intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng - Doanh nghiệp nhà nước tiêu biểu chuyển đổi thành công từ mô hình kinh tế nhà nước sang công ty cổ phần

Chia sẻ: AtaruMoroboshi _AtaruMoroboshi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

23
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết giới thiệu về Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng được đánh giá là doanh nghiệp tiêu biểu khi chuyển đổi thành công từ mô hình kinh tế nhà nước sang kinh tế tư nhân với tốc độ thoái vốn nhanh nhất và đạt hiệu quả cao nhất. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng - Doanh nghiệp nhà nước tiêu biểu chuyển đổi thành công từ mô hình kinh tế nhà nước sang công ty cổ phần

  1. 532 KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP TỔNG CÔNG TY XÂY DỰNG BÄCH ĐẰNG - DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TIÊU BIỂU CHUYỂN ĐỔI THÀNH CÔNG TỪ MÔ HÌNH KINH TẾ NHÀ NƯỚC SANG CÔNG TY CỔ PHÆN ThS. Nguyễn Thúy Hoa Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Hải Phòng Tóm tắt: Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế tư nhân được coi là một động lực chủ yếu để phát triển kinh tế. Để tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển, từ năm 1990 đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế này, trong đó có chủ trương về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Và trong số những doanh nghiệp Nhà nước đã hoàn thành cổ phần hóa, Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng được đánh giá là doanh nghiệp tiêu biểu khi chuyển đổi thành công từ mô hình kinh tế nhà nước sang kinh tế tư nhân với tốc độ thoái vốn nhanh nhất và đạt hiệu quả cao nhất. Từ khóa: Cổ phần hóa doanh nghiệp, kinh tế tư nhân, Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng. BACH DANG CONSTRUCTION COMPANY - TYPICAL STATE ENTERPRISES SUCCESSFULLY TRANSFORMED FROM THE STATE ECONOMIC MODEL TO JOINT STOCK COMPANY Abstract: The economy of our country today is a socialist-oriented market economy. The economy has many forms of ownership and many economic sectors, of which the private economy is considered a major driving force for economic development. In order to create favorable conditions for the development of the private economy, from 1990 to the present, our Party and State have issued many guidelines and policies to promote the development of this economic sector, including regarding the equitization of State enterprises. And among the equitized SOEs, Bach Dang Construction Corporation is considered a typical enterprise when successfully transforming from the state economic model to the private economy at a rapid pace. The fastest and most effective divestment. Keywords: Equitizing enterprises, private economy, Bach Dang Construction Company. 1. ĐẶT VÇN ĐỀ Trong những năm vừa qua Đảng và Nhà nước rất chú trọng, đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa tại các đơn vị sản xuất, kinh doanh của Nhà nước nhưng kết quả đạt được vẫn còn rất hạn chế. Nguyên nhân của tình trạng này là do sự thiếu quyết liệt của doanh nghiệp trong đổi mới hoạt động của doanh nghiệp và sự thiếu nghiêm túc trong triển khai các quyết định của Thủ tướng về cổ phần hóa của các địa phương, bộ, ngành.
