nâng cao chất lượng sản phẩm, do đó làm tăng tính cạnh tranh của hàng
hoá trên thị trường, góp phần rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các nước
đang phát triển với các nước phát triển.
- Làm củng cố và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước, nâng cao
khả năng tích luỹ của nền kinh tế, từ đó thúc đẩy nhanh tăng trưởng và phát
triển kinh tế, tạo công ăn việc làm, khuyến khích sự phát triển tự do và toàn
diện của mỗi cá nhân.
- Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ,
đủ sức tham gia có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế.
-Tạo điều kiện vật chất cho việc tăng cường củng cố an ninh quốc
phòng.
Trong thời đại ngày nay, với sự bùng nổ của khoa học - công nghệ, các
nước phát triển đã lợi dụng sự phát triển đó để phát triển kinh tế, tạo ra
khoảng cách ngày càng lớn với các nước đang phát triển. Do vậy, khoảng
cách đó, suy cho đến cùng, đó là khoảng cách về phát triển khoa học - công
nghệ. ở các nước đang phát triển, dường như để đạt tới trình độ hiện đại nhất
ngày càng trở nên một thách thức khó vượt qua. Điều đó buộc các nước ĐPT
phải thực hiện CNH gắn liền với HĐH để tiến lên, rút ngắn khoảng cách với
các nước phát triển.
Điều đó đã khẳng định, các nước đang phát triển phải đẩy nhanh quá
trình phát triển kinh tế mới rút ngắn được khoảng cách với các nước phát
11
triển, việc CNH phải gắn liền với HĐH là tất yếu lịch sử. Xu thế kinh tế và
chính trị thế giới hiện nay đã tạo điều kiện các nước đang phát triển thực hiện
mục tiêu đó.
“Kinh nghiệm về CNH của các nước đi trước và qua thực tiễn kiểm
nghiệm, kết hợp với sự phát triển mạnh của khoa học công nghệ và quan hệ
kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng, quan niệm về CNH, HĐH được hiểu
như sau: CNH chính là một cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất, làm thay
đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ, sản xuất, tăng năng xuất lao động. HĐH là
quá trình thường xuyên cập nhật và nâng cấp những công nghệ hiện đại nhất,
mới nhất trong quá trình CNH” [25, tr 9].
Trong thời đại ngày nay, CNH luôn phải gắn liền với HĐH có nghĩa là
phải tiếp cận với công nghệ hiện đại do cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
hiện nay mang lại. Nếu CNH không gắn với HĐH thì chính là tiếp cận với
những công nghệ lạc hậu trên thế giới, đã bị thế giới loại thải và thực chất sẽ
là bãi rác của thế giới. Do vậy, đối với những nước lạc hậu thì CNH phải gắn
với HĐH.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình trang bị kỹ thuật và công
nghệ hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành giữ vị trí quan
trọng, biến một nước có nền kinh tế kém phát triển thành một nước có nền
kinh tế phát triển, thành một nước công nghiệp hiện đại.
Ở Việt Nam, tại Nghị quyết hội nghị Trung ương 7 khóa VII của Đảng
ta (1994) chỉ rõ “công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn
bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế,
xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động cùng với cộng nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện
đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ,
12
tạo ra năng suất lao động xã hội cao”[ 2, tr 323 - 324].
Quan niệm này nói lên phạm vi và vai trò đặc biệt quan trọng của
CNH, HĐH trong phát triển kinh tế xã hội, gắn liền được hai phạm trù, không
thể tách rời là CNH và HĐH. Có thể thấy rằng, quan niệm về CNH này phù
hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và bối cảnh thế giới ngày nay. Đó là
nhấn mạnh hơn yếu tố khoa học - công nghệ bằng việc gắn CNH với HĐH để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
1.1.2. Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta phụ thuộc rất lớn
vào việc xác định đúng nội dung cụ thể cho từng thời kỳ. Theo tinh thần của
hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX thì CNH, HĐH ở nước ta
đến năm 2010 cần giải quyết tốt những nội dung sau:
Thứ nhất, Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH dựa trên cơ sở
những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết là quá trình cải biến
lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng máy móc, tức là phải cơ
khí hóa nền kinh tế quốc dân. Đó là bước chuyển đổi rất căn bản từ nền kinh
tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp.
Đi liền với cơ khí là hiện đại hóa và tự động hóa sản xuất từng bước và
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đòi hỏi phải xây dựng và phát triển mạnh
mẽ các ngành công nghiệp, trong đó chủ yếu là ngành chế tạo tư liệu sản xuất.
Sự phát triển của các ngành chế tạo ra tư liệu sản xuất là cơ sở để cải tạo, phát
triển nền kinh tế quốc dân , phát triển khu vực nông - lâm - ngư nghiệp. Sự
phân tích trên cho ta thấy đối tượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tất cả
ngành kinh tế quốc dân nhưng trước hết và quan trọng nhất là ngành công
13
nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất.
Mục tiêu của CNH, HĐH còn là sử dụng kỹ thuật, công nghệ ngày càng
tiên tiến hiện đại nhằm đạt năng suất lao động xã hôi cao.Tất cả những điều
đó chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở một nền khoa học - công nghệ phát
triển đến một trình độ nhất định.
Hiện nay nền khoa học của thế giới đang có sự phát triển mạnh mẽ,
khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp; khi mà công nghệ đang
trở thành nhân tố quyết định chát lượng sản phẩm, chi phí sản xuất... tức là
đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa, hiệu quả của sản xuất, kinh doanh, thì
khoa học - công nghệ phải là động lực của CNH, HĐH. Bởi vậy, phát triển
khoa học - công nghệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp CNH,
HĐH.
Phát triển khoa học - công nghệ trong điều kiện Việt Nam hiện nay cần
chú ý tới những vấn đề sau đây:
Phải xác định được phương hướng đúng đắn cho sự phát triển khoa học
- công nghệ. Khoa học - công nghệ là lĩnh vực hết sức rộng lớn; trong khi đó
đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ nước ta còn nhỏ bé, chất lượng thấp; khả
năng của đất nước ta về vốn, phương tiện nghiên cứu... rất hạn hẹp. Do đó,
chúng ta không thể cùng một lúc đầu tư để phát triển tất cả các lĩnh vực khoa
học - công nghệ, mà phải lựa chọn những lĩnh vực nhất định để đầu tư. Nếu
việc lựa chọn đúng sẽ tạo điều kiện cho khoa học - công nghệ phát triển và
ngược lại, nếu việc lựa chọn không đúng thì không những ảnh hưởng tới xấu
tới sự phát triển của khoa học - công nghệ mà còn ảnh hưởng không tốt đến
CNH, HĐH. Phương pháp chung cho sự phát triển khoa học - công nghệ ở
nước ta: “Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt
trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh
học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến
nhiều hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát
14
triển kinh tế tri thức” [2, tr 333].
Phải tạo dựng được những điều kiện cần thiết cho sự phát triển khoa
học - công nghệ. Việc xác định phương hướng đúng cho sự phát triển khoa
học - công nghệ là cần thiết nhưng chưa đủ, mà khoa học - công nghệ chỉ phát
triển khi được đảm bảo những điều kiện kinh tế - xã hội cần thiết. Những điều
kiện đó là: đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ có số lượng đủ lớn, chất
lượng cao; đầu tư ở mức cần thiết; các chính sách kinh tế - xã hội phù hợp...
Trong sự nghiệp CNH, HĐH, người lao động - lực lượng sản xuất thứ
nhất - không những phải được nâng trình độ văn hóa và khoa học - công nghệ
mà còn phải được trang bị cả cơ sở vật chất - kỹ thuật tiên tiến. Họ vừa là kết
quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, vừa là người tạo ra sự phát triển đó.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hiện đại
Quá trình CNH, HĐH cũng là quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Cơ
cấu của nền kinh tế quốc dân là cấu tạo hay cấu trúc của nền kinh tế bao gồm
các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế... và mối quan hệ
hữu cơ giữa chúng. Trong cơ cấu của nền kinh tế, cơ cấu các ngành kinh tế là
quan trọng nhất, quyết định các hình thức cơ cấu kinh tế khác. Cơ cấu kinh tế
hợp lý là điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng, phát triển. Vì vậy CNH, HĐH
đòi hỏi phải xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại.