  2. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 533 Tuy nhiên, bên cạnh sự chậm trễ, trì hoãn trong thoái vốn Nhà nước của rất nhiều doanh nghiệp thì Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng được coi là một điểm sáng hiếm hoi. Mặc dù, kế hoạch thoái vốn của Nhà nước tại Tổng Công ty được đề ra từ năm 2013, bắt đầu triển khai vào năm 2014 và dự định sẽ hoàn thành vào năm 2020 nhưng do sự nỗ lực, cố gắng của ban lãnh đạo Tổng Công ty trong việc lập kế hoạch, rà soát đơn vị, gửi trình Thủ tướng nên ngay giữa năm 2018, Nhà nước đã hoàn thành thoái vốn 100% tại Tổng Công ty. Và điều đặc biệt là số vốn Nhà nước thu hồi tại Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng cao gấp gần 2 lần so với giá khởi điểm mà Bộ Xây dựng phê duyệt. Sau khi cổ phần hóa, Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng đã những bước phát triển mới, đạt được kết quả rất đáng tự hào. Tìm hiểu, nghiên cứu quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp tại Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng là một điều rất cần thiết. Nó sẽ giúp cho chúng ta có cái nhìn đầy đủ, khách quan về chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp của Đảng, Nhà nước và lý giải được vì sao trong khi các doanh nghiệp Nhà nước khác vẫn còn lúng túng, thậm chí “sợ” phải cổ phần hóa thì Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng lại sẵn sàng cổ phần hóa và cổ phần hóa với tốc độ rất nhanh, đạt kết quả cực kỳ khả quan. Từ đó, có thể áp dụng những kinh nghiệm rút ra từ quá trình cổ phần hóa Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng cho các doanh nghiệp Nhà nước khác, đẩy mạnh quá trình thoái vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp khác trong thời gian tới. 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế tư nhân từ thời kỳ đổi mới đến nay Kinh tế tư nhân, hiểu một cách chung nhất đó là khu vực kinh tế nằm ngoài quốc doanh (ngoài khu vực kinh tế nhà nước) mà tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư. Hiểu ở cấp độ hẹp, kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế gắn liền với loại hình sở hữu tư nhân, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Kinh tế tư nhân tồn tại dưới các hình thức như: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và các hộ kinh doanh cá thể. Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam có chủ trương nhất quán là phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó có kinh tế tư nhân. Đảng ta đã khẳng định: Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tế xây dựng đất nước, trước năm 1986, do điều kiện lịch sử, cơ chế quản lý kinh tế nước ta là cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp với hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Cuối những năm 1970, do những hạn chế của cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp đã làm cho nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Thực tế đó, đòi hỏi Đảng ta phải có những đổi mới về tư duy kinh tế. Thực hiện đường lối đổi mới, kể từ năm 1986, thành phần phần kinh tế tư nhân được công khai thừa nhận. Tại Đại hội lần thứ VII của Đảng (6/1991), lần
  3. 534 KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP đầu tiên Đảng ta nêu rõ quan điểm, nền kinh tế nước ta là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” [1, 11]. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta. Như vậy, từ chỗ coi kinh tế tư bản tư nhân là một thành phần kinh tế “tàn dư” của chế độ xã hội cũ, có thể sử dụng nhưng cần “cải tạo” bằng những bước đi thích hợp, Đại hội VII (6/1991) đã thực sự coi kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế độc lập, có tiềm năng phát triển và đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước nói chung. Điều đó được phản ánh rõ trong Điều 21 của Hiến pháp năm 1992: “Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển”. Tiếp nối sự thay đổi nhận thức về tư duy kinh tế, đặc biệt là về vị trí, vao trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6 - 1996) khẳng định “thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách này, khuyến khích mọi doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước khai thác các tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển, yên