Cơ cấu kinh tế không ngừng vận động, biến đổi do sự vận động, biến
đổi của lực lượng sản xuất. Xu hướng chuyển dịch cơ cơ cấu kinh tế được coi
là hợp lý, tiến bộ là tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng, đặc biệt là tỷ
trọng khu vực dịch vụ ngày càng tăng; tỷ trọng khu vực nông, lâm, ngư
nghiệp và khai khoáng ngày càng giảm trong tổng giá trị sản phẩm xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển các ngành kinh tế, nhất là những
ngành có hàm lượng khoa học cao; sự xuất hiện các vùng sản xuất chuyên
canh tập trung... không chỉ là biểu hiện của sự phát triển của lực lượng sản
xuất, phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật trong tiến trình CNH, HĐH mà còn
15
làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi tiến độ.
Cơ cấu kinh tế hợp lý trong một nền kinh tế thị trường hiện đại đòi hỏi
công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ phát triển mạnh mẽ, hợp lý và đồng bộ..
Mạng lưới dịch vụ với tư cách là một ngành kinh tế phát triển mới có thể phục
vụ tốt cho sự phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp và nông nghiệp.
Đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Phát triển
toàn diện, nông, lâm, ngư nghiệp gần với công nghiệp chế biến nông, lâm,
thủy sản nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng của nông, lâm, ngư
nghiệp, bảo đảm vững chắc yêu cầu an toàn lương thực cho xã hội; tạo nguồn
nguyên liệu có khối lượng lớn, chất lượng cao, giá thành hạ, đủ tiêu chuẩn
đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến; tăng giá trị và khối lượng hàng
xuất khẩu; tăng thêm việc làm và thu nhập cho người lao động; phân công lại
lao động xã hội, hình thành các điểm công nghiệp gắn liền với đô thị hóa tại
chỗ, mở mang thị trường sản phẩm và dịch vụ cho công nghiệp.
Để thực hiện nhiệm vụ CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn cần phải
chú trọng đến các vấn đề thủy lợi hóa, áp dụng công nghệ tiến bộ, nhất là
công nghệ sinh học, cơ giới hóa, điện khí hóa; phát triển mạnh công, thương
nghiệp, dịch vụ, du lịch...; tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng...
Xây dựng cơ cấu kinh tế cần thiết là yêu cầu khách quan của mỗi nước
trong thời kỳ CNH. Vấn đề quan trọng là tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý.
Một cơ cấu kinh tế được gọi là hợp lý khi nó đáp ứng được các yêu cầu sau
đây:
- Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng; công nghiệp, xây dựng và
dịch vụ phải tăng dần về tỷ trọng.
- Trình độ kỹ thuật của nền kinh tế không ngừng tiến bộ và công nghệ
đã và đang diễn ra rất mạnh mẽ trên thế giới.
- Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của các ngành,
các địa phương, các thành phần kinh tế.
- Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu thế toàn cầu hóa
16
kinh tế, do vậy cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là “cơ cấu mở”.
Ở nước ta, kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, dưới ánh
sáng của đường lối đổi mới, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đạt được
những thành tựu quan trọng.
Thông qua cách mạng khoa học - công nghệ và phân công lại lao động
với những tính quy luật vốn có của nó, thích ứng với điều kiện nước ta, Đảng
ta đã xác định một cơ cấu kinh tế hợp lý mà “bộ xương” của nó là cơ cấu kinh
tế công - nông nghiệp - dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu
rộng. Mục tiêu phấn đấu của nước ta đến năm 2010 là tỷ trọng GDP của nông
nghiệp 16 - 17%; công nghiệp 40 - 41%, dịch vụ 42 - 43%.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được thực hiện theo phương châm: kết hợp công nghệ với nhiều
trình độ, tranh thủ công nghệ mũi nhọn tiên tiến vừa tận dụng được nguồn lao
động dồi dào, vùa cho phép rút ngắn khoảng cách lạc hậu, vừa phù hợp với
nguồn vốn có hạn ở trong nước; lấy quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, có tính
đến quy mô lớn nhưng phải là quy mô hợp lý và có điều kiện; giữ được tốc độ
tăng trưởng hợp lý tạo ra sự cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế và
các vùng trong nền kinh tế... chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trong
những năm trước mắt cần thực hiện theo định hướng chung sau đây: chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và
các lợi thế so sánh của đất nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị
trường trong nước và ngoài nước, nhu cầu đời sống nhân dân và quốc phòng,
an ninh. Tạo thêm sức mua của thị trường trong nước và mở rộng thị trường
ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu.
1.2. Vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá
Ở nước ta từ trước đến nay thuật ngữ “chính quyền cấp tỉnh„ được sử
dụng tương đối rộng rãi và phổ biến, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có một văn
17
bản pháp luật nào định nghĩa khái niệm chính quyền cấp tỉnh. Xuất phát từ
góc độ nghiên cứu lý luận, từ góc độ thực tiễn có thể thấy rằng: chính quyền
cấp tỉnh là một bộ phận nằm trong khái niệm chính quyền địa phương.
Chính quyền địa phương là khái niệm dùng chung để chỉ tất cả các cơ
quan nhà nước (mang quyền lực nhà nước) đứng trên địa bàn địa phương.
Theo quy định của Hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 chính quyền địa phương được tổ chức ở 3
cấp; cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Cấp tỉnh bao gồm: tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh).
Do vậy, chính quyền cấp tỉnh chính là khâu trung gian nối liền giữa
chính quyền trung ương với chính quyền các cấp huyện, xã nhằm tổ chức
quản lý nhà nước về mặt kinh tế - xã hội trên phạm vi tỉnh.
Chính quyền cấp tỉnh bao gồm HĐND (cơ quan quyền lực nhà nước),
UBND (cơ quan hành chính nhà nước), Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân dân.
Để xây dựng thành công sự nghiệp CNH, HĐH thì vai trò của chính
quyền cấp tỉnh là rất quan trọng. Đó là; xây dựng chiến lược CNH, HĐH, xây
dựng môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi để thực hiện CNH, HĐH.
1.2.1. Chính quyền cấp tỉnh với việc xây dựng chiến lược công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Xây dựng chiến lược CNH, HĐH ở cấp tỉnh có vai trò sau:
Trong CNH, HĐH xây dựng chiến lược là xác định những mục tiêu đạt
tới của trình độ khoa học - công nghệ, của chuyển dịch cơ cấu kinh tế; các
bước đi giải quyết mục tiêu đó, đồng thời xác định hệ thống những tiền đề
đảm bảo thực hiện mục tiêu, phù hợp với mỗi bước đi của quá trình CNH,
HĐH. “Thực chất của xây dựng chiến lược CNH, HĐH là, trên cơ sở phân
tích và dự báo đúng đắn, đưa ra được những định hướng hành động, giải
pháp phù hợp để thực hiện thành công CNH, HĐH’’ [29, tr 16].
+ Định hướng hoạt động dài hạn và là cơ sở cho việc thực hiện CNH,
18
HĐH. Nếu không có chiến lược hay chiến lược không phù hợp, tức là chiến
lược thiếu căn cứ khoa học sẽ làm cho hoạt động mất phương hướng, chỉ thấy
trước mắt không thấy lâu dài, chỉ thấy cục bộ mà không thấy toàn cục. Điều
đó dẫn đến sự nghiệp CNH, HĐH rất khó thành công.
+ Tạo ra cơ sở để huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả nhằm
đẩy nhanh CNH, HĐH. Trong thực tế, phần lớn các sai lầm về đầu tư, về
nghiên cứu triển khai công nghệ, phát triển các nguồn lực… đều có nguồn gốc
từ chỗ thiếu vắng hoặc sai lệch trong việc xác định chiến lược CNH, HĐH.
Với vai trò như vậy, việc xác định chiến lược CNH, HĐH rất quan
trọng.. Xác định chiến lược CNH, HĐH đúng đắn giúp ta định hướng, bước đi
đúng đắn, phát huy và sử dụng các nguồn lực trong và ngoài nước có hiệu quả
nhất, qua đó thúc đẩy nhanh được tiến trình CNH, HĐH.
- Xây dựng chiến lược CNH, HĐH ở cấp tỉnh đặt ra một số yêu cầu
sau:
+ Xác định chiến lược CNH, HĐH phải phù hợp với điều kiện trong
tỉnh.
Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đòi hỏi phải xác định rõ
CNH, HĐH bằng những nguồn lực nào? Như đã biết, các yếu tố quyết định
đến thành bại của CNH, HĐH mỗi tỉnh về cơ bản bao gồm: nguồn vốn, nguồn
nhân lực và tiềm lực khoa học - công nghệ, trong đó nguồn nhân lực trong
tỉnh là yếu tố quyết định nhất. Nguồn nhân lực đó sẽ quyết định phương
hướng, nội dung, bước đi và biện pháp CNH, HĐH; quyết định lựa chọn các
yếu tố đầu vào, các nguồn lực khác để thực hiện; quyết định việc tổ chức và
thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH. Bởi vì, trong sự nghiệp CNH, HĐH nếu
không có đội ngũ đông đảo những người công nhân lành nghề, những nhà
khoa học tài năng, những nhà doanh nghiệp năng động, những nhà lãnh đạo,
19
quản lý tận tuỵ, biết nhìn xa trông rộng thì sự nghiệp CNH, HĐH khó có thể
thành công. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao trình độ nguồn nhân lực trong
nước, đáp ứng được yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH.
Đối với nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp CNH, HĐH cũng vậy. Các
nguồn đầu tư bên ngoài đóng vai trò quan trọng, thậm chí có ý nghĩa quyết
định đến mức độ nào đó trong những giai đoạn đầu của CNH, HĐH, đặc biệt
đối với những tỉnh mà nguồn tích lũy ban đầu khi bước vào CNH, HĐH gần
như con số không. Nhưng không thể coi những nguồn đầu tư bên ngoài là
nguồn vốn quyết định cho sự thành công của CNH, HĐH. Bởi vì, những
nguồn đầu tư từ bên ngoài không được kết hợp với những nguồn đầu tư ngày
càng quan trọng bên trong thì khó lòng nói tới thành công của CNH, HĐH.
Về trình độ khoa học - công nghệ, các tỉnh không thể có ngay được
trình độ khoa học - công nghệ cao nhất, mà phải trải qua nhiều trình tự để
nâng dần, bằng cách cải tiến và phát triển công nghệ trong tỉnh, nhận chuyển
giao khoa học - công nghệ nước ngoài: cải tiến, đổi mới những công nghệ này
càng hoàn thiện hơn. Điều đó đòi hỏi tiềm lực khoa học - công nghệ trong
nước, trong tỉnh đạt trình độ nhất định mới có thể "Tiêu hoá" được khoa học -
công nghệ hiện đại nhận chuyển giao từ nước ngoài.
Như vậy, xác định chiến lược CNH, HĐH phải căn cứ vào các nguồn
nội lực và phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá của từng tỉnh. Có
vậy mới phát huy được các nguồn nội lực để đẩy nhanh sự nghiệp CNH,
HĐH.
+ Xác định chiến lược CNH, HĐH phải phù hợp với điều kiện trong
nước.
Mỗi tỉnh là một bộ phận của quốc gia, do đó không thể tách khỏi những
tác động của điều kiện trong nước. Khi nói về mối quan hệ "cái riêng" và "cái
chung", Lênin đã chỉ ra rằng: Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến
20
cái chung. Mỗi một tỉnh là “cái riêng”, quốc gia là “cái chung”. Như vậy mỗi
tỉnh đều tồn tại độc lập, nhưng sự độc lập đó không có nghĩa hoàn toàn biệt
lập với cả nước. Ngược lại bất cứ tỉnh nào cũng tồn tại trong môi trường,
hoàn cảnh trong nước nhất định, chịu sự tác động của môi trường, hoàn cảnh
trong nước đó, do đó, đều tham gia vào các mối liên hệ qua lại giữa các tỉnh
thành cả nước hết sức đa dạng. Vì vậy, trong việc lựa chọn chiến lược CNH,
HĐH không chỉ căn cứ vào điều kiện trong tỉnh mà còn phải căn cứ vào tinh
hình trong nước và phải phù hợp với tình hình trong nước đó. Có vậy mới hạn
chế được những tác động tiêu cực và lợi dụng được những thuận lợi do điều
kiện trong nước mang lại, tức là lợi dụng các nguồn lực bên ngoài như vốn,
công nghệ, thị trường… để thực hiện CNH, HĐH.
Sự nghiệp CNH, HĐH phải dựa vào nguồn lực trong tỉnh là chính, điều
đó không có nghĩa là không cần đến nguồn lực bên ngoài. Nguồn lực bên
ngoài sẽ bổ sung và khắc phục được tình trạng khan hiếm nguồn lực trong
tỉnh. Các dòng chảy vốn, công nghệ… trong từng giai đoạn cụ thể bị phụ
thuộc vào điều kiện tình hình chính trị, kinh tế - xã hội.
Hiện nay, khi thế giới đã chuyển sang xu thế hội nhập thì càng tạo điều
kiện và thúc đẩy "mở cửa", phát triển quan hệ kinh tế, thương mại giữa các
tỉnh, tạo điều kiện để tham gia đầy đủ hơn vào hệ thống phân công lao động
trong nước. Bởi vậy một tỉnh tách mình khỏi cả nước, tự ép mình vào con
đường tự lực cánh sinh thực hiện CNH, HĐH hậu quả chắc chắn sẽ là tụt hậu
xa hơn. Khi một tỉnh không tham gia vào các định chế tài chính quốc gia như
ngân hàng nhà nước của quỹ tiền tệ quốc gia… thì tỉnh đó khó có thể vay vốn
của họ để CNH, HĐH. Về mặt thương mại, càng khó hơn, nếu phần lớn các
tỉnh cam kết với nhau thực hiện các quan hệ thương mại theo nguyên tắc tự
do hoá, thì một tỉnh đứng ngoài những cam kết đó khó có thể len chân vào thị
trường tự do đó được. Trong một thế giới toàn cầu hoá một quốc gia hội nhập
21
tình trạng cô lập sẽ dẫn tới tụt hậu xa hơn và sự tụt hậu trong tình trạng cô lập
sẽ là một nguy cơ tai hại nhất. Thực tế cho thấy, những tỉnh còn nghèo chính
là những tỉnh ở xa trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của đất nước.
Trong thời kỳ hiện đại, cấp tỉnh xác định chiến lược CNH, HĐH phù
hợp điều kiện quốc gia, huy động và sử dụng tốt được nguồn lực bên ngoài,
tận dụng được phân công lao động quốc gia thì tỉnh đó sẽ đẩy nhanh được sự
nghiệp CNH, HĐH cũng như phát triển kinh tế - xã hội.
+ Đảm bảo tính kế thừa và liên tục của chiến lược CNH, HĐH.
Để xác định chiến lược CNH, HĐH đúng đắn đòi hỏi phải tuân theo
quy luật trên. Bởi, mỗi chiến lược chỉ phù hợp với một giai đoạn của sự
nghiệp CNH, HĐH. Khi điều kiện trong nước và trong tỉnh thay đổi, đòi hỏi
chiến lược cũng phải thay đổi cho phù hợp, điều đó không có nghĩa là, chiến
lược CNH, HĐH sau phủ định sạch trơn chiến lược trước. Trái lại chiến lược
sau còn kế thừa những thành tựu, những nhân tố tích cực và khắc phục được
những tồn tại của chiến lược trước. Điều đó sẽ đảm bảo cho sự thắng lợi của
sự nghiệp CNH, HĐH.
- Xây dựng chiến lược CNH, HĐH ở cấp tỉnh có một số nội dung sau:
+ Xác định giải pháp, bước đi phát triển khoa học - công nghệ và mức
độ trang bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại cho nền kinh tế.
Để thực hiện CNH, HĐH mỗi tỉnh đều có chiến lược ưu tiên lựa chọn
bước đi khoa học - công nghệ của mình và nhờ vào đó mà họ đi nhanh trên
con đường CNH, HĐH.
Như vậy, trong những điều kiện khác nhau, các tỉnh lựa chọn bước đi
khác nhau để đẩy nhanh CNH, HĐH. Trong bối cảnh hiện nay, để đẩy nhanh
CNH, HĐH nên lựa chọn bước đi như thế nào để phát triển khoa học - công
nghệ?
Trong điều kiện đó, các tỉnh tiến hành CNH, HĐH bước đi để phát triển
22
khoa học - công nghệ để thực hiện quá trình đẩy nhanh CNH, HĐH. Một mặt
thực hiện bước đi tuần tự trong phát triển công nghệ. Đó là, chuyển từ thủ
công lên bán cơ khí rồi lên cơ khí. Mặt khác, “áp dụng những thành tựu của
cách mạng khoa học - công nghệ để thực hiện quá trình "đi tắt, nhảy vọt"
trong phát triển khoa học - công nghệ” [29, tr 22]. Đó là từ thủ công lên
thẳng cơ khí, từ đó thực hiện sự nghiệp HĐH là bán tự động và tự động hoá
nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển kinh tế tri thức, bước đi tuần tự của
CNH vẫn có thể nhanh hơn các nước đi trước. Bước đi này vẫn có thể rút
ngắn được nếu biết dựa vào những tiến bộ của cách mạng khoa học - công
nghệ. Điều này đòi hỏi trong chiến lược phát triển khoa học - công nghệ của
từng ngành, từng lĩnh vực phải có bước đi đúng và phải có sự lựa chọn công
nghệ phù hợp.
Mặt khác, để đi tắt trong phát triển khoa học - công nghệ cần lựa chọn
một số ngành mũi nhọn để tập trung đầu tư, tạo sự đột phá mạnh mẽ cho việc
rút ngắn CNH, HĐH. Một vấn đề quan trọng là chọn "ngành mũi nhọn" để
đầu tư. Nguyên tắc để chọn ngành kinh tế "mũi nhọn" trong điều kiện nền
kinh tế thị trường là phải lấy tính hiệu quả làm cơ bản nhất. Những ngành
được lựa chọn để đầu tư phải là những ngành có tác động cao đến sự phát
triển của nhiều ngành. Nói cách khác, sự phát triển khoa học - công nghệ của
ngành "mũi nhọn" sẽ kéo theo sự phát triển của nhiều ngành liên quan.
Xác định giải pháp, bước đi cho việc xây dựng một cơ cấu kinh tế theo
hướng hiện đại hợp lý.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có vai trò quan trọng trong phát triển kinh
tế - xã hội. Đó là, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phân phối lại tổng
sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
cũng là quá trình sắp xếp lại tỷ trọng các ngành, đảm bảo cho mọi thành phần
23
kinh tế phát huy được năng lực của mình, thực hiện được hiệu quả nói chung.
Mặt khác, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó sẽ phân bố lại lãnh thổ, đô
thị hoá nông thôn, tạo ra sự phát triển bình đẳng giữa các vùng, đồng thời qua
đó đẩy nhanh sự phát triển của toàn nền kinh tế - xã hội.
Trong điều kiện hiện nay, để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, HĐH phải quán triệt một số quan điểm sau:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi mục đích, có định hướng,
dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ căn cứ lý luận và thực tiễn cùng với việc áp
dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển cơ cấu kinh tế từ trạng thái
này sang trạng thái khác.
Hiện nay, khi kinh tế tri thức và toàn cầu hoá trở thành một xu thế thì
cơ cấu kinh tế phải là cơ cấu kinh tế mở. Đó là cơ cấu kinh tế có tính năng
động, linh hoạt cao, có khả năng thích ứng nhanh với các biến động của kinh
tế quốc tế, ứng phó một cách có hiệu quả với các chấn động bên ngoài. Cơ
cấu kinh tế đó có khả năng tận dụng tối ưu các nguồn lực bên trong, bên ngoài
cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế và tiếp nhận được những giá trị
của kinh tế tri thức, của quá trình toàn cầu hoá cũng như những nền văn hoá
tiêu biểu của các tỉnh.
Với quan điểm đó, nguyên tắc của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong điều kiện hiện nay là: trước hết là phải tận dụng tối đa lợi thế so sánh,
nâng cao dần khả năng cạnh tranh của các ngành hàng phù hợp với tiến trình
hội nhập. Thứ hai, cần phải lựa chọn hướng điều chỉnh cơ cấu kinh tế sao cho
nắm bắt được cơ hội, phát huy được vai trò của kinh tế tri thức, trước hết là
công nghệ thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập và đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng.
Từ những vấn đề đặt ra trên đây, có thể đưa ra tính quy luật cho việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện hiện
24
nay:
Hiện nay, ở các nước ĐPT cơ cấu kinh tế là nông nghiệp - công nghiệp
- dịch vụ. Xu hướng chuyển dịch của cơ cấu ngành trong sự nghiệp CNH,
HĐH ở các nước này là từ nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ lên công
nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Đó là xu hướng tỷ trọng giá trị sản phẩm công
nghiệp ngày càng tăng, nông nghiệp ngày càng giảm; tỷ trọng giá trị sản
phẩm dịch vụ ngày càng tăng, tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp
ngày càng giảm tương ứng. Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
đã tạo điều kiện thúc đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp -
nông nghiệp - dịch vụ lên cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp và cao
hơn nữa là cơ cấu dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Đây là cơ cấu kinh tế
hiện đại, phản ánh một nền kinh tế phát triển trong điều kiện hiện nay. Các
nước đi đầu trong CNH phải mất hơn 200 năm mới có được cơ cấu kinh tế đó.
Nếu các nước đang thực hiện CNH, HĐH cũng đi như vậy thì còn lâu mới có
cơ cấu kinh tế hiện đại. Để nhanh chóng chuyển dịch kinh tế truyền thống
nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang cơ cấu kinh tế hiện đại dịch vụ -
công nghiệp - nông nghiệp đòi hỏi phải có những bước đi, giải pháp thích
hợp. Tất nhiên, trước mắt các nước ĐPT phải chuyển từ cơ cấu nông nghiệp -
công nghiệp - dịch vụ lên cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ, nhưng
đồng thời cũng phải tạo những tiền đề để chuyển lên cơ cấu dịch vụ - công
nghiệp - nông nghiệp. Do vai trò quan trọng của khoa học - công nghệ sẽ giúp
các nước nói chung Việt Nam nói riêng thực hiện CNH, HĐH đẩy nhanh việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu vùng, lãnh thổ: Trong sự nghiệp CNH, HĐH cùng với sự
chuyển dịch của cơ cấu ngành thì cơ cấu vùng, lãnh thổ cũng chuyển dịch
theo. Cùng với sự phát triển của các vùng công nghiệp thì các khu đô thị, dân
cư tập trung cũng phát triển. Tương ứng với sự phát triển của công nghiệp và
dịch vụ là sự giảm xuống của khu vực nông thôn. Điều đó có nghĩa là, xu
25
hướng chuyển dịch của cơ cấu vùng lãnh thổ trong sự nghiệp CNH, HĐH là
tăng dần tỷ trọng trong khu vực đô thị, giảm dần tỷ trọng khu vực nông thôn
hay thành thị hoá nông thôn. Điều này diễn ra cùng với sự nghiệp CNH, dịch
vụ hoá nông thôn.
Cơ cấu thành phần kinh tế. Nếu như trong chuyển dịch cơ cấu ngành,
xu hướng tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp ngày càng tăng, nông nghiệp
ngày càng giảm; tỷ trọng giá trị sản phẩm dịch vụ ngày càng tăng, tổng giá trị
sản phẩm nông - công nghiệp ngày càng giảm tương ứng thì xu hướng chuyển
dịch cơ cấu thành phần kinh tế không diễn ra một chiều. Lịch sử phát triển đã
chứng minh rằng, có thời kỳ tỷ trọng thành phần kinh tế Nhà nước trong nền
kinh tế tăng lên (như những năm 40 đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX),
nhưng cũng có thời kỳ có xu hướng giảm xuống (cùng với quá trình chuyển
các doanh nghiệp Nhà nước thành các doanh nghiệp tư nhân hay đa dạng hoá
các doanh nghiệp Nhà nước). Xu hướng vận động đó tuỳ thuộc vào yêu cầu
phát triển kinh tế của mỗi nước. Nhưng trong cơ cấu thành phần kinh tế, thành
phần kinh tế Nhà nước bao giờ cũng phải đảm bảo xây dựng cơ sở hạ tầng,
những công trình công cộng, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển.
1.2.2. Chính quyền cấp tỉnh với việc tổ chức thực hiện chiến lược
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Muốn thực hiện CNH, HĐH phải có môi trường kinh tế - xã hội thuận
lợi, trước hết là xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, những chính sách nhằm thu
hút CNH, HĐH, và tạo ra môi trường xã hội để thực hiện CNH,HĐH.
Các tỉnh luôn đứng trước các vấn đề kinh tế làm cho quá trình thực hiện
CNH, HĐH khó thành công. Đó là, các nguồn lực luôn ở vào tình trạng khan
hiếm, trình độ phát triển khoa học - công nghệ thấp, không đáp ứng được yêu
cầu của quá trình CNH, HĐH. Vì vậy, tạo những điều kiện để thực hiện CNH,
26
HĐH là một nội dung quan trọng của vai trò chính quyền trong quá trình
CNH, HĐH. Để tạo được những điều kiện đó, đòi hỏi chính quyền cấp tỉnh
1.2.2.1. Xây dựng cơ sở hạ tầng để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
phải đưa ra được các chính sách hữu hiệu.