tâm làm ăn lâu dài, hợp pháp, có lợi cho quốc kế dân sinh, đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trước pháp luật, không phân biệt sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh” [2; 622- 633]. Văn kiện Đại hội VIII khẳng định việc đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế, đồng thời cần tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài. Từ quan điểm và đường lối của Đảng đối với kinh tế tư nhân, Nhà nước cũng đã có những đổi mới cơ chế đối với kinh tế tư nhân mà tập trung nhất là ban hành Luật Doanh nghiệp (Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999 thay thế cho Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân). Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp đánh dấu một mốc mới, là bước ngoặt thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ. Luật doanh nghiệp đã tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho tư nhân trong việc thành lập và tổ chức sản xuất kinh doanh. Ngoài Luật doanh nghiệp, Quốc hội cũng ban hành một số luật có liên quan đến kinh tế tư nhân như Luật Thương mại, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp… Đến Đại hội Đảng lần thứ IX (1/2011), vai trò của kinh tế tư nhân tiếp tục được nâng lên khi Đảng khẳng định kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế có vị trí quan trọng lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: “Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm” [5, 149]. Đại hội cũng xác định rõ nền kinh tế nước ta có 6 thành phần kinh tế gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Hội nghị Trung ương lần thứ 5 khóa IX, Đảng khẳng định: “Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [3, 95- 96]. Đại hội X của Đảng (4/2006) tiếp tục có những khẳng định mới về vai trò của kinh tế tư nhân, khi coi kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành không thể thiếu, có vị trí quan trọng
  4. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 535 đặc biệt và ý nghĩa chiến lược trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đại hội xác định rõ: “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế” [4, 83]. Đồng thời, khuyến khích thành phần kinh tế này phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tiếp theo của công cuộc đổi mới đất nước. Để thực hiện chủ trương Đại hội X đưa kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, Đại hội XI (1/2011) đã đề ra chủ trương cần phải hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm phát triển mạnh kinh tế tư nhân. Và tại Đại hội Đảng lần thứ XII là chính thức xác nhận: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước” [6, 107- 108]. Như vậy, về mặt lý luận cũng như thực tiễn, có thể thấy sự tồn tại và phát triển thành phần kinh tế tư nhân ở nước ta như quan điểm của Đảng là khách quan, lâu dài, cần thiết và là một tất yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 2.2. Cổ phần hóa doanh nghiệp- bước chuyển mình phù hợp với yêu cầu nền kinh tế thị trường của Tổng Công ty xây dựng Bạch Đằng Sau năm 1954, miền Bắc nước ta được giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng mới với rất nhiều khó khăn. Thực trạng miền Bắc thời kỳ này, nhất là các thành phố, thị xã đều bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Hệ thống đường giao thông, các cơ sở công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ rất nhỏ bé, đòi hỏi phải sớm có những đơn vị Kiến trúc- Xây dựng ra đời để tái thiết lại miền Bắc, phát triển kinh tế, chi viện cho miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Đáp ứng yêu cầu đó, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa I đã quyết định thành lập Bộ Kiến trúc. Và chỉ sau 4 tháng Bộ Kiến trúc được thành lập, ngày 31 tháng 8 năm 1958, Công ty Kiến trúc Hải Phòng được khai sinh trên cơ sở Công trường của Bộ Kiến trúc, do đồng chí Ngô Thấn, Giám đốc Công an tỉnh Thái Bình làm Chỉ huy trưởng. Từ Công ty Kiến trúc Hải Phòng, Công ty Xây dựng Hải Phòng (thành lập vào ngày 14/7/1973), Công ty xây dựng số 16 (thành lập vào tháng 12/1981) và Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng (thành lập vào ngày 15/3/1996) lần lượt ra đời. Đó chính là những công ty tiền thân của Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng- CTCP hiện nay. Trải qua 4 lần đổi tên với hơn 60 năm xây dựng và phát triển (1958- 2019), Tổng Công ty xây dựng Bạch Đằng đã có những bước chuyển mình mang tính đột phá, trở thành một trong những công ty xây dựng thuộc top đầu cả nước. Có được những thành tích đáng tự hào như vậy là do rất nhiều nguyên nhân, trong sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám thay đổi của Ban lãnh đạo Tổng Công ty; sự cần cù, chăm chỉ, khát khao thay đổi để cống hiến cho ngành, cho đất nước của đội ngũ cán bộ, công nhân viên được coi là yếu tố quyết định. 2.2.1. Hành trình 5 năm thoái vốn từ công ty Nhà nước trở thành công ty cổ phần năng động, phát triển Cũng như các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam được thành lập ngay sau khi miền Bắc được giải phóng, trong suốt những năm tháng chiến tranh ác liệt, Tổng Công ty Xây
  5. 536 KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP dựng Bạch Đằng đã góp phần tích cực vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.... Nhưng khi đất nước chuyển sang thời kỳ đổi mới thì những doanh nghiệp Nhà nước vốn được thành lập trước đó, trong đó có Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng nhằm mục đích tích lũy ngân sách cho Nhà nước, tạo việc làm cho người lao động lại không đáp ứng được những mục tiêu này. Vì vậy, việc chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả gây lãng phí nguồn lực quốc gia, sang hình thức công ty cổ phần hay tư nhân hoá doanh nghiệp Nhà nước là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế. “Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước thực chất là việc chuyển doanh nghiệp mà chủ sở hữu là Nhà nước (doanh nghiệp đơn sở hữu) thành công ty cổ phần (doanh nghiệp đa sở hữu), chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo các quy định về công ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp. Được thực hiện với mục đích tránh gây ra mâu thuẫn sâu sắc với bộ phận cán bộ và nhân dân lo ngại về sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Chính phủ Việt Nam đã quyết định sẽ không bán đứt các doanh nghiệp của mình cho các cá nhân, thay vì đó tiến hành chuyển các doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp cổ phần. Tài sản của doanh nghiệp được chia thành các cổ phần bán cho cán bộ công nhân trong doanh nghiệp và phần còn lại do nhà nước sở hữu. Tùy từng doanh nghiệp, phần cổ phần do nhà nước sở hữu có thể nhiều hay ít, từ 0% tới 100%” [7, 1]. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Theo Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khóa VII đã nêu rõ: Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới. Phải thí điểm chỉ đạo chặt chẽ rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp. Nghị quyết 10-NQ/ TW ngày 17 tháng 3 năm 1995 của Bộ chính trị cũng nêu rõ: Thực hiện từng bước vững chắc về tổ chức về cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp không cần nhà nước đầu tư 100% vốn. Tùy tính chất loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán tỷ lệ cổ phiếu cho công nhân viên chức làm tại doanh nghiệp để tạo động lực bên trong trực tiếp thúc đẩy phát triển và bán cổ phần cho tổ chức hay cá nhân ngoài quốc doanh. Bên cạnh đó, theo Nghị quyết tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa IX đã nhấn mạnh Đổi mới cơ bản tổ chức và cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước. Thực hiện các hình thức cổ phần thích hợp với tổ chức và lĩnh vực sản xuất để thu hút thêm các nguồn vốn, tạo thêm động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Trên cơ sở Nghị quyết 10- NQ/TW, Đại hội lần thứ IX, XII của Đảng và các quy định, Chỉ thị, Nghị quyết của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, của Bộ Xây dựng “Về công tác đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp và tái cấu trúc các tập đoàn kinh tế, các Tổng Công ty Nhà nước”, Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng đã tiến hành rà soát, đánh giá thực trạng về nguồn lực tài chính, năng lực hiện có của công tác điều hành, tổ chức thi công các công trình dân dụng, công nghiệp, gió thông, hạ tầng…. Trên cơ sở đó, Tổng Công ty đã xây dựng đề án tái cơ cấu, sắp xếp, củng cố tổ chức bộ máy, đẩy mạnh công tác cổ phần hóa công ty mẹ và các đơn vị thành viên giai đoạn 2013- 2015 và những năm tiếp