Chính quyền cấp tỉnh muốn thực hiện thành công CNH, HĐH thì cần phải
có hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hoàn chỉnh như: mạng lưới giao thông, thuỷ
lợi, mạng lưới cấp điện, bưu chính viễn thông, mạng lưới cấp thoát nước...
Mạng lưới giao thông, các tỉnh cần có một mạng lưới giao thông đồng
bộ rộng khắp với các tuyến đường bộ, đường sông, đường sắt,... tạo ra một hệ
thống liên hoàn thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế.
Đường bộ bao gồm đường quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ và đường xã.
Đường bộ là hệ thống giao thông quan trọng cho việc vận chuyển, giao lưu
kinh tế trong, ngoài tỉnh. Các khu công nghiệp thường đặt ở những nơi có hệ
thống giao thông thuận tiện do vậy việc xây dựng và phát triển hệ thống
đường bộ rộng khắp là một yêu cầu khách quan cho sự nghiệp CNH, HĐH
của tỉnh.
Đường sông cũng giữ một vai trò không nhỏ trong việc vận chuyển
giao lưu kinh tế, đặc biệt đối với các tỉnh có hệ thống đường sông dày đặc.
Đường sắt và đường hàng không cũng có vai trò to lớn trong việc vận
chuyển, giao lưu kinh tế. Đối với những tỉnh có hệ thống giao thông này thì
việc giao kinh tế cũng trở nên đáng kể hơn trong thời kỳ xây dựng chiến lược
CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh.
Mạng lưới cấp điện, chính quyền cấp tỉnh cần phải quan tâm đến hệ
thống nguồn điện để cung cấp phụ vụ sản xuất và tiêu dùng của tỉnh. Sự
nghiệp CNH, HĐH cần phải có những nguồn điện lưới 110KV, 110 MW,
35KV, 0,4KV... Hệ thống điện lưới để phục vụ tốt trong địa bàn tỉnh góp
27
phần quan trọng vào thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin, công tác bưu chính
không ngừng được mở rộng mạng lưới phục vụ và phát triển mạnh mẽ theo
hướng đa dạng hoá dịch vụ, nâng cao chất lượng phục vụ và phát triển theo
hướng đa dạng hoá dịch vụ, nâng cao chất lượng và thời gian phục vụ. Ngoài
dịch vụ truyền thống còn có một số dịch vụ mới như tiết kiệm bưu điện,
chuyển tiền nhanh, bưu phẩm chuyển nhanh, chuyển phát quà...
Hệ thống truyền dẫn được nâng lên những thiết bị mới với tốc độ cao,
cấu trúc an toàn, chất lượng đảm bảo như: mạng ngoại vi, mạng lưới thông tin
di động...
Về hệ thống trường học, hệ thống trường học đối với các tỉnh cần phải
phát triển tại tất cả các bậc học. Các xã/phường đều có trường mâm non,
trường tiểu học, THCS. Mỗi huyện có trường THPT Trên địa bàn tỉnh có
trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp dạy nghề. Hệ thống
trường đào tạo được phân bố đều trên địa bàn tỉnh.
Về y tế: y tế và các vấn đề nâng cao sức khoẻ cộng đồng cũng được các
cấp đặc biệt quan tâm. Đến nay trên địa bàn tỉnh đã có một hệ thống bệnh
viện, bệnh xá, trạm y tế từ tỉnh đến huyện, xã đảm bảo đủ cơ sở để chăm sóc
sức khoẻ ban đầu cho cộng đồng
1.2.2.2. Đề ra các chính sách nhằm thu hút công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trên địa bàn tỉnh
* Chính sách về khuyến khích đầu tư trên địa bàn tỉnh
Vận dụng triệt để chính sách ưu đãi như: thuế, hỗ trợ xuất khẩu, hỗ trợ
tiếp thị, xây dựng thương hiệu... đồng thời kịp thời điều chỉnh, bổ sung chính
sách thu hút khuyến khích đầu tư với sức hấp dẫn cao, xây dựng kết cấu hạ
tầng hợp lý phục vụ cho phát triển công nghiệp.
Chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ về mặt vốn, thuế, công
28
nghệ thông tin, môi trường đầu tư... nhằm khơi dậy tiềm năng trong các thành
phần kinh tế, nhất là khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh. Đồng thời dành
một khoảng kinh phí thích đáng cho công tác hỗ trợ, đầu tư và phát triển trung
tâm công nghiệp - nhất là ở khu vực nông thôn và các làng nghề, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn.
Có chính sách về thu nhập thích đáng, bồi dưỡng mở rộng kiến thức,
nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động phù hợp với cơ chế thị
trường.
Tiếp tục cải cách hành chính, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, bình
đẳng, có chính sách thống nhất, không phân biệt các thành phần kinh tế và
đây sẽ là giải pháp có tác động rất lớn trong sự nghiệp CNH, HĐH.
Trong sự nghiệp CNH, HĐH vốn đóng vai trò rất quan trọng. Trước
hết, CNH, HĐH làm biến đổi về chất của kỹ thuật sản xuất, lao động bằng
máy móc thay thế cho lao động thủ công. Hơn nữa bản thân tiến độ kỹ thuật
phụ thuộc rất lớn vào mức đầu tư vốn nhiều hay ít. Từ đó, CNH, HĐH làm
thay đổi cơ cấu ngành nghề, trong đó, ngành công nghiệp và dịch vụ tăng
nhanh. Như vậy, trong sự nghiệp CNH, HĐH đòi hỏi phải có nhiều vốn và
phải sử dụng vốn có hiệu quả trở thành điều kiện không thể thiếu được.
Do vai trò như vậy, nên chính sách huy động và sử dụng vốn là một
chính sách quan trọng để huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, đòi hỏi chính
sách này phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
Chính sách huy động vốn phải phù hợp với nền kinh tế mở và đặc thù
dân tộc. Trong việc huy động vốn cho CNH, HĐH thì nguồn vốn trong tỉnh là
quyết định, nguồn vốn ngoài tỉnh và ngoài nước là quan trọng. Sở dĩ nguồn
vốn trong tỉnh là quyết định bởi vì tích luỹ bên trong là điều kiện không thể
thiếu được cho việc tiếp nhận, sử dụng tốt vốn bên ngoài và cũng để tăng
thêm tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Nói như vậy, không có nghĩa không
29
coi trọng vốn bên ngoài. Có thể tại thời điểm nhất định, hoặc một công trình
nào đó, vốn đầu tư từ bên ngoài vẫn cao hơn vốn đầu tư trong tỉnh, nhưng
nhìn chung toàn cục thì vốn đầu tư trong tỉnh phải chiếm tỷ trọng lớn.
Phải tạo môi trường thể chế thuận lợi, sử dụng, đồng bộ các chính sách
kinh tế để huy động nguồn vốn trong toàn dân, trong mọi thành phần kinh tế,
nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH toàn tỉnh.
Đối với nguồn vốn nước ngoài, phải coi trọng huy động vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài, tiếp thu vốn nước ngoài phải gắn chặt với quá trình chuyển
giao công nghệ. Quá trình này đòi hỏi phải được chuẩn bị chu đáo trong suốt
thời gian dài.
Huy động vốn phải gắn liền với việc sử dụng có hiệu quả. Để đảm bảo
vốn được sử dụng đúng hướng, đúng mục đích đòi hỏi:
- Trong sự nghiệp CNH, HĐH việc tạo lập và thực thi chính sách đầu
tư đúng đắn có ý nghĩa rất quan trọng. Đặc biệt là vai trò đầu tư của chính
quyền từ ngân sách để tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế
phát huy cao nhất mọi nguồn lực của mình.
- Đầu tư vốn cho CNH, HĐH phải coi trọng quan điểm hiệu quả và chỉ
tiêu thời hạn thu hồi vốn. Sử dụng vốn là khâu quyết định quy mô huy động
và tái tạo vốn, vì vậy nhiệm vụ xuyên suốt chiến lược vốn là không ngừng
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
Như vậy, chính sách huy động và sử dụng vốn cần được nhìn nhận theo
quy trình khép kín trên cả ba phương diện: huy động - sử dụng - quản lý. Do
đó, phải bảo đảm sự thông suốt trong cả ba giai đoạn: tích luỹ - huy động -
đầu tư nhằm đạt được tốc độ luân chuyển và hiệu quả sử dụng vốn cao nhất.
Để thực hiện CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh thì chính quyền cấp tỉnh cần
phải có những chính sách tiếp cận đất đai để quy hoạch sử dụng đất cho phát
30
triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp và doanh nghiệp riêng rẽ.