  6. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 537 theo. Sau khi đề án tái cơ cấu Tổng Công ty được hoàn thiện và gửi lên Bộ Xây dựng thì ngày 24 tháng 6 năm 2013, Bộ Xây dựng đã ra “Quyết định số 610/QĐ- BXD phê duyệt đề án tái cấu trúc Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng” và báo cáo Chính phủ. Sáu tháng sau, cụ thể là ngày 16 tháng 12 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã ra “Quyết định số 2453/QĐ- TTg phê duyệt phương án cổ phần hóa và chuyển Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng thành Tổng Công ty cổ phần”. Bắt đầu từ đây, Tổng Công ty chính thức bước vào quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp theo lộ trình mà Thủ tướng Chính phủ đã đề ra. Thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Xây dựng đã Chỉ đạo Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng tiến hành Đại hội cổ đông, kiện toàn bộ máy lãnh đạo, đề ra chiến lược phát triển Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng- CTCP từ năm 2014 trở đi và kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2014. Sau khi hoàn thành cổ phần hóa giai đoạn một, ngày 5 tháng 7 năm 2014, Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng- CTCP đã tiến hành Đại hội cổ đông lần thứ nhất. Đại hội đã thảo luận kế hoạch đẩy mạnh sản xuất kinh doanh năm 2014 và chiến lược phát triển doanh nghiệp trong nhiệm kỳ 2014- 2019, tiếp tục rà soát và tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp thành viên chưa cổ phần. Và đến ngày 19 tháng 7 năm 2014, Tổng Công ty chính thức chuyển thành công ty cổ phần theo giấy phép doanh nghiệp. Trong Quyết định số 2453/QĐ- TTg có ghi rõ: Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng- CTCP có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng; được mở tài khoản tại ngân hàng theo quy định của pháp luật; tổ chức hoạt động theo điều lệ của Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đẳng- CTCP và Luật doanh nghiệp. Cơ quan đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước của Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng CTCP là Bộ Xây dựng. Từ những kết quả và kinh nghiệm trong quá trình tái cơ cấu, sắp xếp lại doanh nghiệp và tiến hành cổ phần hóa các đơn vị thành viên trong các năm trước đây, Tổng Công ty đưa ra lộ trình thoái vốn 100% tại tất cả các đơn vị thành viên và công ty mẹ vào năm 2018. Sau cổ phần hóa, Tổng Công ty sắp xếp, ổn định tổ chức, kiện toàn bộ máy các phòng ban cơ quan Tổng Công ty và các đơn vị trực thuộc. Để Tổng Công ty hoạt động theo đúng Luật Doanh nghiệp cũng như để phát huy được sức mạnh tổng hợp của Tổng Công ty (nguồn lực tài chính, tài năng trí tuệ của đội ngũ cán bộ và người lao động, năng lực cạnh tranh, đấu thầu, thi công, quản lý và phát triển vốn), Hội đồng quản trị đã ban hành các quy chế nội bộ theo mô hình cổ phần hóa như Điều lệ tổ chức hoạt động, Quy chế hoạt động của Hội đồng quản trị, Quy chế tài chính… Những quy chế đó, là cơ sở pháp lý phù hợp với hoạt động của mô hình doanh nghiệp cổ phần hóa đã giúp cho Tổng Công ty phát huy tối đa năng lực công tác, tính khoa học và tính chuyên nghiệp cao, đảm bảo đúng pháp luật của Nhà nước. Sau tiến hành cổ phần hóa giai đoạn 1 (2013- 2015), số vốn Nhà nước nắm giữ ở Tổng Công ty còn 51%, các cổ đông nắm giữ 49%. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, Nghị quyết Trung ương, theo Quyết định số 1232/QQĐ- TTg ngày 17/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục có vốn Nhà nước thực hiện thoái vốn giai đoạn 2017- 2020 và Văn bản số 2730/BXD- QLDN ngày 9/10/2017 về đề án Tái cư cấu Tổng Công ty Xây Dựng Bạch Đằng giai đoạn 2016- 2020, định hướng năm 2025, Tổng Công ty tiến hành cổ phần hóa giai đoạn 2.
  7. 538 KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP Ngày 20 tháng 4 năm 2018, Bộ Xây dựng đã có Văn bản số 880/BXD- QLDN phê duyệt phương án thoái toàn bộ vốn Nhà nước tại Công ty mẹ- Tổng Công ty Xây Dựng Bạch Đằng- CTCP. Tổng số cổ phần được bán là 20.563.400 cổ phần (chiếm 94,6% vốn điều lệ) tại công ty mẹ- Tổng Công ty với giá khởi điểm là 13.300 đồng/cổ phần. Ngày 18 tháng 6 năm 2018, Bộ Xây dựng đã bán đấu giá thành công 100% vốn Nhà nước tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội với giá đặt mua cao nhất là 26.800 đồng/cổ phần. Tổng số tiền Nhà nước thu được từ việc bán đấu giá cổ phần tại Công ty mẹ- Tổng Công ty Xây Dựng Bạch Đằng là 540.452.290.000 đồng tăng 1,98 lần so với giá khởi điểm mà Bộ Xây dựng phê duyệt. Sau khi hoàn thành cổ phần hóa Tổng Công ty giai đoạn 2, ngày 18 tháng 7 năm 2018, Tổng Công ty đã tổ chức buổi lễ chính thức bản giao chuyển quyền sở hữu vốn Nhà nước cho các chủ sở hữu mới với sự chứng kiến của đại diện Bộ Xây dựng, Thành viên Hội đồng quản trị, Ban Tổng giám đốc, Ban Kiểm soát và Trưởng phó các phòng ban của Công ty mẹ- Tổng Công ty. Như vậy, có thể nói, xét về mặt pháp lý Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng chính thức trở thành công ty cổ phần với 100% vốn điều lệ của tư nhân từ ngày 18 tháng 7 năm 2018. Và ngày 17 tháng 8 năm 2018, cũng là ngày đánh dấu hoàn toàn quá trình thoái vốn của Nhà nước tại Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng. Bắt đầu từ đây, Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, hoạt động với tư cách là một công ty tư nhân. 2.2.2. Thực trạng Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng- CTCP sau khi tiến hành cổ phần hóa thành công và một số kinh nghiệm rút ra từ quá trình cổ phần hóa Sau khi tiến hành cổ phần hóa giai đoạn 1 (2013- 2015), Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng chuyển sang hoạt động theo mô hình cổ phần hóa và đã đạt được những kết quả vô cùng khả quan trong sản xuất kinh doanh. Trong 4 năm (2014- 2017), tốc độ tăng trưởng bình quân của Tổng Công ty là 11%/năm (trước năm 2013- khi chưa tiến hành cổ phần hóa, tốc độ tăng trưởng bình quân của Tổng Công ty chỉ đạt 5%- 6%). Giá trị sản xuất, kinh doanh của Tổng công ty tăng liên tục qua các năm: Năm 2014, Tổng Công ty ký hợp đồng thi công, xây lắp được 2.286 tỷ đồng. Năm 2015, giá trị sản xuất kinh doanh đạt 5.490 tỷ đồng, tăng gần 2,5 lần so với năm 2014. Năm 2016, giá trị sản xuất kinh doanh tiếp tục tăng cao, đạt 6.457 tỷ đồng, tăng 18% so với năm 2015. Và đến năm 2017, giá trị sản xuất kinh doanh tăng lên 6.780 tỷ đồng, đạt 105% kế hoạch. Kết quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty liên tục tăng cao đã làm cho đời sống của cán bộ công nhân viên Tổng công ty không ngừng được cải thiện. Thu nhập bình quân của người lao động từ 6,5 triệu đồng/tháng (2009- 2010), tăng lên 8,7 triệu đồng/tháng vào năm 2017. Các chế độ chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đều được thực hiện tốt. Điều đặc biệt là sau khi tiến hành cổ phần hóa, tác phong công tác và làm việc của đội ngũ cán bộ, nhân viên và người lao động của Tổng công ty đã thay đổi rất nhiều, mang tính chuyên nghiệp hơn, chất lượng làm việc cao hơn, năng động và sáng tạo hơn. Điều đó đã đã giúp cho uy tín và thương hiệu của Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng- CTCP từng bước được khẳng định trên thương trường.
  8. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 539 Trong giai đoạn từ năm 2014- 2017, Tổng Công ty đã đã trúng thầu và thi công hàng loạt các dự án đầu tư lớn, đòi hỏi kỹ thuật cao như Dự án tòa nhà phức hợp văn phòng, thương mại, dịch vụ tại 268 Trần Nguyên Hãn, Hải Phòng, Dự án Khu dân cư Gò Gai, Thủy Nguyên, Hải Phòng; Dự án khu nhà ở thương mại tại 85 Đường vòng Cầu Niệm; Dự án Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn- Thanh Hóa, Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình, Nhà máy xử lý nước thải thành phố Hồ Chí Minh, Nhà máy cán thép Việt Nhật… đặc biệt là Nhà máy lọc dầu Dung Quất- Quảng Ngãi, một trong những dự án trọng điểm quốc gia. Với những kết quả đã đạt được, năm 2016, Tổng Công ty vinh dự nhận huy hiệu Sao vàng đất Việt và được xếp vào nhóm những công ty xây dựng thuộc top đầu cả nước. Những thành tích đó của Tổng Công ty sẽ là bàn đạp để Tổng Công ty tiếp tục có những bước phát triển mới trong thời gian tới và đó cũng là những minh chứng chứng minh chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết. Quá trình cổ phần hóa Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng được đánh giá là rất thành