Số đất tỉnh quy hoạch đảm bảo đủ đất thu hút, phát triển công nghiệp
đáp ứng các mục tiêu đề ra; đồng thời điều chỉnh giá đất hợp lý để xây dựng,
kinh doanh kết cấu hạ tầng và giá cho thuê lại đất trong các khu công nghiệp
để thu hút những nhà đầu tư sản xuất kinh doanh, thuê mặt bằng.
Chính quyền cấp tỉnh chỉ đạo xây dựng và ban hành kế hoạch nghiên
cứu xây dựng cải cách quy trình thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động
đầu tư; ban hành chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp và tiểu, thủ
công nghiệp; thành lập Ban quản lý các KCN, trung tâm khuyến công, khuyến
nông và ban chỉ đạo những vấn đề liên quan đến đầu tư; triển khai thực hiện
cơ chế “một cửa”, “một đầu mối” .
Các doanh nghiệp phải coi trọng việc chiếm lĩnh thị trường trong nước,
phải đảm bảo chất lượng sản phẩm có sức cạnh tranh và thay thế được hàng
nhập khẩu.
Chính quyền tỉnh cần phải quan tâm tới việc cải thiện môi trường cho
phát triển sản xuất, kinh doanh; giải quyết đồng bộ từ sản xuất đến chế biến,
tiêu thụ một số sản phẩm chủ yếu đang có sức cạnh tranh hoặc có điều kiện
nâng cao năng lực cạnh tranh; chủ động và có lộ trình hợp lý hội nhập kinh tế
khu vực và quốc tế.
Tích cực phát triển thị trường mới, nhất là thị trường nông thôn nhằm
tạo điều kiện phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, xây dưng chiến lược đầu tư theo
định hướng xuất khẩu và chương trình xúc tiến thị trường xuất khẩu. Thu hút
đầu tư nước ngoài phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế của tỉnh theo hướng
CNH, HĐH.
* Chính sách phát triển khoa học - công nghệ trên địa bàn tỉnh
Khoa học - công nghệ được xác định là động lực của CNH, HĐH khoa
31
học - công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển
kinh tế. Sự bắt đầu và kết thúc CNH, HĐH đều lấy tiến bộ khoa học - công
nghệ làm cơ sở. Sự phát triển khoa học - công nghệ với tư cách là nhân tố cơ
bản của CNH, HĐH, có ảnh hưởng quan trọng đối với tiến trình CNH, HĐH.
Sự phát triển công nghệ không chỉ tiết kiệm các yếu tố đầu vào của quá trình
sản xuất mà còn dẫn tới phát triển phân công lao động và hợp tác, từ đó làm
thay đổi cơ cấu kinh tế. Như vậy, khoa học - công nghệ sẽ thúc đẩy CNH,
HĐH cả chiều rộng và chiều sâu.
Hiện nay, tiến bộ khoa học - công nghệ đã trở thành nhân tố chủ yếu
thúc đẩy tăng trường kinh tế ở các nước kinh tế phát triển. Như vậy, muốn
thực hiện thành công CNH, HĐH tất yếu phải coi trọng phát triển khoa học -
công nghệ.
Để phát triển khoa học - công nghệ, đòi hỏi chính sách phát triển khoa
học công nghệ đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Phát triển khoa học - công nghệ phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh
tế và trình độ khoa học, công nghệ của tỉnh, rút ngắn khoảng cách với các tỉnh
phát triển.
Mục đích của phát triển của khoa học - công nghệ là nâng cao tính hiệu
quả của quá trình sản xuất. Đây là yêu cầu quan trọng nhất của phát triển khoa
học - công nghệ. Điều này đòi hỏi chính sách phát triển khoa học - công nghệ
phải tạo mọi điều kiện giải phóng mọi tiềm năng của khoa học - công nghệ và
có giải pháp thích ứng để phát triển nó.
Chính sách phát triển khoa học - công nghệ phải gắn khoa học với công
nghệ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Mục đích chủ yếu của yêu cầu này là phát huy mặt tích cực của việc
gắn khoa học với công nghệ nhằm thúc đẩy khoa học và công nghệ phát triển.
Như vậy, việc phát triển khoa học - công nghệ đòi hỏi phải phát triển đồng
32
thời cả khoa học lẫn công nghệ. Không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp phát triển công nghệ mà còn tạo điều kiện cho các cơ sở nghiên
cứu phát triển khoa học. Cần huy động các cơ sở nghiên cứu vào việc giám
định, đánh giá, cải tiến công nghệ. Đồng thời nghiên cứu tự thích ứng và cải
tiến hoàn thiện công nghệ ở các doanh nghiệp cũng cần được đẩy mạnh. Như
vậy, chính sách phát triển khoa học - công nghệ đòi hỏi phải có những giải
pháp hài hoà nhằm sử dụng mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ để thúc
đẩy khoa học - công nghệ.
Thực hiện phát triển kinh tế khoa học - công nghệ đối với tất cả các
thành phần kinh tế. Có vậy mới huy động hết mọi tiềm lực vào phát triển khoa
học - công nghệ. Tất nhiên trong việc phát triển khoa học - công nghệ Nhà
nước phải đảm nhận là chính, thông qua các chính sách tài trợ, giúp đỡ các cơ
sở nghiên cứu trong việc nghiên cứu, triển khai công nghệ. Việc vận dụng các
công trình nghiên cứu vào phát triển công nghệ phải đảm bảo công bằng giữa
các thành phần kinh tế. Điều này đòi hỏi các chính sách phải nâng cao tính tự
chủ của các thành phần kinh tế trong việc áp dụng và phát triển công nghệ.
Để thúc đẩy phát triển nhanh và mạnh khoa học - công nghệ chính
quyền cấp tỉnh phải lựa chọn một số ngành ưu tiên để đầu tư, tránh đầu tư tràn
lan.. Những ngành ưu tiên phải phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế tri
thức và toàn cầu hoá về kinh tế. Đó cũng là một giải pháp để phát triển khoa
học - công nghệ. Điều đó có nghĩa là, phát triển khoa học - công nghệ phải có
sự phân tích, lựa chọn phù hợp với điều kiện trong nước và với xu thế phát
triển của thời đại. Mặt khác, phải có chính sách thúc đẩy quá trình chuyển
giao công nghệ. Đây là con đường ngắn nhất và là lợi thế của nước đi sau
trong phát triển công nghệ.
Chính sách phát triển khoa học - công nghệ phải gắn chặt với chính
sách phát triển nguồn nhân lực, bởi lẽ suy đến cùng, phát triển khoa học -
công nghệ phụ thuộc vào phát triển nguồn nhân lực. Khoa học - công nghệ là
33
kết quả hoạt động của hoạt động con người, phản ánh trình độ nhận thức của
con người. Do vậy, chính sách phát triển nguồn nhân lực, quan trọng nhất là
phát triển giáo dục - đào tạo sẽ là nhân tố chính, quyết định đến phát triển
khoa học - công nghệ.
* Chính sách về phát triển các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh
Trên cơ sở phân tích quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước Nga,
Lênin cho rằng, trong thời kỳ quá độ lên CNXH nền kinh tế không thuần nhất
mà tồn tại nhiều thành phần kinh tế.
Muốn thực hiện CNH và phát triển kinh tế - xã hội, phải sử dụng sức
mạnh của các thành phần kinh tế. Vì vậy, sau khi nội chiến chấm dứt (1918 -
1920), để khôi phục kinh tế nước Nga, khắc phục những hạn chế của chính
sách cộng sản thời chiến, Lênin đữa đưa ra chính sách kinh tế mới (NEP).
Một trong những nội dung và biện pháp chủ yếu thực hiện NEP là sử dụng
sức mạnh của các thành phần kinh tế.
Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, theo Lênin,
Nhà nước Xô Viết cần phải tạo những điều kiện thuận lợi cho các thành phần
kinh tế tồn tại và phát triển, nhằm sử dụng sức mạnh và huy động mọi nguồn
lực trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế, góp phần vào giải quyết các
vấn đề bức xúc của xã hội.
Thực tiễn của nước Nga lúc đó chỉ ra rằng, thông qua cơ chế, chính
sách và công cụ quản lý kinh tế phù hợp, mềm dẻo. Nhà nước Xô Viết đã huy
động và sử dụng được khá hiệu quả các nguồn lực của mọi thành phần kinh tế
vào việc phát triển kinh tế và thực hiện CNH. Kết quả là trong những năm
thực hiện NEP, công nghiệp nhẹ đã phát triển mạnh, công nghiệp nặng tuy
còn khó khăn nhưng đã có sự cải thiện đáng kể, chế độ tài chính và đồng Rúp
được ổn định, nạn đói được giải quyết, người lao động phấn khởi vì được
34
khuyến khích, quan tâm…
Như vậy, một cống hiến của Lênin là phát triển kinh tế nhiều thành
phần, nhằm thu hút và sử dụng tốt nhất mọi nguồn lực để phát triển kinh tế,
thực hiện CNH, giải quyết những vấn đề khó khăn của đất nước.
Các nước đang thực hiện CNH, HĐH với một nền kinh tế kém phát
triển, các nguồn lực luôn ở trong tình trạng khan hiếm. Điều đó đòi hỏi, chính
quyền cấp tỉnh phải huy động sức mạnh của toàn dân, mọi nguồn lực, mọi lực
lượng vật chất trong và ngoài nước cho CNH, HĐH. Thực hiện được điều đó
chính quyền cấp tỉnh phải phát huy được sức mạnh của các thành phần kinh
tế.. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, mỗi thành phần kinh tế là một bộ
phận, một mảng không thể tách rời của nền kinh tế và đều có vị trí, có thế
mạnh của mình trong phát triển kinh tế - xã hội.
Hiện nay, hầu hết các tỉnh thực hiện CNH, HĐH trong điều kiện nền
kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần là tất
yếu khách quan. Vì vậy, phải tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát
triển.. Để các thành phần kinh tế thực hiện được điều đó, chính sách đối với
các thành phần kinh tế phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Phải phát huy được tính năng động, sáng tạo và hạn chế mặt tiêu cực
của các thành phần kinh tế.
Do các thành phần kinh tế tồn tại dựa trên những hình thức sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất, vì vậy mỗi thành phần kinh tế chịu tác động của các
quy luật kinh tế riêng. Điều đó đòi hỏi, để phát huy được tính năng động, sáng
tạo của các thành phần kinh tế, các chính sách được xây dựng phải dựa trên
cơ sở nhận thức đầy đủ các quy luật kinh tế hoạt động trong các thành phần kinh
tế.
Mặt khác, cùng với sự thừa nhận nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần,
không thể tránh khỏi những tiêu cực do các thành phần kinh tế gây ra. Chính
35
vì vậy, để hạn chế những tiêu cực đó chính quyền cấp tỉnh cần phải nâng cao
hiệu lực và hiệu quả quản lý của mình. Thông qua các biện pháp mềm dẻo,
thích hợp để ngăn chặn, hạn chế những tiêu cực, hướng các thành phần kinh
tế này phát triển theo các mục tiêu đã định.
Phải phối hợp hoạt động nhịp nhàng giữa các thành phần kinh tế,
hướng các thành phần kinh tế vào một mục đích chung là phát huy hết những
năng lực của mình để đẩy mạnh CNH, HĐH cũng như phát triển kinh tế - xã
hội.
Các thành phần kinh tế tồn tại trong nền kinh tế hoạt động không biệt
lập nhau, mà gắn bó, đan xen, xâm nhập lẫn nhau và là những bộ phận của cơ
cấu kinh tế quốc dân thống nhất, đều chịu tác động của các mối quan hệ kinh
tế như cung, cầu, giá cả, tiền tệ, người mua, người bán…
Mặt khác, do tồn tại dựa trên các loại hình sở hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất, nên mỗi thành phần kinh tế chịu sự tác động hệ thống quy luật kinh
tế riêng, có mục đích riêng, thậm chí có thành phần kinh tế có mục tiêu đối
lập nhau. Do vậy, các thành phần kinh tế vừa thống nhất và mâu thuẫn với
nhau, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau. Điều này đòi hỏi chính quyền cấp
tỉnh điều tiết các thành phần kinh tế phải tạo ra được sự phối hợp hoạt động
nhịp nhàng và hướng các thành phần kinh tế vào một mục đích chung là phát
huy hết năng lực của mình để đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH cũng như phát
triển kinh tế - xã hội thông qua các chính sách khuyến khích, ưu đãi và hỗ trợ.
Ở nước ta, sự nghiệp CNH, HĐH là nhằm thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên CNXH. Để
thực hiện mục tiêu đó, đòi hỏi phải phát huy sức mạnh của toàn dân, của các
thành phần kinh tế, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ
đạo, là lực lượng cơ bản trong sự nghiệp CNH, HĐH. Đây cũng là sự khác
36
biệt giữ CNH, HĐH ở những nước TBCN với các nước định hướng XHCN. ở
các nước TBCN, lực lượng cơ bản thực hiện CNH, HĐH là kinh tế tư nhân,
chủ yếu là giai cấp tư sản.
Để thực hiện được vai trò đó, thành phần kinh tế Nhà nước phải có đủ
tiềm lực kinh tế mạnh. Điều đó chỉ có thể thực hiện khi thành phần kinh tế
Nhà nước phải nắm lấy những ngành, những khâu, những lĩnh vực then chốt,
các đầu mối quan trọng của nền kinh tế, là đầu tàu trong việc khai thác, phát
triển những ngành nghề mới, hoặc những ngành nghề cần đầu tư lớn mà các
thành phần kinh tế khác không thể hay chưa có điều kiện phát triển được. Mặt
khác thành phần kinh tế Nhà nước cũng là lực lượng vật chất, là công cụ để
chính quyền cấp tỉnh điều tiết kinh tế, định hướng các thành phần kinh tế khác
trong quá trình CNH, HĐH theo định hướng XHCN.
Trên đây là các chính sách tạo các nguồn lực cơ bản trong sự nghiệp
CNH, HĐH. Điểm cần lưu ý trong quá trình thực hiện các chính sách trên là,
để đảm bảo tính hiệu quả, các chính sách này phải thực hiện đồng bộ, thống
nhất với nhau và hỗ trợ nhau, tạo thành một tổng hợp lực to lớn trong việc tạo
ra các nguồn lực, đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH.
1.2.2.3. Tạo ra môi trường xã hội thuận lợi để thực hiện công nghiệp
* Phát triển nguồn nhân lực để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hóa, hiện đại hóa
Học thuyết Mác đã chỉ ra: con người là yếu tố năng động, tích cực nhất
trong lực lượng sản xuất, là lực lượng chủ đạo, là kẻ sáng tạo ra của cải vật
chất xã hội.
Trong sự nghiệp CNH, HĐH nguồn nhân lực có tác dụng quyết định.
Nhưng không phải bất kỳ nguồn nhân lực nào đều có tác dụng như nhau. Điều
đó có nghĩa là, sự nghiệp CNH, HĐH không hề có sự lựa chọn đối với nguồn
37
nhân lực. Ngược lại, nó yêu cầu hết sức nghiêm ngặt đối với thể lực và chất
lượng của nguồn nhân lực. Để thực hiện CNH, HĐH đòi hỏi nguồn nhân lực
phải có chất lượng cao.
Do đặc điểm của sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện hiện nay là, các
nước mở cửa, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau. Phát triển nhân lực, mà
quan trọng nhất là giáo dục và đào tạo, phải cung cấp cho xã hội một đội ngũ
lao động mới có tay nghề vững vằng, có học vấn cao, năng động, sáng tạo để
thích ứng với sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện mới. Điều đó đòi hỏi
chính sách phát triển nguồn nhân lực phải đảm bảo được các yêu cầu sau:
Về quan điểm phải nhận thức rằng, đầu tư phát triển nguồn nhân lực là
một dạng đầu tư phát triển, vì nó là động lực để tăng trưởng kinh tế. Vì vậy,
phải ưu tiên phát triển nguồn nhân lực. Cụ thể là ưu tiên phát triển giáo dục -
đào tạo, phát triển hệ thống y tế để nâng cao sức khoẻ và thể chất của người
lao động, có biện pháp, chính sách, nhất là chính sách tiền lương, phù hợp để
ngăn chặn chảy máu chất xám đang khá phổ biến ở các nước ĐPT và thu hút
chuyên gia nước ngoài.
Giáo dục- đào tạo phải phù hợp và phản ánh được xu hướng phát triển
của trình độ khoa học - công nghệ. Điều đó đòi hỏi các tỉnh phải ưu tiên xây
dựng các cơ sở đào tạo chất lượng cao. Bởi vì, khi quy mô giáo dục - đào tạo
mở rộng thì không thể phát triển đều khắp trên diện rộng các loại trường có
chất lượng như nhau. Do đó, phải tập trung phát triển một bộ phận giáo dục -
đào tạo có chất lượng cao. Bộ phận này lúc đầu có quy mô nhỏ, cán bộ giảng
dạy, cán bộ quản lý và học sinh đều được chọn lọc kỹ, được Nhà nước ưu tiên
về cơ sở vật chất, kinh phí để bồi dưỡng nhân tài. Bộ phận giáo dục đào tạo
chất lượng cao sẽ là hạt nhân để từ đó giúp cho việc nâng cao chất lượng của
cả hệ thống giáo dục.