công. Thành công này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu sau, những nguyên nhân này cũng chính là những kinh nghiệm rút ra từ quá trình cổ phần hóa của Tổng Công ty: Một là, Ban lãnh đạo Tổng Công ty luôn luôn quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về mục tiêu, giải pháp tái cơ cấu các doanh nghiệp Nhà nước; nhanh chóng xây dựng, triển khai phương án cơ cấu lại Tổng Công ty trên toàn bộ các công ty con và các đơn vị liên kết. Hai là, ngay sau khi tiếp nhận chủ trương cổ phần hóa của Nhà nước, Ban lãnh đạo Tổng Công ty đã quyết định thành lập ngay một tổ giúp việc về công tác thoái vốn Nhà nước; khẩn trương rà soát toàn bộ quỹ đất đang quản lý, lập phương án sử dụng đất đai theo đúng quy định của pháp luật trình Bộ Xây dựng cho ý kiến về phương án và giá đất. Trên cơ sở đó, xác định chính xác giá trị của Tổng Công ty để tiến hành cổ phần hóa. Ba là, để quá trình thoái vốn tại các công ty con được tiến hành nhanh chóng, đúng lộ trình, Hội đồng quản trị Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng- CTCP đã chỉ đạo quyết liệt các đơn vị, xây dựng phương án thoái vốn cụ thể, chi tiết, sát thực tế, nên đã đảm bảo hiệu quả vốn đầu tư, thu hồi công nợ của công ty, giải quyết đầy đủ các chế độ đối với người lao động và thực hiện các trình tự, thủ tục thoái vốn theo quy định trước khi thực hiện chuyển nhượng. Bốn là, trong quá trình tiến hành cổ phần hóa, Tổng Công ty đã thực hiện đúng quy trình thoái vốn theo quy định của pháp luật thông qua tổ chức tư vấn thoái vốn xây dựng lộ trình thoái vốn và đơn vị tư vấn thẩm định giá trị doanh nghiệp thực tế của Tổng Công ty tại thời điểm thoái vốn. Thực hiện công khai, minh bạch trong đầu tư, quản lý tài chính… Định kỳ công bố công khai thông tin về cổ phần hóa, thoái vốn làm cơ sở theo dõi, đánh giá tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. 3. KẾT LUẬN Ra đời và lớn lên trên thành phố Hải Phòng, ngay từ những ngày đầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất nước, đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức Công
  9. 540 KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP ty Kiến trúc Hải Phòng, tiền thân của Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng- CTCP đã mang nhiệt huyết của mình vào xây dựng những công trình trong suốt 3 tỉnh, thành phố: Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương. Những công trình đó là một trong những viên gạch đầu tiên, đặt nền móng cho truyền thống “Đoàn kết, kiên cường, sáng tạo, năng suất, chất lượng cao”của Tổng Công ty ngày nay. Những năm tháng chiến tranh ác liệt, vừa chiến đầu, phục vụ chiến đấu, vừa sản xuất, cán bộ, công nhân viên Công ty đã vững tay súng, nhanh tay bay trên mỗi công trình phục vụ cho quân sự, mỗi cung đường, giữ vững mạch máu giao thông thông suốt từ Hải Phòng- Hải Dương. Hòa mình vào thời kỳ chuyển mình thay đổi của đất nước, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tổng Công ty tiếp tục phát huy tính năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám, sẵn sàng đi đầu trong việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp của Nhà nước. Sau cổ phần hóa, phát huy những kinh nghiệm của một công ty xây dựng có bề dày lịch sử, Tổng Công ty tiếp tục có những bước đi mới với những thành tích rất đáng tự hào, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm luôn đạt con số trên 12%, đời sống cán bộ, công nhân viên không ngừng được nâng cao. Tổng Công ty vinh dự nhận được nhiều giải thưởng của Đảng và Nhà nước như: Huân chương lao động hạng nhất, nhì, ba cho Tổng Công ty và các công ty thành viên, giải thưởng Sao vàng Đất Việt… Những thành công đó của Tổng Công ty chính là minh chứng chứng minh cho sự đúng đắn trong đường lối, chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp của Đảng, Nhà nước và cũng là điểm sáng để các doanh nghiệp Nhà nước khác noi theo, quyết tâm tiến hành cổ phần hóa, đưa chủ trương, nghị quyết của Đảng từ lý luận đi vào thực tiễn, tạo động lực cho kinh tế đất nước phát triển trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHÂO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. 7. Theo Công ty Luật Phan Long
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2