Phải xã hội hoá giáo dục - đào tạo. Phát triển giáo dục - đào tạo phải
38
mang tính chất xã hội hoá cao. Khi giáo dục - đào tạo có tính xã hội thì các tổ
chức, doanh nghiệp, cá nhân, gia đình, cộng đồng đều có trách nhiệm quan
tâm góp sức lực, trí tuệ, tiền của để phát triển. Mặt khác, các tổ chức, gia
đình, cá nhân, cộng đồng phải có nghĩa vụ học tập vì nó mang lại lợi ích trực
tiếp cho bản thân, cho các doanh nghiệp, cho toàn xã hội. Cho nên người đi
học phải đóng học phí, người sử dụng lao động qua đào tạo phải đóng góp chi
phí đào tạo.
Trong nền kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo, sự chênh lệch
mức sống giữa các tầng lớp dân cư sẽ xảy ra. Để tạo nên sự công bằng trong
các cơ hội giáo dục và đào tạo, nên sự phát triển đồng đều giữa các vùng, tuỳ
từng trường hợp cụ thể mà tổ chức các loại hình giáo dục - đào tạo thích hợp,
tạo điều kiện cho tất cả các đối tượng có cơ hội học tập bằng cách cho vay
vốn, cấp học bổng…
* Tạo ra sự đồng thuận của nhân dân đối với sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
Trong quá trình thực hiện CNH, HĐH, chính quyền cấp tỉnh cần có sự
đồng thuận của nhân dân. Nếu nhân dân không ủng hộ thì quá trình đổi mới,
xây dựng, lấy đất của dân... sẽ không bao giờ thực hiện được. Do vậy cần phải
có sự ủng hộ của dân. Đúng như Bác đã từng nói:
“ Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong”
Chính quyền cấp tỉnh cần phải có những Nghị quyết, văn bản triển khai
hợp lòng dân, tạo ra sự đồng thuận, ủng hộ của nhân dân thì quá trình thực
hiện CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh sẽ đạt kết quả cao.
Bản chất cực kỳ quý báu của nhân dân Việt Nam là truyền thống yêu
39
nước, yêu CNXH, tin tưởng vào Đảng, vào đường lối chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước, làm theo Đảng, đưa chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước vào cuộc sống. Trong thực tế, Đảng ta cũng có những sai lầm,
khuyết điểm. Nhà nước cũng có những chính sách chưa đúng, không hợp lòng
dân, nhưng Đảng đã biết nhận thức rõ sai lầm khuyết điểm của mình để sửa
chữa, nhà nước biết kịp thời điều chỉnh những chính sách cho sát thực tiễn tạo
ra sự đồng thuận của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, trong quá trình
CNH, HĐH.
Đối với chính quyền cấp tỉnh, không nằm ngoài quy luật đó, xuất phát
từ đặc điểm tự nhiện, điều kiện kinh tế - xã hội, đặc biệt là truyền thống văn
hoá. Chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội… làm được những điều mà
nhân dân mong muốn đó là kết quả của việc thực hiện CNH, HĐH trên địa
bàn tỉnh
Từ những khó khăn của nhân dân, UBND tỉnh cần phải ban hành chính
sách thiết thực hỗ trợ, tạo điều kiện để nhân dân và tỉnh cùng làm mang lại
hiệu quả thiết thực.
Như vậy sự đồng thuận của nhân dân với Đảng, nhà nước là động lực
của mọi thành công trong quá trình tổ chức thực hiện việc đẩy mạnh CNH,
HĐH ở tỉnh, đánh dấu và ghi nhận từng chặng đường phát triển kinh tế - xã
40
hội thực hiện thắng lợi mục tiêu đã đề ra.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2001), Tài liệu Nghị quyết văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX trong lĩnh vực khoa giáo,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Chu Văn Cấp, Trần Bình Trọng (2005), Giáo trình Kinh tế chính trị
Mác - Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt Nam
lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Cục Thống kê Bắc Ninh (2003), Niên giám thống kê 2002, Nxb. Thống
kê, Hà Nội.
5. Cục Thống kê Bắc Ninh (2004), Niên giám thống kê 2003, Nxb. Thống
kê, Hà Nội.
6. Cục Thống kê Bắc Ninh (2005), Niên giám thống kê 2004, Nxb. Thống
kê, Hà Nội.
7. Cục Thống kê Bắc Ninh (2005), Thực trạng doanh nghiệp Bắc Ninh,
Nxb. Thống kê, Hà Nội.
8. Cục Thống kê Bắc Ninh (2006), Niên giám thống kê 2005, Nxb. Thống
kê, Hà Nội.
9. Cục Thống kê Bắc Ninh (2007), Niên giám thống kê 2006, Nxb. Thống
kê, Hà Nội.
10. Cục Thống kê Bắc Ninh (2008), Niên giám thống kê 2007, Nxb. Thống
kê, Hà Nội.
11. Cục Thống kê Bắc Ninh (2009), Niên giám thống kê 2008, Nxb. Thống
kê, Hà Nội
12. Mai Ngọc Cường (2001), Kinh tế thị trường đinh hướng XHCN ở Việt
41
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam, Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2005), Văn kiện Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII.
16. Đỗ Đức Định (1999), Một số vấn đề về chiến lược công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và lý thuyết phát triển, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
17. GS. TS .Nguyễn Ngọc Long, GS.TS. Nguyễn Hữu Vui (2006), Giáo
trình Triết học Mác- Lênin, Nxb CTQG.
18. C.Mác-Ănghen (1981 ), Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
19. C. Mác (1971), Sự khốn cùng của triết học, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
20. Đỗ Mười (1997), Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
21. Đỗ Mười (1992), “Cải cách một bước bộ máy nhà nước và đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước”, Tạp chí Cộng sản, (1).
22. Sở Giáo dục - Đào tạo Bắc ninh (2002), Thông tin Giáo dục - Đào tạo
Bắc Ninh.
23. Sở Công nghiệp Bắc Ninh (2005), Báo cáo kết quả hoạt động thực hiện Nghị quyết 02- NQ/TU về phát triển làng nghề, khu, cụm công nghiệp làng nghề.
24. Sở Khoa học và Công nghệ Bắc Ninh (2005), Thông tin khoa học và
công nghệ.
25. Sở Kế hoạch và Đầu tư Bắc Ninh (2005), Định hướng phát triển kinh tế
- xã hội tỉnh Bắc Ninh năm 2005.
26. Đặng Kim Sơn (2001), Công nghiệp hoá từ nông nghiệp, lý luận thực tiễn và triển vọng áp dụng ở Việt Nam, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.
27. Nguyễn Sỹ (2006), Quá trình CNH,HĐH nông nghiệp nông thôn tỉnh
42
Bắc Ninh từ 1986 đến nay, Luận án tiến sĩ kinh tế.
28. Nguyễn Thế Thảo (2005), Phát huy lợi thế so sánh đẩy mạnh phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
29. Trần Việt Tiến (2002), Vai trò Nhà nước trong quá trình CNH, HĐH ở
Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế.
30. Trường Cao đẳng Sư phạm Bắc Ninh (2003), Nguồn nhân lực Bắc Ninh trước yêu cầu CNH - HĐH (đề tài khoa học nghiên cứu cấp tỉnh).
31. Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2000), Một số vấn đề về CNH, HĐH trong điều kiện hội nhập kinh tế và phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
32. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2006), Kết luận của Hội nghị lần thứ năm BCH Đảng bộ tỉnh(khoá XVII) về tiếp tục đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2006 - 2010.
33. Tỉnh uỷ Băc Ninh (2006), Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp gắn với phát triển đô thị theo hướng hiện đại.
34. Nguyễn Kế Tuấn (2006), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nông nghiệp
nông thôn ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc ninh (2000), Về chế độ, chính sách đào tạo,
bồi dưỡng, thu hút và sử dụng nhân tài tỉnh Bắc Ninh.
36. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2003), Đánh giá kết quả ba năm thực hiện Nghị quyết Đại Hội Đảng bộ lần thứ XVI, định hướng phát triển kinh tế đến năm 2010.
37. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2002), Văn bản quy phạm pháp luật do
HĐND và UBND tỉnh Bắc Ninh ban hành.
38. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2005), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020.
43
39. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2006), Chương trình phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2006 - 201